PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi nguy hiểm xã hội. Hành vi này không chỉ trực tiếp xâm phạm an toàn trật tự công cộng mà còn cản trở hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc điều tra, xử lý người phạm tội, gián tiếp khuyến khích người khác phạm tội, phạm tội nhiều lần. Trong khi nghiên cứu các nội dung cơ bản của loại tội phạm này, hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ít được nghiên cứu đầy đủ và cụ thể, chưa thật chú ý tới bản chất của nó. Vì thế, việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tội phạm còn hạn chế chưa bám sát với thực tiễn xảy ra. Điều đó, ảnh hưởng không nhỏ tới việc làm gia tăng tình hình tội phạm này, cũng như đề ra các biện pháp phòng ngừa đối với tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Mặt khác, các sách báo, tài liệu còn chưa thật quan tâm tới tội phạm này hoặc có quan tâm nghiên cứu nhưng rất ít. Trong khi đó, hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có lại đang diễn ra hằng ngày, vừa bí mật, vừa công khai có thể rất đơn giản hoặc vô cùng tinh vi, phức tạp dưới mọi hình thức nhằm hợp pháp hoá tài sản có được do thực hiện các hành vi phạm pháp để đưa ra thị trường tiêu thụ. Hơn nữa, tính chất nguy hiểm của tội phạm này thể hiện ở việc nó có liên quan mật thiết tới tội phạm “rửa tiền” (loại tội phạm mà hiện nay người ta đã phải lên tiếng “báo động đỏ” về những con số tiền bị tẩy rửa khổng lồ trên thế giới). Vì vậy, việc nghiên cứu tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trở nên cấp thiết để đáp ứng với sự phát triển ngày càng gia tăng của loại tội phạm này cũng như phù hợp hơn với pháp luật quốc tế.
Với tính chất nguy hiểm của nó như vậy, song các cơ quan tố tụng lại gặp những vướng mắc trong cách hiểu và vận dụng điều luật khi xét xử do còn thiếu văn bản hướng dẫn thi hành điều luật. Đây là một kẽ hở, để bọn tội phạm này lợi dụng thực hiện tội phạm trốn tránh sự truy tố của pháp luật.
Vì vậy, để đáp ứng với yêu cầu mới của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, cũng như cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nói riêng, việc nghiên cứu loại tội phạm này là điều cần thiết và hết sức cấp bách hiện nay. Và đó cũng là lý do để tôi chọn đề tài “Thực tiễn tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các quy định của pháp luật hình sự về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, giúp cho việc nghiên cứu điều luật này được sâu hơn, từ đó rút ra được nguyên nhân và điều kiện của tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra dự báo diễn biến của tình hình tội phạm này trong tương lai từ đó có kế hoạch phòng ngừa có hiệu quả cao nhất.
Cũng qua việc nghiên cứu tội phạm này, đề tài nhằm tìm ra những khó khăn, vướng mắc làm cản trở công tác giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng đồng thời đề tài đã đưa ra những quan điểm trong việc hoàn thiện công tác đấu tranh với tội phạm tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có về mặt pháp lý. Điều này tạo cơ sở quan trọng nhằm hạn chế tình hình tội phạm tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tiến tới loại trừ hoàn toàn tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.
Bố cục của đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo pháp luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An
Chương 3: Nguyên nhân và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
72 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5199 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực tiễn tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ì có những dấu hiệu của những cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS còn khó hiểu và khó áp dụng. Và đặc biệt là, để thấy được mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm và định tội danh, giữa cá yếu tố cấu thành tội phạm và tội phạm. Nhất là khi một yếu tố nào đó trong cấu thành tội phạm chưa xem xét một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, đặc biệt là mặt khách quan của tội phạm, thì các cơ quan tiến hành tố tụng chưa định được tội danh một cách chính thức. Vì các lẽ đó phải bàn thêm về điều 250 BLHS tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thể hiện bằng một trong các hành vi sau đây:Tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, như: mua tài sản đó, đem đi tiêu thụ tài sản đó, trao đổi bằng tiền hoặc lợi ích vật chất tài sản đó… Như vậy, điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là cần phải có các điều kiện sau:
-Giữa người phạm tội này và người có tài sản do phạm tội mà có không có sự hứa hẹn trước.
- Người phạm tội biết rõ tài sản này là của người khác do phạm tội mà có.
Vậy, hiểu thế nào là "biết rõ "trong mặt khách quan của tội phạm này?
Theo từ điển tiếng Việt thì "biết" có nghĩa là hiểu lẽ chính, hiểu manh mối đầu đuôi một cái gì, vật gì. Còn từ "rõ" có nghĩa là dễ nghe, dễ thấy, dễ hiểu [30, 20]. Vấn đề này đã xảy ra nhiều tranh luận trong giới luật gia, và các nhà nghiên cứu pháp luật, giữa những người tiến hành tố tụng, giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và giữa viện kiểm sát với luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo. Có ý kiến thì cho rằng bị can, bị cáo biết rõ đó là tài sản do người khác phạm tội mà có, ý kiến khác lại cho rằng bị can, bị cáo không biết hoặc biết nhưng chưa rõ là tài sản đó do người khác phạm tội mà có; và đặc biệt bị can, bị cáo thì một mực kêu oan vì cho rằng thực sự thì bị can, bị cáo không biết rõ.
Xin nêu một số vụ án cụ thể như sau:
Vụ án thứ nhất: vào ngày 21/10/2006 Nguyễn Văn H do muốn có tiền hút hít nên đã thực hiện hành vi trộm cắp. H trộm được một chiếc xe máy và đem qua tỉnh bên cạnh cầm cho chị K là người không quen biết. Khi nhận cầm xe, chị K có hỏi H là xe của ai, có giấy tờ gì không, thì H trả lời là xe của gia đình H , do vội nên không đem giấy tờ theo. Vì cần có phương tiện đi lại nên chị K đồng ý nhận cầm xe, H đem cầm xe lấy 2 triệu đồng và để lại cho chị K giấy chứng minh nhân dân (bản phô tô của mình). Hai ngày sau H đến chỗ chị K và yêu cầu cầm thêm một triệu nữa, chị K đồng ý và đưa cho H thêm một triệu nữa.
Đến ngày 15/11/ 2006 H bị cơ quan điều tra bắt giữ, H bị khởi tố về tội trộm cắp tài sản theo điểm b, khoản 2 điều 138 BLHS, còn chị K thì bị khởi tố về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có . Theo khoản 1 điều 250 BLHS.
Vụ án này có 2 ý kiến như sau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng chị K không phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có vì chị K biết là chiếc xe do H trộm cắp mà có.
Ý kiến thứ hai lại cho rằng chị K buộc phải biết rõ là chiếc xe do H phạm tội mà có vì xe máy là một loại tài sản có giấy tờ xác lập quyền sở hữu, khi giao dịch trao đổi mua bán. Chị K trong ý thức vẫn biết được là chiếc xe đó là do H phạm tội mà có, những lờ đi vì tham lợi.
