MỤC LỤC
Trang
Phần I: LỜI NÓI ĐẦU 2
Phần II: NỘI DUNG 4
I. Quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin 4
1.Khái quát về quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin 4
2. Kết quả của quá trình tìm kiếm thông tin 4
II. Thực trạng trọng tài thương mại và nội dung của pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 ở Việt Nam 7
1. Nội dung cơ bản của pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 7
2. Thực tiễn áp dụng trọng tài thương mại 2003 9
Phần III. Nhận xét và kiến nghị 18
Danh mục tài liệu tham khảo 21
PHẦN I
LỜI NÓI ĐẦU
Sau khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới,Việt nam đã có thêm nhiều cơ hội để nền kinh tế ngày càng phát triển, sớm đạt được mục tiêu tiến lên xã hội chủ nghĩa. Đây cũng chính là cơ hội cho các doanh nghiệp việt nam có thêm đc nhiều sự chọn lựa về mọi lĩnh vực trong kinh doanh (nguyên nhiên vật liệu, đối tác kinh doanh, thị trường tiêu thụ, lực lượng lao động .v.v.) giúp họ tối đa hóa lợi nhuận .Nhưng bên cạnh đó thì cũng không ít những khó khăn đặt ra với họ. Đó ngày càng nhiều đối thủ cạnh tranh không chỉ còn là những thương nhân trong nước mà còn là đa số những thương nhân nước ngoài với kiến thức kinh doanh đa dạng, phong phú và sự hỗ trợ đắc lực của những luật gia có kinh nghiệm cạnh tranh. Trong khi thương nhân của chúng ta còn chưa có nhiều kinh nghiệm để tự bảo vệ trước tranh chấp thương mại,đang ngày càng phổ biến trong nên kinh tế thị trường mở. Chỉ khi họ ý thức được tầm quan trọng về các biện pháp giải quyết tranh chấp thương mại họ mới tự biết cách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Thì đây mới chính là cơ hội giúp các doanh nghiệp Việt Nam vươn xa trên thị trường quốc tế.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một trong những phương pháp giải quyết tranh chấp hữu hiệu với nhiều ưu điểm nổi bật so với giải quyết bằng con đường tòa án như: Giải quyết vụ việc một cách nhanh gọn, kín đáo và phán quyết có giá trị chung thẩm ( Có hiệu lực cuối cùng và đc cưỡng chế thi hành ), các bên có quyền tự do lựa chọn trọng tài, tự do lựa chọn địa điểm, gian xét xử, luật áp dụng với những tranh chấp có yếu tố nước ngoài thời gian xét xử. Nếu giải quyết bằng con đường tòa án ở nước ngoài thì tòa án Việt Nam có thể không được công nhận thi hành bản án nếu nước đó không tham gia hiệp định tương trợ tư pháp có Việt Nam. Trong khi quyết định của trọng tài được công nhận và có hiệu lực thi hành trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Mặc dù với ưu thế như vậy nhưng Trung tâm trọng tài thương mại Quốc tế Việt Nam (VIAC) mỗi năm chỉ xử lý được 20-25 vụ. Các trung tâm khác chỉ khoảng năm đến bảy vụ, thậm chí có trung tâm không có vụ nào. Tình trạng này xảy xảy ra ngay cả với cơ quan tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án .Qua nhiều nguồn thông tin thì nguyên nhân này là những bất cập của pháp luật hiện hành ,doanh nghiệp chưa nhận thấy tầm quan trọng của trọng tài thương mại. Để thấy rõ hơn được nguyên nhân sâu xa của tình trạng này cần phải nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và việc áp dụng pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trong những năm gần đây.
Trong thời gian thực tập tại sở kế hoạch đầu tư Hà nội, em có cơ hội tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin từ cơ sở thực tập cũng như đài báo, thông tin từ báo điện tử. Em nhận thấy việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đang ngày càng giữ một vai trò quan trọng trong khi những quy định pháp luật về nó có nhiều điểm còn bất cập, làm hạn chế số lượng doanh nghiệp tìm đến với các trung tâm trọng tài. Vì thế theo yêu cầu của một chuyên đề thực tập tốt nghiệp, em đã viết một bản báo cáo với đề tài: “Thực trạng áp dụng pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trong những năm gần đây”. Hi vọng phản ánh đầy đủ thực trạng của công tác trọng tài những ưu điểm cũng như những bất cập, và đóng góp của riêng em về hướng giải quyết cho những thiếu sót của pháp lệnh này.
