Trong quá trình quản lý nhà nước, sản phẩm của các cơ quan quản lý nhà nước là các quyết định quản lý, đó là các quyết định thành văn (văn bản hóa). Văn bản có một vai trò to lớn trong quá trình quản lý, vì văn bản đảm bảo thông tin cho hoạt động quản lý, truyền đạt các quyết định quản lý, kiểm tra theo dõi các hoạt động của bộ máy lãnh đạo, là công cụ để xây dựng hệ thống pháp luật.
Từ khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 ra đời, các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp ban hành đã có những thay đổi tích cực: chất lượng văn bản được nâng cao; bảo đảm tính khả thi; bảo đảm tính thống nhất với hệ thống văn bản pháp luật; giảm dần tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo; kỹ thuật xây dựng văn bản tương đối tốt
Tuy nhiên , trên thực tế hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở địa phương vần còn rất nhiều hạn chế. Những hạn chế đó đã đưa đến tình trạng ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận trong các tầng lớp nhân dân giảm sút, dẫn đến hiện tượng coi thường pháp luật, vi phạm pháp luật gia tăng.
Trong thời gian thực tập tại Sở tư pháp tỉnh Nghệ an, được tìm hiểu , học tập và làm việc tại phòng Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật em đã cố gắng tìm tòi, thu thập và nghiên cứu thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của uỷ ban nhân dân tỉnh nghệ an. Với mong muốn có một cách nhìn tổng quát về thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh, qua đó nêu nên một số phương hướng nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh Nghệ an, em chọn chuyên đề thực tập: “Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ an”. Với những kiến thức thực tế và nghiên cứu tài liệu nơi thực tập còn chưa đầy đủ cũng như khả năng nhận thức còn hạn chế nên chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
I - LỜI MỞ ĐẦU 2
II - QUÁ TRÌNH TÌM HIỂU THU THẬP THÔNG TIN 3
1. Thời gian và phương pháp thu thập thông tin: 3
2. Các thông tin thu thập được 4
III - KẾT QUẢ XỬ LÝ THÔNG TIN 6
1. Thực trạng ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an 6
1.1.Tình hình ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an trước khi có Luật ban hành VBQPPL của HĐND, UBND năm 2004. 6
IV. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ 10
1. Nhận xét thực trạng ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an 10
1.1 Những thành tựu trong hoạt động ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an 10
1.2 Những hạn chế trong hoạt động ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an 13
2. Những nguyên nhân của hạn chế 16
2.1. Nguyên nhân khách quan 16
2.2. Nguyên nhân chủ quan: 16
2. Kiến nghị đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an 17
2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục ban hành VBQPPL của UBND 17
2.2. Nâng cao chất lượng xây dựng VBQPPL của UBND 18
2.3. Đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của UBND 19
2.4.Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra và xử lí VBQPPL do UBND ban hành 20
2.5. Tạo ra nhận thức đúng đắn về vai trò của Chỉ thị 21
2.6. Tăng cường đầu tư ngân sách cho công tác ban hành VBQPPL của UBND các cấp 22
2.7. Tăng cường công tác rà soát, hệ thống hoá VBQPPL 23
KẾT LUẬN 24
25 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4815 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I - LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình quản lý nhà nước, sản phẩm của các cơ quan quản lý nhà nước là các quyết định quản lý, đó là các quyết định thành văn (văn bản hóa). Văn bản có một vai trò to lớn trong quá trình quản lý, vì văn bản đảm bảo thông tin cho hoạt động quản lý, truyền đạt các quyết định quản lý, kiểm tra theo dõi các hoạt động của bộ máy lãnh đạo, là công cụ để xây dựng hệ thống pháp luật.
Từ khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 ra đời, các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp ban hành đã có những thay đổi tích cực: chất lượng văn bản được nâng cao; bảo đảm tính khả thi; bảo đảm tính thống nhất với hệ thống văn bản pháp luật; giảm dần tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo; kỹ thuật xây dựng văn bản tương đối tốt…
Tuy nhiên , trên thực tế hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở địa phương vần còn rất nhiều hạn chế. Những hạn chế đó đã đưa đến tình trạng ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận trong các tầng lớp nhân dân giảm sút, dẫn đến hiện tượng coi thường pháp luật, vi phạm pháp luật gia tăng.
Trong thời gian thực tập tại Sở tư pháp tỉnh Nghệ an, được tìm hiểu , học tập và làm việc tại phòng Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật em đã cố gắng tìm tòi, thu thập và nghiên cứu thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của uỷ ban nhân dân tỉnh nghệ an. Với mong muốn có một cách nhìn tổng quát về thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh, qua đó nêu nên một số phương hướng nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh Nghệ an, em chọn chuyên đề thực tập: “Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ an”. Với những kiến thức thực tế và nghiên cứu tài liệu nơi thực tập còn chưa đầy đủ cũng như khả năng nhận thức còn hạn chế nên chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
II - QUÁ TRÌNH TÌM HIỂU THU THẬP THÔNG TIN
1. Thời gian và phương pháp thu thập thông tin:
Trong một thời gian ngắn, từ ngày 05/01/2011 đến ngày 22/04/2011, được thực tập tại phòng Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Sở tư pháp tỉnh Nghệ an, với lượng kiến thức còn hạn chế của mình để nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ an em đã gặp nhiều khó khăn. Được sự quan tâm, chỉ bảo và giúp đỡ tận tình của các cô chú trong STP Nghệ an cùng với sự cố gắng của bản thân, bằng các phương pháp thu thập thông tin biện chứng như: phương pháp tổng hợp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích… em đã từng bước tìm hiểu và thu được một số kết quả.
- Phương pháp tổng hợp thống kê: bằng phương pháp này em đã tổng hợp thống kê các số liệu liên quan đến hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh Nghệ an. Qua đó hiểu được một cách khái quát về hoạt động ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an.
- Phương pháp so sánh: sau khi đã tổng hợp thống kê được các số liệu về hoạt động ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an trong 4 năm gần nhất , thì sẽ đối chiếu so sánh số liệu để khái quát thực trạng của hoạt động ban hành VBQPPL và từ đó kịp thời đưa ra nhừng biện pháp kịp thời để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an.
- phương pháp phân tích: phương pháp này giúp ta phân tích tình hình hoạt động ban hành VBQPPL để thấy được những mặt kết quả đã đạt được, chưa đạt được, nguyên nhân nào làm ảnh hưởng đến họ để từ đó kịp thời đưa ra những biện pháp khắc phục và đề ra những biện pháp thực hiện khả thi với tình hình của địa phương mình.