Vụ án này sau đó đã được cơ quan điều tra căn cứ vào điểm a khoản 1 điều 139, khoản 2 điều 89 BLTTHS đã ra quyết định đình chỉ điều tra đối với chị K về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có vì không xác định được chị K có biết rõ chiếc xe máy đó là do H phạm tội mà có hay không và do đó đã xác định hành vi phạm tội của chị K không cấu thành tội phạm.
Vụ án thứ hai: Nguyễn Văn T là một người có nhân thân xấu, thường hay trộm cắp trên địa bàn. T đã có một tiền án và một tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản .Ngày 24/4/2003 T đem bán cho bà M (là chủ đại lý vật liệu xây dựng) 11,5 tấn xi măng hiệu Bỉm Sơn giá 400.000 đ/ tấn. Khi mua bà M hỏi T là xi măng của ai thì T trả lời là xi măng của T, do làm nhà còn thừa nên đem bán lại. Bà M không hỏi gì thêm mà đồng ý mua cho T.
Sau đó, T bị bắt về tội trộm cắp tài sản vì đó là xi măng T trộm được của công ty xây dựng V-L. Công ty đang để xi măng tại kho của công trường, còn T đang làm thợ hồ cho công trường nên đã theo dõi và biết được sơ hở trong quản lý của công trường nên đã thuê công nông đến tận nơi, giả vờ chở đi làm công trình rồi bán luôn.
Xung quanh vụ án này có hai ý kiến sau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng bà M đã có dấu hiệu phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Vì trong trường hợp này bà M bắt buộc phải biết rõ tài sản là do T phạm tội mà có, bởi thứ nhất T là người có nhân thân xấu, thứ hai là giá bán là quá thấp so với thị trường.
Ý kiến thứ hai cho rằng chưa có cơ sở để xác định bà M biết rõ tài sản đó do T phạm tội mà có, trong ý thức thì bà M có thể biết rõ nhưng hành vi biểu hiện thì không xác định được điều đó .Vì khi mua bà M có hỏi và T trả lời là tài sản của T. Luật không quy định bà M phải đi xác định lời nói của T, hay tìm hiểu nguồn gốc tài sản đó. Và đối với bà M thì đó là một giao dịch dân sự ngay tình.
Để làm rõ hành vi khách quan của tội phạm này không phải dễ vì nó phụ thuộc vào ý thức chủ quan của bị can, bị cáo. Có thể trong ý thức họ biết rõ là tài sản họ chứa chấp hay tiêu thụ là do người khác phạm tội mà có nhưng hành vi khách quan biểu hiện ra bên ngoài thì không thể hiện rõ ràng và chắc chắn. Bản thân họ thì cho rằng hoặc là không biết hoặc có thể biết nhưng biết không rõ tài sản đó do người khác phạm tội mà có, mà đối với loại tội phạm này thì người có tài sản do phạm tội mà có ít khi để lộ nguồn gốc tài sản đó, còn người tiêu thụ tài sản đó cho dù có biết rõ là do người khác phạm tội mà có họ cũng không biểu hiện ra bên ngoài.
Theo quy định tại điều 11 BLTTHS hiện hành thì: “Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội…Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội ".
Như vậy, việc xác định bị can, bị cáo có "biết rõ" hay không " biết rõ" thuộc về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó do điều luật khó xác định nên đã gây không ít trường hợp phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cơ quan nhà nước không có bằng chứng cụ thể để kết tội đối tượng.
CHƯƠNG 3
NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỌI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
3.1. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
3.1.1. Khái niệm về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
Như chúng ta đã biết, đấu tranh loại bỏ tình hình tội phạm thực chất là đấu tranh loại trừ nguyên nhân và điều kiện tồn tại của tình hình này.
“Nguyên nhân của tình hình tội phạm là tập hợp những ảnh hưởng, quá trình xã hội trực tiếp làm phát sinh tình hình tội phạm. Còn điều kiện của tình hình tội phạm chính là những ảnh hưởng của quá trình xã hội tuy bản thân không làm nảy sinh mà chỉ tạo điều kiện, kích thích hoặc đảm bảo, để nguyên nhân của tình hình tội phạm được vận động một cách nhanh chóng thuận lợi”.[19,275]
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là tổng hợp những ảnh hưởng và quá trình xã hội, xác định tình hình tội phạm là hậu quả của chúng. Đó là toàn bộ những hiện tượng, quá trình xã hội làm phát sinh tình hình tội phạm.
Giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Về bản chất, điều kiện không dẫn đến việc thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, nếu không có các điều kiện thuận lơị thì nguyên nhân cũng không thể thể hiện được bản chất của mình - không thể làm nảy sinh tội phạm. Nguyên nhân và điều kiện luôn luôn tồn tại độc lập và đứng bên cạnh nhau như những tiền đề không thể thiếu được của tội phạm nói chung và tội phạm cụ thể nói riêng.
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm không phải là những ảnh hưởng của quá trình xã hội tồn tại vĩnh viễn và cố định. Chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau hoặc có thể bị triệt tiêu bởi những yếu tố tích cực của xã hội.
Từ những điểm phân tích khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nói chung, chúng ta có thể rút ra nguyên nhân và điều kiện của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
3.1.2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
3.1.2.1. Nguyên nhân và điều kiện về kinh tế - xã hội
Từ khi đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới 1986 và xây dựng nền kinh tế thị trường, điều này đã có tác động to lớn trong việc kích thích sản xuất tăng trưởng và cạnh tranh kinh tế, kích thích tiến bộ khoa học kỹ thuật, tác động nhiều mặt lên sự phát triển kinh tế xã hội. Ở nền kinh tế thị trường, lợi ích cá nhân được khuyến khích và được pháp luật bảo vệ, khi đó con người sẽ năng động tích cực hơn, khôn ngoan và tỉnh táo hơn, mạnh dạn và linh hoạt, thiện chí mạo hiểm hơn…
Nhưng khi “lợi ích cá nhân (đang có xu hướng tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân) lấn át lương tri và đạo đức, năng động, linh hoạt và mạo hiểm, bất chấp đạo lý và pháp luật” [23, 28] thì sẽ xuất hiện hàng loạt những hành vi phi đạo đức như xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, trộm cắp, cướp giật, buôn lậu…để làm giàu một cách bất hợp pháp. Đây chính là nguyên nhân làm nảy sinh các tham vọng ích kỷ khác nhau nhằm có được thu nhập, vật chất không tương xứng với công sức và năng lực của bản thân vào công việc của xã hội nên tìm mọi cách làm giàu bằng mọi cách, kể cả tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, và đôi khi họ còn xem đó là nghề nghiệp chính, nguồn thu nhập chính của mình. Họ không những đã tiếp tay cho tội phạm mà còn khuyến khích cho bọn tội phạm phạm tội nhiều lần.
Đồng thời, nền kinh tế thị trường đã loại đi một phần lớn bộ phận lao động không đáp ứng với sự phát triển của nó, vì vậy nhiều người đã bị thất nghiệp, dần dần sa vào con đường phạm tội để nuôi sống bản thân như trộm cắp, cướp giật, buôn lậu…Đây chính là “đầu ra” cho tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và từ đó nó kéo theo các tệ nạn xã hội khác.
