Thực trạng bảo hiểm xã hội

Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của mỗi Quốc gia, mang trong nó bản chất nhân văn sâu sắc, vì cuộc sống an lành hạnh phúc của mọi người lao động. Chính sách bảo hiểm xã hội thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi Quốc gia. Việc tổ chức và thực hiện tốt trong các hoạt động của bảo hiểm xã hội sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của một đất nước. Hiện nay, trong hầu hết các quốc gia, bảo hiểm xã hội được coi là bộ phận chính cấu thành hệ thống an sinh xã hội, là chính sách quan trọng của mỗi nước và ở nước ta cũng vậy. Trải qua hơn 40 năm thực hiện, sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn, chính sách BHXH đã góp phần rất to lớn trong việc đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định Chính trị - Xã hội của đất nước. Đến nay, BHXH Việt Nam đã được thực hiện cho toàn thể cộng đồng, từ công chức Nhà nước, lực lượng vũ trang đến những người lao động trong các thành phần kinh tế ở những nơi có quan hệ lao động, và sẽ còn tiếp tục mở rộng cho nhiều đối tượng khác. Trước xu hướng già hoá dân số, biến đổi khí hậu và biến động của nền kinh tế thị trường, để bảo đảm an sinh xã hội một cách bền vững, cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách, chế độ về BHXH. Hiện đại hóa quản lý BHXH, nâng cao năng lực quản lý, chất lượng dịch vụ, thực hiện minh bạch, công khai các thủ tục thực hiện BHXH, giảm phiền hà cho người tham gia và thụ hưởng. Tăng cường quản lý nhà nước về BHXH, thực hiện tốt hơn sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước và BHXH các cấp.

doc49 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 8874 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng bảo hiểm xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Nội dung của Điều lệ bảo hiểm xã hội này đã đã được đổi mới cơ bản và khắc phục được những nhược điểm, tồn tại mà Điều lệ bảo hiểm xã hội tạm thời ban hành những năm trước đây, đó là: - Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không chỉ bao gồm lao động trong khu vực Nhà nước mà người lao động trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên cũng có quyền tham gia bảo hiểm xã hội. - Đề cập đến vấn đề bảo hiểm xã hội tự nguyện và vấn đề tham gia đóng góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động, người lao động và hình thành Quỹ bảo hiểm xã hội. - Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, tập trung trong cả nước, độc lập với ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà nước bảo trợ, cơ chế quản lý tài chính được thực hiện theo quy định của Nhà nước. - Về các chế độ bảo hiểm xã hội, quy định 5 chế độ là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất, không còn chế độ trợ cấp mất sức lao động mà những người mất khả năng lao động được quy định chung trong chế độ hưu trí với mức hưởng lương hưu thấp. Trong từng chế độ có quy định cụ thể hơn về điều kiện hưởng, thời gian và mức hưởng. - Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội được cấp sổ bảo hiểm xã hội, sổ bảo hiểm xã hội ghi chép, phản ánh quá trình tham gia bảo hiểm xã hội, mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội và các chế độ bảo hiểm xã hội đã được hưởng. - Đối với lực lượng vũ trang cũng đã có quy định riêng về bảo hiểm xã hội (Nghị định số 45/CP của Chính phủ). - Tài chính bảo hiểm xã hội được đổi mới cơ bản, tập trung ở những nội dung chủ yếu sau: + Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành trên cơ sở sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động là chính, Nhà nước hỗ trợ cho nguồn Quỹ bảo hiểm xã hội là thứ yếu khi cần thiết. Mức đóng góp hàng tháng được quy định bắt buộc thuộc trách nhiệm của cả người lao động và người sử dụng lao động. Với quy định về mức đóng góp rõ ràng đã làm cho người lao động và người sử dụng lao động thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc đóng góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội. + Quỹ bảo hiểm xã hội được tách khỏi ngân sách Nhà nước, hạch toán độc lập; quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn và tăng trưởng. Quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo thu đủ để chi và có phần kết dư, bảo đảm tính chất của bảo hiểm xã hội đoàn kết, tương trợ giữa tập thể người lao động và giữa các thế hệ, đồng thời đảm bảo cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội luôn được ổn định lâu dài. Như vậy, từ năm 1995 chính sách bảo hiểm xã hội đã gắn quyền lợi hưởng bảo hiểm xã hội với trách nhiệm đóng góp bảo hiểm xã hội của người lao động, xác định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động, tạo được Quỹ bảo hiểm xã hội độc lập với ngân sách Nhà nước. + Mức chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội được quy định cụ thể, hợp lý, phù hợp với mức đóng góp của người lao động. Đặc biệt mức hưởng lương hưu được quy định là 45% so với mức tiền lương nghạch bậc, lương hợp đồng cho người có 15 năm làm việc và đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm được thêm 2% và cao nhất là 75% cho người có 30 năm tham gia bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, người lao động nếu có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ năm thứ 31 trở lên thì mỗi năm thêm được được hưởng trợ cấp một lần bằng 1/2 tháng tiền lương, tối đa không quá 5 tháng tiền lương. Với quy định này đã từng bước cân đối được thu- chi bảo hiểm xã hội. Do có tổ chức thống nhất quản lý, bảo tồn, phát triển quỹ và thực hiện chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội đã đảm bảo cho việc chi trả đầy đủ, kịp thời và đúng quy định; khắc phục được những tồn tại trước đây. Trong quá trình thực hiện theo những quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội từ năm 1995 đến trước khi gia nhập WTO, chính sách bảo hiểm xã hội đã có những sửa đổi, bổ sung: - Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội: Bổ sung đối tượng là cán bộ xã, phường, thị trấn theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP thực hiện từ 1/1998; đối tượng là người lao động làm việc trong các tổ chức thực hiện xã hội hóa thuộc ngành giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao theo Nghị định số 73/1999/NĐ-CP của Chính phủ. - Về chính sách bảo hiểm xã hội: Có sửa đổi, bổ sung cả về mức đóng, tỷ lệ hưởng, điều kiện hưởng và phương pháp tính lương hưu tại