Do lần đầu tiếp xúc với việc làm báo cáo chuyên đề và việc thu thập tài liệu về vấn đề này còn là khó do pham vi bao quát của vấn đề rất lớn, đòi hỏi kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau nên bài viết của em sẽ có những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy em mong thầy cô chỉ bảo thêm để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
21 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2435 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng áp dụng pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trong những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
Phần I: LỜI NÓI ĐẦU
2
Phần II: NỘI DUNG
4
I. Quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin
4
1.Khái quát về quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin
4
2. Kết quả của quá trình tìm kiếm thông tin
4
II. Thực trạng trọng tài thương mại và nội dung của pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 ở Việt Nam
7
1. Nội dung cơ bản của pháp lệnh trọng tài thương mại 2003
7
2. Thực tiễn áp dụng trọng tài thương mại 2003
9
Phần III. Nhận xét và kiến nghị
18
Danh mục tài liệu tham khảo
21
PHẦN I
LỜI NÓI ĐẦU
Sau khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới,Việt nam đã có thêm nhiều cơ hội để nền kinh tế ngày càng phát triển, sớm đạt được mục tiêu tiến lên xã hội chủ nghĩa. Đây cũng chính là cơ hội cho các doanh nghiệp việt nam có thêm đc nhiều sự chọn lựa về mọi lĩnh vực trong kinh doanh (nguyên nhiên vật liệu, đối tác kinh doanh, thị trường tiêu thụ, lực lượng lao động .v.v.) giúp họ tối đa hóa lợi nhuận .Nhưng bên cạnh đó thì cũng không ít những khó khăn đặt ra với họ. Đó ngày càng nhiều đối thủ cạnh tranh không chỉ còn là những thương nhân trong nước mà còn là đa số những thương nhân nước ngoài với kiến thức kinh doanh đa dạng, phong phú và sự hỗ trợ đắc lực của những luật gia có kinh nghiệm cạnh tranh. Trong khi thương nhân của chúng ta còn chưa có nhiều kinh nghiệm để tự bảo vệ trước tranh chấp thương mại,đang ngày càng phổ biến trong nên kinh tế thị trường mở. Chỉ khi họ ý thức được tầm quan trọng về các biện pháp giải quyết tranh chấp thương mại họ mới tự biết cách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Thì đây mới chính là cơ hội giúp các doanh nghiệp Việt Nam vươn xa trên thị trường quốc tế.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một trong những phương pháp giải quyết tranh chấp hữu hiệu với nhiều ưu điểm nổi bật so với giải quyết bằng con đường tòa án như: Giải quyết vụ việc một cách nhanh gọn, kín đáo và phán quyết có giá trị chung thẩm ( Có hiệu lực cuối cùng và đc cưỡng chế thi hành ), các bên có quyền tự do lựa chọn trọng tài, tự do lựa chọn địa điểm, gian xét xử, luật áp dụng với những tranh chấp có yếu tố nước ngoài thời gian xét xử. Nếu giải quyết bằng con đường tòa án ở nước ngoài thì tòa án Việt Nam có thể không được công nhận thi hành bản án nếu nước đó không tham gia hiệp định tương trợ tư pháp có Việt Nam. Trong khi quyết định của trọng tài được công nhận và có hiệu lực thi hành trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Mặc dù với ưu thế như vậy nhưng Trung tâm trọng tài thương mại Quốc tế Việt Nam (VIAC) mỗi năm chỉ xử lý được 20-25 vụ. Các trung tâm khác chỉ khoảng năm đến bảy vụ, thậm chí có trung tâm không có vụ nào. Tình trạng này xảy xảy ra ngay cả với cơ quan tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án .Qua nhiều nguồn thông tin thì nguyên nhân này là những bất cập của pháp luật hiện hành ,doanh nghiệp chưa nhận thấy tầm quan trọng của trọng tài thương mại. Để thấy rõ hơn được nguyên nhân sâu xa của tình trạng này cần phải nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và việc áp dụng pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trong những năm gần đây.
Trong thời gian thực tập tại sở kế hoạch đầu tư Hà nội, em có cơ hội tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin từ cơ sở thực tập cũng như đài báo, thông tin từ báo điện tử. Em nhận thấy việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đang ngày càng giữ một vai trò quan trọng trong khi những quy định pháp luật về nó có nhiều điểm còn bất cập, làm hạn chế số lượng doanh nghiệp tìm đến với các trung tâm trọng tài. Vì thế theo yêu cầu của một chuyên đề thực tập tốt nghiệp, em đã viết một bản báo cáo với đề tài: “Thực trạng áp dụng pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trong những năm gần đây”. Hi vọng phản ánh đầy đủ thực trạng của công tác trọng tài những ưu điểm cũng như những bất cập, và đóng góp của riêng em về hướng giải quyết cho những thiếu sót của pháp lệnh này.
Do lần đầu tiếp xúc với việc làm báo cáo chuyên đề và việc thu thập tài liệu về vấn đề này còn là khó do pham vi bao quát của vấn đề rất lớn, đòi hỏi kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau nên bài viết của em sẽ có những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy em mong thầy cô chỉ bảo thêm để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phần II
NỘI DUNG
I.QUÁ TRÌNH TÌM HIỂU VÀ THU THẬP THÔNG TIN
1. Khái quát về quá trình tìm hiều và thu thập thông tin
Em nhận thức được rằng bài viết của em chỉ có thể thành công, phản ánh chân thực vấn đề cần đề cập đến hay không? Đều phải căn cứ vào quá trình thu thập thông tin. Quá trình này cũng giúp em hiểu thêm về những vấn đề xã hội có liên quan, giúp em củng cố lại kiến thức đã được nhà trường, thầy cô trang bị khi còn trên giảng đường cũng như có thêm kiến thức thực tiễn giúp chúng em tự tin trong công việc sau này. Vì thế trong thời gian qua em đã sắp xếp công việc sao cho vừa có thời gian thực tập tại cơ quan, vừa có thời gian tìm hiểu tài liệu từ sách vở, từ các cô, chú, anh, chị tại cơ quan nơi em thực tập, từ đài báo và các phương tiện thông tin khác. Để thông tin đưa ra trong bản báo cáo được tốt nhất,có tính thực tế cao.