Trong xã hội còn có một bộ phận người dân coi thường pháp luật, người mua nhầm đồ gian cũng có nhưng cũng có lắm kẻ biết đó mà vẫn mua vì lợi nhuận cao làm mờ mắt. Khi các cơ quan chức năng hỏi đến thì chỉ việc bảo mua nhầm là thoát tội và hầu hết họ đều không bị xử lý hình sự do thiếu chứng cứ và đồ gian cứ muôn nẻo đường đi.
Thực tế hiện nay cho thấy, bên cạnh sự yếu kém trong công tác quản lý của nhà nước, thì phong trào đấu tranh tố giác tội phạm của nhân dân còn kém và chưa được tổ chức một cách có hiệu quả, chưa phát huy được hết tinh thần tích cực của nhân dân vào công tác phòng ngừa tội phạm. Đấu tranh với tội phạm nói chung và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là cuộc đấu tranh thường xuyên và bền bỉ nhằm ngăn chặn “đầu vào” và triệt phá “đầu ra” của loại tội phạm này nhưng cuộc đấu tranh này còn chưa đạt được mục đích của nó. Điều này đã được bon tội phạm lợi dụng và đã tạo cơ hội cho nó phát triển. Hơn nữa, hiện nay số người thất nghiệp tăng, khoảng cách giàu nghèo nới rộng, số thanh thiếu niên bỏ học, thất học tăng. Đây là những điều kiện thuận lợi cho tình hình tội phạm có chiều hướng tăng nhanh như hiện nay.
3.1.2.2. Nguyên nhân và điều kiện liên quan tới chính sách pháp luật
Như chúng ta đã biết, cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm luôn đòi hỏi phải có sự hỗ trợ đắc lực của pháp luật. Hơn thế nữa, chỉ có thể trên cơ sở quy định của pháp luật người ta mới có thể xác định đúng đắn được hành vi ứng xử của mình. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và luật hình sự nói riêng, quy định cụ thể về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có ý nghĩa quan trọng. Đây là điều cần thiết tạo tiền đề pháp lý quan trọng để trực tiếp đấu tranh với loại tội phạm này.
Thời gian vừa qua trong thực tế xét xử và áp dụng điều 250 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có còn có rất nhiều vướng mắc chưa thống nhất do vậy khi thực hiện còn nhiều lúng túng, nhiều lúc còn trì hoãn và đợi văn bản hướng dẫn của cơ quan pháp luật hiện hành. Điều này dẫn đến tình trạng “bị động” trong các hoạt động đấu tranh với tội phạm thiếu kịp thời, kiên quyết, nghiêm minh trong xử lý dẫn đến sự coi thường pháp luật, coi thường cán bộ bảo vệ pháp luật và thực hiện hành vi phạm tội đến cùng. Nhiều vụ án kéo dài không xử lý kịp thời thiếu chứng cứ không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với đối tượng bị tình nghi. Những kẻ bị truy nã nhưng trốn thoát hoặc chưa điều tra, truy đuổi kịp thời. Vấn đề hiện nay là cần phải có một văn bản hướng dẫn cụ thể để áp dụng pháp luật một cách đồng bộ thống nhất, chính xác, tránh được tình trạng bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
Tất cả đã dẫn đến tình trạng:
Thứ nhất, quần chúng hoài nghi về sự công minh của pháp luật và không tin tưởng vào chính quyền, không tố giác tội phạm, không giúp đỡ các cơ quan pháp luật. Tâm lý đó, làm dân biết đồ gian nhưng vẫn làm ngơ và còn nghĩ rằng chuyện bắt tội phạm là của chính quyền, không phải việc của mình nên chủ quan.
Thứ hai, những kẻ phạm tội coi thường pháp luật, sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật tiếp tục phạm tội và lôi kéo những kẻ khác cùng phạm tội.
Thứ ba, sự thiếu sót này tạo ra một kẻ hở cho bọn tội phạm lợi dụng để giả mạo giấy tờ hợp thức hóa đồ gian để tiêu thụ.
Nếu khắc phục hạn chế này, thì sẽ duy trì được trật tự, kỷ cương xã hội bằng pháp luật đáp ứng được yêu cầu cấp bách đối với một nhà nước pháp quyền.
3.1.2.3. Nguyên nhân và điều kiện liên quan tới công tác phát hiện, xử lý tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có gia tăng. Như chúng ta đã biết hiện nay tình trạng tội phạm gia tăng đặc biệt là các tội xâm phạm tới quyền sở hữu của công dân như trộm cắp, cướp giật…và các tội phạm khác như buôn lậu, trốn thuế. Tài sản mà các đối tượng này có đựơc đều là tài sản phạm pháp bao gồm tiền, vật chất, các giấy tờ có giá, vàng…Những tài sản này nhất thiết phải có nơi tiêu thụ. Nó như một quá trình đã được định sẵn vậy, tiêu thụ được ắt sẽ có tiền.Vì vậy các đối tượng này hoạt động có khi đơn lẻ nhưng cũng có khi hoạt động như một đường dây rất chặt chẽ và bằng mọi cách hợp thức hóa những tài sản này.
Do đó, muốn ngăn chặn được loại tội phạm này phải ngăn chặn được nguồn hàng bằng các hoạt động và hình thức khác nhau để xiết chặt được đầu ra của nó. Thực tế của cuộc đấu tranh phòng chống tội tiêu thụ tài sản do người khá phạm tội mà có cho thấy rằng, do hạn chế hiểu biết về mặt pháp luật mà không ít người đã phạm tội (do mua nhầm phải đồ gian, do hám lợi nhất thời…).
Hiện nay, các cơ quan chức năng, quan trọng là cơ quan cảnh sát điều tra chưa thực sự quản lý hết được các tài sản phạm pháp trôi nổi trên thị trường, đôi khi nó đựơc bày bán công khai. Rất khó phát hiện và chưa xử lý được những người tiêu thụ này vì họ biện minh là mua nhầm hoặc không biết hoặc nói rằng đây là tài sản hợp pháp thế là thoát tội. Những người này không biết rằng đây chính là một hành động tiếp tay cho bọn tội phạm, khuyến khích cho những người khác phạm tội.
Sự phối hợp còn thiếu chặt chẽ giữa cơ quan cùng cấp như: cơ quan quản lý thị trường, công an, viện kiểm sát, tòa án đôi khi còn chưa thống nhất, chưa kịp thời. Điều này đã hạn chế đáng kể tới việc phát hiện, xử lý vi phạm tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, ngăn chặn đầu ra cho hàng phạm pháp. Ví dụ về việc ngăn chặn việc quản lý đồ gian trôi nổi trên thị trường: cơ quan quản lý thị trường thì bảo đó là chức năng của cơ quan công an cần ngăn chặn bọn tội phạm, còn họ chỉ việc quản lý hàng hóa…Nếu như các cơ quan chức năng quản lý và cơ quan thực thi pháp luật phối hợp chặt chẽ với nhau hơn trong việc ngăn chặn loại tội phạm này thì sẽ không làm cho tình hình loại tội phạm này công khai và hoạt động phổ biến như hiện nay.
Vì vậy, để ngăn chặn nguyên nhân làm cho tình hình tội phạm này gia tăng phải có những biện pháp phát hiện và xử lý kịp thời hiệu quả nhất để hạn chế và cao hơn là loại bỏ được loại tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.