Nguồn thu thập thông tin:
Được sự quan tâm, tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ của các anh chị trong phòng Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Sở tư pháp Nghệ an, em đã được tiếp xúc, tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an thông qua tìm hiểu và nghiên cứu các văn bản, tài liệu có liên quan đến chuyên đề như:
- Đề án nâng cao chất lượng , hiệu quả hoạt động xây dựng , ban hành VBQPPL trên địa bàn tỉnh
- Tài liệu tập huấn nghiệp vụ xây dựng , ban hành, tự kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá VBQPPL cấp xã
- Báo cáo công tác xây dựng VBQPPL năm 2007, 2008, 2009 và 2010.
- Danh mục VBQPPL đã ban hành năm 2007, 2008, 2009 và 2010.
- Danh mục VBQPPL chưa ban hành trong các năm 2007, 2008, 2009 và 2010.
- Sổ tay nghiệp vụ soạn thảo, ban hành VBQPPL của HĐND, UBND các cấp.
- Báo cáo tổng kết công tác xây dựng và ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an năm 2007, 2008, 2009 và 2010.
Trên đây là những nguồn cung cấp thông tin mà em sử dụng để hoàn thành chuyên đề thực tập Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ an
2. Các thông tin thu thập được
Trong thời gian thực tập tại phòng Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Sở tư pháp Nghệ an, được sự quan tâm, giúp đỡ, hướng dẫn của các cán bộ của Sở nói chung và các cán bộ của phòng chuyên môn nói riêng, qua việc nghiên cứu các tài liệu, báo cáo tổng kết hằng năm về tình hình ban hành VBQPPL của UBND tỉnh em đã thu được những bài học, những kiến thức thực tế về tình hình ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an như sau:
- Số lượng văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An ban hành qua các năm như sau:
Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Số VBQPPL 186 147 188 196 128 148 117
Quyết định 137 110 157 168 97 118 98
Chỉ thị 49 37 31 28 31 30 19
- Nguồn lực tài chính hỗ trợ cho việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Hàng năm, trên cơ sở chương trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Sở Tư pháp phối hợp với Sở Tài chính dự kiến số lượng văn bản, mức hỗ trợ cho từng văn bản (từ 3-5 triệu đồng/1 văn bản) tổng hợp chung để báo cáo ủy ban nhân dân tỉnh trình Hội đồng nhân dân thông qua dự toán ngân sách hàng năm.
Số kinh phí hỗ trợ hằng năm như sau:
Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Số kinh phí 100 135 200 400 600 700 900
- Theo bảng số liệu thống kê tại phòng Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phân tích được:
Năm 2007 2009 2010
Số VB đã ban hành 47(68%) 58(78,4%) 49(70%)
Số VB chưa ban hành 24(32%) 16(21,6%) 21(30%)
Số VB ban hành ngoài chương trình 125 90 79
III - KẾT QUẢ XỬ LÝ THÔNG TIN
1. Thực trạng ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an
1.1. Tình hình ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an trước khi có Luật ban hành VBQPPL của HĐND, UBND năm 2004.
Căn cứ vào Luật ban hành VBQPPL năm 1996, UBND tỉnh Nghệ An đã cụ thể hóa bằng các VBQPPL sau đây:
- Quyết định số 1588/QĐ- UB ngày 29/ 4/1997 của UBND tỉnh Nghệ An ban hành bản quy định về việc ban hành VBQPPL trên địa bàn tỉnh;
- Quyết định số 72/2003/ QĐ- UB ngày 08/8/2003 của UBND tỉnh Nghệ An, Ban hành quy định về việc ban hành và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Nghệ An, thay thế Quyết định số 1588/QĐ-UB.
Như vậy, về mặt thể chế, UBND tỉnh đã ban hành kịp thời các VBQPPL để quy định cụ thể về trình tự, thủ tục ban hành văn bản, bảo đảm để văn bản ban hành đúng quy trình, thẩm quyền, đúng pháp luật và có tính khả thi trong thực tế. Việc ban hành các văn bản trên đã góp phần đưa công tác xây dựng và ban hành VBQPPL đi vào nề nếp.
Trên cơ sở các quy định này, các VBQPPL do các cơ quan tham mưu soạn thảo trình UBND tỉnh ban hành đã được nâng cao về chất lượng, nội dung và hình thức, bảo đảm đúng thẩm quyền, ít có sai sót. Các VBQPPL do UBND tỉnh ban hành đã tạo ra các cơ chế, chính sách phù hợp, phát huy được tính chủ động, sáng tạo, nội lực của địa phương, có hiệu quả trong thực tiễn.
Các văn bản ban hành trong giai đoạn này (từ 1996 đến 2003) đã chú trọng đến việc lấy ý kiến của các ngành, các cấp, chú trọng đến việc thẩm định của Sở Tư pháp trước khi ban hành.
Số lượng VBQPPL do UBND cấp tỉnh ban hành hằng năm từ khoảng 100 đến 120 văn bản (trong đó quyết định khoảng 80 văn bản; Chỉ thị 30-40 văn bản).
Đánh giá chung: Do nhận thức đúng đắn về vai trò của VBQPPL trong quản lý kinh tế- xã hội nên việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Nghệ An đã được coi trọng, tạo tiền đề và cơ sở pháp lý cho việc ban hành VBQPPL đáp ứng với yêu cầu.
Tuy nhiên, việc ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ An giai đoạn này vẫn còn nhiều bất cập, chưa theo quy trình nhất quán, thể hiện ở một số điểm như: Vai trò của cơ quan chủ trì, cơ quan tham gia chưa được xác định rõ, thủ tục hồ sơ trình chưa xác định thời hạn. Việc tổ chức lấy ý kiến sơ sài, chiếu lệ hoặc cơ quan được lấy ý kiến cũng không góp ý. Vai trò thẩm định của cơ quan Tư pháp chưa cao, chưa đúng với yêu cầu. Quy trình thảo luận và thông qua văn bản quy phạm pháp luật chưa thực hiện đầy đủ theo quy định.
1.2. Tình hình ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an từ sau khi có Luật ban hành VBQPPL của HĐND, UBND năm 2004
-Về thể chế: Căn cứ vào Quyết định số 86/2005/QĐ- UBND, việc ban hành VBQPPL của UBND các cấp đã đi vào nề nếp, theo đúng trình tự, thủ tục, chất lượng văn bản ban hành ngày càng cao.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Quyết định số 86/2005/QĐ-UBND vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, mới chỉ quy định ban hành VBQPPL của phạm vi UBND, chưa đề cập đến VBQPPL của Hội đồng nhân dân, việc phân công trách nhiệm chưa rõ ràng, cụ thể, chưa phân định rõ giữa văn bản quy phạm pháp luật và văn bản có chứa quy phạm pháp luật (như các chương trình, kế hoạch, đề án, quy chế,…) dẫn đến sự lẫn lộn và tùy tiện trong ban hành văn bản, lấy số ký hiệu năm ban hành không đúng quy định hoặc còn lẫn lộn.