Và trong thời gian này, nhờ có sự tận tình chỉ bảo cũng như giúp đỡ về chuyên môn của các cô và các chị tại trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ- phòng đăng kí kinh doanh- Sở kế hoạch đầu tư Hà nội. Đã giúp em có được những thông tin chính xác từ cơ quan cũng như từ các nguồn thu thập khác như báo viết, báo điện tử, mạng internet … mặc dù có đã thu thập được khá nhiều thông tin nhưng đa số đều chưa qua xử lý, tản mạn trong nhiều văn bản . Thông qua các phương pháp khoa học đã được nghiên cứu trên giảng đường đại học như: Phương pháp phân tích, phương pháp thống kê tổng hợp, phương pháp đối chiếu tổng hợp, xuất phát từ phương pháp luận chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng hồ chí minh, lý luận chung về nhà nước và pháp luật; giúp em tổng kết lại và đưa ra được những đánh giá khách quan về đề này; góp phần lớn vào thành công cho bài viết của em.
2. kết quả quá trình tìm kiếm thông tin
Sau quá trình thu thập thông tin nhờ sự giúp đỡ của nhà trường và cơ sở nơi em thực tập. Kết quả thu được phản ánh được một cách khá đầy đủ về thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài cũng như việc áp dụng pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trong những năm 2003 đến 2006.Qua đó giúp em có cai nhìn khái quát về ưu và khuyết điểm trong trong pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.Tìm ra nguyên nhân cũng như có được những giải pháp khắc phục những khuyết điểm trong quy định của pháp lệnh. Cụ thể những thông tin em thu thập được bao gồm những số liệu sau:
Năm
Số vụ kiện
Quốc tịch các bên tranh chấp
2003
16
Singapore
Nhật Bản
Hàn Quốc
Malaysia
Canada
Đức
Ukraina
4
2
3
1
1
1
1
2004
32
Singapore
Nhật Bản
Hồng Kông
Hàn Quốc
Đài Loan
Anh
Hà Lan
Indonesia
Tây Ban Nha
Uruquay
Vanuatu
6
1
2
3
2
1
3
1
1
1
1
2005
22
Singapore
Hàn Quốc
Malaysia
Đài Loan
Áo
Hà Lan
Đức
Hoa Kỳ
Na Uy
Slovakia
1
8
2
2
2
1
2
1
1
1
2006
23
Nga
Trung Quốc
Áo
Malaysia
Đức
Mỹ
Anh
Singapore
Hàn Quốc
Ấn độ
Ucraina
Thái Lan
Italy
Hồng Kông
1
4
3
2
2
1
2
1
2
1
1
1
1
1
Bảng 1: Thống kê các vụ kiện tại Trung tâm trọng tài quốc tế tại Việt Nam từ năm 2003- 2006
Theo thống kê của TTTTQT VN, năm 2006 và 6 tháng đầu năm nay, trong số các vụ tranh chấp thương mại giải quyết qua trọng tài kinh tế, có 40% là các vụ tranh chấp giữa DN trong nước với nhau, 60% còn lại là các vụ tranh chấp giữa DN VN với các đối tác nước ngoài
Một nước có hơn 80 triệu dân mà chỉ có hơn 150 trọng tài thương mại. Không dừng lại đó, trong hợp đồng kinh tế đều có thoả thuận nếu xảy ra tranh chấp hai bên đều đồng thuận tìm đến trọng tài nhưng những vụ việc tranh chấp ''gõ cửa'' trọng tài rất ít. Tại TTTTQT thuộc VCCI thụ lý 74 vụ kiện, trong đó 67% vụ có giá trị tranh chấp dưới 100.000 USD. Trong khi đó, trung bình một năm Tòa Kinh tế cả nước thụ lý gần 1.000 vụ, nhiều vụ giá trị hàng chục triệu USD.
II.THỰC TRẠNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ NỘI DUNG CỦA PHÁP LỆNH TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 2003 Ở VIỆT NAM.
1. Nội dung cơ bản của pháp lệnh trọng tài thương mại 2003
Pháp lệnh trọng tài thương mại được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 25/02/2003 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2003 đã tạo bước đột phá mới trong cơ chế giải quyết các tranh chấp thương mại bằng trọng tài, khắc phục được các tồn tại của các văn bản trước đây quy định về trọng tài, kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu của các nhà kinh doanh.
Chúng tôi xin giới thiệu một số nội dung cơ bản của Pháp lệnh trọng tài thương mại (PLTTTM)
1- Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài:
PLTTTM đã mở rộng thẩm quyền đáng kể cho trọng tài so với Nghị định 116/CP ngày 05/9/1994 về tổ chức và hoạt động của Trung tâm trọng tài kinh tế. Theo đó, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại khi có sự thoả thuận của các bên. Hoạt động thương mại được hiểu theo nghĩa rộng phù hợp với khái niệm “kinh doanh” trong Luật doanh nghiệp Việt Nam và được quy định cụ thể như: mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi, thuê, cho thuê; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng;... (khoản 2- điều 2).
2- Về hình thức giải quyết tranh chấp:
PLTTTM quy định hai hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài: do Trung tâm trọng tài tổ chức và do các bên thành lập. Quy định này dựa trên sự tôn trọng ý chí của các bên và bảo đảm quyền các bên lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp, đồng thời cũng là sự phù hợp với quy định của pháp luật các nước trên thế giới về hai hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài: thường trực và Adhoc.