3.1.2.4. Nguyên nhân về công tác phổ biến tuyên truyền pháp luật
Như chúng ta đã biết phòng chống tội phạm phụ thuộc rất nhiều vào công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho người dân nhưng công tác này còn chưa đựơc tích cực triển khai một cách có hiệu quả. Nhiều nơi còn giao khoán cho các cơ sở, thực hiện một cách đối phó, mang tính chất chiến dịch, chưa được coi là một nhu cầu hằng ngày của xã hội. Làm cho pháp luật chưa thực sự đi vào cuộc sống của người dân, chưa phát huy được sức mạnh của quần chúng trong việc đấu tranh và tố giác tội phạm này.
Hình thức, phương pháp phổ biến, tuyên truyền, giáo dục nhìn chung còn đơn điệu, thiếu tính thuyết phục, chưa phong phú, chưa sinh động, nên những quy định pháp luật khó đến được các đối tượng tuyên truyền. Hình thức xét xử lưu động đối với các vụ án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chưa được quan tâm, đánh giá cao.
Nội dung phổ biến, tuyên truyền, giáo dục chưa cụ thể, chưa đầy đủ. Đặc biệt là việc nhắc nhở, răn đe những người có hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã bị xử lý hành chính nguy cơ bị xử lý bằng biện pháp hình sự còn chưa đề cập thỏa đáng. Kinh phí đầu tư cho công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật còn khiêm tốn, chưa đáp ứng với đòi hỏi của thực tiễn.
Nhìn chung, công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về việc không tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cũng như việc xử lý vi phạm trong vấn đề này chưa được khơi dậy trong phong trào quần chúng. Chưa tạo được dư luận rộng rãi trong xã hội. Do vậy, ý thức pháp luật đối với phần lớn cá nhân, tổ chức trong việc đấu tranh với loại tội phạm này chưa cao. Điều đó, đòi hỏi công tác này cần có giải pháp thích hợp, cần có sự tham gia của toàn xã hội trong đó cơ quan chức năng giữ vai trò nòng cốt.
3.2. Một số biện pháp nhằm tăng cường công tác đấu tranh phòng chống tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Cũng như bất kỳ hoạt động nào của xã hội, đấu tranh phòng chống tội phạm cần phải tiến hành có cơ sở khoa học. Khoa học luật hình sự, luật tố tụng hình sự, điều tra hình sự và thi hành án hình sự đảm bảo cho cuộc đấu tranh mang tính pháp lý hình sự được thỏa đáng và phù hợp, góp phần giáo dục cải tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội.
Đấu tranh chống tội phạm cần thiết phải có sự chủ động có kế hoạch dự liệu từ trước. Điều cơ bản là loại trừ trước các điều kiện có thể làm phát sinh tội phạm chứ không phải là bị động chạy theo việc loại trừ các điều kiện đã để tội phạm tồn tại và phát triển. Vấn đề mà chúng ta đề cập ở trên cũng phù hợp với kinh nghiệm của dân tộc Việt Nam là “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Trên cơ sở nghiên cứu tình hình tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện và nguyên nhân của chúng, chúng ta có thể xác định mục đích, yêu cầu, cũng như các biện pháp phòng chống tình hình tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có hiệu quả cao trong thời gian tới.
3.2.1. Mục đích và yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Mục đích của cuộc đấu tranh phòng chống tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được đặt ra trong cả quá trình, trước hết là kiềm chế, sau đó là giảm và cuối cùng là thủ tiêu hoàn toàn loại tội phạm này ra khỏi đời sống xã hôị. Đây là mục đích quan trọng của các biện pháp phòng ngừa, nó làm cho tình hình tội phạm nói chung trong xã hội sẽ giảm, nó có ý nghĩa thiết thực trong việc làm giảm các tội phạm có liên quan mật thiết tới loại tội phạm tiêu thụ tài sản do ngời khác phạm tội mà có.
Công tác phòng ngừa tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bao gồm nhiều chủ thể tham gia. Do vậy, việc tổ chức và hoạt động phòng ngừa phải tuân thủ các yêu cầu sau:
Thứ nhất, chống tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có phải được tiến hành thường xuyên liên tục và lâu dài trên mọi lĩch vực, khuyến khích và giáo dục pháp luật cho người dân không tiêu thụ đồ gian và luôn nói không với đồ gian, đồ chưa có nguồn gốc xuất xứ.
Thứ hai, chống tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có phải gắn với việc chống các tội phạm mang tính chất “nguồn” như trộm cắp, cướp giật, trốn thuế, buôn lậu…
Thứ ba, chống tiêu thụ tài sản phải gắn liền với việc dổi mới kinh tế xã hội và hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý mới.
Thứ tư, chống tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có phải thu hút sự tham gia của mọi chủ thể, các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế và toàn thể nhân dân có sự phối hợp chặt chẽ của các ngành các cấp, giữa quần chúng và cơ quan nhà nước.
Thứ năm, chống tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có phải kết hợp giữa phòng ngừa và xử lý nghiêm minh mọi hành vi tiêu thụ trái phép; sử dụng đồng bộ các biện pháp kinh tế, chính trị, giáo dục, pháp luật.
Đây là một công việc khó khăn lâu dài, trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có để từ đó có thể đưa ra các giải pháp nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả.
3.2.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác đấu tranh phòng chống tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
3.2.2.1. Giải pháp về mặt pháp luật
Để tăng tính chủ động hơn trong công tác đấu tranh với tội phạm, chúng ta phải có một hệ thống pháp luật vững mạnh và hoàn thiện giúp cho việc áp dụng pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng được chính xác và thống nhất.
Để làm được điều đó chúng ta phải hoàn thiện từng nội dung của điều luật. BLHS năm 1999 là công cụ sắc bén của nhà nước, của nhân dân đã phát huy được vai trò, tác dụng to lớn trong công cuộc bảo vệ những thành tựu của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, hiện nay bộ luật hình sự đã bộc lộ một số điểm bất cập, hạn chế cần khắc phục. Các điều luật cần được hoàn thiện hơn để đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của công việc xét xử tội phạm trong đó có điều 250 quy định về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Chúng tôi có một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, về hành vi khách quan của điều 250 tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Theo tôi để làm rõ hành vi khách quan của tội này thì không phải là dễ, vì nó thuộc ý thức chủ quan của bị can, bị cáo. Có thể trong ý thức họ biết rõ là tài sản họ tiêu thụ là do người khác phạm tội mà có nhưng hành vi khách quan biểu hiện ra bên ngoài thì không thể hiện rõ ràng và chắc chắn. Bản thân họ thì cho rằng hoặc họ không biết hoặc có thể biết nhưng biết không rõ tài sản đó do người khác phạm tội gì mà có, mà đối với loại tội phạm này thì người có tài sản do phạm tội mà có ít khi để lộ nguồn gốc tài sản đó. Còn người tiêu thụ tài sản đó nếu biết rõ do người khác phạm tội mà có họ cũng không biểu hiện ra bên ngoài.