Như vậy, về mặt thể chế xây dựng và ban hành VBQPPL, UBND tỉnh Nghệ An đã ban hành kịp thời, cụ thể hóa các quy định của Luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên cho phù hợp với thực tiễn của địa phương.
- Quy trình ban hành văn bản: Hàng năm, trên cơ sở chủ trương của Ban thường vụ Tỉnh ủy; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh; Chương trình công tác hàng năm của ủy ban nhân dân tỉnh, trên cơ sở đề xuất của các Sở, ngành cấp tỉnh, Văn phòng ủy ban nhân dân tỉnh phối hợp với Sở Tư pháp trình ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật: Quyết định, chỉ thị từng năm, tạo tính chủ động, kế hoạch và thống nhất trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn toàn tỉnh.
- Về chất lượng VBQPPL: Hầu hết các văn bản được ban hành có tính khả thi trong thực tế, tác động tích cực, tạo sự chuyển biến trong phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Qua kết quả tự kiểm tra, rà soát hệ thống hóa hằng năm, văn bản ban hành của UBND tỉnh Nghệ An từ năm 2005 trở lại nay không có văn bản trái pháp luật. Đoàn kiểm tra Liên ngành của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính năm 2006 đã kết luận VBQPPL của HĐND, UBND tỉnh Nghệ An ban hành trong các năm 2005, 2006 không có văn bản nào trái pháp luật. Điều này có thể khẳng định chất lượng ban hành VBQPPL ngày càng được nâng cao cả về nội dung và hình thức.
- Về kết quả ban hành văn bản: Qua thống kê hàng năm, số lượng VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ An ban hành tương đối nhiều, chủ yếu tập trung ở cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã ban hành không nhiều. Các VBQPPL của UBND tỉnh ban hành trên các lĩnh vực: quản lý hành chính nhà nước, lĩnh vực kinh tế tổng hợp, đất đai- môi trường; lĩnh vực văn hóa-xã hội; lĩnh vực an ninh, quốc phòng.
Số lượng văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An ban hành qua các năm như sau:
+ Năm 2004: 186 văn bản (trong đó: quyết định: 137, chỉ thị: 49 )
+ Năm 2005: 147 văn bản (trong đó: quyết định: 110, chỉ thị: 37 )
+ Năm 2006: 188 văn bản (trong đó: quyết định: 157, chỉ thị: 31 )
+ Năm 2007: 196 văn bản (trong đó: quyết định: 168, chỉ thị: 28 )
+ Năm 2008: 128 văn bản (trong đó: quyết định: 97, chỉ thị: 31 )
+ Năm 2009: 148 văn bản (trong đó: quyết định: 118, chỉ thị: 30 )
+ Năm 2010: 174 văn bản (trong đó: quyết định: 115, chỉ thị: 59 )
-Nguồn lực tài chính hỗ trợ cho việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Hàng năm, trên cơ sở chương trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Sở Tư pháp phối hợp với Sở Tài chính dự kiến số lượng văn bản, mức hỗ trợ cho từng văn bản (từ 3-5 triệu đồng/1 văn bản) tổng hợp chung để báo cáo ủy ban nhân dân tỉnh trình Hội đồng nhân dân thông qua dự toán ngân sách hàng năm.
Số kinh phí hỗ trợ hàng năm như sau:
+ Năm 2004: 100 triệu đồng
+ Năm 2005: 135 triệu đồng
+ Năm 2006: 200 triệu đồng
+ Năm 2007: 400 triệu đồng
+ Năm 2008: 600 triệu đồng
+ Năm 2009: 700 triệu đồng
+ Năm 2010: 848 triệu đồng
IV. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
1. Nhận xét thực trạng ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an
1.1 Những thành tựu trong hoạt động ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an
Thời gian qua, với sự cố gắng và nỗ lực không ngừng trong hoạt động ban hành VBQPPL, UBND tỉnh đã đạt được một số thành tựu sau:
- Nhìn chung, VBQPPL đã được kịp thời ban hành để thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của cấp uỷ trong việc hướng dẫn áp dụng các Luật, Pháp lệnh và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của UBND phù hợp với tình hình, đặc điểm và yêu cầu chính trị của địa phương, quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình trong lĩnh vực chưa được văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên quy định hoặc quy định chưa cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu quản lí Nhà nước ở địa phương. Qua đó, hỗ trợ cho việc triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chất lượng VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an ngày càng được nâng cao. Tình trạng văn bản ban hành không đúng thẩm quyền, có nội dung trái với văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, chồng chéo hoặc mâu thuẫn với VBQPPL khác do các chủ thể cùng cấp ban hành hoặc có nội dung không phù hợp với thực tế địa phương ngày càng giảm bớt và được chý ý khắc phục. Các văn bản đã ban hành về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu về hình thức. Tình trạng VBQPPL ban hành bằng hình thức không do luật định, trái thẩm quyền, không có chữ kí của người có thẩm quyền, không có dấu, không vào sổ, không đánh số, không đề ngày, tháng, năm ban hành đã được khắc phục một cách rõ rệt.
- UBND tỉnh Nghệ an đã dần khẳng định được vai trò và vị trí của cơ quan Tư Pháp trong quá trình soạn thảo, tham gia soạn thảo và đặc biệt là trong việc thẩm định văn bản nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo VBQPPL trong hệ thống pháp luật. Về kĩ thuật soạn thảo văn bản, Sở tư pháp tỉnh Nghệ an đã có ý kiến cả về mặt hợp lí của văn bản mới khi trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, thông qua. Sở tư pháp tỉnh Nghệ an đã xem xét và có ý kiến thẩm định là trình tự bắt buộc trong quy trình soạn thảo văn bản. Theo Báo cáo tổng kết công tác tư pháp năm 2009 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2010 của Bộ Tư pháp, tính đến 30/9/2009, Sở tư pháp tỉnh Nghệ an đã đã chủ trì soạn thảo, tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền ban hành khoảng 7.461 VBQPPL; phối hợp với các cơ quan liên quan soạn thảo, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành khoảng 15.650 VBQPPL. Trong năm 2010 chủ trì soạn thảo, tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền ban hành 9.973 VBQPPL; phối hợp soạn thảo 14.908 VBQPPL. Trên thực tế, Sở tư pháp tỉnh Nghệ an đã làm rất tốt công tác này. Hằng năm, Sở tư pháp Nghệ an đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Chương trình xây dựng VBQPPL của năm, Kế hoạch công tác kiểm tra và xử lí VBQPPL năm, Chỉ thị về việc tăng cường và nâng cao công tác trợ giúp pháp lí trên địa bàn tỉnh Nghệ an.
