Thực trạng công tác đặc xá

MỤC LỤC I- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1. Khái niệm, đặc điểm của đặc xá 1.1. Đặc xá là hoạt động đặc biệt 1.2. Đặc xá thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước 1.4. Về điều kiện, tiêu chuẩn của đối tượng được xét đặc xá 1.5. Về thời điểm quyết định đặc xá 2. Ý nghĩa của đặc xá. 2.1. Ý nghĩa tích cực 2.2. Mặt hạn chế 3. Những nguyên tắc của đặc xá 3.1 Nguyên tắc pháp chế 3.2. Nguyên tắc nhân đạo 3.3. Nguyên tắc bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai và minh bạch 3.4. Nguyên tắc bảo đảm kịp thời về thời gian 4. Phạm vi, đối tượng đặc xá II- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐẶC XÁ Ở NƯỚC TA 1.1. Điều kiện cố định 1.2. Tiêu chuẩn, điều kiện không cố định 2. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục đặc xá 2.1. Về thẩm quyền đặc xá 2.2 Cơ quan, tổ chức giúp việc và trình tự, thủ tục đặc xá 3. Những kết quả đã đạt được trong công tác đặc xá 3.1. Mặt tích cực 3. 2. Những tồn tại, hạn chế 3.3. Công tác tiếp nhận và giúp đỡ người được đặc xá còn hạn chế, tỷ lệ tái phạm cao 4. Một số vấn đề về pháp luật về đặc xá TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf29 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3960 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng công tác đặc xá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
au, người giàu, người nghèo; người có trình độ, nhận thức khác nhau, người phạm tội nhất thời, do hoàn cảnh xô đẩy, người lưu manh chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm; động cơ, mục đích phạm tội cũng khác nhau với các lỗi vô ý, cố ý; nơi giam 9 xa xôi đi lại thăm hỏi khó khăn, tình hình bệnh tật, điều kiện sinh hoạt về vật chất, tinh thần khác xa với cuộc sống tự do… Do đó việc quản lý họ để thực hiện mục đích hình phạt là rất khó khăn. Về thực trạng và tâm lý của người phạm tội cũng diễn biến rất phức tạp, nhiều người trong thời gian đầu rất bi quan, tuyệt vọng khi nhìn về cuộc sống thực trạng và tương lai bất lợi, nhất là đối với những người có mức hình phạt cao, ở giai đoạn này không ít trường hợp vi phạm pháp luật. Tuy nhiên được sự quan tâm, giáo dục của cán bộ, chiến sĩ làm công tác quản lý giải thích, tuyên truyền chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng, Nhà nước; tấm gương của những người được hưởng chính sách đặc xá trước đó đã làm cho họ thấy rằng cuộc sống của họ vẫn còn tương lai nếu nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật trong quá trình cải tạo sẽ được hưởng lượng khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước. Đây là động lực, mục đích của họ để ra sức lao động, học tập, cải tạo, nhiều trường hợp là con đường duy nhất thúc đẩy phạm nhân rèn luyện, phấn đấu cải tạo tiến bộ để sớm được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước. Thực tế đã chứng minh những người được đặc xá đều tự giác phấn đấu đạt tiêu chuẩn, điều kiện, nhiều người lập công trong quá trình cải tạo được đặc xá, khi trở về địa phương đại đa số đều hòa nhập vào cộng đồng, không ít người đã đã lập được thành tích được Nhà nước khen thưởng. Gia đình nói chung đặc biệt gia đình người Việt nam nói riêng luôn luôn có mối liên hệ tình cảm, luôn quan tâm đến nhau, từ lâu người Việt Nam có câu:” con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”. Bởi vậy còn gì vui hơn khi trong gia đình có người thân lầm lỗi đã nhận ra lỗi lầm của mình, tích cực cải tạo được đặc xá hưởng sự khoan hồng của Nhà nước được sum họp cùng gia đình. Đối với những trường hợp đang phải chấp hành hình phạt thì qua công tác tuyên truyền về đặc xá có tác dụng làm cho phạm nhân và gia đình phạm nhân phấn khởi, tin tưởng vào đường lối, chính sách nhân đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước và bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy nhiều gia đình luôn động viên người thân của mình cải tạo tốt để được hưởng sự khoan hồng. Đây cũng là một nguyên nhân chính giúp công tác quản lý thi hành phạt tù đạt được nhiều thành tích trong thời gian qua. 2.2 Mặt hạn chế Bên cạnh những mặt tích cực là cơ bản, chủ yếu thì việc đặc xá cũng có tính hạn chế là ít nhiều cũng làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật, theo đó thì đáng ra người phạm tội phải chấp hành đầy đủ sự trừng phạt của Nhà nước được quyết định trong bản án đã có hiệu lực pháp luật. Nhưng khi có quyết định đặc xá thì người đó được tha và được khôi phục một số quyền cơ bản (đối với người bị 10 kết án tử hình thì được ân giảm xuống phạt tù chung thân và quá trình chấp hành hình phạt tù chung thân họ có thể được giảm xuống hình phạt tù có thời hạn, khi hết thời hạn thì họ được trả tự do…). Mặt khác việc phát hiện điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người có hành vi phạm tội được các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan tư pháp thực hiện rất công phu, tốn kém. Việc trừng phạt họ với mức hình phạt tuyên công khai được dư luận đồng tình và ủng hộ. Bởi vậy khi họ chưa chấp hành đầy đủ theo quyết định của bản án mà đã được trả tự do sẽ ít nhiều có sự ảnh hưởng trong dư luận xã hội, nhất là đối với trường hợp được đặc xá lại phạm tội cũ với lỗi cố ý. Do đó, cơ quan, tổ chức giúp việc thực hiện đặc xá cần bảo đảm tính chính xác trong công tác tư vấn giúp việc là biện pháp tích cực nhất để khắc phục hữu hiệu mặt hạn chế. 3. Những nguyên tắc của đặc xá Mặc dù chưa có văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao như luật, pháp lệnh về đặc xá để quy định những vấn đề chung, bao gồm cả những nguyên tắc trong đặc xá, nhưng qua những văn bản pháp luật hàng năm quy định, hướng dẫn và trong quá trình tổ chức thực hiện đặc xá đã thể hiện công tác đặc xá có những nguyên tắc nhất định, những người và cơ quan có trách nhiệm phải luôn tuân thủ, đó là: 3.1 Nguyên tắc pháp chế Đây là nguyên tắc có vị trí rất quan trọng xuất phát từ những luận điểm chung về pháp chế trong lĩnh vực hình sự tư pháp vốn đã chặt chẽ còn có những đặc điểm riêng. Yêu cầu đòi hỏi của nguyên tắc này trước hết cần phải có văn bản pháp luật đầy đủ và phù hợp, kịp thời để tổ chức thực hiện. Mặt khác, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, các chủ thể liên quan trong phạm vi, trách nhiệm của mình phải tuân thủ đầy đủ những quy định của pháp luật liên quan về trình tự, thủ tục, thời hạn, về nội dung... Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ, tình hình công tác đấu tranh phòng chống tội phạm hàng năm rất đa dạng nên việc ban hành văn bản của người có thẩm quyền và các văn bản hướng dẫn cũng như quá trình thực hiện đặc xá ... phải thực hiện đúng, đầy đủ nguyên tắc pháp chế. Điều này sẽ đáp ứng cơ bản yêu cầu, mục đích của đặc xá. 3.2. Nguyên tắc nhân đạo Mặc dù người phải chấp hành hình phạt đã có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, bị Nhà nước trừng phạt, nhưng với bản chất nhân đạo của Nhà nước ta vẫn có trách nhiệm là cải tạo, giáo dục họ thành người lương thiện, khi họ đã có những 11 điều kiện, tiêu chuẩn nhất định thì Nhà nước tha thứ, trả tự do, khôi phục một số quyền cơ bản của công dân để họ hoà nhập vào cộng đồng, trở thành có ích cho xã hội. Nội dung này xuất phát từ bản chất nhân đạo, chính sách khoan hồng của Nhà nước ta. Nguyên tắc này được thể hiện qua nhiều hình thức và có ý nghĩa lớn, là động lực để người phạm tội chấp hành tốt những quy định trong thời gian chấp hành hình phạt nhằm hưởng lượng khoan hồng theo quy định. Bên cạnh những tiêu chuẩn, điều kiện thông thường được xây dựng trên cơ sở phù hợp, công bằng còn nhiều điều kiện đặc biệt khác nhằm tạo những tình tiết có lợi hơn cho người phạm tội, như có những tình tiết thuận lợi của bản thân, gia đình nhằm thể hiện tính nhân đạo. 3.3 Nguyên tắc bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai và minh bạch Trong điều kiện, môi trường quản lý người phạm tội bị trừng phạt cách ly khỏi xã hội, bị tước, bị hạn chế một số quyền cơ bản của công dân thì nguyên tắc này rất có ý nghĩa, thể hiện trên nhiều hoạt động cụ thể. Việc phân loại đánh giá, bình bầu đối tượng để đưa vào xét đặc xá cần phải bảo đảm được thực hiện dân chủ, khánh quan đúng với thực chất phấn đấu của người phạm tội, tránh việc đánh giá thiên lệch, không khách quan, trù úm…. Toàn bộ hoạt động đặc xá đều được công khai, bảo đảm sự minh bạch, rõ ràng; bảo đảm công bằng để người có điều kiện, tiêu chuẩn như nhau đều được hưởng quyền lợi như nhau, người có nhiều điều kiện hơn thì được hưởng đúng chính sách của Nhà nước… Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc này nhiều khi cũng gặp khó khăn, trong điều kiện, môi trường của người bị cách ly để giáo dục, cải tạo thì tính dân chủ nhiều khi bị hạn chế, việc đánh giá có lúc phụ thuộc vào chủ quan của người trực tiếp quản lý đối tượng. Trại giam giữ thường ở vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn, tính chất công việc rất căng thẳng, nặng nề, do đó công tác kiểm tra, kiểm sát, giám sát của cơ quan có trách nhiệm nhiều khi chưa đáp ứng. Đây là những vấn đề nhạy cảm, phụ thuộc nhiều vào sự công tâm, trách nhiệm và lòng nhân ái của người quản giáo và giám thị. Thực hiện đúng nguyên tắc này sẽ có tác động, ảnh hưởng lớn đến tâm lý, ý thức phấn đấu, kết quả cải tạo của người chấp hành hình phạt. 3.4 Nguyên tắc bảo đảm kịp thời về thời gian Theo tiền lệ, thời điểm đặc xá ở nước ta thường được tổ chức vào những ngày lễ trọng đại của đất nước thì ý nghĩa của việc đặc xá càng được nhân lên gấp bội. Trong những ngày vui của đất nước, của dân tộc và của từng gia đình, khi có 12 người thân mắc phải lỗi lầm đã tích cực sửa chữa được Nhà nước đặc xá cho về trước thời hạn để sum họp gia đình thì không chỉ bản thân người được đặc xá mà cả gia đình, họ hàng, người thân thích càng thấy rõ ý nghĩa, tác dụng tích cực về nhiều mặt của đặc xá. Do đó, để công tác đặc xá được thực hiện đúng thời điểm hàng năm mới có ý nghĩa, thì công tác chuẩn bị của bộ phận giúp việc cần phải đi trước một bước, phải tiến hành trước nhiều tháng, từ công tác nắm tình hình, báo cáo tham mưu đề xuất với người có thẩm quyền và việc tổ chức thực hiện nhịp nhàng đúng tiến độ. Chẳng hạn, từ ngày 02/11/2004 Hội đồng tư vấn đặc xá trung ương có văn bản số 02 hướng dẫn thi hành quyết định số 478 của Chủ tịch nước áp dụng cho các đợt đặc xá tháng 2, tháng 5 và ngày 2/9/2005. Ngoài ra, việc đặc xá đối với những trường hợp cá biệt để phúc đáp hoạt động đối ngoại hoặc đối nội thì không cần thiết phải dựa vào những ngày lễ lớn, mà được thực hiện bất cứ lúc nào khi thấy cần thiết, tuy nhiên về thời điểm cũng cần bảo đảm để phúc đáp yêu cầu. Giữa các nguyên tắc có tính chất đan xen và có mối quan hệ, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau. Thực hiện đúng nguyên tắc này nhiều khi cũng đã thực hiện được nguyên tắc kia và ngược lại.. 4. Phạm vi, đối tượng đặc xá Về nội dung này hiện nay có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, xuất phát từ lịch sử đặc xá được thực hiện từ khá lâu, giai đoạn đó chỉ có ít loại hình phạt mà chủ yếu là hình phạt tử hình hay phạt tù, Nguyên thủ quốc gia có toàn quyền quyết định đặc xá tha cho người phạm tội. Theo truyền thống, việc đặc xá cũng chỉ áp dụng trong phạm vi hẹp. Ngày nay, kế thừa và phát huy tính nhân đạo cùng với sự phát triển trong lĩnh vực hình sự nên có rất nhiều loại hình phạt thể hiện chính sách hình sự, chẳng hạn ở nước ta hiện nay có 7 loại hình phạt chính và 7 loại hình phạt bổ sung. Bởi vậy, không chỉ bó hẹp đối tượng, phạm vi đặc xá với những loại hình phạt tù, như có thể đặc xá cho người chấp hành các loại hình phạt chính và hình phạt bổ sung, thậm chí nếu người phải chấp hành hình phạt tù nhưng đang được tạm hoãn hay tạm đình chỉ thi hành cũng có thể được đặc xá. Mặt khác, pháp luật không hạn chế phạm vi, đối tượng được đặc xá để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đối nội, đối ngoại của Nhà nước trong những thời điểm, giai đoạn cụ thể, nhất là việc đặc xá cho trường hợp cụ thể thì Chủ tịch nước có quyền đặc xá cho bất cứ đối tượng nào, phạm tội gì mà không cần đòi hỏi người đó phải có điều kiện, tiêu chuẩn gì, miễn là việc đặc xá sẽ có lợi ích lớn hơn cho đất nước . 