Trong thực tiễn, thái độ tâm lý của người có hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có thể là:
- Biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có;
-Chỉ biết mà không biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Đấu tranh với người phạm tội này còn cho thấy không ít trường hợp, bằng giác quan hoặc kinh nghiệm tiêu thụ của gian. Người có hành vi tiêu thụ biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng chỉ khai nhận là “biết” mà không khai là “biết rõ”. Và những tình tiết khách quan, chủ quan khác của vụ án chỉ cho phép cơ quan điều tra chứng minh và kết luận được người có hành vi tiêu thụ chỉ “biết” mà không “biết rõ”tài sản do người khác phạm tội mà có. Bởi có một điều đương nhiên là những kẻ bị tình nghi không bao giờ tự thú thật ý thức thật của mình, vì thế đòi hỏi yếu tố “biết rõ” vừa không thực tế trong nhiều trường hợp vừa phức tạp với cơ quan điều tra trong tình hình tội phạm này hiện nay. Vì thế theo chúng tôi cần nghiên cứu và sửa quy định của luật hiện hành theo hướng quy định của luật không chỉ phản ánh được thực tiễn khách quan của các vụ án phạm loại tội này mà còn phản ánh thái độ tâm lý của đa số các đối tượng có hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Trong thực tế người phạm tội chỉ “biết” tài sản do người khác phạm tội mà có và trong nhiều trường hợp không thể “biết rõ” được tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn tiêu thụ và chấp nhận tất cả. Do vậy, việc sửa đổi quy định của pháp luật sẽ làm giảm bớt được nghĩa vụ của các cơ quan điều tra trong việc phải chứng minh yếu tố “biết rõ” của người phạm tội trước diễn biến phức tạp của loại tội phạm này hiện nay bởi chứng minh yếu tố “biết” đơn giản hơn chứng minh yếu tố “biết rõ”. Trong sự thống nhất giữa các dấu hiệu khách quan (hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đến một giới hạn nhất định do luật quy định...) và chủ quan (người có hành vi tiêu thụ “biết” là tài sản do người khác phạm tội mà có) quy định mới này vẫn sẽ phản ánh được một cách đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của loại tội phạm này. Với cách tiếp cận này, theo chúng tội cần sửa cụm từ “biết rõ là do người khác phạm tội mà có” thành “mà mình biết là do phạm tội mà có”.
Thứ hai, về bổ sung yếu tố định lượng giá trị tài sản tiêu thụ. Việc sửa đổi này không chỉ loại trừ các bất cập mà còn đáp ứng được các yêu cầu sau:
Hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội hay do vi phạm pháp luật mà có phải đến một giá trị nhất định mới thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội này. Trong trường hợp tiêu thụ tài sản chưa đạt mức đã định trong luật thì những hành vi này cũng bị coi là tội phạm khi tiêu thụ nhiều lần.
Trên cơ sở nghiên cứu, so sánh tính nguy hiểm cho xã hội giữa nhóm các tội xâm phạm sở hữu với nhóm các tội xâm phạm an toàn trật tự công cộng mà chủ yếu là tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Chúng tôi kiến nghị sửa tên tội danh và quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Cụ thể:
- Sửa các tình tiết quy định tại điểm c, khoản 2, điểm a, khoản 3, điểm a, khoản 4 bằng những giá trị tài sản cụ thể. Và điều 250 mới sẽ có tên gọi và cấu trúc sau:
“Điều 250 Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
1.Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản mà mình biết là do người khác phạm tội mà có, thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc sẽ bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
a) Tài sản có giá trị từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng;
b) Tài sản có giá trị dưới năm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này;
c) Đã bị kết án về tội này mà chưa xóa án tích.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức
b) Có tính chất chuyên nghiệp
c) Chứa chấp, tiêu thụ tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng.
d) Thu lợi bất chính lớn
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đên mười năm:
a) Chứa chấp, tiêu thụ tài sản có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
b) Thu lợi bất chính rất lớn.
4. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chứa chấp tiêu thụ tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên.
b) Thu lợi bất chính đặc biệt lớn.”
Nghiên cứu pháp luật hình sự Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào cho thấy, bộ luật hình sự nước này quy định tội tàng trữ, mua bán tài sản của nhà nước hoặc của tập thể bị chiếm đoạt và tội cất giữ, mua bán tài sản của công dân bị chiếm đoạt tại hai điều luật khác nhau. Theo pháp luật hình sự của nước này, tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định không cần phân biệt có hứa hẹn trước hay không? Người nào biết rõ tài sản của nhà nước hoặc của tập thể bị chiếm đoạt do cướp, trộm cắp, lừa đảo, tham ô hoặc bằng các hành vi trái pháp luật khác mà cất giữ, mua bán hoặc biết rõ tài sản của người khác bị chiếm đoạt bằng cách cướp, cướp giật, trộm cắp, lừa đảo, lợi dụng tín nhiệm hoặc bằng các phương thức khác mà vẫn lấy, mua, cất giữ hoặc mang đi bán thì hành vi đó cấu thành tội phạm tương ứng được quy định tài điều 107 hoặc điều 115 BLHS Lào .Còn đối với pháp luật hình sự Nhật Bản khi đề cập vấn đề này tại điều 256, BLHS Nhật Bản đã quy định về tội nhận, mua bán tài sản do phạm tội mà có như sau:
“1.Người nào nhận tài sản có được do phạm các tội về tài sản thì bị phạt tù có lao động bắt buộc đến ba năm.
2. Người nào vận chuyển, nhận đặt cọc, mua bán hoặc hành động với tư cách là người môi giới cho những hoạt động bằng tài sản có được do phạm các tội về tài sản thì bị phạt tù có lao động bắt buộc đến mười năm hoặc bị phạt tiền đến 500 nghìn yên”.
Điều 257 BLHS Nhật Bản quy định về tội nhận, mua bán tài sản do phạm tội mà có giữa những người thân với nhau:
“1. Người nào thực hiện tội phạm quy định tại điều 256 trên đây thì đựoc miễn hình phạt, nếu tội phạm xẩy ra giữa những người thân thích cùng dòng máu trực hệ, giữa vợ chồng hoặc giữa những người thân thích cùng chung sống trong gia đình và vợ hoặc chồng của những người đó”. [13;69] Các quy định của khoản 1 trên đây không áp dụng đối với những người đồng phạm là người không thân thích.
Như vậy, trong pháp luật hình sự Nhật Bản, hành vi vận chuyển, nhận đặt cọc, mua bán hoặc hành động với tư cách là người môi giới cho những hoạt động bằng tài sản có được do phạm các tội về tài sản thì bị coi là phạm tội nhận, mua bán tài sản do phạm tội mà có. “So với tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong pháp luật hình sự Việt Nam, tội nhận mua bán tài sản do phạm tội mà có trong pháp luật hình sự Nhật Bản có nội hàm rộng hơn, bao quát cả hoạt động sử dụng tài sản do phạm tội mà có vào hoạt động kinh doanh” [33,6]. Đây là vấn đề cần được các nhà làm luật nước ta quan tâm nghiên cứu.