các Nghị định số 93/1998/NĐ-CP, số 94/1999/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số Điều của Điều lệ bảo hiểm xã hội; Nghị định số 04/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Sĩ quan Quân đội năm 1999; Nghị định số 61/2001/NĐ-CP về chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động khai thác trong hầm lò; Quyết định số 37/2001/QĐ-CP về chế độ nghỉ ngơi dưỡng sức; Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP về tinh giản biên chế trong cơ quan hành chính sự nghiệp và Nghị quyết số 41/2002/NĐ-CP về sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước. Với những sửa đổi, bổ sung về chính sách bảo hiểm xã hội quy định tại các văn bản trên, có ảnh hưởng nhiều đến việc quản lý quỹ và cân đối quỹ bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, từ năm 1995 đến nay với 3 lần thay đổi mức tiền lương tối thiểu vào các năm 1997 (Từ mức 120.000 đồng lên mức 144.000 đồng); năm 2000 (Từ mức 144.000 đồng lên mức 180.000 đồng) và năm 2001 đến nay lên mức 210.000 đồng. Với thay đổi này thì thu bảo hiểm xã hội đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội theo thang bảng lương Nhà nước vẫn thực hiện theo mức tiền lương tối thiểu cũ, nhưng khi giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội thì được thực hiện theo mức tiền lương tối thiểu mới tại thời điểm giải quyết chế độ cũng như điều chỉnh theo mức tăng của mức tiền lương tối thiểu đối với người đang hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, điều này không những ảnh hưởng đến quỹ bảo hiểm xã hội về cân đối thu- chi mà phần lãi suất đầu tư cũng bị giảm. 2.1.4 Từ khi gia nhập WTO đến nay Ngày 29/06/2006, Quốc hội đã thông qua Luật BHXH và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007 đối với BHXH bắt buộc, từ 01/01/2008 đối với BHXH tự nguyện và từ 01/01/2009 đối với BH thất nghiệp. Việc ban hành Luật chuyên ngành là bước phát triển vượt bậc trong xâydựng thể chế BHXH, đánh dấu thời kỳ mới có ý nghĩa hết sức quan trọng trong tổ chức thực hiện BHXH theo hiến pháp và pháp luật một cách hiệu quả. Các quy định của Luật BHXH về cơ bản được kế thừa từ các quy định hiện hành và có phát triển một số nội dung, đặc biệt là quy định lại loại hình BHXH tự nguyện (bao gồm chế độ hưu trí, tử tuất được quy định liên thông với BHXH bắt buộc) và bổ sung loại hình BH thất nghiệp. Việc quy định cụ thể các chế độ trong BHXH tự nguyện được liên thông với BHXH bắt buộc đã tạo điều kiện để người dân tham gia và thụ hưởng chế độ hưu trí khi về già, đảm bảo an sinh xã hội về lâu dài. Đặc biệt là việc thiết kế chính sách tuân thủ đúng nguyên tắc đóng - hưởng, có sự chia sẻ theo nhóm đối tượng để bảo đảm khả năng chi trả của Quỹ BHXH (quy định mức tiền lương, tiền công đóng BHXH thấp nhất, bằng mức lương tối thiểu chung, nhưng tối đa không quá 20 lần mức lương tối thiểu chung- nay là mức lương cơ sở đã khắc phục tình trạng mức hưởng BHXH của một số trường hợp cao bất thường trước khi có Luật BHXH). Mô hình tổ chức thực hiện BHXH theo quy định tại Nghị định 94/2008/NĐ-CP, Nghị định 116/ 2011/NĐ-CP và Nghị định số 05/2014/NĐ-CP ngày 17/01/2014, theo đó, BHXH Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BHYT; tổ chức thu, chi chế độ BH thất nghiệp; quản lý và sử dụng các quỹ BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BH thất nghiệp, BHYT theo quy định của pháp luật. Mô hình cơ cấu tổ chức và chức năng của BHXH Việt Nam được kiện toàn phù hợp với cơ chế quản lý hoạt động BHXH. Công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động chung của BHXH Việt Nam đã được đổi mới kịp thời, sát thực tế, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao, phục vụ tốt hơn đối tượng tham gia và thụ hưởng chính sách. 2.2 Những thành tựu đạt được và khó khăn của BHXH Việt Nam hiện nay 2.2.1 Thành tựu Nếu như năm 1995, Ngành BHXH mới chỉ quản lý 2,2 triệu lao động, thì đến cuối năm 2014, số người tham gia BHXH, BHYT đã lên tới trên 64 triệu người; số thu vào Quỹ BHXH, Quỹ BHYT tính đến năm 2014 lần lượt tăng hơn 160 lần và 50 lần so với năm 1995. Điều này khẳng định, mỗi năm đã có thêm hàng trăm ngàn lao động, hàng triệu người dân được được bảo vệ các quyền lợi an sinh cơ bản nhất thông qua các chế độ BHXH, BHYT và góp phần từng bước đảm bảo an sinh xã hội, tiến tới mục tiêu công bằng xã hội. Chính sách BHXH từ chỗ chỉ thực hiện cho đội ngũ cán bộ công nhân viên chức nhà nước đã chuyển sang thực hiện cho mọi NLĐ theo hai hình thức: BHXH bắt buộc đối với NLĐ có quan hệ lao động với người sử dụng lao động; và BHXH tự nguyện đối với NLĐ làm việc tự do, lao động là nông - lâm - ngư nghiệp, từ đó nhằm tiến tới thực hiện BHXH, đảm bảo sự bình đẳng cho mọi NLĐ trong xã hội, trên cơ sở quan hệ đóng - hưởng. Chế độ, chính sách BHXH ngày càng đi vào hoàn thiện về mặt chuyên môn kỹ thuật. Về mặt quy phạm pháp luật cũng đã cho thấy, chính sách BHXH từ chỗ chỉ là các Nghị định, Điều lệ tạm thời về BHXH nay đã được nâng cấp lên cơ sở pháp lý cao hơn cụ thể là Luật BHXH ban hành năm 2006 và tiếp tục được hoàn thiện vào năm 2014 khi Quốc hội ban hành Luật BHXH sửa đổi. Tính từ năm 1995 đến nay, toàn Ngành đã giải quyết cho trên 67,5 triệu lượt người hưởng các chế độ BHXH (các chế độ BHXH hàng tháng, các chế độ BHXH một lần, các chế độ ngắn hạn (bao gồm: ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe), chế độ BH thất nghiệp. Nhìn chung, việc giải quyết hưởng các chế độ BHXH, BH thất nghiệp đã được Ngành BHXH đảm bảo chính xác, đầy đủ, kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ . Chính sách BHYT cũng không ngừng được thay đổi, từ năm 1992 cho đến khi Luật BHYT năm 2008 đi vào cuộc sống và gần đây nhất- năm 2014 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT, đánh dấu sự hoàn thiện về mặt pháp lý đối với chính sách này, là cơ sở pháp lý cao nhất thể chế hóa quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chính sách tài chính y tế thông qua BHYT, với mục tiêu BHYT toàn dân, xây dựng nền y tế Việt Nam theo định hướng công bằng, hiệu quả và phát triển. Công tác KCB BHYT trong những năm gần đây đã có nhiều cải tiến theo hướng thuận lợi hơn với người bệnh, trung bình mỗi năm có trên 100 triệu lượt người được đảm bảo quyền lợi KCB với chi phí hàng chục ngàn tỷ đồng; quyền lợi của người tham gia BHYT ngày càng được mở rộng. Quỹ BHYT đã trở thành nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn chi cho công tác KCB, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Bên cạnh đó, các thủ tục hành chính về BHXH, BHYT thường xuyên được rà soát và đơn giản hóa. Tính đến cuối năm 2014, các thủ tục giao dịch trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BH thất nghiệp chỉ còn 115 thủ tục; giao dịch BHXH điện tử từng bước được đẩy mạnh, hiện đã có gần 55 nghìn DN thực hiện kê khai đóng BHXH qua mạng internet; thời gian thực hiện thủ tục hành chính trong giao dịch với các doanh nghiệp, cá nhân về kê khai tham gia BHXH, BHYT được rút ngắn từ 335 giờ/năm xuống còn 108 giờ/năm; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giao dịch và quản lý của Ngành đang tiếp tục được đẩy mạnh. Ngày 20/11/2014, Luật BHXH sửa đổi được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 8, gồm 09 Chương, 125 Điều, quy định chế độ, chính sách BHXH; quyền và trách nhiệm của NLĐ, người sử dụng lao động; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến BHXH, tổ chức đại diện tập thể lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động; cơ quan BHXH; Quỹ BHXH; thủ tục thực hiện BHXH và quản lý nhà nước về BHXH, ghi nhận thành tích trong quá trình cải cách, đổi mới liên tục gần 20 năm qua, từng  bước xây dựng, hoàn thiện thể chế BHXH làm căn cứ pháp lý để tổ chức thực hiện BHXH đối với mọi NLĐ góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Luật BHXH sửa đổi mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc gồm: người lao động có hợp đồng lao động 1-3 tháng, người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động được cơ quan thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của Chính phủ và người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn; đối với BHXH  bắt buộc bổ sung thêm nhiều quyền lợi cho NLĐ quy định trong chế độ thai sản, chế độ hưu trí; để phù hợp với khả năng tham gia của người dân, quy định người tham gia có thể lựa chọn phương thức đóng BHXH tự nguyện một cách linh hoạt ngoài các phương thức đã quy định lần này cho phép có thể đóng một lần cho nhiều năm về sau hoặc một lần cho những năm còn thiếu để hưởng chế độ BHXH tự nguyện. Căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, khả năng NSNN trong từng thời kỳ để quy định mức hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ và thời điểm thực hiện chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH cho NLĐ tham gia BHXH tự nguyện; quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm; nâng mức xử phạt chậm nộp BHXH; giao cho cơ quan BHXH chức năng  thanh tra về đóng BHXH, BHYT, BH thất nghiệp và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, mức phạt và biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BH thất nghiệp; Về cơ bản, Luật BHXH sửa đổi đã tạo khung pháp lý nhằm điều chỉnh các chính sách BHXH, Bảo hiểm thất nghiệp trong giai đoạn hiện nay; và đều hướng tới hai mục tiêu quan trọng là: mở rộng đối tượng tham gia BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả các chính sách an sinh xã hội. Đây được coi là cơ hội lớn với Ngành BHXH trong việc triển khai thực hiện chính sách BHXH, BHYT thời gian tới nhằm hướng đến mục tiêu mà Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020 đã đề ra.. 2.2.2 Khó khăn Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ trong tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật BHXH, BHYT, thực tiễn qua 06 năm thực hiện Luật BHXH và 04 năm thực hiện Luật BHYT cũng đã bộc lộ những hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Tình hình nợ đọng tiền đóng BHXH bắt buộc xảy ra hầu hết ở các địa phương, nên khó khăn trong thực hiện quyền lợi cho về BHXH, BHYT cho người lao động. Số nợ đến 31/12/2013 là 6.448,9 tỷ đồng, chiếm 4,47% so với tổng số phải thu. Đối tượng tham BHXH tự nguyện còn hạn chế, đại đa số là người đã đóng BHXH bắt buộc nghỉ việc, đóng tiếp để đủ điều kiện nghỉ hưu; số người tham gia từ đầu chiếm tỷ lệ thấp. Với các chính sách hiện hành, quy định tuổi nghỉ hưu còn thấp, điều kiện giảm tuổi nghỉ hưu, nghỉ hưu trước tuổi quá rộng nên số người nghỉ hưu ngày càng tăng, mức hưởng lương hưu chưa hợp lý sẽ dẫn đến Quỹ BHXH, nhất là Quỹ hưu trí, tử tuất mất cân đối trong tương lai. Chi phí quản lý BHXH tính theo mức chi phí quản lý của cơ quan hành chính nhà nước là chưa phù hợp với tình chất và nhiệm vụ đặc thù của hoạt động BHXH Qua 04 năm thực hiện Luật BHYT, bên cạnh những kết quả to lớn, cũng xuất hiện những hạn chế, bất cập, thách thức đối với việc thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân. Trong khi tỷ lệ bao phủ bình quân cả nước gần 68% thì vẫn còn một số địa phương có tỷ lệ tham gia BHYT thấp. Chất lượng khám, chữa bệnh BHYT ở tuyến dưới chưa đáp ứng yêu cầu do hạn chế về nhân lực chuyên môn, kỹ thuật y tế đã gây nên tình trạng quá tải, chờ đợi lâu ở các bệnh viện tuyến trên; tinh thần thái độ và y đức của cán bộ y tế chậm được cải thiện, ảnh hưởng tới công tác tuyên truyền, vận động mở rộng và phát triển đối tượng. Các hình thức lạm dụng quỹ, nhất là tại các bệnh viện ngày càng phức tạp; vẫn còn chênh lệch giá thuốc cùng loại giữa các bệnh viện trong tỉnh, giữa các tỉnh, giữa bệnh viện với thị trường. Công tác thanh tra, kiểm tra, công tác quản lý còn hạn chế; chậm áp dụng công nghệ thông tin để cải tiến thủ tục khám, chữa bệnh, thanh toán BHYT; tình trạng sai thông tin trên thẻ, cấp chậm, trùng thẻ BHYT còn tồn tại ở nhiều địa phương. Trước tình hình kinh tế khó khăn kéo dài, đã có hàng chục ngàn DN làm ăn thua lỗ, cạn vốn, thu hẹp sản xuất dẫn đến ngưng hoạt động và phá sản. Nhiều DN tự nguyện “khai tử” cũng đã thẳng thừng tuyên bố nợ lương, cho nhân viên nghỉ việc và cũng trốn luôn nghĩa vụ đóng BHXH. Vì vậy, tiền nợ BHXH tăng mạnh từ đầu năm đến nay và việc thu hồi số nợ này cũng đã gian truân hơn trước. Theo Bảo hiểm Xã hội (BHXH) TP Hồ Chí Minh, tính đến ngày 30/4/2012, có 2.918 doanh nghiệp (DN) nợ BHXH với số tiền 136,5 tỷ đồng. Trong đó, có 76 DN ngừng hoạt động và phá sản với số tiền nợ BHXH hơn 6,5 tỷ đồng. Tuy nhiên, thực tế số lượng DN ngưng hoạt động, phá sản với số tiền nợ BHXH của các DN lớn hơn nhiều Nghiêm trọng hơn, các hành vi lạm dụng Quỹ BHXH ở nước ta đang diễn ra rất đa dạng và phổ biến tại tất cả các địa phương. Chẳng hạn, trong lĩnh vực thu BHXH, Bảo hiểm thất nghiệp, việc làm dụng, vi phạm biểu hiện thông qua các hành vi như trốn đóng BHXH, đóng BHXH không đúng thời gian và mức quy định - thực chất là nợ tiền BHXH. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp cố tình chiếm dụng tiền đóng BHXH của người lao động (trích tiền đóng BHXH của người lao động (NLĐ) nhưng không đóng vào quỹ BHXH) làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của NLĐ.Đặc biệt, năm 2014, do hoạt động yếu kém dẫn đến việc quỹ BHXH có nguy cơ mất trắng hơn 1000 tỷ đồng từ việc  BHXH dùng tiền cho công ty cho thuê tài chính vay 2.3 Quy định về chế dộ thai sản ở Việt Nam (Luật BHXH 2014) Điều 30. Đối tượng áp dụng chế độ thai sản Đối tượng áp dụng chế độ thai sản là người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và h khoản 1 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội. Cụ thể như sau a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động; b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng; c) Cán bộ, công chức, viên chức; d) Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu; đ) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; h) Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương Điều 31. Điều kiện hưởng chế độ thai sản 1. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Lao động nữ mang thai; b) Lao động nữ sinh con; c) Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ; d) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi; đ) Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp triệt sản; e) Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con. 2. Người lao động quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi. 3. Người lao động quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con. 4. Người lao động đủ điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này mà chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ thai sản theo quy định tại các Điều 34, 36, 38 và khoản 1 Điều 39 của Luật này. Điều 32. Thời gian hưởng chế độ khi khám thai 1. Trong thời gian mang thai, lao động nữ được nghỉ việc để đi khám thai 05 lần, mỗi lần 01 ngày; trường hợp ở xa cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai. 2. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại Điều này tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Điều 33. Thời gian hưởng chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý 1. Khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý thì lao động nữ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền. Thời gian nghỉ việc tối đa được quy định như sau: a) 10 ngày nếu thai dưới 05 tuần tuổi; b) 20 ngày nếu thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi; c) 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi; d) 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên. 2. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản 1 Điều này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Điều 34. Thời gian hưởng chế độ khi sinh con 1. Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng. Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản trước khi sinh tối đa không quá 02 tháng. 2. Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như sau: a) 05 ngày làm việc; b) 07 ngày làm việc khi vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi; c) Trường hợp vợ sinh đôi thì được nghỉ 10 ngày làm việc, từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc; d) Trường hợp vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật thì được nghỉ 14 ngày làm việc. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản này được tính trong khoảng thời gian 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con. 3. Trường hợp sau khi sinh con, nếu con dưới 02 tháng tuổi bị chết thì mẹ được nghỉ việc 04 tháng tính từ ngày sinh con; nếu con từ 02 tháng tuổi trở lên bị chết thì mẹ được nghỉ việc 02 tháng tính từ ngày con chết, nhưng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không vượt quá thời gian quy định tại khoản 1 Điều này; thời gian này không tính vào thời gian nghỉ việc riêng theo quy định của pháp luật về lao động. 4. Trường hợp chỉ có mẹ tham gia bảo hiểm xã hội hoặc cả cha và mẹ đều tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ theo quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp mẹ tham gia bảo hiểm xã hội nhưng không đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 31 của Luật này mà chết thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. 5. Trường hợp cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng tham gia bảo hiểm xã hội mà không nghỉ việc theo quy định tại khoản 4 Điều này thì ngoài tiền lương còn được hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của mẹ theo quy định tại khoản 1 Điều này. 6. Trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con hoặc gặp rủi ro sau khi sinh mà không còn đủ sức khỏe để chăm sóc con theo xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì cha được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. 7. Thời gian hưởng chế độ thai sản quy định tại các khoản 1, 3, 4, 5 và 6 Điều này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Điều 35. Chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ 1. Lao động nữ mang thai hộ được hưởng chế độ khi khám thai, sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý và chế độ khi sinh con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ nhưng không vượt quá thời gian quy định tại khoản 1 Điều 34 của Luật này. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. 2. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. 