3- Hiệu lực của quyết định trọng tài:
Quyết định trọng tài là chung thẩm, các bên phải thi hành nếu không bị Toà án huỷ theo quy định của pháp lệnh. Pháp lệnh tạo một bước đột phá mới trong cơ chế giải quyết tranh chấp bằng tố tụng trọng tài bởi việc quy định quyết định trọng tài có giá trị thi hành như một bản án của Toà án. Nếu các bên không tự nguyện thi hành sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế bởi cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành. Trình tự, thủ tục và thời hạn thi hành quyết định trọng tài được tuân theo các quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành.
4- Về thoả thuận trọng tài:
Thoả thuận trọng tài là văn bản thể hiện ý chí của các bên về việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Thoả thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Hình thức văn bản được mở rộng bao gồm cả thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức văn bản khác được pháp luật quy định cho phù hợp với tình hình giao dịch kinh tế, thương mại hiện nay (Điều 9).
5- Về trọng tài viên:
Là người được các bên lựa chọn, Trung tâm trọng tài hoặc Toà án chỉ định để giải quyết tranh chấp. Trọng tài viên phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, vô tư, khách quan; có bằng đại học và đã qua thực tế công tác. Pháp lệnh quy định một số trường hợp không được làm trọng tài viên: người đang bị quản chế hành chính, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, hoặc đã bị kết án mà chưa được xoá án tích; Thẩm phán; Kiểm sát viên; Điều tra viên; Chấp hành viên; công chức đang công tác tại Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án.
6- Về Trung tâm trọng tài:
Trung tâm trọng tài được thành lập khi có ít nhất 05 trọng tài viên là sáng lập viên và có các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 17 của Pháp lệnh. Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ cấp giấy phép thành lập Trung tâm trọng tài theo sự giới thiệu của Hội Luật gia Việt Nam, căn cứ vào nhu cầu và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
Để đảm bảo hoạt động của Trung tâm trọng tài, tránh tình trạng thành lập một cách tràn lan hoặc thành lập xong thì không hoạt động, trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập, Trung tâm trọng tài phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp cấp tỉnh nơi Trung tâm đặt trụ sở.
7- Huỷ quyết định trọng tài:
Quyết định trọng tài có thể bị huỷ khi có căn cứ theo quyết định của Pháp lệnh. Thẩm quyền huỷ quyết định trọng tài thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định. Quyết định huỷ hoặc không huỷ quyết định của Trọng tài của Toà án có thể bị kháng cáo hoặc kháng nghị trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra quyết định và sẽ được xem xét lại bởi Toà án nhân dân tối cao. Quyết định của Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng.
8- Mối quan hệ giữa Toà án và Trọng tài:
Trọng tài là một tổ chức phi chính phủ, quyết định không mang tính quyền lực nhà nước và cũng không đương nhiên được thi hành bằng biện pháp cưỡng chế. Nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động của trọng tài, tạo điều kiện thuận lợi cho trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp, Pháp lệnh quy định cụ thể mối quan hệ hỗ trợ của Toà án đối với trọng tài trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp. Toà án có thể hỗ trợ trọng tài trong một số trường hợp như: chỉ định trọng tài viên (điều 26); xem xét quyết định của Hội đồng trọng tài về thẩm quyền giải quyết tranh chấp (điều 30); áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (điều 33); huỷ quyết định trọng tài (điều 53).
2. Thực tiễn áp dụng pháp lệnh trọng tài thương mại 2003
2.1. Thực trạng trọng tài thương mại ở Việt Nam
Hiện nay có bốn hình thức có thể áp dụng để giải quyết tranh chấp (GQTC) trong quan hệ hợp đồng, giao dịch giữa các thương nhân, đó là: thương lượng, trung gian hoà giải, trọng tài và toà án, trong đó GQTC hợp đồng, giao dịch bằng phương thức trọng tài có nhiều lợi thế hơn so với các phương thức GQTC khác. Tuy nhiên, trên thực tế do một số nguyên nhân, phương thức giải quyết này ít được lựa chọn.
GQTC bằng phương thức trọng tài thương mại ở Việt Nam mới được quy định năm 2003 tại Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Trên thực tế không ít các doanh nghiệp tỏ ra hoài nghi về hiệu quả của phương thức GQTC bằng trọng tài. Theo thói quen, khi có vụ việc tranh chấp các bên thường đưa ra toà án để giải quyết, vì cho rằng, toà án là chủ thể nhân danh Nhà nước thực hiện quyền phán quyết về tính hợp pháp của các quan hệ pháp luật, do vậy tính cưỡng chế trong các quyết định này sẽ cao hơn; Các bản án, quyết định được Hội đồng xét xử tuyên có giá trị pháp lý cao hơn quyết định của Hội đồng trọng tài. Do vậy, hàng năm số vụ việc mà các Trung tâm trọng tài thương mại giải quyết ít hơn nhiều các toà án kinh tế thụ lý.
Giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài thương mại là một phương thức rất phổ biến và được ưa chuộng trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hình thức này vẫn chưa được áp dụng nhiều và hoạt động của trọng tài thương mại ở Việt Nam vẫn còn rất kém hiệu quả. Các DN Việt Nam khi có tranh chấp thường đưa nhau ra toà án. Qua khảo sát sơ bộ các doanh nghiệp thì hầu hết hợp đồng kinh doanh của các doanh nghiệp đều thiếu điều khoản về giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài, hoặc có cũng chỉ rất sơ sài và rất khó thực thi. Thậm chí có những hợp đồng lớn cấp quốc gia như mua máy bay thì điều khoản quy định về vấn đề này cùng rất sơ sài. Điều này rất nguy hiểm vì rất dễ dẫn đến đổ vỡ hợp đồng khi có tranh chấp do cơ chế giải quyết không được quy định rõ ràng.
Có thể có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như các quy định pháp luật chưa phù hợp, tâm lý xã hội chưa quen với các tổ chức giải quyết tranh chấp ngoài Nhà nước và ngay cả hoạt động của các trọng tài vẫn còn nhiều điểm chưa thuyết phục. Với sự phát triển kinh tế thị trường ngày càng đi vào chiều sâu thì chắc chắn hình thức trọng tài thương mại sẽ được ưa chuộng và phát triển. Vì vậy, Bộ Tư pháp đang chỉ đạo các đơn vị chức năng nghiên cứu các điều kiện để phát triển loại hình này.
Thông tin từ Vụ Bổ trợ tư pháp - Bộ Tư pháp cho biết, hiện nay cả nước có 6 trung tâm trọng tài thương mại. Đây là con số không hề ít và thậm chí còn nhiều hơn các nước nhưng năng lực hoạt động của các trung tâm còn nhiều hạn chế. Trước hết, các trung tâm còn thiếu nhiều chuyên gia giỏi, cơ sở vật chất còn yếu... nên hoạt động không hiệu quả.
Trong 6 trung tâm trọng tài hiện có thì chỉ có Trung tâm trọng tài thương mại Quốc tế bên cạnh VCCI là hoạt động khá hơn cả với khoảng 20 - 30 vụ được giải quyết mỗi năm. Các trung tâm còn lại chỉ 3 - 5 vụ mỗi năm, thậm chí có trung tâm không hề giải quyết một vụ nào.
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tiến hành nhiều công trình nghiên cứu để tìm các biện pháp thúc đẩy sự phát triển của trọng tài thương mại ở Việt Nam. Đây là một điều cần thiết vì trong cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề xây dựng các cơ chế giải quyết tranh chấp là một trong những cam kết của Việt Nam. Trong nhiều hiệp định, Việt Nam và các đối tác khuyến khích các bên tranh chấp giải quyết thông qua trọng tài thương mại.
2.2. Doanh nghiệp với pháp lệnh trọng tài thương mại 2003
Hiện nay có bốn hình thức có thể áp dụng để giải quyết tranh chấp (GQTC) trong quan hệ hợp đồng, giao dịch giữa các thương nhân, đó là: Thương lượng, trung gian hoà giải, trọng tài và toà án, trong đó GQTC hợp đồng, giao dịch bằng phương thức trọng tài có nhiều lợi thế hơn so với các phương thức GQTC khác. Tuy nhiên, trên thực tế do một số nguyên nhân, phương thức giải quyết này ít được lựa chọn.
GQTC bằng phương thức trọng tài thương mại ở Việt Nam mới được quy định năm 2003 tại Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Trên thực tế không ít các doanh nghiệp tỏ ra hoài nghi về hiệu quả của phương thức GQTC bằng trọng tài. Theo thói quen, khi có vụ việc tranh chấp các bên thường đưa ra toà án để giải quyết, vì cho rằng, toà án là chủ thể nhân danh Nhà nước thực hiện quyền phán quyết về tính hợp pháp của các quan hệ pháp luật, do vậy tính cưỡng chế trong các quyết định này sẽ cao hơn; Các bản án, quyết định được Hội đồng xét xử tuyên có giá trị pháp lý cao hơn quyết định của Hội đồng trọng tài. Do vậy, hàng năm số vụ việc mà các Trung tâm trọng tài thương mại giải quyết ít hơn nhiều các toà án kinh tế thụ lý.
Theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại, các phán quyết của Hội đồng trọng tài có giá trị pháp luật tương tự các phán quyết của toà án. Tuy nhiên, các bên không lựa chọn phương thức giải quyết bằng trọng tài là do họ không thấy những ưu điểm mà phương thức GQTC bằng trọng tài thương mại mang lại. Cũng theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại, các Trung tâm trọng tài sẽ có thẩm quyền giải quyết vụ việc tranh chấp, nếu các bên tranh chấp có thoả thuận về phương thức GQTC bằng trọng tài trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Điều đó có nghĩa là cả trong trường hợp trong hợp đồng không có điều khoản về GQTC, hoặc có nhưng không đề cập đến phương thức giải quyết bằng trọng tài, nhưng sau khi xảy ra tranh chấp các bên đã thoả thuận GQTC bằng trọng tài, thì các Trung tâm trọng tài vẫn có thẩm quyền giải quyết. Thế nhưng, do sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế, hoặc do yếu tố tâm lý, nên trong những trường hợp này các bên thường mang ra toà án để phân xử mà không đem đến các Trung tâm trọng tài. Đây là thực trạng cần thay đổi trong cung cách và nếp nghĩ các doanh nhân Việt Nam.