13 Quan điểm khác lại cho rằng, thực tế xuất phát theo truyền thống là chủ yếu hình phạt tù và tử hình vì đây là những loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của nhiều nước cần đến sự đặc xá của Chủ tịch nước. Còn việc miễn, tạm đình chỉ hay giảm các loại hình phạt khác được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Có quan điểm cho rằng, đặc xá chỉ áp dụng cho người chấp hành án phạt tù, còn việc xét ân giảm cho người bị kết án tử hình mặc dù thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước nhưng một số thủ tục, trình tự đã được quy định trong Bộ luật. Việc giảm án trước kia cũng thuộc phạm vi đặc xá nhưng từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự có hiệu lực năm 1989 thì việc giảm án được giao cho cơ quan tư pháp theo trình tự, thủ tục tố tụng hình sự và được làm thường xuyên, Có quan điểm khác lại cho rằng, tùy vào tình tình thực tế đòi hỏi hàng năm, hay ở giai đoạn cụ thể, các cơ quan quản lý lĩnh vực liên quan xét thấy cần trình lên Chủ tịch nước xem xét quyết định việc đặc xá. Do đó, không nên giới hạn phạm vi đặc xá, điều này cũng phù hợp với mục đích của đặc xá là phúc đáp yêu cầu, nhiệm vụ của Nhà nước trong từng giai đoạn. Đồng thời, qua nghiên cứu về phạm vi của đặc xá, trong quá trình đặc xá ở nước ta từ năm 1945 đến nay thấy rằng, phạm vi đặc xá có sự khác nhau trong mỗi giai đoạn, nhìn chung đặc xá bao gồm phổ biến là việc tha tù cho phạm nhân đang chấp hành án trong các trại giam và trại tạm giam, nhưng ngay trong Sắc lệnh số 04/SL ngày 28/12/1946 và Sắc lệnh số 136/SL ngày 15/02/1948 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà có quy định phạm vi đặc xá gồm cả tội nhân bị kết án tử hình. Người bị kết án tử hình, nếu được ân xá sẽ được tha hẳn, nếu được ân giảm sẽ giảm xuống thành tù chung thân hoặc tù có thời hạn (hiện nay mặc dù việc ân giảm cho người bị kết án tử hình được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng vẫn thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước); Trong Nghị quyết số 5-NQ-HĐND7 ngày 28/8/1981 của Hội đồng Nhà nước cũng quyết định tha tù và giảm thời hạn cho phạm nhân bị án tù chung thân. Trong một số đợt đặc xá có xét đến việc miễn chấp hành hình phạt đối với những người đang được hoãn chấp hành hoặc đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù và hiện đang ở ngoài xã hội (những đối tượng này do Tòa án quyết định được miễn và tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù). 14 Hầu hết các đợt đặc xá đều có quy định về một số loại đối tượng hoặc một số loại tội không được đặc xá; hoặc tuy có xét nhưng phải theo thủ tục riêng nhằm bảo đảm chặt chẽ hơn . Đối với người bị tập trung cải tạo, tập trung giáo dục cải tạo, trước khi UBTVQH ban hành Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì những đối tượng này cũng được đặc xá, bao gồm cả người bị tập trung cải tạo, tập trung giáo dục cải tạo từ khi có Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì không áp dụng đặc xá mà thực hiện theo quy định của Pháp lệnh. II- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐẶC XÁ Ở NƯỚC TA 1. Về tiêu chuẩn, điều kiện đặc xá Qua nghiên cứu việc thực hiện đặc xá ở nước ta từ năm 1945 đến nay thấy rằng, việc quy định về tiêu chuẩn, điều kiện của người chấp hành hình phạt để được xét đặc xá là rất cần thiết, đó là nội dung trọng tâm không thể thiếu, thậm chí là yếu tố quyết định về số lượng việc đặc xá tha tù có quy mô lớn. Có những điều kiện cố định phụ thuộc vào bản thân người chấp hành án và có những điều kiện không cố định mà thường xuyên thay đổi, cụ thể là: 1.1. Điều kiện cố định Hầu hết trong các đợt đặc xá đều quy định một trong những tiêu chuẩn đầu tiên đối với người chấp hành hình phạt là bản thân họ đã phấn đấu, cải tạo tiến bộ; yêu cầu đặt ra là họ đã nhận thấy và ăn năn hối lỗi về hành vi nguy hiểm của mình đã gây ra cho xã hội, thể hiện trên nhiều mặt: bản thân nghiêm chỉnh chấp hành chế độ, nội quy của trại, tích cực trong lao động, học tập; thúc đẩy các phạm nhân khác cải tạo tiến bộ; để đánh giá cải tạo tốt là một quá trình liên tục trong thời gian chấp hành hình phạt, qua hiệu quả công việc, có sự đánh giá của tổ chức, cán bộ, cơ quan có thẩm quyền; đây là yếu tố quan trọng vì chỉ khi nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, bị trừng phạt và tích cực sửa chữa bằng hành động của chính mình thì người đó mới thấm thía sâu sắc, khi được tha về sẽ không phạm tội. Điều này đã được kiểm nghiệm trong thực tế những năm qua, mặc dù số người được đặc xá khá lớn nhưng không có vấn đề lớn nổi cộm đến trật tự an toàn xã hội (mặt khác, không nhà nước nào lại thả số lượng lớn người đang chấp hành hình phạt luôn vi phạm quy chế, nội quy; không chấp hành pháp luật nơi giam giữ, cải tạo). Những năm gần đây, cơ quan quản lý đã tổ chức cho phạm nhân tự liên hệ với điều kiện, tiêu chuẩn chung và tiến hành bỏ phiếu kín bình xét đề nghị đặc xá… 15 theo nguyên tắc dân chủ, công bằng, công khai minh bạch. Đây là điều kiện bắt buộc, khá ổn định trong những đợt xét đặc xá có số lượng lớn. 1.2 Tiêu chuẩn, điều kiện không cố định Đó là điều kiện và tiêu chuẩn do Nhà nước đặt ra phụ thuộc vào nhiều yếu tố xét thấy việc đặt ra là có lợi cho Nhà nước, phù hợp với tình hình cụ thể, do đó những điều kiện, tiêu chuẩn luôn thay đổi hằng năm, từng giai đoạn. Cụ thể là: 1.2.1 Các loại tội phạm được xét đặc xá Căn cứ vào tính chất gây nguy hiểm cho xã hội của hành vi đã thực hiện, như loại tội đã phạm vào, loại Toà án xét xử … để xét hoặc không xét đặc xá… Theo Sắc lệnh số 52SL ngày 20/10/1945 thì đối tượng được đặc xá gồm những người phạm vào các loại tội không nặng, như: Tội phạm vào luật lệ báo chí; tội phạm vào luật lệ hội họp; tội của thợ thuyền bị trừng phạt do luật lệ lao động, do đình công; tội về quan thuế và chuyển mãi: rượu lậu, thuốc phiện lậu, muối lậu…; tội phạm vào luật lệ kiểm lâm; tội vô ý giết người, đánh người có thương tích; tội vi cảnh… Những đợt đặc xá các năm 1946 - 1947 quy định việc không đặc xá đối với một số tội như "do thám, liên lạc hoặc tiếp tế cho quân địch hay can tội tống tiền, ăn cướp, bắt cóc, ám sát, làm hoặc lưu hành giấy bạc giả và biển thủ công quỹ" hoặc một số tội phạm nguy hiểm khác . Trong thời gian từ năm 1946 - 1954, tiêu chuẩn đặc xá gồm : + Tha cho những người phạm tội lần đầu, bị Toà án thường xử phạt tù hoặc khổ sai ... + Giảm 1/2 hạn tù cho người bị Toà án thường xử phạt dưới 12 tháng tù, nếu là sơ phạm và … giảm 1/3 hạn tù cho người bị xử phạt trên 12 tháng tù nếu là sơ phạm. Thời kỳ các năm từ 1957 - 1964, pháp luật cũng quy định khá chung về tiêu chuẩn phạm nhân được đặc xá; như : "phạm nhân can tội hình sự thường và phạm nhân can tội về chính trị do Toà án thường xét xử"; "phạm nhân thuộc loại hình sự thường, đã ở tù một thời gian và đã thật sự cải tạo" ( trừ những tội lưu manh, giết người, cướp của). + Trong thời kỳ từ năm 1966 - 1973, tiêu chuẩn và điều kiện đặc xá gồm: Phạm nhân trước là công nhân viên chức Nhà nước, bộ đội, nhân dân lao động phạm tội hình sự thường (trừ loại lưu manh chuyên sống bằng trộm cắp, lừa đảo). Phạm nhân trước là địa chủ, cường