- Ở Nghệ an đã thành lập trung tâm công báo để thực hiện chức năng công báo các VBQPPL do địa phương mình ban hành. Công báo điện tử cũng đang từng bước được nghiên cứu, triển khai và xây dựng cơ sở hạ tầng để sớm đưa vào khai thác, sử dụng. Ở Nghệ an năm 2009 đã xuất bản 54 số, năm 2010 là 57 số Công báo của UBND tỉnh.
- Nghệ an đã rất coi trọng công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá VBQPPL. Qua thực hiện công tác này ở Nghệ an đã phát hiện kịp thời những văn bản mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực để trình cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ.
Ví dụ: Trong năm 2010 công tác kiểm tra, xử lí, rà soát, hệ thống hoá VBQPPL ở Nghệ an đã đạt được kết quả sau:
- Về công tác tự kiểm tra văn bản: tự kiểm tra 34 văn bản ban hành trong năm 2010 gồm 23 văn bản của UBND tỉnh (22 Quyết định, 1 Chỉ thị). Các văn bản do UBND tỉnh ban hành đều tuân thủ pháp luật, phù hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Về công tác kiểm tra theo thẩm quyền: Kiểm tra 135 VBQPPL của HĐND và UBND cấp huyện (trong đó kiểm tra 111 văn bản do cơ quan, người có thẩm quyền gửi đến; Kiểm tra văn bản theo địa bàn (tại huyện Tân Lạc và Kỳ Sơn) 24 văn bản.
Qua công tác kiểm tra văn bản theo thẩm quyền, không có văn bản nào vi phạm các quy định tại Khoản 1, 2, 3 Điều 3 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP. Các văn bản có thiếu sót về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản, đã được Sở Tư pháp thông báo đến cơ quan ban hành để rút kinh nghiệm.
- Về công tác rà soát văn bản:
Rà soát theo ngành, lĩnh vực: đã thực hiện 8 đợt rà soát văn bản thuộc 8 ngành, lĩnh vực: Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Tài nguyên và Môi trường; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Công an tỉnh với tổng số 12 văn bản (đều còn hiệu lực).
Rà soát theo định kỳ: Rà soát 59 VBQPPL do HĐND, UBND tỉnh ban hành năm 2008.
Rà soát định kỳ để xác định hiệu lực thi hành VBQPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh ban hành từ năm 2005 đến hết tháng 1/2010, Chủ tịch UBND tỉnh đã ra Quyết định công bố 30 văn bản hết hiệu lực pháp luật; kiến nghị HĐND tỉnh ban hành thay thế 02 Nghị quyết; UBND tỉnh chuẩn bị sửa đổi 01 Quyết định.
- Công tác hệ thống hóa văn bản
Trên cơ sở kết quả rà soát, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tư pháp in ấn 450 cuốn “Hệ thống hoá VBQPPL của HĐND, UBND tỉnh ban hành năm 2008”, cấp phát cho các cơ quan, tổ chức trên phạm vi toàn tỉnh để thuận tiện cho việc tra cứu VBQPPL của địa phương.
Qua trên ta có thể thấy, trong những năm qua, UBND tỉnh Nghệ an đã có những cố gắng to lớn, khắc phục những khó khăn, thiếu thốn để tạo ra những thành tựu không nhỏ trong hoạt động xây dựng văn bản pháp luật, đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh các mối quan hệ xã hội bằng pháp luật tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
1.2 Những hạn chế trong hoạt động ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an
- Hạn chế trong xây dựng và triển khai thực hiện chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật: quyết định, chỉ thị của ủy ban nhân dân tỉnh hàng năm.
Việc lập chương trình xây dựng văn bản hàng năm vẫn còn nhiều bất cập, chưa dự báo hết tình hình, thiếu tính chủ động, kế hoạch nên đã ra chương trình chưa sát với yêu cầu và thực tiễn. Do vậy, hàng năm các cơ quan chủ trì soạn thảo dự kiến số lượng văn bản cần ban hành để trình ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt trong khỏang từ 50-70 văn bản trong chương trình.
Sau khi chương trình được ban hành, việc triển khai thực hiện và tổ chức soạn thảo văn bản còn chậm so với tiến độ và thời gian đăng ký, có nhiều văn bản chỉnh lý nhiều lần nhưng vẫn không được ban hành. Thông thường việc thực hiện chương trình ban hành văn bản trong từng năm chỉ đạt từ 50-60% kết quả văn bản được ban hành.
Văn bản quy phạm pháp luật ban hành ngòai chương trình vẫn còn nhiều dẫn đến việc quản lý, kiểm soát văn bản ban hành chưa chặt chẽ, thiếu minh bạch, chất lượng văn bản không đáp ứng với yêu cầu. (Ví dụ: Năm 2005 dự kiến chương trình là 77 văn bản, ban hành 31 văn bản; trong khi đó văn bản ban hành ngoài chương trình là: 116 văn bản; Năm 2009 dự kiến chương trình là 74 văn bản, ban hành 57 văn bản; trong khi đó văn bản ban hành ngoài chương trình là: 94 văn bản).
- Việc phân định rõ giữa văn bản quy phạm pháp luật và văn bản cá biệt, văn bản có chứa quy phạm pháp luật vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau, chưa thống nhất cả về lý luận và thực tiễn nên việc áp dụng còn nhiều lúng túng (như lấy số ký hiệu năm ban hành, các đề án, chương trình, kế hoạch, quy chế,…). Do vậy, khi văn bản ban hành tính quy phạm không cao, hiệu lực, hiệu quả trung thực tiễn chưa đáp ứng với yêu cầu.
- Trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc xây dựng và ban hành VBQPPL chưa cao, chưa phân định cụ thể. Sự phối hợp giữa các sở, ngành có liên quan trong việc xây dựng và ban hành văn bản còn chưa chặt chẽ, thiếu kịp thời, thiếu đồng bộ.