Bên cạnh đó theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại, Trung tâm trọng tài có thẩm quyền GQTC đối với các hoạt động thương mại khi hành vi thương mại có tranh chấp là một trong những hành vi nằm trong hoạt động thương mại và các bên có thoả thuận GQTC bằng phương thức trọng tài. Hoạt động thương mại theo quy định của Pháp lệnh được hiểu là “việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; Phân phối; Đại diện, đại lý thương mại; Ký gửi; Thuê, cho thuê; Thuê mua; Xây dựng; Tư vấn; Kỹ thuật; Li – xăng (giấy phép- PV); Đầu tư; Tài chính, ngân hàng; Bảo hiểm; Thăm dò, khai thác; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”. Quy định về hoạt động thương mại của Pháp lệnh phù hợp với quy định trong Luật Thương mại (năm 1997). Tuy nhiên, sau khi Quốc hội thông qua Luật Thương mại (năm 2005), quy định về hoạt động thương mại đã có sự thay đổi. Theo đó, hoạt động thương mại đã được hiểu rộng hơn, bao gồm tất cả các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, như mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Quy định mới về hoạt động thương mại của Luật Thương mại 2005 làm cho quy định trong Pháp lệnh trọng tài Thương mại bị bó hẹp. Điều này gây khó khăn cho các Trung tâm trọng tài trong việc xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong hoạt động thương mại; đồng thời, dẫn đến không thống nhất giữa các quy định của pháp luật và làm cho thẩm quyền giải quyết của các Trung tâm trọng tài thương mại tại Việt Nam bị hạn chế rất nhiều. Theo quy định tại Điều 57 của Pháp lệnh Trọng tài thương mại về thi hành phán quyết của trọng tài, thì phán quyết của Hội đồng trọng tài được thi hành trong các trường hợp: Sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài, nếu một bên không tự nguyện thi hành, cũng không yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, bên được thi hành quyết định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết định trọng tài; Trong trường hợp, một trong các bên có yêu cầu Toà án huỷ quyết định trọng tài thì quyết định trọng tài sẽ được thi hành kể từ ngày quyết định của Toà án không huỷ quyết định trọng tài có hiệu lực. Trình tự, thủ tục và thời hạn thi hành quyết định trọng tài theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Nghiên cứu quy định này cho thấy nếu như quyết định của trọng tài nước ngoài muốn thi hành tại Việt Nam thì phải trải qua thủ tục xét công nhận và cho thi hành, còn phán quyết của Hội đồng trọng tài được thi hành ngay mà không cần phải trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành. Tuy nhiên, quy định này đã làm cho quyết định của Hội đồng trọng tài trở lên khó thực thi, vì: Do không phải trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành giống như các quyết định của trọng tài nước ngoài, nên các bên trong tranh chấp vẫn có quyền yêu cầu toà án có thẩm quyền huỷ quyết định của Hội đồng trọng tài, cho dù những lý do mà các bên đưa ra là không có căn cứ. Nhiều khi, việc này làm cho lợi ích của một trong các bên còn lại bị ảnh hưởng trực tiếp, do phải tham gia vào vụ việc khiếu kiện kéo dài; đồng thời, quyết định của Hội đồng trọng tài được xác định là có giá trị chung thẩm (không xét xử lại), thế nhưng với những quy định trên của Pháp lệnh thì quyết định đó vẫn bị xét xử lại tại toà án, điều này trái với nguyên tắc xác định giá trị pháp lý của quyết định trọng tài. Sau khi xét đơn huỷ hoặc không huỷ quyết định trọng tài, các bên lại có thể kháng cáo đối với quyết định đó của toà án và quyết định trọng tài lại một lần nữa được đem ra phán xét. Như vậy, nếu so sánh với thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết đối với các quyết định của trọng tài nước ngoài, thì điều kiện để một quyết định của trọng tài Việt Nam được thi hành trên thực tế khó hơn rất nhiều so với thủ tục công nhận và cho thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Với thực trạng thi hành án như hiện nay thì rất khó để một quyết định trọng tài đã có hiệu lực được thi hành trên thực tế. Vì số lượng bản án, quyết định dân sự được thi hành hàng năm tại các địa phương rất lớn, cơ quan thi hành án thường chỉ thi hành được một lượng nhỏ số bản án, quyết định của toà án tuyên có hiệu lực pháp luật và đã có điều kiện thi hành. Còn đối với những vụ việc chưa có điều kiện thi hành thì quá trình phân loại, xác minh điều kiện thi hành kéo dài và phức tạp. Như vậy, đối với các quyết định của trọng tài, đặc biệt là các quyết định không bị yêu cầu huỷ, thì cơ quan thi hành án dân sự khó có thể ưu tiên thi hành trước và sớm hơn so với các quyết định, bản án của toà án. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người được thi hành, đặc biệt là đối với các thương nhân.
2.3. Áp dung pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 tại các trung tâm trọng tài thương mại
Giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài có nhiều ưu điểm và lợi thế, song, trọng tài thương mại lại không phổ biến trong việc giải quyết tranh chấp thương mại ở nước ta hiện nay. Trong 6 trung tâm trọng tài hiện có thì chỉ có Trung tâm trọng tài thương mại Quốc tế bên cạnh VCCI là hoạt động khá hơn cả với khoảng 20 - 30 vụ được giải quyết mỗi năm. Các trung tâm còn lại chỉ 3 - 5 vụ mỗi năm, thậm chí có trung tâm không hề giải quyết một vụ nào. Để thấy rõ hơn về vấn đề này cần đi vào cụ thể từ hoạt động của của trung tâm trọng tài thương mại quốc tế(VIAC) nơi giải quyết phần lớn các tranh chấp thương mại.