hào trong cải cách ruộng đất, phạm nhân phản 16 cách mạng mức án không quá 5 năm tù (trừ loại gián điệp, biệt kích, thổ phỉ, tổ chức phản động, gây bạo loạn, là nguỵ quân nguỵ quyền có nhiều tội ác). Trong thời gian từ 1977 - 1980 quy định nhiều điểm tương tự như các đợt đặc xá trước đây. Về thái độ cải tạo của phạm nhân được hưởng đặc xá là phạm nhân thật thà ăn năn hối lỗi, quyết tâm cải tạo để trở thành người lương thiện; tích cực lao động, học tập, có tác dụng thúc đẩy các phạm nhân khác cải tạo và tiến bộ; nghiêm chỉnh chấp hành chế độ, nội quy của trại; năm 1980 bổ sung tiêu chuẩn "không thuộc loại tội ác, loại nguy hiểm". Năm 2004 không xét đặc xá cho những phạm nhân có 3 tiền án trở lên; năm 2006 không xét đặc xá cho những phạm nhân có 2 tiền án trở lên. Tại Quyết định số 797/2006/QĐ-CTN ngày 7/7/2006 của Chủ tịch quyết định về đặc xá năm 2006 cũng quy định về điều kiện, tiêu chuẩn xét đặc xá là: “Chấp hành tốt Quy chế, nội quy trại giam, trại tạm giam, tích cực học tập, lao động cải tạo…khi được đặc xá không làm phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội”; đồng thời không xét đặc xá cho những người phạm tội rất nghiệm trọng và đặc biệt nghiêm trọng về an ninh quốc gia, các tội phạm về ma tuý, phạm tội mua bán phụ nữ, trẻ em, cướp có vũ khí, cướp có tổ chức, các tội phạm về ma túy… 1.2.2 Người bị kết án phải bảo đảm ngồi tù với thời gian nhất định Mặc dù người chấp hành hình phạt có những yếu tố tích cực cải tạo nêu trên nhưng chưa đủ điều kiện để được đặc xá, vì bên cạnh việc giáo dục cải tạo thì hình phạt còn có mục đích trừng phạt đối với người phạm tội. Việc xác định thời gian chấp hành hình phạt có nhiều ý nghĩa, thời gian trừng phạt và giáo dục, cải tạo làm cho họ thấm thía hơn, đồng thời cũng thể hiện tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Điều kiện này cũng không cố định mà có thể thay đổi mức hàng năm. Tuy nhiên, thời gian bảo đảm buộc họ phải chấp hành hình phạt (ngồi tù) trong thời gian bao lâu để được xét đặc xá là vấn đề cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để áp dụng phù hợp đối với những trường hợp cụ thể mới bảo đảm tính tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Chẳng hạn đối với người phạm tội tử hình được ân giảm xuống tù chung thân nếu cải tạo tốt, có đủ điều kiện thì được ân giảm xuống tù có thời hạn và có thể được giảm án theo trình tự tố tụng và được đặc xá, nhưng phải chấp hành hình phạt tù với thời gian nhất định mới được đặc xá trả tự do... Tương tự như vậy, thời hạn đối với người bị tù chung thân với người tù có thời hạn cần có sự tính tóan cho phù hợp. Qua nghiên cứu quy định về thời hạn chấp hành hình phạt trước khi được đặc xá ở các giai đoạn có sự khác nhau. 17 Trong thời kỳ từ năm 1946 - 1954, điều kiện đặc xá gồm : Tha cho những người phạm tội lần đầu, bị Toà án thường xử phạt tù hoặc khổ sai và đã ngồi tù quá 1/2 thời hạn. Giảm 1/2 hạn tù cho người bị Toà án thường xử phạt dưới 12 tháng tù, nếu là sơ phạm và ngồi tù chưa được quá 1/2 thời hạn; giảm 1/3 hạn tù cho người bị xử phạt trên 12 tháng tù nếu là sơ phạm và ngồi tù chưa được quá 1/2 thời hạn … Thời kỳ từ năm 1966 – 1973: Điều kiện để xét tha về thời gian phạm nhân đã ở tù là từ 1/2 mức án trở lên; nếu là tù chung thân thì phải từ 12 năm trở lên. Có thể châm chước về thời gian ở tù đối với một số đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Phạm nhân được xét để giảm án đã ở tù từ 1/5 mức án trở lên; nếu là bị tù chung thân thì phải đã ở tù từ 5 năm trở lên. Năm 2000: Tiêu chuẩn tha tù: Điều kiện về thời gian đã ở tù là từ 1/4 mức án trở lên; nếu là tù chung thân thì phải từ 8 năm trở lên, đối với những trường hợp có những điều kiện nhất định như: trước khi phạm tội là cán bộ công chức, cán bộ chiến sỹ lực lượng vũ trang có thành tích; phạm nhân phạm các tội mà Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định khung hình phạt nhẹ hơn Bộ luật Hình sự năm 1985... Trường hợp đặc biệt khác, Hội đồng tư vấn đặc xá trung ương xét từng trường hợp cụ thể. Năm 2004: Quyết định số 478/2004/QĐ-CTN ngày 28/7/2004 của Chủ tịch quyết định về đặc xá năm 2004 cũng quy định về thời hạn đã chấp hành hình phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam được 1/3 thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn; 10 năm đối với tù chung thân; đối với phạm nhân trước đây bị kết án tử hình đã được ân giảm xuống tù chung thân thì thời gian đã chấp hành hình phạt là 12 năm, trường hợp đặc biệt là 10 năm. Tại Quyết định số 797/2006/QĐ-CTN ngày 7/7/2006 của Chủ tịch nước quyết định về đặc xá năm 2006 cũng quy định: “... đã thực sự chấp hành hình phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam ít nhất được 1/2 thời hạn đối với hình phạt tù có thời hạn; 14 năm đối với hình phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn 20 năm”. Những mức quy định về thời hạn đã chấp hành hình phạt tù hằng năm khác nhau, không cố định, do đó khó có văn bản quy phạm pháp luật nào ấn định thống nhất, lâu dài mà phải trên tình hình cụ thể của hàng năm để thể hiện trong những quyết định đặc xá cụ thể cho phù hợp. 1.2.3 Về các điều kiện, tiêu chuẩn ngoại lệ 18 Trong quá trình xét đặc xá, tùy từng giai đoạn Nhà nước có quy định xét các điều kiện, tiêu chuẩn ngoại lệ cho người chấp hành án nhằm châm chước một số điều kiện tiêu chuẩn theo hướng có lợi hơn. Chẳng hạn, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhằm động viên tinh thần và huy động sức người, sức của toàn dân tộc trong kháng chiến nên diện các đối tượng được châm chước về thời gian ở tù khi xét đặc xá; như : Phạm nhân đã lập công trong thời gian ở trại, như dũng cảm xông vào lửa đạn cứu chữa tài sản Nhà nước, cứu chữa nạn nhân trong khi bị máy bay địch bắn phá; phạm nhân có người trong gia đình lập thành tích xuất sắc trong chiến đấu chống Mỹ cứu nước; phạm nhân có người trong gia đình bị thiệt hại nặng nề do chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ… Ngoài ra từ năm 1980 đến nay có thể châm chước rút ngắn về thời hạn ở tù khi xem xét tha hoặc giảm án với những trường hợp như: đã lập công trong thời gian ở trại; bản thân là thương, bệnh binh hoặc có công với cách mạng; có người ruột thịt là liệt sỹ hoặc đã lập thành tích xuất sắc trong lao động, sản xuất hoặc trong chiến đấu; là con đẻ hoặc con nuôi hợp pháp của Bà mẹ Việt Nam Anh hùng hoặc con của gia đình được Nhà nước tặng Bằng có công với nước; già yếu, bệnh tật; gia