Ngoài ra, công ước của Liên Hợp Quốc về phòng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2002 (mà Việt Nam là thành viên) đã quy định hình sự hoá hành vi hợp pháp hoá tài sản do người khác phạm tội mà có. Đây là một trong những biện pháp mà các nhà làm luật ở nước ta cần tham khảo để phòng chống tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. khoản 1 điều 6 của Công ước này quy định:
“1.Phù hợp với những nguyên tắc cơ bản trong nội luật của mình, mỗi quốc gia thành viên sẽ ban hành pháp luật hoặc những biện pháp cần thiết khác để coi các hành vi sau là tội phạm khi chúng thực hiện một cách cố ý:
(a) (i) chuyển đổi hay chuyển giao tài sản, dù biết rằng những tài sản này do phạm tội mà có, nhằm che đậy hoặc che dấu nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản hoặc nhằm giúp đỡ bất cứ người nào liên quan tới việc thực hiện một hành vi vi phạm nhằm lẩn tránh những hậu quả pháp lý do hành vi của người đó gây ra;
(ii) Che đậy hoặc che dấu bản chất thực sự, nguông gốc, địa điểm, việc chuyển nhượng, vận chuyển hoặc quyền sở hữu hay những quyền đối với tài sản, dù biết rằng tài sản này do phạm tội mà có.
(b)Tuỳ theo những khái niệm cơ bản của hệ thống pháp lý của quốc gia:
(i) Có được, sở hữu sử dụng tài sản, dù tại thời điểm nhận được tài sản, biết rằng đó là tài sản do người khác phạm tội mà có;
(ii) Tham gia, liên kết hay thông đồng thực hiện, nỗ lực thực hiện và hỗ trợ, xúi giục, tạo điều kiện và hướng dẫn thực hiện bất kỳ một hành vi phạm tội nào theo quy định của điều này”.[14,2]
Như vậy, công ước đã quy định rất chặt chẽ các hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cũng như các hành vi nhằm hợp pháp hóa các tài sản này để tiêu thụ, các hành động tham gia liên kết, giúp sức để thực hiện hành vi phạm tội. Đây là cơ sở để các quốc gia tham gia công ước (trong đó có Việt Nam) có điều kiện bổ sung, hoàn thiện pháp luật hình sự của nước mình nói chung và quy định về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nói riêng.
3.2.2.2. Tuyên truyền chính sách pháp luật, phát huy tinh thần đấu tranh tố giác tội phạm của nhân dân
Để cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả, lâu dài thì phải chú trọng việc tuyên truyền chính sách pháp luật trong nhân dân. Biện pháp này sẽ nâng cao nhận thức của người dân nhất là lớp trẻ, cho họ thấy được tác hại của việc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đồng thời khuyên bảo mọi người không sử dụng hay mua bán tài sản không có nguồn gốc rõ ràng và nghi đó là tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu phát hiện, người dân phải báo ngay cho cơ quan chính quyền gần nhất để kịp thời xử lý. Điều đó, tác động tích cực tới ý thức của người dân trong việc tham gia tích cực vào công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, coi đó như là một nghĩa vụ củ mỗi người dân. Vấn đề này, đã được BLHS năm 1999 quy định tại điều 4: “Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”.
Đấu tranh với tội phạm nói chung và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nói riêng, phải luôn trở thành ý thức thường trực trong nhân dân. Như vậy, công dân mới phát huy tinh thần tố giác tội phạm của mình một cách triệt để. Từ đó, mọi công dân sẽ “nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu trang phòng và chống tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật” [20, 17] . Pháp luật sẽ đạt được mục đích của nó là đi sâu vào thực tế cuộc sống xã hội.
Nội dung phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật cần đầy đủ và toàn diện. Có thể nói nội dung là yếu tố quan trọng mang tính quy định kết quả của công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật nói chung, trong lĩnh vực xử lý tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nói riêng. Công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục không dừng lại ở việc phổ biến nội dung các bộ luật, pháp lệnh, nghị định hướng dẫn mà phải gắn liền với hoạt động tổ chức thi hành pháp luật.
Hình thức cần phong phú đa dạng như: tiến hành xét xử lưu động đối với các vụ án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Biểu dương, khuyến khích những người phát hiện, tố giác những đối tượng tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Hoạt động tuyên truyền phải có kế hoạch, có hệ thống. Chúng ta không chỉ tuyên tuyền ở các đơn vị hành chính sự nghiệp cơ quan, tổ chức mà phải chú trọng tại các địa bàn dân cư, đặc biệt là các địa bàn phức tạp nơi để xảy ra hành vi tiêu thụ xảy ra nhiều như các cửa hàng buôn bán, các hiệu cầm đồ,... Ở đây, người dân trở thành “tai mắt” của chính quyền dưới các hình thức như “hộp thư tố giác tội phạm”, “đường dây nóng”, “điện thoại 113”…đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho việc báo tin, tố giác tội phạm, đảm bảo an toàn bí mật cho người thực hiện việc tố giác hay báo tin mà không bị trả thù. Đồng thời hình thức này cũng tạo ra những khả năng mới để gắn kết người dân với cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh chống tội phạm.
3.2.2.3. Phát triển kinh tế - xã hội và hạn chế khắc phục những mặt trái của quá trình đó
“Trong nhiều công trình nghiên cứu về phòng ngừa tội phạm, các tác giả đều thống nhất cho rằng phát triển kinh tế - xã hội là biện pháp phòng ngừa tội phạm cơ bản nhất” [23, 27]. Phát triển kinh tế xã hội sẽ làm nảy sinh những hiện tượng, những quá trình mà những hiện tượng những quá trình chính là nguyên nhân của tội phạm hay còn gọi là những kẽ hở. Muốn làm giảm bớt tình hình tội phạm nói chung và tội tiêu thụ tài sản nói riêng cần phải phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững. Đa số cho thấy những người khi thực hiện hành vi phạm tội thường là những người không có nghề nghiệp và học vấn thấp, trộm cắp tiêu thụ tài sản phạm pháp mục đích là để thoả mãn nhu cầu sinh hoạt vì “miếng cơm manh áo”. Vì vậy, trong chiến lược phát triển kinh tế cần đi đôi với việc tổ chức tốt việc hướng nghiệp và dạy nghề cũng như tạo thêm việc làm cho người dân, đặc biệt là phải quan tâm tạo việc làm cho những người mới ra tù để giúp họ sớm hoà nhập với cộng đồng và tránh sự miệt thị đối với họ trong việc làm, nếu làm tốt được điều này sẽ giảm được tình trạng số người tái phạm, quay lại với con đường cũ. Muốn làm được điều đó cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội, đồng thời phát động những phong trào chống các tệ nạn xã hội trấn át tội phạm này trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, lôi cuốn tất cả mọi người dân tham gia.
3.2.2.4. Xử lý nghiêm minh kịp thời tội phạm đồng thời kết hợp với giáo dục, cải tạo, cảm hoá người phạm tội
Trong đấu tranh phòng chống tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, một yêu cầu đặt ra cho đấu tranh là phải xử lý kịp thời, nhanh chóng đúng pháp luật các hành vi tiêu thụ tài sản phạm pháp. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn chặn không để người phạm tội tiếp tục lặp lại hành vi phạm tội đã được thực hiện. Trái lại, nếu tội phạm xảy ra mà không được phát hiện kịp thời thì có nhiều khả năng chủ thể sẽ tiếp tục phạm tội và có thể ở mức độ nghiêm trọng hơn, khuyến khích cho người khác cùng thực hiện tội phạm. Hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nếu không xử lý một cách có hiệu quả và triệt để thì đây sẽ là điều kiện thuận lợi cho nguồn ra của hàng phạm pháp. Vì vậy, cần phải ngăn chặn “nguồn hàng” của loại tội phạm này.