Thống kê các vụ kiện tại Trung tâm trọng tài quốc tế tại Việt Nam từ năm 2003- 2006:
Năm
Số vụ kiện
Quốc tịch các bên tranh chấp
2003
16
Singapore
Nhật Bản
Hàn Quốc
Malaysia
Canada
Đức
Ukraina
4
2
3
1
1
1
1
2004
32
Singapore
Nhật Bản
Hồng Kông
Hàn Quốc
Đài Loan
Anh
Hà Lan
Indonesia
Tây Ban Nha
Uruquay
Vanuatu
6
1
2
3
2
1
3
1
1
1
1
2005
22
Singapore
Hàn Quốc
Malaysia
Đài Loan
Áo
Hà Lan
Đức
Hoa Kỳ
Na Uy
Slovakia
1
8
2
2
2
1
2
1
1
1
2006
23
Nga
Trung Quốc
Áo
Malaysia
Đức
Mỹ
Anh
Singapore
Hàn Quốc
Ấn độ
Ucraina
Thái Lan
Italy
Hồng Kông
1
4
3
2
2
1
2
1
2
1
1
1
1
1
Theo thống kê của TTTTQT VN, năm 2006 và 6 tháng đầu năm nay, trong số các vụ tranh chấp thương mại giải quyết qua trọng tài kinh tế, có 40% là các vụ tranh chấp giữa DN trong nước với nhau, 60% còn lại là các vụ tranh chấp giữa DN VN với các đối tác nước ngoài
Có thể giải thích vấn đề này như sau: Về cơ sở pháp lý, trong những năm gần đây, pháp luật về Trọng tài Thương mại đang trong tiến trình hoàn thiện và có những bước phát triển. Theo Báo cáo của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thì “trước năm 2003, pháp luật trọng tài không thống nhất, cùng một lúc hệ thống các trung tâm trọng tài thương mại chịu sự điều chỉnh của 2 văn bản. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam hoạt động theo Quyết định số 204/TTg ngày 28/4/1993 còn các Trung tâm khác thì hoạt động theo Nghị định 116/CP. Suốt thời gian đó, các Trung tâm trọng tài thương mại gần như không hoạt động. Ngày 24/2/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài Thương mại đánh dấu một bước phát triển của pháp luật về trọng tài thương mại”. Tuy nhiên, kể từ khi Pháp lệnh ra đời đến nay, giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài cũng không có chỗ đứng trong công tác giải quyết các xung đột trong đời sống thương mại. Điều đáng nói ở đây là theo quy định của pháp luật hiện hành thì Trọng tài Thương mại đang còn quá lệ thuộc vào Tòa án, Viện kiểm sát, những cơ quan có cùng chức năng giải quyết các tranh chấp. Trọng tài Thương mại gần như đã trở thành một trình tự bổ sung của trình tự tố tụng bằng con đường Tòa án. Một số đương sự đã nắm bắt tình trạng này nhằm “dây dưa” trục lợi bằng cách kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp qua con đường trọng tài. Rõ ràng, Trọng tài Thương mại đã mất hẳn bản chất của một con đường tố tụng.
Trong một số trường hợp, Tòa án là đơn vị chỉ định trọng tài viên mâu thuẫn với việc xem xét quyết định của trọng tài. Vô hình chung, các quyết định của trọng tài đã mất đi ý nghĩa của một phán quyết có hiệu lực thi hành. Cơ quan Trọng tài Thương mại không có quyền xem lại quyết định của mình mà phải chuyển toàn bộ hồ sơ làm căn cứ cho quyết định đó sang Toà án để cơ quan này cùng với Viện kiểm sát xem xét hiệu lực của quyết định trọng tài. Như vậy, từ tính chất một quyết định giải quyết tranh chấp thương mại phi chính phủ, quyết định của Trọng tài Thương mại lại bị đem ra phán quyết và lệ thuộc một hệ thống các thiết chế.
PHẦN III
NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
Trong quá trình thực hiện pháp lệnh còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế như cần phải khắc phục như:
1. Khái niệm hoạt động thương mại (khoản 3 điều 2) trong pháp lệnh được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các dấu hiệu : hành vi thương mại với chủ thể thực hiện hành vi thương mại ,gồm cá nhân tổ chức kinh doanh kết hỡp với phạm vi, lĩnh vực thực hiện hành vi thương mại như gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật. Dấu hiệu quan trọng nhất của khái niệm này là “hành vi thương mại “ lại ko được pháp lệnh giải thích do vậy đã hạn chế giá trị thực tiễn của nó. Khái niệm này chưa thực sự mang lại bất kì sự tiến bộ nào để giải quyết những bế tắc về lý luận và thực tiễn trong việc phân định ranh giới giữa các tranh chấp dân sự, kinh tế, thương mại , liên quan chặt chẽ đến việc này là những vấn đề quan trọng khác như phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của những cơ quan khác nhau, vấn đề áp dụng luật nội dung, luật tố tụng … Thí dụ, khi có một bên khiếu nại về tranh chấp giữa các bên không thuộc hoạt động thương mại theo khoản 3 điều 2 của pháp lệnh, và trọng tài không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó, thỏa thuận trọng tài, giữa các bên phải coi là vô hiệu thì tòa án sẽ căn cứ vào những tiêu chí nào để giải quyết?