đình gặp nhiều khó khăn trong đời sống… Đây là những quy định cụ thể nhưng có lợi hơn, thể hiện tính công bằng, nhằm động viên kịp thời và khuyến khích người chấp hành cải tạo tốt, người có công lao với đất nước lầm lỗi. Tuy nhiên, những điều kiện và tiêu chuẩn này không cố định mà hằng năm quy định rất khác nhau. Chẳng hạn, tiêu chuẩn đặc xá năm 2002 đối với phạm nhân là phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 3 tuổi thì tiêu chuẩn đặc xá năm 2004-2005 cho phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 16 tuổi… Do yêu cầu thực tế nên các lần đặc xá năm 1998, 2000, 2002 đến nay có thêm điều kiện về việc thực hiện hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc thực hiện trách nhiệm bồi thường dân sự đã có tác động tích cực và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, khuyến khích thân nhân và bản thân phạm nhân có hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc bồi thường dân sự nhanh chóng đền bù, khắc phục hậu quả gây ra, nộp vào cho ngân sách Nhà nước hoặc trả cho người bị hại . 1.2.4 Đặc xá trong trường hợp đặc biệt Ngoài ra đối với đặc xá cho những trường hợp cụ thể thì không cần thiết phải có điều kiện gì và vào bất cứ khi nào có sự kiện phát sinh các cơ quan hữu quan xem xét kỹ lưỡng việc đặc xá có tác dụng, lợi ích lớn như thế nào đối với đất nước thì trình Chủ tịch xem xét, quyết định. 19 Những điều kiện, tiêu chuẩn để xét đặc xá và những quy định về trường hợp không xét đặc xá trong các giai đoạn, các năm khác nhau nêu trên thể hiện rõ tình hình thực tế, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước rất linh hoạt, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ ở từng giai đoạn cụ thể; mục đích và nhiệm vụ của Nhà nước từng năm, từng giai đoạn khác nhau. Như vậy, qua nghiên cứu các văn bản pháp luật về đặc xá và việc thực hiện đặc xá đã cho thấy, tiêu chuẩn và các điều kiện được xét đặc xá của Nhà nước ta như đã nêu ở phần trên có nhiều điều kiện, tiêu chuẩn không cố định mà tuỳ theo tình hình nhiệm vụ của đất nước, của dân tộc trong từng giai đoạn cụ thể, tuỳ thuộc vào yêu cầu chính trị, kinh tế, xã hội… của đất nước tại thời điểm đặc xá đã có quy định về phạm vi, đối tượng, điều kiện, tiêu chuẩn khác nhau để đặc xá. Do đó, khó có thể quy định điều kiện, tiêu chuẩn đặc xá ở một văn bản có giá trị pháp lý cao và có tính ổn định lâu dài như Luật hoặc các văn bản quy phạm pháp luật khác . 2. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục đặc xá 2.1. Về thẩm quyền đặc xá Thẩm quyền đặc xá ở các nước có quy định khác nhau phụ thuộc vào việc phân công, tổ chức thực hiện quyền lực trong bộ máy ở các nước, tùy thuộc vào tổ chức, chính thể, truyền thống. Do đó, thẩm quyền đặc xá ở các nước cũng quy định khác nhau, có nước do Nhà Vua, có nước do Tổng thống, có nước có sự phân chia thẩm quyền đặc xá (chẳng hạn đối với một số Nhà nước Liên bang ngoài Tổng thống thì một số Thống đốc Bang cũng có thẩm quyền đặc xá), tuy nhiên hầu hết thẩm quyền đặc xá đều thuộc quyền của Nguyên thủ - Người đứng đầu Nhà nước. Thẩm quyền đặc xá tại Việt Nam từ năm 1945 đến nay cũng có sự khác nhau do sự phân công, tổ chức của bộ máy Nhà nước và tình hình, điều kiện nhiệm vụ của đất nước trong từng giai đoạn, cụ thể là: 2.1.1 Giai đoạn từ 1945 đến năm 1959 Giai đoạn này có nhiều điểm đặc biệt là nhân dân ta vừa giành chính quyền - xây dựng Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân và giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp: Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chỉ hơn nửa 20 tháng sau ngày 19/9/1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký Sắc lệnh số 33D đặc xá đầu tiên (giai đoạn này chưa có Quốc hội, chỉ có Chính phủ lâm thời, hệ thống cơ quan hành pháp, tư pháp và hệ thống pháp luật còn sơ khai nhưng đặc xá đã được Nhà nước ta quan tâm từ ngày đầu thành lập nước, thể hiện tính nhân đạo, ưu việt của chế độ mới). Từ đó, các đợt đặc xá được thực hiện gần như định kỳ hàng năm; có một số năm có hai đợt đặc xá. Các thuật ngữ trong Sắc lệnh này là “ tội nhân”, “ phóng thích”. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp núp dưới bóng quan Đồng minh đã gây hấn ở Sài Gòn, thực tế cuộc chiến tranh giữ gìn độc lập của dân tộc đã bắt đầu ở Nam Bộ. Trước tình hình đó Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 77-B ngày 24/12/1945 đã ủy quyền ân giảm cho Ban thường vụ UBND Nam Bộ. Trong đó ghi rõ: “ Vậy nếu Tòa án quân sự tại Nam bộ tuyên án xử tử thì tội nhân có quyền đệ đơn lên Uỷ ban nhân dân Nam Bộ xin ân giảm. bản án sẽ hoãn thi hành chờ quyết nghị của Ban thường vụ Uỷ ban nhân dân Nam Bộ. Những nghị quyết cho hay không cho ân giảm của Ban thường vụ Uỷ ban nhân dân Nam Bộ sẽ coi như là quyết nghị của Chủ tịch Chính phủ - Điều 1”. Đầu năm 1946, khi nhân dân ta đã bầu ra Quốc hội, tháng 11/1946 Quốc hội đã ban hành Hiến pháp đầu tiên của nước ta, trong đó quy định thẩm quyền đặc xá thuộc Chủ tịch nước (Hiến pháp năm 1946 quy định: Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam DCCH, Phó Chủ tịch nước và Nội các). Ngày 19/12/1946 khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ trên toàn quốc Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ban hành Sắc lệnh số 04/SL ngày 28/12/1946; theo đó, Chủ tịch nước uỷ quyền cho Uỷ ban bảo vệ khu quyền ân xá, ân giảm, phóng thích các tội nhân do các Tòa án thường, Tòa án quân sự hoặc Tòa án binh đã kết án (trừ của Tòa án binh tại mặt trận), trên cơ sở đơn xin của tội nhân hoặc thân nhân của họ gửi cho Giám đốc Tư pháp khu trình lên Uỷ ban bảo vệ khu quyết định. Đồng thời trong cuộc kháng chiến có một số năm Chủ tịch nước vẫn ban hành lệnh đặc xá cho người chấp hành hình phạt. Sau Hiệp định Giơnevơ đất nước ta tạm thời chia làm hai miền chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Cách mạng nước ta lại chuyển sang hai nhiệm vụ là Miền Bắc nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội làm thành trì, hậu phương vững chắc cho Cách mạng miền Nam đấu tranh thống nhất đất nước. Công tác đặc xá phục vụ nhiệm vụ thực hiện các chính sách của Nhà nước, góp phần vào việc ổn định trật tự xã hội mới; hoạt động đặc xá được thực hiện theo quy định của Hiến pháp năm 1946. 