3. Chính phủ quy định chi tiết chế độ thai sản, thủ tục hưởng chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ. Điều 36. Thời gian hưởng chế độ khi nhận nuôi con nuôi Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản 2 Điều 31 của Luật này thì chỉ cha hoặc mẹ được nghỉ việc hưởng chế độ. Điều 37. Thời gian hưởng chế độ khi thực hiện các biện pháp tránh thai 1. Khi thực hiện các biện pháp tránh thai thì người lao động được hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền. Thời gian nghỉ việc tối đa được quy định như sau: a) 07 ngày đối với lao động nữ đặt vòng tránh thai; b) 15 ngày đối với người lao động thực hiện biện pháp triệt sản. 2. Thời gian hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản 1 Điều này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Điều 38. Trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng lao động nữ sinh con hoặc tháng người lao động nhận nuôi con nuôi. Trường hợp sinh con nhưng chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội thì cha được trợ cấp một lần bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con. Điều 39. Mức hưởng chế độ thai sản 1. Người lao động hưởng chế độ thai sản theo quy định tại các Điều 32, 33, 34, 35, 36 và 37 của Luật Bảo hiểm xã hội thì mức hưởng chế độ thai sản được tính như sau: a) Mức hưởng một tháng bằng 100% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 06 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản. Trường hợp người lao động đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 06 tháng thì mức hưởng chế độ thai sản theo quy định tại Điều 32, Điều 33, các khoản 2, 4, 5 và 6 Điều 34, Điều 37 của Luật Bảo hiểm xã hội là mức bình quân tiền lương tháng của các tháng đã đóng bảo hiểm xã hội; b) Mức hưởng một ngày đối với trường hợp quy định tại Điều 32 và khoản 2 Điều 34 của Luật bảo hiểm xã hội được tính bằng mức hưởng chế độ thai sản theo tháng chia cho 24 ngày; c) Mức hưởng chế độ khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi được tính theo mức trợ cấp tháng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, trường hợp có ngày lẻ hoặc trường hợp quy định tại Điều 33 và Điều 37 của Luật Bảo hiểm xã hội thì mức hưởng một ngày được tính bằng mức trợ cấp theo tháng chia cho 30 ngày. 2. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội, người lao động và người sử dụng lao động không phải đóng bảo hiểm xã hội. 3. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết về điều kiện, thời gian, mức hưởng của các đối tượng quy định tại Điều 24 và khoản 1 Điều 31 của Luật Bảo hiểm xã hội. Điều 40. Lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con 1. Lao động nữ có thể đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con quy định tại khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật này khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Sau khi đã nghỉ hưởng chế độ ít nhất được 04 tháng; b) Phải báo trước và được người sử dụng lao động đồng ý. 2. Ngoài tiền lương của những ngày làm việc, lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi hết thời hạn quy định tại khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật này. Điều 41. Dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản 1. Lao động nữ ngay sau thời gian hưởng chế độ thai sản quy định tại Điều 33, khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật này, trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc mà sức khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 05 ngày đến 10 ngày. Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe bao gồm cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Trường hợp có thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ cuối năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì thời gian nghỉ đó được tính cho năm trước. 2. Số ngày nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe quy định tại khoản 1 Điều này do người sử dụng lao động và Ban Chấp hành công đoàn cơ sở quyết định, trường hợp đơn vị sử dụng lao động chưa thành lập công đoàn cơ sở thì do người sử dụng lao động quyết định. Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe được quy định như sau: a) Tối đa 10 ngày đối với lao động nữ sinh một lần từ hai con trở lên; b) Tối đa 07 ngày đối với lao động nữ sinh con phải phẫu thuật; c) Tối đa 05 ngày đối với các trường hợp khác. 3. Mức hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản một ngày bằng 30% mức lương cơ sở. Mức trợ cấp. a - Các loại trợ cấp thai sản. Trong thời gian nghỉ việc đi khám thai, nghỉ việc khi bị sẩy thai, khi sinh con, nuôi con nuôi sơ sinh, người lao động được hưởng tiền trợ cấp từ cơ quan bảo hiểm xã hội thay vào phần thu nhập bị mất do không có lương. Trợ cấp thai sản có 2 loại: trợ cấp thay lương và trợ cấp bồi dưỡng (trợ cấp một lần). Trong đó: - Trợ cấp thay lương là khoản tiền do cơ quan bảo hiểm xã hội trả cho người lao động trong thời gian nghỉ thai sản nhằm giữ cân bằng về thu nhập, giúp người phụ nữ nhanh chóng phục hồi sức khỏe sau khi sinh. Mức trợ cấp được tính bằng tiền lương của người lao động khi đang làm việc - Trợ cấp bồi dưỡng sức khỏe là khoản tiền được cơ quan bảo hiểm xã hội trả một lần cùng trợ cấp thay lương cho người lao động nữ sau khi sinh con. Mục đích của khoản trợ cấp này là giúp người mẹ đủ điều kiện vật chất để nuôi con và tăng cường sức khỏe sau khi sinh. Tùy từng trường hợp cụ thể mà người lao động được hưởng một hoặc cả hai loại trợ cấp này. b - Mức trợ cấp. - Người lao động được hưởng chế độ thai sản thì mức hưởng bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề gần nhất trước khi nghỉ việc. Nếu thời gian đóng bảo hiểm xã hội không liên tục thì được cộng dồn. Ví dụ: chị C sinh con ngày 1/3/2010 có quá trình đóng bảo hiểm xã hội như sau: + Từ tháng 8 đến tháng 9 năm 2009 đóng bảo hiểm xã hội với mực lương 1.000.000 đồng/tháng, + Từ tháng 10 đến tháng 1/2010 đóng bảo hiểm xã hội với mức lương 1.5000.000 đồng/tháng. → Mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc của chị C là: [(1.000.000x2) + (1.5000.000x2)] : 6 = 1.333.333 đồng. - Trường hợp người lao động đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 6 tháng thì mức hưởng chế độ thai sản khi đi khám, khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, thực hiện các biện pháp tránh thai thì mức bình quân tiền lương, tiền công tháng của các tháng đã đóng bảo hiểm xã hội. - Trường hợp người lao động hưởng chế độ thai sản khi đi khám thai, khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, thực hiện các biện pháp tránh thai ngay trong tháng đầu tham gia bảo hiểm xã hội, thì lấy mức bình quân tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của chính tháng đó để làm cơ sở tình hưởng chế độ. - Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi thì được hưởng trợ cấp 1 lần bằng 2 tháng lương tối thiểu chung cho mỗi con. - Trường hợp mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng chế độ thai sản như sau: + Trường hợp chỉ có mẹ tham gia bảo hiểm xã hội, thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng. Mức hưởng được tính trên cơ sở mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc của mẹ. + Trường hợp cả cha và mẹ đều tham gia bảo hiểm xã hội hoặc chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội, thì cha nghỉ việc chăm sóc con và được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi. Mức hưởng lương được tính trên cơ sở mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc của cha. - Mức hưởng lương khi nghỉ việc khi nghỉ việc đi khám thai, sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, thực hiện các biện pháp tránh thai được tính như sau: ( Mức bình quân tiền lương , tiền công hàng tháng đóng BHXH của 6 tháng liền kìa trước khi nghỉ việc)/26 ngày*số ngày nghỉ việc theo chế độ thai sản) Đối với trường hợp này ta phải lưu ý là số ngày nghỉ việc theo chế độ thai sản tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần. Riêng chế độ khám thai thì không tính ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, ngày nghỉ hàng tuần. - Mức hưởng chế độ thai sản khi nghỉ việc sinh con hoặc nuôi con nuôi sơ sinh được tính theo công thức: (Mức bình quân tiền lương, tiền công hàng tháng đóng BHXH của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc)* (Số tháng nghỉ sinh con hoặc nghỉ nuôi con nuôi sơ sinh) - Nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi thai sản, mức hưởng bằng: + 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ tại nhà, + 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ tại cơ sở tập trung. - Trong thời gian lao động nữ nghỉ việc hưởng chế độ thai sản nếu không hưởng tiền lương, tiền công tháng thì người lao động và người sử dụng lao động không phải đóng bảo hiểm xã hội. Thời gian này được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội. - Trường hợp người lao động nữ đi làm trước khi hết thời gian nghỉ thai sản phải đáp ứng đủ 3 điều kiện: + Sau khi sinh con từ đủ 60 ngày trở lên; + Có xác nhận của cơ sở y tế về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe của người lao động; + Phải bảo trước và được người sử dụng lao động đồng ý. Đồng thời, ngoài tiền lương, tiền công của những ngày làm việc, lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi hết thời hạn được quy định 2.4 Thủ tục, hồ sơ hưởng chế độ thai sản 24.1. Khám thai: Sổ khám thai (bản chính hoặc bản sao) hoặc Giấy khám thai (bản chính hoặc bản sao), giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH (mẫu C65-HD). 2.4.2 Sảy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu; thực hiện các biện pháp tránh thai: Giấy ra viện (bản chính hoặc bản sao) hoặc Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH do cơ sở y tế cấp (mẫu C65-HD). 2.4.3 Sinh con: – Sổ BHXH. – Giấy chứng sinh (bản sao) hoặc Giấy khai sinh (bản sao) của con. – Nếu sau khi sinh, con chết thì có thêm Giấy báo tử (bản sao) hoặc Giấy chứng tử (bản sao). Đối với trường hợp con chết ngay sau khi sinh mà không được cấp các giấy tờ này thì thay bằng bệnh án (bản sao) hoặc giấy ra viện của người mẹ (bản chính hoặc bản sao). – Đối với trường hợp có tỷ lệ thương tật từ 21% trở lên: Có thêm Giấy chứng nhận thương tật (bản sao) hoặc Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng Giám định y khoa (bản sao). 2.4.4 Nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi: – Sổ BHXH; – Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi của cấp có thẩm quyền (bản sao). * Lưu ý: Trường hợp sau khi sinh con, người mẹ chết, người cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng con đến khi đủ 4 tháng tuổi: – Nếu cả cha và mẹ đều tham gia BHXH đủ điều kiện hưởng trợ cấp thai sản, hồ sơ gồm: + Sổ BHXH của người mẹ (nếu người mẹ còn sống); + Sổ BHXH của người cha (nếu người mẹ không may bị chết); + Giấy chứng sinh (bản sao) hoặc Giấy khai sinh (bản sao) của con; + Giấy chứng tử của người mẹ (bản sao). – Nếu chỉ có người mẹ tham gia BHXH đủ điều kiện hưởng trợ cấp: + Sổ BHXH của người mẹ; + Giấy chứng sinh (bản sao) hoặc Giấy khai sinh (bản sao) của con; + Giấy chứng tử của người mẹ (bản sao). + Đơn của người cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng con (mẫu số 11A-HSB). – Nếu chỉ có người cha tham gia BHXH đủ điều kiện hưởng trợ cấp: + Sổ BHXH của người cha; + Bản sao Giấy khai sinh của con; + Giấy chứng tử của người mẹ (bản sao). – Trường hợp người lao động thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận con nuôi dưới 4 tháng tuổi: + Sổ BHXH của người mẹ hoặc người nhận con nuôi; + Bản sao Giấy chứng sinh hoặc bản sao Giấy khai sinh của con. (Trường hợp nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi thì thay bằng bản sao Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi của cấp có thẩm quyền); + Đơn của người sinh con hoặc của người nhận nuôi con nuôi (mẫu 11B-HSB). * Lưu ý: Hồ sơ trợ cấp thai sản có thêm Danh sách người lao động đề nghị hưởng chế độ thai sản do người sử dụng lao động lập (mẫu số C67a-HD, trừ trường hợp người lao động thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi. 2.4.5 Nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe: – Danh sách người lao động đề nghị hưởng trợ cấp nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản, (mẫu số C69a-HD): 03 bản. Trường hợp sinh con phải phẫu thuật thì đề nghị nộp thêm bản photo giấy ra viện có thể hiện phẫu thuật. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM XÃ HỘI NÓI CHUNG VÀ BẢO HIỂM THAI SẢN NÓI RIÊNG 3.1 Định hướng Bảo hiểm xã hội giữ vai trò trụ cột chính trong hệ thống chính sách an sinh xã hội và tạo nền tảng bền vững cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác bảo hiểm xã hội đã đạt được những bước tiến quan trọng. Từ chỗ đan xen, làm thay chính sách cứu trợ, ưu đãi nay đã thực hiện đúng chức năng là góp phần ổn định đời sống của người lao động trong quá trình lao động và nghỉ hưu hoặc khi gặp rủi ro; ngoài nhóm chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc, chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện bước đầu thu hút lao động khu vực phi chính thức tham gia; chính sách bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm hưu trí bổ sung cũng đã bước đầu được triển khai. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, lĩnh vực bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm thai sản nói riêng còn nhiều vấn đề tồn tại, đó là diện bao phủ bảo hiểm xã hội còn thấp; quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội chưa đáp ứng yêu cầu; việc tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội còn có thiếu sót; tình trạng doanh nghiệp nợ và trốn đóng bảo hiểm xã hội còn nhiều; quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội chưa chặt chẽ; quỹ bảo hiểm xã hội, nhất là quỹ hưu trí, tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong tương lai gần; tình trạng người lao động lạm dụng chính sách bảo hiểm thất nghiệp xảy ra khá phổ biến. Vì vậy các chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam trong những năm đổi mới dự kiến sẽ chia sẻ những khó khăn, thách thức; đồng thời đưa ra các định hướng phát triển chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới. Đặc biệt tập trung vào các vấn đề: Tổng quát về kết quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam trong 20 năm đổi mới Phân tích những tồn tại, hạn chế, khó khăn, bất cập trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội theo quy định hiện hành Nghiên cứu của các cơ quan chức năng, các nhà quản lý, các chuyên gia, các nhà khoa họcvề sự cần thiết, sửa đổi bổ sung chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội Kinh nghiệm của các nước đã thành công trong việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội Định hướng, những điểm mới trong dự thảo Luật bảo hiểm xã hội sửa đổi, bổ sung. 3.2 Giải pháp: 3.2.1. Đối với bảo hiểm xã hội Do việc nhận trợ cấp của người lao động còn gặp nhiều khó khăn nên cần phải có cơ chế xử phạt mạnh tay hơn nữa đối với doanh nghiệp trốn đóng xã hội bắt buộc, cũng như có cơ chế phù hợp hơn để người lao động dễ dàng nhận tiền trợ cấp một cách nhanh chóng và đầy đủ. Nên sửa luật bảo hiểm xã hội tại Điểm a Khoản 1 Điều 92 theo hướng: Hàng tháng người sử dụng lao động nộp đủ 3% tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội vào quỹ ốm đau, thai sản; và sửa đổi Điều 17 Luật bảo hiểm xã hội theo hướng: Hàng tháng, người sử dụng lao động tập hợp các chứng từ ốm đau, thai sản, dưỡng sức của người lao động nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội. Căn cứ danh sách người lao động được cơ quan bảo hiểm xã hội duyệt, người sử dụng lao động sẽ chi trả trợ cấp Cần có cơ chế giám sát chặt chẽ hơn nữa trong việc kê khai lương người lao động của doanh nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội để xứng đáng là trụ cột của mạng lưới an sinh xã hội. Cần mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tới mọi người lao động, dù họ tham gia lao động trong bất cứ ngành nghề nào, thuộc thành phần kinh tế nào, miễn là họ tham gia đống góp đầy đủ vào quỹ bảo hiểm xã hội như luật định. Hoàn thiện cơ chế chính sách để khuyến khích các nhà đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện đầy đủ quyền lợi trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, khuyến khích doanh nghiệp, người lao động, người dân tự nguyện tham gia bảo hiểm xã hộ, đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân hiểu được nộp bảo hiểm xã hiểm chính là vì quyền lợi của chính họ. Quy định chế tài hữu hiệu, đủ mạnh ngay trong luật để buộc các đối tượng cố tình trốn, chú ý phải thực hiện nghiêm túc các quy định của luật. Bên cạnh đó cần có các biện pháp nhằm bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam trong dài hạn, cụ thể là: Xây dựng lộ trình kéo dài thời gian đóng bảo hiểm xã hội của người lao động với bước đi thận trọng để khắc phục tình trạng đóng ít, hưởng nhiều, bảo đảm cân đối trong đóng – hưởng và tính chia sẻ giữa các thế hệ tham gia bảo hiểm xã hội. Dự thảo Luật đề xuất phương án từ năm 2016 trở đi, điều kiện về tuổi đời hưởng lương hưu của cán bộ, công chức, viên chức cứ mỗi năm tăng thêm 4 tháng tuổi cho đến khi đạt 60 tuổi đối với nữ và 62 tuổi đối với nam. Từ năm 2020 trở đi, điều kiện về tuổi đời hưởng lương hưu của các nhóm đối tượng còn lại (trừ nhóm lực lượng vũ trang và người làm công tác cơ yếu) cứ mỗi năm tăng thêm 4 tháng tuổi cho đến khi đạt 60 tuổi đối với nữ và 62 tuổi đối với nam. Theo phương án này, thì phải đến năm 2031 (sau 15 năm) thì tuổi nghỉ hưu của nữ mới đạt 60 tuổi và đến năm 2022 (sau 6 năm) thì tuổi nghỉ hưu của nam mới đạt 62 tuổi. Thay đổi công thức tính lương hưu theo hướng có lộ trình tăng dần số năm đóng bảo hiểm xã hội. Theo đó, từ năm 2016, số năm đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với 45% mức bình quân tiền lương tháng để tính lương hưu cho người nghỉ hưu là 16 năm, năm 2017 là 17 năm, 2018 là 18 năm, 2019 là 19 năm và từ năm 2020 trở đi là 20 năm. Sửa đổi cách tính mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu hoặc trợ cấp một lần theo hướng đảm bảo sự bình đẳng, công bằng giữa các nhóm lao động tham gia bảo hiểm xã hội làm việc trong và ngoài khu vực Nhà nước với lộ trìnhngười lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành (01/7/2015) trở đi thì mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu là bình quân toàn bộ thời gian đóng như người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định. Sửa đổi điều kiện để hạn chế tối đa việc giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội một lần như hiện nay nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động khi hết tuổi lao động và góp phần bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm xã hội. Nhưng bên cạnh đó dự án Luật cũng tăng mức trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần lên mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội từ năm 2014 trở đi được tính bằng 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội. Có lộ trình để thực hiện tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hộisát với thu nhập thực tế của người lao động, bao gồm mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định tại Điều 90 Bộ Luật Lao động, khắc phục tình trạng người lao động và người sử dụng lao động “lách luật” để đóng bảo hiểm xã hội ở mức lương rất thấp trên nền lương tối thiểu như hiện nay. Sửa đổi các hình thức đầu tư Quỹ Bảo hiểm xã hội để bảo đảm quản lý, đầu tư Quỹ an toàn, hiệu quả hơn. Cân đối chi phí quản lý bảo hiểm xã hội một cách hợp lý, phù hợp với nhiệm vụ của bảo hiểm xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. 