2.Trung tâm trọng tài là một tổ chức phi chính phủ:
“1. Trung tâm Trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
2. Trung tâm Trọng tài được lập chi nhánh, văn phòng đại diện của Trung tâm.
3. Trung tâm Trọng tài có Ban điều hành và các Trọng tài viên.
Ban điều hành Trung tâm Trọng tài gồm có Chủ tịch, một hoặc các Phó chủ tịch, có thể có Tổng Thư ký do Chủ tịch Trung tâm Trọng tài cử.
Những người được Trung tâm Trọng tài mời làm Trọng tài viên phải có đủ điều kiện quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh này.”
Nhưng căn cứ vào những điều kiện thành lập Trung tâm trọng tài(điều 14) em không thấy bất kỳ cơ sở nào để khẳng định Trung tâm là một tổ chức “có tài sản độc lập với tổ chức và cá nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó - một dấu hiệu quan trọng của pháp nhân theo điều 94 Bộ luật dân sự. Một câu hỏi được đặt ra là Trung tậm trọng tài cần đến tư cách pháp nhân để làm gì? Để thực hiện các giao dịch có tính chất tài sản với khách hàng? Quan hệ có tính tài sản giữa các bên có tranh chấp với Trung tâm trọng tài pháp nhân thể hiện hình thức pháp lý nào? Các bên có nghĩa vụ trả phí trọng tài, Trung tâm thu phí trả thù lao cho trọng tài viên, nhưng còn trách nhiệm của Trung tâm, của trọng tài viên đối với các bên thì sao? Trường hợp Tòa án hủy quyết định trọng tài khi có căn cứ là trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp trọng tài viên đã vi phạm nghĩa vụ của mình (khoản 5 điều 54) thì vấn đề bồi thường thiệt hại cho các bên có được đạt ra hay không? Nếu có thì giải quyết thế nào? Trên cơ sở pháp lý nào?
Điều 17 pháp lệnh đưa ra yêu cầu các Trung tâm trọng tài có quyền xây dựng Điều lệ và Quy tắc tố tụng của mình nhưng không được trái với những quy định của pháp lệnh
Yêu cầu này là tương đối máy móc. Thí dụ như thời hạn chọn trọng tài viên, phải chăng các Trung tâm không thể quy định trong Quy tắc tố tụng của mình thời hạn ngắn hơn thời hạn 30 ngày của pháp lệnh được hay sao? Nếu quy định thời gian ngắn hơn có bị coi là trai pháp luật hay không? Còn nhiều vấn đế khác tương tự như vậy. Nên chăng nội dung của điều này cần được chỉnh lý lại theo hướng “không được trái với những nội dung ( nguyên tắc) cơ bản của pháp lệnh. Chỉ như vậy chúng ta mới tạo tiền đề thuận lợi cho các trung tâm pháp huy được cáclợi thế của mình, đa dạng hóa các Quy tắc tố tụng theo hướng có lợi cho khách hàng.
Quy định tại điều 30 về việc xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết của Hội đồng trọng tài và quy định tại chương 4 về hủy quyết định trọng tài cho thấy không có sự thống nhất về cơ sở lý luận. Cả hai trường hợp trên đều có liên quan đến việc xem xét tính hợp pháp của của quyết định trọng tài.
- Trường hơp thứ nhất (điều 30) thì quyết định của Trọng tài là chung thẩm
- Trường hợp thứ 2 quyết định của Trọng tài có thể bị kháng cáo kháng nghị. Cơ sở lý luận nào để giải thích về sự mâu thuẫn này giữa hai điều luật trên?
Xung quanh các quy định Tòa án hủy quyết định của trọng tài (điều 56 ) còn có một số điểm vướng mắc sau:
Trường quyết định trọng tài bị hủy theo khoản 3 và khỏa 5 điều 54 thì hệ quả tiếp theo là gì? Chúng ta có thể suy diễn là trong trường hợp đó Thòa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực và hoạt động giải quyết của trọng tài lại được tiến hành lại từ đầu ? Lúc này vần đề chi phí trọng tài sẽ giải quyết thế nào ? Thủ tục trọng tài lần thứ 2 này có gì khác biệt hay không ? thí dụ trọng tài viên đã ra quyết định trọng tài bị hủy bỏ có thể được chọn hay chỉ định lại để tham gia giải quyết tranh chấp hay không?
Khái niệm “quyết định của tòa án không hủy bỏ quyết định của Trọng tài “ ( khoản 2 điều 57 ) bao gồm các trường hợp nào? Đối với quyết định của Tòa án sơ thẩm thì câu trả lời có thể rõ ràng hơn vì gồm có các quyết định đình chỉ và quyết định không hủy quyết định trọng tài ( bác đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài ). Nhưng với quyết định của tòa án cấp phúc thẩm thì vấn đề trở nên phức tạp hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25/02/2003 về trọng tài thương mại.
Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại.
Nghị định số 25/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều PLTT .
Thống kê các vụ kiện của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam từ năm 1993 đén năm 2006.
webside của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng áp dụng pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trong những năm gần đây.doc