21 2.1.2 Giai đoạn từ năm 1959 đến 1980 Đáng lưu ý trong giai đoạn này từ năm 1964 đến năm 1973 miền Bắc đồng thời lại phải chống trả cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ và ngày 30/4/1975 cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã hoàn thành, đất nước ta đã thống nhất, cả nước bước vào giai đoạn mới. Theo quy định tại Hiếp pháp năm 1959 thì đại xá thuộc thẩm quyền của Quốc hội; Uỷ ban thường vụ Quốc hội - là cơ quan thường trực của Quốc hội có thẩm quyền đặc xá. Chủ tịch nước Việt Nam DCCH là người thay mặt cho Nhà nước về mặt đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố lệnh đại xá, đặc xá. 2.1.3 Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 Theo quy định tại Hiếp pháp năm 1980 thì đại xá thuộc thẩm quyền của Quốc hội; Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thẩm quyền đặc xá; Năm 1985 Nhà nước ban hành Bộ luật Hình sự, năm 1989 Bộ luật tố tung hình sự trong đó đã quy định nhiều nội dung quan trọng, liên quan đến việc giảm án tha tù theo pháp luật tố tụng hình sự , quá trình thi hành án tử hình và việc xin ân giảm của người bị kết án tử hình đến Chủ tịch nước. Đồng thời năm 1986 dưới sự lãnh đạo của Đảng cả nước tiến hành công cuộc đổi mới sâu sắc, toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vấn đề này có tác động lớn và có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác đặc xá nói riêng. 2.1.4 Giai đoạn từ năm 1992 đến nay Theo quy định tại Hiếp pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì đại xá thuộc thẩm quyền của Quốc hội và đặc xá thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước. Trong điều kiện đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực trong đó có cải cách tư pháp, công tác đặc xá có những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực ngày đi vào nền nếp. 2.2 Cơ quan, tổ chức giúp việc và trình tự, thủ tục đặc xá Để thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình theo quy định tại Hiến pháp và pháp luật, trong công tác đặc xá Chủ tịch nước có những bộ phận giúp việc từ khâu báo cáo tình hình chung, tham mưu giải pháp, đề xuất kiến nghị những vấn đề liên quan đến đặc xá để Chủ tịch nước xem xét (qua nhiều kênh), quyết định, sau đó các cơ quan, tổ chức hữu quan tổ chức thực hiện. Nhưng do hoạt động đặc 22 xá không thường xuyên, có năm không tổ chức, có năm có hoặc tổ chức vài đợt; số lượng công việc nhiều ít khác nhau nên cơ quan, tổ chức tham gia giúp việc đặc xá cũng khác nhau, đều không phải là cơ quan hoạt động về đặc xá chuyên trách mà chỉ có tính chất lâm thời, hoàn thành đợt đặc xá là thôi; cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ của các ngành hữu quan theo chức năng nhiệm vụ chính của mình làm công tác đặc xá kiêm nhiệm theo sự phân công. Quá trình tổ chức thực hiện đặc xá ở nước ta từ năm 1945 đến nay trên cơ sở của pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước trong từng giai đoạn, với trình tự, thủ tục và cơ quan giúp việc cũng khác nhau: Trong các đợt đặc xá đầu tiên đều chiểu theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; công tác đặc xá chủ yếu do Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với một số cơ quan hữu quan tổ chức thực hiện. Trong những năm sau này, pháp luật đã quy định cụ thể hơn về việc lập hồ sơ và xét duyệt, quyết định đặc xá. Như Thông tư số 413- TTg ngày 09/11/1954 của Thủ tướng Chính phủ quy định : Uỷ ban hành chính tỉnh và khu duyệt danh sách do tiểu ban gồm đại biểu Công an và Tư pháp lập ra, trình Bộ Công an và Bộ Tư pháp chuẩn y. Đặc biệt theo Thông tư liên bộ số 73/TTLB ngày 11/8/1959 của liên ngành Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Viện Công tố Trung ương, TANDTC, quy định điều kiện và thủ tục xử tha tù trước thời hạn có hình thức xét giảm án tha tù phải thông qua một hội đồng xét xử của Toà án, gồm chánh án và hai hội thẩm nhân dân… có sự tham gia của đại diện Viện Công tố cùng cấp và không cần sự có mặt của phạm nhân. Đây là lần duy nhất có quy định thủ tục này khi xét đặc xá và cũng là tiền đề cho việc xét giảm án tha tù được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1989 và hiện nay vẫn đang thực hiện. Trong các năm 1966-1988, Thông tư liên ngành số 451/TT-ĐX ngày 30/9/1966 đã quy định việc thành lập hội đồng đặc xá cấp tỉnh và hội đồng đặc xá Trung ương để xét và quyết định đặc xá . Cho tới các năm 1985 - 1988, thành phần tham gia hội đồng đặc xá chủ yếu vẫn là 3 cơ quan Công an, Kiểm sát và Toà án; ở Trung ương hội đồng đặc xá xét duyệt và quyết định đặc xá cho phạm nhân tại các trại của Bộ và phạm nhân có án tù trên 10 năm trở lên tại các trại giam địa phương. ở cấp tỉnh, hội đồng đặc xá địa phương xét duyệt và quyết định đặc xá cho phạm nhân có án tù dưới 10 năm tại trại giam của địa phương mình . Về trình tự, thủ tục, giám thị các trại tạm giam, trại cải tạo địa phương làm đề nghị đặc xá cho phạm nhân đang cải tạo ở trại, gửi lên hội đồng đặc xá duyệt theo thẩm quyền. Hội đồng đặc xá các cấp do Viện kiểm sát nhân dân chủ trì. Việc xét duyệt đặc xá của hội đồng đặc xá theo nguyên tắc bàn bạc tập thể nhất trí; biên bản họp được coi như quyết định của hội đồng đặc xá. Toà án nhân dân thay mặt 23 hội đồng đặc xá ký quyết định tha, giảm hạn tù cho phạm nhân, sau khi Chủ tịch Hội đồng Nhà nước công bố lệnh đặc xá. Năm 1990. Hội đồng tư vấn đặc xá Trung ương (gồm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng làm chủ tịch, các uỷ viên là Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Tổng thư ký Uỷ ban Trung ươnng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) chịu trách nhiệm xem xét hồ sơ, duyệt danh sách và đề nghị lên Chủ tịch nước quyết định. Hội đồng tư vấn cấp tỉnh gồm các cán bộ tương ứng ở cấp tỉnh, do Chủ tịch UBND tỉnh làm chủ tịch. Công an cấp tỉnh có trách nhiệm lập hồ sơ, danh sách phạm phân và người bị tập trung giáo dục cải tạo ở các trại do địa phương quản lý thuộc diện được đặc xá để Hội đồng tư vấn đặc xá cấp tỉnh xét duyệt và gửi lên Hội đồng tư vấn đặc xá trung ương. Bộ Công an có trách nhiệm lập hồ sơ danh sách phạm nhân và người bị tập trung giáo dục cải tạo ở các trại do Bộ quản lý thuộc diện được đặc xá và gửi lên Hội đồng tư vấn trung ương. Hội đồng tư vấn trung ương xét duyệt, lập danh sách trình Hội đồng Nhà nước quyết định . Năm 1995. Việc xét duyệt hồ sơ và lập danh sách người được đặc xá thực hiện tương tự năm 1993; nhưng thành phần Hội đồng tư vấn đặc xá trung ương có thêm Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động và Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam. Hội đồng tư vấn đặc xá cấp tỉnh do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập, thành