Việc phân công cho người trực tiếp nghiên cứu, soạn thảo văn bản còn giao thẳng, thiếu sự kiểm tra, chỉ đạo nên có những dự thảo văn bản quá sơ sài, nội dung sao chép lạivăb bản cấp trên, hình thức văn bản không đảm bảo. Hạn chế này xuất phát từ việc các tổ chức pháp chế ngành chậm được kiện toàn, các sở, ngành chưa bố trí hoặc phân công cán bộ chuyên trách pháp chế để đảm nhận công tác xây dựng, soạn thảo văn bản ở các lĩnh vực này.
Cơ quan chủ trì soạn thảo chưa tổ chức khảo sát, đánh giá, tổng kết thực tiễn về lĩnh vực văn bản cần ban hành, do vậy khi xây dựng và ban hành văn bản quy phạm còn thiếu thực tế, nặng về lý luận, tạo kẽ hở trong áp dụng văn bản quy phạm pháp luật.
Việc tổ chức lấy ý kiến của các ngành, các tổ chức và cá nhân có liên quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản có lúc, có nơi còn sơ sài, chiếu lệ, chậm tiếp thu ý kiến đóng góp của người tham gia. Đối tượng được lấy ý kiến cũng chưa quan tâm, nghiên cứu, thảo luận để có nhiều ý kiến xác đáng tham gia vào dự thảo văn bản.
- Vai trò thẩm định của sở tư pháp chưa được quy định cụ thể trong pháp luật.
Trong thực tế một số cơ quan chủ trì, soạn thảo còn nhận thức chưa đầy đủ nên có tâm lý cho rằng: Việc thẩm định văn bản là "rào chắn" trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cũng có lúc cho việc "góp ý" và "thẩm định" là một quy trình hoặc cho rằng: Thẩm định chủ yếu là xem xét về hình thức văn bản, câu chữ pháp lý mà thôi. Đây là một hạn chế rất lớn về mặt nhận thức.
Cơ quan chủ trì soạn thảo khi gửi hồ sơ thẩm định cho Sở tư pháp còn chưa đầy đủ theo yêu cầu, thời gian để thẩm định quá ngắn, không tuân thủ quy trình. Khi có kết quả thẩm định của Sở tư pháp về tính không hợp pháp, không khả thi của văn bản, có lúc, có đơn vị không chịu tiếp thu, chỉnh sửa, nhưng không có văn bản giải trình, do vậy chất lượng văn bản khi được ban hành không cao.
Về phía Sở tư pháp, một số lĩnh vực chuyên ngành khi thẩm định văn bản chưa nắm chắc nên chất lượng, nội dung thẩm định chưa cao, chưa sâu sắc, có trường hợp thời gian thẩm định văn bản quá dài ảnh hưởng đến tiến độ soạn thảo văn bản và yêu cầu của cơ quan chủ trì soạn thảo.
- Thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản chưa thống nhất nên làm mất tính nghiêm minh của văn bản quy phạm pháp luật, mặc dù đã có Thông tư số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 6/5/2005 của Liên bộ: Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản, nhưng việc vận dụng và áp dụng chưa thống nhất, còn tùy tiện trong sử dụng mẫu văn bản (ví dụ: Tờ trình nên hay không nên có "Kính gửi", hoặc "TM ủy ban nhân dân" tỉnh, huyện, xã, cả ba cấp có thứ bậc và thẩm quyền khác nhau nhưng đều gọi chung là "TM ủy ban nhân dân".
Một vấn đề cũng còn chồng chéo là việc hướng dẫn mẫu và thể thức văn bản không thống nhất giữa các cơ quan Trung ương như: Thông tư 55/2005/TTLT-BNV-VPCP; mẫu của Văn phòng Chính phủ, mẫu văn bản của Bộ Tư pháp. Ngoài ra, không nên để thẩm quyền cấp dưới hướng dẫn mẫu văn bản cấp trên như trường hợp Thông tư 55/2005/TTLT-BNV-VPCP hướng dẫn mẫu văn bản cho Chính phủ.
- Trình tự xem xét, thảo luận, thông qua quyết định, chỉ thị quy phạm pháp luật chưa thực hiện theo đúng luật định, chưa biểu quyết thông qua theo đa số. Thực tế hiện nay, chủ yếu đưa ra bàn bạc, thảo luận tại phiên họp thường kỳ của ủy ban nhân dân tỉnh, sau đó Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh kết luận việc ban hành hay không ban hành văn bản.
- Một tồn tại cơ bản là sau khi văn bản được ban hành, việc tổ chức thực hiện và đưa VBQPPL vào cuộc sống còn chậm, thiếu sự đôn đốc, kiểm tra việc thi hành pháp luật. Việc tổng kết, đánh giá hiệu quả, tác đụng của văn bản quy phạm pháp luật khi được ban hành, phạm vi tác động như thế nào ít được quan tâm. Việc phổ biến, thông tin, đăng báo, phát trên các phương tiện thông tin đại chúng chưa thường xuyên, không đầy đủ nên khi văn bản có hiệu lực thi hành, người dân không được tiếp cận, không nắm được nội dung, dẫn đến việc chấp hành pháp luật không nghiêm, pháp chế xã hội chủ nghĩa không được tuân thủ.
2. Những nguyên nhân của hạn chế
2.1 Nguyên nhân khách quan
- Các cơ chế chính sách ở Trung ương chưa đồng bộ, thiếu ổn định, đang trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên các quan hệ cúng phải biến đổi cho phù hợp. Do vậy, các văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương cũng bị tác động và tuân thủ các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên. Bên cạnh đó, yêu cầu thực tiễn quản lý ở địa phương cũng đặt ra nhiều vấn đề phát sinh mới dẫn đến tình trạng văn bản vừa ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế cho phù hợp với yêu cầu.
- Văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương có nhiều quy định mang tính định khung, bao quát, nếu muốn triển khai thực hiện phải được chi tiết, cụ thể hóa cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng địa phương, vùng miền dẫn đến tình trạng một số văn bản mang tính cục bộ, bản vị địa phương, được coi là hợp lý nhưng chưa hợp pháp, có thể sai thời gian này nhưng thời gian sau lại là sự đúng đắn (như trường hợp bắt buộc dội mũ bảo hiểm đã nêu ở phần đầu).
2.2 Nguyên nhân chủ quan:
- Nhận thưc về tầm quan trọng của công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan, đội ngũ cán bộ, công chức chưa cao; chưa thấy được vị trí, vai trò của văn bản quy phạm trong uqản lý kinh té, quản lý xã hội.