3.2.2 Đối với bảo hiểm thai sản 3.2.2.1 Phương hướng chung Nâng cao nhận thức cho mọi công dân về bảo hiểm xã hội trong đó có chế độ thai sản Nâng cao tính đồng bộ và khả thi của hệ thống luật pháp Đảm bảo sự ổn định và bền vững của nguồn tài chính Hoàn thiện mô hình quản lý và nâng cao năng lực bộ máy quản lý Nhà nước 3.2.2.2 Giải pháp cụ thể - Hoàn thiện hệ thống pháp luật Bảo hiểm xã hội như: * Cần bổ sung quy định cho người cha hưởng chế độ bảo hiểm xã hội về thai sản trong trường hợp người mẹ không tham gia bảo hiểm xã hội * Luật nên quy định cho người lao động nữ mang thai bệnh lý được nghỉ dài ngày hoặc có chế độ phù hợp hơn * Cần tách trường hợp người mẹ đẻ non để cho hưởng chế độ bảo hiểm xã hội về thai sản với thời gian ưu đãi hơn * Cần nâng số ngày nghỉ khám thai cho người lao động ở xa cơ sở y tế * Nên hướng dẫn một cách rõ ràng Điều 28 khoản 2 Luật Bảo hiểm xã hội về điều kiện hưởng chế độ thai sản * Cần có quy định rõ ràng về người lao động làm việc ở “nơi làm việc thường xuyên có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên” * Cần quy định thời gian báotrước cho người sử dụng lao động khi người lao động nghỉ hưởng thai sản đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con * Cần sửa đổi quy định mức lương tối thiểu và tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. * Cần quy định rõ hơn về cơ chế giải quyết tranh chấp bảo hiểm xã hội trong đó có giải quyết tranh chấp bảo hiểm thai sản - Phê chuẩn công ước và thực hiện Khuyến nghị của ILO liên quan đến vấn đề bảo hiểm xã hội về thai sản - Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật đối với chế độ bảo hiểm xã hội về thai sản - Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn đối với việc bảo vệ người lao động đặc biệt là lao động nữ - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với việc thực hiện chế độ thai sản - Xử phạt nghiêm đối với với các hành vi vi phạm chế độ bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản nói riêng Như vậy, trong quá trình thực hiện và hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội về thai sản cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành, sự chấp hành nghiêm chỉnh của người sử dụng và người lao động trong việc đóng bảo hiểm xã hội và thực hiện tốt chế độ thai sản. Hơn nữa, việc kết hợp giữa các giải pháp sẽ đem lại những thành công nhất định tiến tới đối tượng tham gia bảo hiểm ngày một rộng hơn sẽ góp phần làm cho chính sách an sinh xã hội tốt hơn. 3.3 Kiến nghị Từ thực tế tình hình khó khăn chung của nền kinh tế-xã hội, đại diện một số doanh nghiệp đề xuất Chính phủ, các nhà hoạch định chính sách cần nghiên cứu điều chỉnh các chính sách của Nhà nước có liên quan đến bảo hiểm xã hội và các hình thức bảo hiểm bắt buộc khác mà doanh nghiệp phải thực hiện để bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Các cơ chế, chính sách này cần phải được tính toán hợp lý, trên cơ sở nghiên cứu khoa học, đồng thời phải căn cứ vào tình hình kinh tế và sức khỏe của doanh nghiệp để đưa ra chính sách hợp lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp vừa trả được nợ bảo hiểm xã hội, vừa tiếp tục sản xuất, kinh doanh, tránh việc đưa ra các quyết định không phù hợp, thiếu cơ sở và tạo thêm sức ép cho doanh nghiệp. Cần sớm hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và phát huy đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong việc bảo đảm quyền lợi cho người lao động, đồng thời bảo đảm tính bình đẳng về chính sách bảo hiểm xã hội trong cơ chế thị trường; quy định chế tài xử lý vi phạm bảo hiểm xã hội mạnh, có tính răn đe, để doanh nghiệp chủ động thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội ... Cùng với nỗ lực của các cơ quan Nhà nước, cần có sự vào cuộc của các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và đông đảo nhân dân; phát huy vai trò của chính quyền nhân dân; vai trò, chức năng giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam, vai trò bảo vệ quyền và lợi ích người lao động của các tổ chức công đoàn, đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ tham gia bảo hiểm cho người lao động... Bên cạnh đó, để khắc phục tình trạng nợ đọng, trốn đóng bảo hiểm xã hội kéo dài ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, trước hết các cơ quan quản lý nhà nước cần xúc tiến đồng bộ nhiều giải pháp, tích cực thanh tra, kiểm tra, xử phạt nghiêm minh, tiếp tục ban hành các văn bản chỉ đạo, giải thích, hướng dẫn thực hiện các nội dung của Luật bảo hiểm xã hội nhất là các nội dung về giải quyết chế độ, chính sách cho người lao động. Về lâu dài, cần xây dựng lòng tin của người sử dụng lao động cũng như cần giám sát chặt chẽ việc thực hiện chính sách pháp luật tại các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong quá trình hoạt động. Khi phát hiện sai phạm, cần được xử lý nghiêm minh theo pháp luật. KẾT LUẬN Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của mỗi Quốc gia, mang trong nó bản chất nhân văn sâu sắc, vì cuộc sống an lành hạnh phúc của mọi người lao động. Chính sách bảo hiểm xã hội thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi Quốc gia. Việc tổ chức và thực hiện tốt trong các hoạt động của bảo hiểm xã hội sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của một đất nước. Hiện nay, trong hầu hết các quốc gia, bảo hiểm xã hội được coi là bộ phận chính cấu thành hệ thống an sinh xã hội, là chính sách quan trọng của mỗi nước và ở nước ta cũng vậy. Trải qua hơn 40 năm thực hiện, sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn, chính sách BHXH đã góp phần rất to lớn trong việc đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định Chính trị - Xã hội của đất nước. Đến nay, BHXH Việt Nam đã được thực hiện cho toàn thể cộng đồng, từ công chức Nhà nước, lực lượng vũ trang đến những người lao động trong các thành phần kinh tế ở những nơi có quan hệ lao động, và sẽ còn tiếp tục mở rộng cho nhiều đối tượng khác. Trước xu hướng già hoá dân số, biến đổi khí hậu và biến động của nền kinh tế thị trường, để bảo đảm an sinh xã hội một cách bền vững, cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách, chế độ về BHXH. Hiện đại hóa quản lý BHXH, nâng cao năng lực quản lý, chất lượng dịch vụ, thực hiện minh bạch, công khai các thủ tục thực hiện BHXH, giảm phiền hà cho người tham gia và thụ hưởng. Tăng cường quản lý nhà nước về BHXH, thực hiện tốt hơn sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước và BHXH các cấp. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Tiến Hùng, Nguyên lý và thực hành bảo hiểm, NXB Tài chính, 2008 Nguyễn Ngọc Định, Nguyễn Tiến Hùng, Hồ Thủy Tiên, Lý thuyết bảo hiểm, NXB Tài Chính, 2004

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docthuc_trang_bhxh_147.doc