phần gồm thủ trưởng các cơ quan tương ứng ở cấp tỉnh. Bộ Quốc phòng thành lập Hội đồng tư vấn đặc xá của Bộ để xem xét những phạm nhân thuộc Bộ Quốc phòng quản lý trình Hội đồng tư vấn đặc xá trung ương duyệt . Về cơ bản, trình tự , thủ tục tương tự trước đây nhưng được hướng dẫn cụ thể, chặt chẽ hơn bằng các văn bản của Hội đồng tư vấn đặc xá trung ương và Toà án nhân dân tối cao; như có sự phân công trách nhiệm của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn, chỉ đạo ngành, lĩnh vực phụ trách trong công tác chuẩn bị lập, tập hợp hồ sơ cho các đối tượng được xét đặc xá, sau đó chuyển đến thường trực Hội đồng tư vấn đặc xá trung ương (Bộ trưởng Bộ Công an), đề nghị danh sách người được đặc xá để Hội đồng tư vấn đặc xá trung ương xét duyệt, trình Chủ tịch nước quyết định . - Hội đồng tư vấn đặc xá địa phương hướng dẫn chỉ đạo chính quyền địa phương , các trại giam, trại giam và các cơ quan liên quan xét duyệt danh sách đặc xá trình Hội đồng tư vấn đặc xá trung ương .. 24 - Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan , các cơ quan y tế có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời các chứng nhận, kết luận có liên quan đến việc đặc xá như : Chứng nhận là lao động duy nhất trong gia đình , phụ nữ có con nhỏ dưới 3 tuổi không có người nuôi dưỡng; gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, mắc bệnh hiểm nghèo, ốm nặng kéo dài…. Các năm 1998 – 2004. Hội đồng tư vấn đặc xá trung ương được bổ sung nhiều thành phần mới như: Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước, Bộ trưởng – Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng ban Nội chính trung ương… Về cơ bản trình tự, thủ tục đặc xá thực hiện tương tự như năm 1998 ngoài ra, có sự tham gia lập hồ sơ và xem xét danh sách đặc xá của Hội đồng đề nghị đặc xá được thành lập tại các trại giam, trại tạm giam, danh sách do quản giáo và tập thể hội đồng phạm nhân lựa chọn. Việc đề nghị đặc xá cho người tạm đình chỉ hoặc hoãn thi hành án do Toà án nơi đã ra quyết định cho tạm đình chỉ hoặc hoãn thi hành án làm, trên cơ sở tài liệu và nhận xét của chính quyền cấp xã nơi người bị kết án cư trú. Hội đồng tư vấn đặc xá trung ương cử các tổ chuyên viên liên ngành xuống các địa phương và trại giam để kiểm tra và thẩm định hồ sơ của người được đề nghị đặc xá . Riêng năm 2004, thủ tục xác nhận đối với các phạm nhân có tình tiết đặc biệt được qui định đơn giản hơn, chỉ cần Uỷ ban nhân dân cấp xã xác nhận. Xác nhận về y tế đối với phạm nhân nhiễm HIV chuyển sang AIDS chỉ cần bản sao bệnh án của trung tâm y tế cấp huyện . 3. Những kết quả đã đạt được trong công tác đặc xá 3.1 Mặt tích cực Đặc xá thể hiện nhân đạo, ưu việt của chế độ ta, nhận thức rõ điều đó khi có quyết định đặc xá của Chủ tịch nước mặc dù quá trình thực hiện khối lượng công việc lớn, tính chất phức tạp nhưng các cơ quan, tổ chức hữu quan và từng cán bộ, chiến sỹ tham gia công tác đặc xá đặc xá từ các cơ quan Trung ương đến các địa phương, trại giam, trại tạm giam đã có nhiều cố gắng, nỗ lực vượt qua khó khăn, phấn đấu hoàn thành xuất sắc niệm vụ được giao, thực hiện nghiêm túc quyết định của Chủ tịch nước. Kết quả đạt được về công tác đặc xá trong thời gian qua đã góp phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, ổn định xã hội để thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước ở từng giai đoạn; công tác này ngày càng vào nền nếp, hiệu quả cao, nhất là những năm đổi mới của đất nước đã đạt được khối lượng công việc rất lớn, chỉ riêng trong thời gian 5 năm gần đây (từ năm 2002-2007) Chủ tịch nước đã ân giảm 25 cho hàng trăm người bị kết án tử hình xuống tù chung thân; đặc xá tha tù trước thời hạn cho hàng chục ngàn phạm nhân, việc xét đặc xá được thực hiện rất thận trọng, khách quan, dân chủ chính xác. Kết quả trên được đông đảo nhân dân đồng tình. Trong điều kiện là nước đang phát triển, kinh tế còn nhiều khó khăn, ngân sách còn eo hẹp nhưng Nhà nước ta dành khoản không nhỏ đầu công sức và tiền của để thực hiện đặc xá nên được dư luận thế giới hoan nghênh và đánh giá cao về tính nhân đạo. Kết quả đặc xá đã đạt được kết quả to lớn, có ý nghĩa tích cực về nhiều mặt khẳng định chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước là đúng đắn, đồng thời thể hiện đúng bản chất của Nhà nước ta là của dân, do dân và vì dân. 3.2 Những tồn tại, hạn chế Bên cạnh những thành tựu nêu trên trong công tác này còn một số hạn chế như sau: Do đặc thù của hoạt động đặc xá chưa có văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, ổn định để điều chỉnh lĩnh vực này mà mọi hoạt động được thực hiện trên cơ sở quyết định hằng năm của Chủ tịch nước, sau đó là hướng dẫn của các bộ, ngành hữu quan trong đIều kiện thời gian tổ chức thực hiện có hạn, yêu cầu phải đạt tiến độ với khối lượng công việc rất lớn, tính chất lại phức tạp, để bảo đảm chính xác nhiều trường hợp phải đi xác minh tại nhiều nơi, trình qua nhiều cấp nên trong hoạt động nhiều khi bị động, nhận thức một số cơ sở có lúc chưa thống nhất bởi vậy khó có thể loại trừ hiện tượng không chính xác, sơ hở hoặc không công bằng trong quá trình tổ chức thực của quá trình xét duyệt hồ sơ dẫn đến có người có đủ tiêu chuẩn nhưng không được hoặc không kịp xét duyệt; có một số trường hợp chưa đủ điều kiện những được lập danh sách đưa vào diện xét, một số trường hợp được đặc xá lại tái phạm, các biệt có trường hợp tái phạm vào tội cũ với lỗi cố ý…làm ảnh hưởng xấu đến công tác đặc xá. Điều kiện quan trọng để được đặc xá là phạm nhân phải được xếp loại cải tạo tốt; nhưng các qui định cụ thể về việc đánh giá, nhận xét, xếp loại cải tạo tốt theo thời gian và quá trình cải tạo đối với từng loại tội chưa được chuẩn hoá bằng văn bản pháp luật. Do vậy, cơ sở nhận xét xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù của giám thị trại giam gặp khó khăn, thiếu chính xác và không tránh khỏi sự tuỳ tiện theo nhận thức chủ quan của người lập hồ sơ. Trong điều kiện đất nước mở cửa và hội nhập với các nước trên thể giới, nhiều người nước ngoài đến làm ăn, sinh sống tại nước ta và dẫn đến tình trạng họ phạm tội và bị xử lý là khách quan, hiện có hàng trăm người nước ngoài thuộc nhiều quốc tịch đang chấp hành hình phạt ở nước ta, tuy nhiên với chính sách công 26 bằng Nhà nước ta cũng cho họ được hưởng những quyền lợi và nghĩa vụ như những phạm nhân là người Việt Nam. Bởi vậy việc xem xét đặc xá cho họ cũng được thực hiện và lại nảy sinh ra một số vấn đề là nhiều trường hợp sau khi đã có quyết định đặc xá nhưng các trại giam, trại tạm giam chưa thể tha được, do không liên hệ được với cơ quan đại diện nước ngoài, hoặc phía nước ngoài không nhận do không xác định được địa chỉ cư trú, nhân thân của người được đặc xá. Việc nuôi dưỡng, chăm sóc những người này trong một thời gian dài đã gây không ít khó khăn cho các cơ sở giam giữ, đặc biệt đối với người bệnh hiểm nghèo. Nguyên nhân chủ yếu do các cơ quan chức năng của ta không chủ động liên hệ từ trước với cơ quan đại diện của nước mà phạm nhân mang quốc tịch; mặt khác, cũng do ta chưa có văn bản qui định cụ thể về vấn đề này . 