- Việc phân công, phân cấp về thẩm quyền, nhiệm vụ và quyền hạn giữa Trung ương và địa phương trong nhiều lĩnh vực hành chính nhà nướcưa rõ ràng, cụ thể, thiếu đồng bộ, do vậy khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương dễ xảy ra tình trạng cục bộ, vượt thẩm quyền, tác động đến môi trường xã hội, ảnh hưởng đến đời sống người dân (như đặt ra các khỏan đóng góp, phí về lệ phí, mức xử phạt,…).
- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân tỉnh chưa tòan diện và sâu sắc, chưa nâng cao được ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, do vậy văn bản chậm được phổ biến cho người dân, không có điều kiện để tiếp cận nên tính tuân thủ pháp luật ở một số bộ phận người dân chưa cao.
- Việc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho cán bộ trực tiếp soạn thảo, pháp chế ngành chưa sâu sắc và toàn diện nên chất lượng ban hành vẫn còn nhiều hạn chế.
- Việc kiểm tra, giám sát hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân tỉnh chưa được thường xuyên, đồng bộ, mang tính hình thức mà chưa đi sâu vào nội dung để đối chiếu, đánh giá thực chất hiệu quả của văn bản trong thực tiễn.
- Các điều kiện, trang thiết bị, tài liệu văn bản, cơ sở dữ liệu hệ thống pháp luật, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cập nhật còn chậm và chưa đầy đủ nên việc tra cứu, tìm hiểu còn gặp nhiều khó khăn. Việc hỗ trợ kinh phí cho công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ mới ở cấp tỉnh, nhưng chưa tương xứng với "hàm lượng chất xám" bỏ ra từ khi xây dựng cho đến khi ban hành văn bản và đưa vào áp dụng trong thực tế.
2. Kiến nghị đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an
2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục ban hành VBQPPL của UBND
Trước hết, luật cần quy định UBND chỉ tập trung ban hành VBQPPL để giải quyết những vấn đề bức xúc nhất của địa phương và những vấn đề mà văn bản luật giao địa phương quy định chi tiết, tránh trường hợp VBQPPL của địa phương ban hành nhắc lại những quy định của trung ương.
Thêm đó, luật cần thay đổi quy định về thời gian thẩm định VBQPPL cho phù hợp. Chúng ta nên có sự phân loại đối với các VBQPPL về thời gian thẩm định. Mức quy định thời gian thẩm định như hiện nay chỉ có thể áp dụng với những VBQPPL không phức tạp. Còn đối với những VBQPPL phức tạp, cần thành lập Hội đồng thẩm định, thì nên tăng thời gian thẩm định lên. Bên cạnh đó, cần quy định mức thời gian tối thiểu cho hoạt động thẩm định trong trường hợp VBQPPL được ban hành đột xuất ngoài chương trình, kế hoạch. Luật phải quy định rõ thời gian thẩm định được tính từ ngày cơ quan Tư pháp nhận đủ hồ sơ gửi thẩm định hợp lệ theo quy định.
Cần sửa đổi quy định về cơ quan chủ trì xây dựng chương trình ban hành VBQPPL ở địa phương theo hướng tăng cường vai trò của cơ quan tư pháp trong việc dự kiến chương trình xây dựng VBQPPL của các ngành trước khi gửi dự kiến đến Văn phòng HĐND và UBND (hiện nay, theo quy định, cơ quan tư pháp có vai trò phối hợp cùng Văn phòng HĐND và UBND trong việc dự kiến chương trình xây dựng VBQPPL, nhưng ở giai đoạn sau khi các ngành đã gửi dự kiến ban hành văn bản của ngành mình).
Thủ tục thông qua VBQPPL của UBND cần được quy định linh hoạt hơn, phù hợp với điều kiện thực tế của các địa phương. Theo quy định, UBND phải tổ chức phiên họp để thông qua VBQPPL. Tuy nhiên, trên thực tế, do những lý do khác nhau, các UBND tổ chức thông qua VBQPPL bằng các hình thức khác nhau, như: tổ chức phiên họp; gửi phiếu lấy ý kiến; lãnh đạo UBND ký trực tiếp. Vì vậy, đề nghị bổ sung quy định về hình thức thông qua theo hướng các VBQPPL có thể được thông qua theo hai hình thức: tổ chức phiên họp (đối với các VBQPPL phức tạp, có phạm vi tác động rộng) và gửi phiếu lấy ý kiến thành viên UBND (đối với các VBQPPL còn lại).
2.2. Nâng cao chất lượng xây dựng VBQPPL của UBND
Cần nâng cao chất lượng xây dựng VBQPPL của UBND theo hướng UBND ở các cấp cần ban hành VBQPPL đúng hình thức theo quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND; phù hợp với nội dung, mục đích, đối tượng của văn bản. Không sử dụng hình thức văn bản hành chính thông dụng để đặt ra các quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quyền, nghĩa vụ của tổ chức và công dân ở địa phương.
Hoạt động ban hành VBQPPL của UBND cần tuân theo trình tự, thủ tục khoa học và hợp lí. Từ việc chuẩn bị dự thảo, lấy ý kiến của các cơ quan hữu quan đến thẩm tra nội dung, hình thức, văn phong pháp lí của văn bản, cũng như thủ tục thông qua, ký ban hành văn bản. Đối với VBQPPL quan trọng có liên quan đến quyền, lợi ích và nghĩa vụ của đông đảo quần chúng nhân dân ở địa phương, dự thảo văn bản phải được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương. Ngoài ra, cần xác định việc lấy ý kiến nhân dân góp ý cho các dự thảo văn bản của UBND là hoạt động cần thiết. Bởi vì việc nhân dân tham gia góp ý xây dựng VBQPPL chính là bảo đảm cho nhân dân thực sự phát huy quyền làm chủ của mình. Việc tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, đặc biệt là đối tượng trực tiếp chịu sự tác động của văn bản sẽ có tác dụng rất lớn, vì thông qua đó, người hoạch định chính sách hiểu sát thực tế để đưa ra những quy định phù hợp, làm cho đối tượng tác động của văn bản có cơ hội phản ánh ý kiến, nắm bắt nội dung quy định và từ sự hiểu biết đó dẫn đến việc thực hiện đúng văn bản.
2.3. Đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của UBND
Để góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện đội ngũ cán bộ có phẩm chất tốt, có năng lực với trình độ chuyên môn cao nhằm đưa hoạt động ban hành VBQPPL của các cơ quan Nhà nước ở địa phương thông suốt, hiệu quả cần chú trọng một số vấn đề sau:
- Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là kiến thức về pháp luật, về quản lí Nhà nước một cách cơ bản, có hệ thống cho đội ngũ cán bộ công chức của chính quyền địa phương theo các chức danh tương ứng phù hợp với nội dung, yêu cầu công việc được đảm nhiệm.