Phát hiện xử lý kịp thời nhanh chóng công minh loại tội phạm này có tác dụng răn đe người phạm tội và qua đó có thể giáo dục làm thay đổi “phẩm chất tâm lý tiêu cực”[23, 28] của họ theo hướng tích cực.
Việc xử lý tội phạm sẽ tạo ra môi trường pháp lý nghiêm minh. Môi trường này vừa có tác dụng răn đe chung- răn đe bị phát hiện cũng như răn đe bị xử lý và vừa là môi trường tốt cho việc cho việc giáo dục ý thức tuân theo pháp luật cũng như ý thức tham gia tích cực vào hoạt động đấu tranh chống loại tội phạm này.
Tuy nhiên, để triệt để tận gốc loại trừ tội phạm bên cạnh các biện pháp cưỡng chế, trừng trị cùng một lần, chúng ta phải kết hợp với giáo dục cải tạo họ lối sống đạo đức, tích cực, bồi dưỡng nhân cách, tránh xa những thói xấu, tăng cường ý thức pháp luật, giáo dục nếp sống kỷ luật…Dần cảm hoá họ bằng cách lao động, chỉ có lao động họ mới biết tôn trọng và biết yêu quý, trân trọng những thành quả lao động, xoá dần tư tưởng ăn bám, thói quen không lao động thích hưởng thụ ….
Thực hiện tốt chính sách khoan hồng của nhà nước sẽ giúp nhiều đối tượng đã thức tỉnh lập công chuộc tội trở lại cuộc sống xã hội góp phần bảo vệ an ninh trật tự xã hội, giúp chúng ta đối phó với tội phạm một cách có kế hoạch, hệ thống và chủ động hơn.
3.2.2.5. Tăng cường hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm về tiêu thụ tài sản của các cơ quan công an, viện kiểm sát và toà án- chủ thể chủ yếu của hoạt động này
Với tư cách là những cơ quan trực tiếp điều tra, truy tố, xét xử, cải tạo, giáo dục người phạm tội, cơ quan công an, toà án, viện kiểm sát luôn luôn đóng vai trò hàng đầu và chủ chốt trong phòng ngừa loại tội phạm này.
Với chức năng hoạt động và các điều kiện vật chất của mình, hoạt động phòng ngừa do các chủ thể trên thực hiện có hiệu quả phòng ngừa cao, toàn diện. Các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm do công an, toà án, viện kiểm sát thực hiện mang tính nghiệp vụ cao đồng thời tác động mạnh mẽ trong việc hạn chế tình hình tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cũng như phát hiện nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Đối với cơ quan công an- cơ quan đóng vai trò trực tiếp đấu tranh với tội phạm cần phải tích cực truy quét tội phạm đặc biệt là các tội phạm trộm cắp, cướp giật và tịch thu tận gốc tài sản phạm pháp có được từ hoạt động này để triệt phá “đầu ra” cho tài sản do người khác phạm tội mà có đối với những loại tài sản này.
Đồng thời, cơ quan công an phải có biện pháp loại trừ rủi ro cho người thực hiện hành vi tố giác tội phạm bằng cách quy định hình thức báo tin, tố giác. Yêu cầu này đặt ra là hoàn toàn phù hợp với tâm lý người báo tin, tố giác cũng như người làm chứng và phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay. Các cơ sở tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm phải đảm bảo cho được các yếu tố sau:
- Thuận tiện về địa điểm
- Có đầy đủ các phương tiện cần thiết để tiếp nhận tố giác và tin báo dưới các hình thức khác nhau.
- Liên tục có cán bộ trực ban 24/24 giờ hằng ngày.
Những yếu tố này cần phải được kiện toàn và duy trì liên tục để đảm bảo hiệu quả cho công tác đấu tranh với tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Phải kết hợp với việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phát hiện điều tra nhanh chóng các vụ án, lôi cuốn được quần chúng và các cơ quan tổ chức khác vào hoạt động đấu tranh với tội phạm này để bảo vệ trật tự trị an xã hội…
Đối với viện kiểm sát, cơ quan này được đánh giá cao trong việc phát hiện các vi phạm pháp luật và tội phạm cùng các cơ quan hữu quan khác làm sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện tình hình phạm tội, phát hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm.Vì vậy, viện kiểm sát phải làm tốt chức năng của mình đó là thực hành quyền công tố, đảm bảo truy tố đúng người đúng tội đúng pháp luật .
Thực hiện tuyên truyền pháp luật, công khai các tin tức điều tra, xét xử tội phạm cũng như các số liệu thống kê loại tội phạm này tạo nên những tác động tích cực cho hoạt động đấu tranh với loại tội phạm tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có .
Đối với toà án – cơ quan thực hiện công tác xét xử tội phạm. Toà án là nơi nắm được khá chính xác thực trạng của tình hình tội phạm này. Vì vậy, những kết luận và kiến nghị của toà án về việc hoàn thiện điều 250 quy định về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên phương diện pháp lý.
Ngoài ra, tòa án cần tăng cường hình thức xét xử lưu động đây là một trong các hoạt động góp phần nâng cao nhận thức của người dân trong việc nói không với đồ gian và không tiêu thụ đồ phạm pháp.
Tóm lại, để xoá bỏ hoặc vô hiệu hoá các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, không để cho tội phạm xảy ra, từ đó, làm giảm tội phạm và cao hơn là loại trừ hoàn toàn tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội, chúng ta không chỉ có các biện pháp phòng ngừa chung xã hội, mà phải có biện pháp phòng ngừa riêng, để tạo nên một hệ thống phòng ngừa thống nhất. Các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải thực hiện việc tấn công tội phạm trên tất cả các lĩnh vực, thực sự giữ vị trí chủ động trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
C.PHẦN KẾT LUẬN
Các đây hơn một trăm năm Các Mác đã nói “Người làm luật thông thái cần phải phòng ngừa tội phạm làm sao khỏi phải trừng phạt chúng” [13,665]. Tư tưởng của Các Mác về sau đã được Lênin và các nhà tội phạm học dùng làm kim chỉ nam trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, phòng chống tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nói riêng.
Tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, là một hiện tượng xã hội. Vì vậy, để giải quyết vấn đề tội phạm về tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có phải bắt nguồn từ các biện pháp phòng ngừa có tính xã hội theo nghĩa rộng. Giải quyết loại tội phạm này là một cuộc đấu tranh kiên trì, lâu dài, đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ các biện pháp pháp luật, kinh tế xã hội, giáo dục,…
Trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, công tác phòng ngừa đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Thực chất việc phòng ngừa tội phạm này là không để tội phạm này xảy ra và gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Vì thế, chúng ta cần ngăn ngừa sự phát sinh, hình thành những ổ nhóm, tổ chức, đường dây tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có. Trong quá trình phòng ngừa, nếu tội pham này xảy ra thì phải kịp thời phát hiện xử lý nghiêm minh kết hợp với việc giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội.