3.3 Công tác tiếp nhận và giúp đỡ người được đặc xá còn hạn chế, tỷ lệ tái phạm cao Việc hướng dẫn làm các thủ tục tiếp nhận người được đặc xá ở một số nơi còn chậm, chưa kịp thời, đầy đủ, vì vậy làm ảnh hưởng tới nhiều công tác trong quản lý. Một số địa phương chưa thực sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện để người được đặc xá ổn định cuộc sống. Vai trò của các ban, ngành, đoàn thể tham gia quản lý, giúp đỡ tạo việc làm chưa được thường xuyên, ít hiệu quả, còn định kiến về quá khứ phạm tội của người được đặc xá. Mặc dù tình hình người phạm tội ( kể cả tái phạm) do nhiều nguyên nhân trong đó có yếu tố khách quan, tuy nhiên đối với trường hợp người được đặc xá lại tái phạm, nhất là lại tái phạm vào tội cũ với lỗi cố ý thì sẽ tạo dư luận không tốt trong nhân dân. 4. Một số vấn đề về pháp luật về đặc xá Qua nghiên cứu về pháp luật đặc xá ở nước ta từ năm 1945 đến nay thấy rằng cơ sở pháp lý để đặc xá được ghi nhận rất đơn giản trong Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước, theo đó chỉ quy định đặc xá thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể hoặc của người đứng đầu Nhà nước, ngoài ra không có văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, mang tính ổn định, lâu dài để điều chỉnh lĩnh vực người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù (trừ ân giảm người bị kết án tử hình), như Bộ luật, Luật của Quốc hội hoặc Pháp lệnh của UBTVQH mà chỉ trên cơ sở tuỳ theo tình hình thực tế của mỗi năm mà Nhà nước có chủ trương đặc xá thông qua các văn bản pháp luật như các sắc lệnh, quyết định, nghị quyết … của Chủ tịch nước, Hội đồng Nhà nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội về chủ trương đặc xá của năm. Trên cơ sở đó lại giao cho các bộ, ngành hoặc cơ quan tư vấn đặc 27 xá ban hành thông tư hoặc các văn bản khác hướng dẫn cụ thể. Có thể thấy rằng lĩnh vực này rất quan trọng trong đời sống xã hội, sớm được Nhà nước thực hiện ngày từ khi mới giành được chính quyền năm 1945 và suốt hơn 60 năm qua công tác này luôn luôn được Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao để điều chỉnh lĩnh vực này là vấn đề không đơn giản xuất phát từ những biến đổi liên tục, không ổn định của nội dung quan trọng là tiêu chuẩn, điều kiện của đối tượng được xét đặc xá hoặc trình tự, thủ tục và các cơ quan tổ chức tham gia giúp việc đặc xá hàng năm cũng khác nhau, chẳng hạn trong quá trình giúp việc thực hiện đặc xá thì vị trí, vai trò của từng cơ quan, tổ chức có khác nhau, trong đó vai trò đặc biệt của Bộ Công an, Bộ Quốc Phòng là những cơ quan trực tiếp quản lý đối tượng, khi có Lệnh của Chủ tịch nước và văn bản của Chủ tịch Hội đồng tư vấn đặc xá trung ương - thì những ngành này hầu như tập trung lực lượng của bộ phận nghiệp vụ chuyên môn, huy động hệ thống tổ chức quản lý liên quan của mình vào cuộc thực hiện toàn bộ quá trình từ công tác chủ động tham mưu, đề xuất, kiến nghị biện pháp, trực tiếp chỉ đạo các khâu, các việc cụ thể trong quá trình tổ chức thực hiện và công tác nắm bắt, quản lý sau đặc xá với quy trình, thủ tục theo quy định; Vai trò của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Ngoại giao và Văn phòng Chủ tịch nước tích cực thực hiện trách nhiệm trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; Của các cơ quan, tổ chức hữu quan với sự tham gia phối hợp mức độ khác nhau… Do hoạt động mang tính lâm thời việc xác định trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình đặc xá cũng là vấn đề cần nghiên cứu, chẳng hạn việc xác định trách nhiệm giải quyết đơn thư đề nghị xét đặc xá, chẳng hạn trong quá trình triển xét đặc xá đợt 2/9/2004 Thường trực HĐTVĐXTW đã tiếp nhận 73 đơn đề nghị đặc xá cho phạm nhân (có 67 đơn thư của công dân, 6 đơn thư của các cơ quan, tổ chức xã hội) Thường trực HĐTVĐXTW đã chuyển các đơn đến HĐTVĐX các tỉnh, thành phố và Hội đồng xét đặc xá các trại giam xem xét giải quyết, kết quả có 7 phạm nhân có đủ điều kiện đề nghị xét đặc xá, còn 66 trường hợp không đủ điều kiện. Với xu thế trong những năm tiếp theo với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân sẽ đẩy mạnh hoạt động đặc xá thì vấn dề đặt ra là việc xác định trách nhiệm, thủ tục giải quyết đơn khiếu nại tố cáo trong quá trình này cũng cần được đặt ra, mặc dầu vấn đề này rất phức tạp và tế nhị nhưng cũng cần được nghiên cứu để có giải pháp thoả đáng. Những nội dung nêu trên cũng là những vấn đề tranh luận khá sôi nổi của các nhà khoa học, của những người làm công tác thực tế về việc ban hành Luật đặc xá cũng như đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Luật./. 28 29 TÀI LIỆU THAM KHẢO Một số sắc lệnh, văn bản về đặc xá từ năm 1945 đến nay; Bộ luật hình sự năm 1985 và 1999; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 – Tập 1, Phần chung – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2004; Bộ luật tố tụng hình sự năm 1989, năm 2003 và bình luận Bộ luật tố tụng hình sự. Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam – PGS.TS Phạm Hồng Hải (Sách chuyên khảo – Nhà xuất bản Công an nhân dân – 2003); Một số quyết định về đặc xá, Hướng dẫn đặc xá của Hội đồng đặc xá trung ương; Báo cáo kết quả giám giám công tác thi hành án hình sự năm 2006; Báo cáo tổng kết công tác đặc xá một số năm; Báo cáo của Chính phủ, của VKSNDTC và của TANDTC về công tác thi hành án năm 2000 – 2005; Tội phạm học luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam - Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia; Nghị quyết số 08 ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49 ngày 22/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược công tác tư pháp đến năm 2020; Quy định đặc xá của một số nước;

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfThực trạng công tác đặc xá.pdf
Luận văn liên quan