- Thực hiện tốt chế độ bầu, tuyển chọn, bổ nhiệm, bãi nhiệm đối với cán bộ, công chức của các cơ quan chính quyền địa phương một cách dân chủ, công bằng, đúng pháp luật để kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị vững vàng, trong sạch, tận tuỵ với công việc, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
- Cần có kế hoạch xây dựng hệ thống tiêu chuẩn cán bộ chính quyền địa phương về độ tuổi, trình độ văn hoá, trình độ chính trị, quản lí Nhà nước, năng lực chuyên môn, đạo đức, uy tín... Trên cơ sở đó lựa chọn đội ngũ cán bộ có đủ năng lực đảm đương chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Cần xây dựng chiến lược đào tạo cán bộ chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, từng địa phương. Đặc biệt, cần quan tâm tới việc tạo nguồn cán bộ tại chỗ, nhất là các vùng miền núi, vùng đồng bảo dân tộc thiểu số, cán bộ là người thuộc các tôn giáo. Trước mắt để giải quyết những bất cập do thiếu cán bộ, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, thu hút cán bộ đến những nơi khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục trẻ hóa và đẩy mạnh tiêu chuẩn hoá cán bộ pháp lí, hạn chế tối đa việc sử dụng cán bộ hưu trí, mất sức tham gia các vị trí lãnh đạo chủ chốt ở chính quyền địa phương.
2.4. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra và xử lí VBQPPL do UBND ban hành
Công tác kiểm tra, xử lí VBQPPL là một trong những hoạt động của quản lí Nhà nước, tạo thành một mắt xích trong hoạt động xây dựng, ban hành, thực thi pháp luật. Để nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian tới cần chú trọng các vấn đề sau:
Thứ nhất, các cơ quan chức năng cần sớm hoàn thiện khung pháp lí cho công tác kiểm tra văn bản, có các quy định cụ thể về quy trình kiểm tra và xử lí văn bản.
Thứ hai, phải coi công tác kiểm tra văn bản là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục chứ không phải thực hiện theo định kì như hiện nay; quan tâm, chú trọng công tác tự kiểm tra văn bản tại chính các cơ quan ban hành; đồng thời tăng cường sự phối hợp giữa UBND và các cơ quan tư pháp trong việc kiểm tra văn bản, thực hiện đúng việc gửi VBQPPL đã ban hành đến cơ quan tư pháp để tiến hành kiểm tra theo quy định.
Thứ ba, xử lí kịp thời, nghiêm minh những VBQPPL đã được kiểm tra, phát hiện sai trái, tránh để các văn bản này vẫn tồn tại và phát huy hiệu lực trên thực tiễn, gây tác động tiêu cực đến hoạt động quản lí Nhà nước và quyền, lợi ích hợp pháp của các đối tượng liên quan.
Thứ tư, tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng về nghiệp vụ, chuyên môn nhất là nghiệp vụ chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ, công chức chuyên trách, xây dựng cơ sở hệ thống dữ liệu cho công tác kiểm tra.
Thứ năm, quan tâm đúng mức đến các yếu tố bảo đảm cho hoạt động kiểm tra, xử lí VBQPPL như: tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị và hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác kiểm tra, xử lí VBQPPL.
Thứ sáu, cần có quy định cụ thể về việc xử lí kỉ luật đối với cán bộ, công chức kiểm tra, xử lí VBQPPL thiếu trách nhiệm, gây hậu quả nghiêm trọng, lạm quyền... nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của các chủ thể này.
2.5. Tạo ra nhận thức đúng đắn về vai trò của Chỉ thị
Mặc dù cùng là văn bản mang tính quyền lực Nhà nước, nhưng giữa Quyết định và Chỉ thị của UBND có sự khác biệt cơ bản về vai trò trong quản lí hành chính Nhà nước và được ban hành để giải quyết các công việc khác nhau. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì UBND có thẩm quyền ban hành Quyết định để đặt ra các QPPL hoặc trực tiếp áp dụng pháp luật; hoặc ban hành Chỉ thị để tổ chức việc điều hành thực hiện pháp luật bằng cách truyền đạt chủ trương, chính sách hay nhiệm vụ cho cấp dưới. Theo đó, nếu là VBQPPL thì Quyết định của UBND được ban hành để đặt ra các QPPL, còn Chỉ thị được ban hành để truyền đạt, phổ biến, giải thích, hướng dẫn về nội dung một văn bản hoặc một chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Như vậy, bản thân công việc cụ thể của UBND các cấp sẽ là căn cứ để xác định hình thức văn bản cần ban hành, nên có những việc chỉ có thể dùng Quyết định mà không thể sử dụng Chỉ thị và ngược lại có những việc chỉ có thể dùng Chỉ thị mà không thể sử dụng Quyết định. Chúng được ban hànhtrong những trường hợp khác nhau, để giải quyết những công việc không giống nhau; có hiệu lực pháp lí như nhau, nếu được sử dụng với cùng một tư cách và được ban hành bởi cùng một chủ thể. Người soạn thảo cần nhận thức đúng về vai trò của chúng để không có quan niệm cho rằng Chỉ thị có hiệu lực pháp lí thấp hơn Quyết định và từ đó lựa chọn hình thức văn bản phù hợp trong từng hoàn cảnh để giải quyết công việc được tốt, đạt hiệu quả cao.
2.6. Tăng cường đầu tư ngân sách cho công tác ban hành VBQPPL của UBND các cấp
Về kinh phí cho công tác thẩm định: Thông tư liên tịch số 09/2007/TTLT-BTP-BTC quy định mức chi kinh phí cho công tác xây dựng VBQPPL như sau: đối với Dự thảo nghị quyết, quyết định của HĐND, UBND: tối đa không quá 5.000.000 đồng /văn bản; đối với Dự thảo chỉ thị của UBND: tối đa không quá 2.000.000 đồng /văn bản; đối với các VBQPPL trong một số lĩnh vực có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, căn cứ vào khả năng ngân sách địa phương, UBND cấp tỉnh trình HĐND cấp tỉnh quy định mức phân bổ kinh phí cho công tác xây dựng VBQPPL của HĐND, UBND các cấp cao hơn mức quy định tại điểm h khoản này, nhưng tối đa không quá 7.000.000 đồng /văn bản. Trong đó, khâu thẩm định của cơ quan tư pháp là 200.000đ/văn bản. Với khoản kinh phí này, cơ quan tư pháp không thể tổ chức hội đồng hay mời các chuyên gia, luật gia tham gia ý kiến cho hoạt động thẩm định.