Tại địa bàn huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An, có một thời gian tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chưa thực sự được quan tâm, nghiên cứu. Nhưng trong những năm gần đây, do sự phát triển mạnh mẽ của loại tội phạm này, nên công tác phòng chống nó ngày càng được đẩy mạnh.Vì thế, công tác đấu tranh đã đạt được một số kết quả nhất định góp phần hạn chế và ngăn chặn sự ảnh hưởng của tội phạm này tới các địa phương khác.
Tội phạm nói chung và tội phạm tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, là một hiện tượng xã hội hết sức phức tạp, ảnh hưởng tới nhiều loại tội phạm khác. Do đó, việc phòng ngừa tội phạm này đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ với nhiều biện pháp đa dạng khác nhau. Việc nghiên cứu đề tài này là một yêu cầu bức thiết nhằm góp phần vào việc hoàn thiện điều luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi trong hoạt động lập pháp và thi hành pháp luật. Đồng thời qua đó giúp Đảng và Nhà nước có cái nhìn đúng đắn và có thái độ kiên quyết và cứng rắn hơn trong xử lý những kẻ phạm tội nhằm hướng tới mục đích cuối cùng là loại bỏ tội phạm này ra khỏi xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bản án số 128/ 2007/HS- ST ngày 24 tháng 12 năm 2007, Bản án số 100/2008/ HS-ST ngày 26 tháng 6 năm 2008 và một số bản cáo trạng khác
[2]. Báo cáo công tác nghành tòa án năm 2005, 2006, 2007, 2008 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2006, 2007, 2008, 2009.
[3]. Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế- xã hội năm 2008, một số nhiệm vụ và giải pháp năm 2009 của UBND huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An, trang 1-4
[4]. Báo Công an nhân dân số 1177 ngày 1 tháng 9 năm 2001 tại thành phố Hồ Chí Minh, trang 23, 24
[5]. Bình luận khoa học bộ luật hình sự năm 1999, NXB công an nhân dân, Hà Nội,năm 2004, tập 2, phần các tội phạm cụ thể, trang 554-555
[6]. Bộ luật dân sự năm 2005, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2006, trang 83
[7]. Bộ luật hình sự năm 1985, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1990, trang 65
[8]. Bộ luật hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2000, trang11, trang 15,trang 17, trang 19.
[9]. Bộ Hoàng Việt Hình Luật- chữ quốc ngữ, NXB pháp lý, Hà Nội năm 1991, trang 108
[10]. Bộ luật hình sự Nhật Bản, Bộ Tư Pháp, người dịch: Nguyễn Văn Hoàn, người hiệu chính: TS. Uông Chu Lưu, Hà Nội, trang 69
[11]. Bộ Quốc triều hình luật – Viện Sử học, NXB pháp lý, Hà Nội, năm 1991, trang 216
[12]. Bộ luật tố tụng hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 20004, trang 12
[13]. Các Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, xuất bản lần hai, tập 1, NXB Sự thật, Hà Nội, 1978, trang 665
[14]. Công ước của Liên hợp quốc về phòng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, ngày 3 tháng 12 năm 2002, trang 2.
[15]. Đinh Quang Tâm – “Cần sửa đổi điều 250 bộ luật hình sự” -Tạp chí Tòa án nhân dân số 16 tháng 8 năm 2007, trang 10
[16]. Đinh Văn Quế, “Bình luận khoa học bộ luật hình sự năm 1999”, nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2003, tập 2 phần các tội phạm cụ thể, trang 445-447
[17]. Giáo trình luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội năm 2006, tập 1, trang 11-19, trang 79, trang 128, trang 144.
[18]. Giáo trình luật hình sự Việt Nam, NXB công an nhân dân,Hà Nội năm 2006, trang 256, tập 2
[19]. Giáo trình tội phạm học, NXB công an nhân dân, Hà Nội, năm 2006, trang 7, 207,275,297
[20]. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung năm 2001, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2000, trang 17
[21]. Lê Văn Luật- “Bàn về điều 250 bộ luật hình sự”- Tạp chí Tòa án nhân dân số 11 tháng 6 năm 2004, trang 23-24
[22]. Nguyễn Hữu Thanh- “Về hành vi “rửa tiền” theo quy định của pháp luật Việt Nam”- Tạp chí luật học số 7 năm 2003, trang 36- 40
[23]. Nguyễn Ngọc Hòa – “Phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học”- Tạp chí luật học số 6 tháng 6 năm 2007, trang 27-31
[24]. Nghị định số 150/2005/NĐ- CP về xử lý vi phạm hành chính đối với người tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
[25]. Nghị quyết số 02/2003/NQ- HĐTPTANDTC ngày 17 tháng 4 năm 2003 hướng dẫn đối với trường hợp thu lợi bất chính đối với tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
[26]. Nguyễn Thị Xuân, Huế, tập bài giảng luật hình sự trang 21-22 trang 64, trang 33, Huế năm 2005
[27]. Nguyễn Văn Vương –“Một số vướng mắc khi áp dụng điều 104 và 250 bộ luật hình sự”. Tạp chí Tòa án nhân dân số 7 năm 2003, trang 19-20
[28]. Nguyễn Xuân Yêm, “Tội phạm có tổ chức, mafia và toàn cầu hóa tội phạm”, NXB Công an nhân dân, năm 2003, trang 544
[29]. Pháp lệnh 1, pháp lệnh 2, trừng trị các tội phạm tài sản và tờ trình hai dự thảo pháp lệnh của tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, và bộ công an. Hệ thống hóa pháp luật về hình sự (1945- 1974), tập 1, trang 207, 227, và 456
[30]. Phan Cảnh, từ điển tiếng Việt, NXB Mũi Cà Mau, năm 1997, trang 20
[31]. Phạm Văn Báu – “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” - Tạp chí luật học số 5 tháng 5 năm 2004, trang 3-7
[32]. Sắc lệnh số 27-SL ngày 28 tháng 12 năm 1946 Hệ thống hóa pháp luật về hình sự (1945-1975), tập 1, trang 29
[33]. Trần Quang Tiệp –“Một số vấn đề về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” - Tạp chí Tòa án nhân dân số 7 tháng 9 năm 2007, trang 4-7
[34]. Từ điển luật học, Viện khoa học pháp lý- Bộ tư pháp, NXB tư pháp, năm 2006, trang 764
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CMND : Chứng minh nhân dân
HĐTPTANDTC : Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao
PTGTCGĐB : Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ
TAND : Tòa án nhân dân
TNHS : Trách nhiệm hình sự
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
Lời cảm ơn
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tác giả xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo - Thạc sĩ Hà Lệ Thủy đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo giúp tác giả hoàn thành khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn qúy thầy cô trong khoa Luật; Thư viện tổng hợp trường Đại học Khoa Học Huế; các anh, chị, cô, chú ở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An…đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tác giả trong quá trình hoàn thành khóa luận này.
Do thời gian và trình độ nghiên cứu hạn chế khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy giáo, cô giáo, các bạn sinh viên để củng cố và hoàn thiện kiến thức của mình.
Sinh viên
Nguyễn Thị Lan Anh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KHOA LUAN LAN ANH.doc