Không thể phủ nhận một điều, kinh phí là một nguồn lực quan trọng đối với việc thực hiện bất kì hoạt động nào, nó có tác động nhất định đến hiệu quả cũng như kết quả công việc. Song với quy định phân bổ nguồn kinh phí cho việc thực hiện công tác này còn hạn chế như hiện nay thì sẽ không đáp ứng được một cách đầy đủ cho các nội dung chi cần thiết trong quá trình triển khai thực hiện. Đồng thời cũng không phát huy được tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt tình của các chủ thể đối với công việc được giao. Vì vậy, thiết nghĩ trong thời gian tới, các cơ quan chức năng của Nhà nước cần phối hợp nghiên cứu, đánh giá về nhu cầu thu chi, mức thu chi sao cho sát với thực tế tiến hành công tác xây dựng và ban hành VBQPPL của HĐND và UBND các cấp nhằm đưa ra các quy định hợp lí theo hướng nâng cao kinh phí hỗ trợ cho công tác này, đảm bảo cho mọi công việc được tiến hành nhanh chóng, kịp thời và đạt hiệu quả cao.
2.7. Tăng cường công tác rà soát, hệ thống hoá VBQPPL
Ý nghĩa quan trọng của hoạt động rà soát, hệ thống hoá pháp luật là ở chỗ nó phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Thật vậy, rà soát, hệ thống hoá là xem xét, đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền ban hành nhằm phát hiện những văn bản, quy phạm trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, hoặc không còn phù hợp với thực tiễn; kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, huỷ bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành. Vì vậy, rà soát, hệ thống hoá có tác dụng tạo cơ sở cho sự đổi mới về chất một số văn bản pháp luật, làm cho các văn bản đó được cải tiến so với các quy định trước đó, đồng thời tạo ra sự thống nhất, hài hoà giữa các văn bản sẽ được ban hành với hệ thống pháp luật hiện hành.
Do vậy, công tác rà soát, hệ thống hoá VBQPPL phải được tiến hành thường xuyên nhằm tập hợp, hệ thống hoá các quy định của pháp luật đảm bảo chính xác, đầy đủ, thống nhất thuận lợi cho việc tra cứu, áp dụng các quy định của pháp luật. Việc rà soát, hệ thống hoá VBQPPL có thể được tiến hành theo thời gian, theo từng chuyên đề phù hợp với từng đối tượng quản lý.
Như vậy, để các VBQPPL do HĐND, UBND ban hành bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp, tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống VBQPPL, đồng thời phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của từng địa phương nói riêng, đòi hỏi HĐND, UBND các cấp không nhữg phải tiến hành đồng bộ các giải pháp nêu trên mà còn phải thực sự quan tâm và nhận thức rõ vai trò quan trọng của công tác soạn thảo, ban hành VBQPPL - một hình thức hoạt động cơ bản hữu hiệu của HĐND, UBND các cấp. Bên cạnh đó, phải tiến hành hoạt động ban hành VBQPPL theo đúng thẩm quyền, trình tự, quy trình mà pháp luật hiện hành quy định. Có như vậy, hiệu quả hoạt động của HĐND, UBND mới được nâng cao, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân.
KẾT LUẬN
Hoạt động xây dựng và ban hành VBQPPL của các cơ quan Nhà nước ở địa phương là một trong những công việc khó khăn và phức tạp, mang tính sáng tạo cao, đòi hỏi phải đầu tư nhiều thời gian, kinh phí mà trước hết là các chủ thể ban hành phải có đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ được giao.
Có thể thấy, thời gian qua với sự cố gắng và nỗ lực không ngừng, UBND tỉnh Nghệ an đã ban hành được một khối lượng lớn VBQPPL với chất lượng cao đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa trong việc thi hành Hiến pháp và pháp luật cũng như động viên nhân dân tham gia thực hiện pháp luật, giữ vũng kỉ cương xã hội, giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ và phát huy các quyền tự do, dân chủ của công dân cũng như thích ứng với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhưng đứng trước những đòi hỏi từ chính sự phát triển nội tại của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay cộng với các yêu cầu từ bên ngoài tác động vào, nhất là việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới, việc xây dựng một hệ thống VBQPPL hoàn chỉnh, khoa học, hợp lí đang trở thành vấn đề bức xúc và cấp thiết hơn bao giờ hết. Do đó, hoạt động xây dựng VBQPPL UBND các cấp nói chung và UBND tỉnh Nghệ an nói riêng luôn cần được nghiên cứu để đổi mới và hoàn thiện bằng nhiều giải pháp đồng bộ; bảo đảm cho VBQPPL được ban hành đúng thẩm quyền, hình thức và thủ tục, phù hợp với điều kiện phát triển khách quan của xã hội, của mỗi địa phương đồng thời có kĩ thuật pháp lý cao.
Trên cơ sở nêu nên thực trạng về ban hành VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an,em xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cáo chất lượng VBQPPL của UBND tỉnh Nghệ an nói riêng và UBND các cấp nói chung. Những giải pháp như trên đã nêu cần được UBND tỉnh quán triệt và thực hiện phù hợp với điều kiện của tỉnh nhà vì mục tiêu phát triển đất nước trong thời kì đổi mới và hội nhập.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật Tổ chức HĐND và UBND- NXB Thống kê- H.2003
Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND ngày 03/12/2004.
Bộ Tư pháp (Dự án VIE/02/015), Sổ tay nghiệp vụ soạn thảo, ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND các cấp- NXB Tư pháp- Hà nội 2007
Nâng cao chất lượng ban hành văn bản QPPL của chính quyền địa phương- Trương Thị Hồng Hà- Nhà nước và pháp luật- 2005-Số 1- tr 10-15
Về quy trình ban hành văn bản QPPL của Uỷ ban nhân dân các cấp- Nguyễn Thị Minh Hà- Thanh tra-2006- Số 5-tr 16-18
Các giải pháp của Chính phủ về đổi mới công tác xây dựng văn bản QPPL, Hoàng Thế Liên- Nghiên cứu lập pháp- 2007-số 5- tr 8-15
Báo cáo tổng kết công tác xây dựng năm 2007, 2008, 2009 và 2010
Số liệu thống kê văn bản năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009 và 2010
Tài liệu tập huấn nghiệp vụ xây dựng, ban hành, tự kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL các cấp.
Đề án nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ an.doc