Thực trạng của lạm phát ở nước ta và một số biện pháp hạn chế, đẩy lùi lạm phát

MỤC LỤC: Lý do chọn đề tài: 1 Mục đích: 1 Chương I: Lịch sử của đề tài. 2 Chương II: Khái niệm, nguyên nhân và tác động của lạm phát. 5 I. Khái niệm về lạm phát:. 5 1. Lạm phát là gì?. 5 2. Phân loại lạm phát. 6 3. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế: 8 II. Nguyên nhân gây ra lạm phát:. 14 1. Nguyên nhân của lạm phát: 14 2. Ai là người chịu tác động của lạm phát?. 15 III.Tác động của lạm phát.:. 16 1. Tái phân phối lại thu nhập: 17 2. Tác động đến tăng trưởng kinh tế: 18 3. Các tác động khác đối với lạm phát. 18 Chương III:Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay. 20 I. Thực trạng của lạm phát:. 20 II. Nguyên nhân cơ bản của thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay:. 23 III.Một số biểu đồ thể hiện tình hình lạm phát ở nước ta hiện nay. 24 Chương IV: Một số biện pháp hạn chế lạm phát. 27 1. Chính sách siết chặt cung tiền tệ. 27 2. Kiềm chế giá cả. 28 3. Ấn định mức lãi suất cao. 28 4. Giảm chi tiêu của ngân sách. 28 5. Biện pháp hạn chế tăng tiền lương. 29 6. Biện pháp lạm phát chống lạm phát. 30 7. Thực hiện một chiến lược thị trường cạnh tranh toàn cầu. 30 8. Chính sách thu nhập dựa trên thuế. 30 9. Mua lấy một tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát. 30 ØLý do chọn đề tài: Thời gian gần đây, chúng ta thường nghe trên đài báo một vấn đề được nhắc tới nhiều nhất và nổi cộm nhất đó là vấn đề “Lạm phát”. Lạm phát đang xảy ra không chỉ ở trong nước ta, mà là vấn đề của cả thế giới hiện nay. Trước tình trạng gi nhiên liệu, đặc biệt là giá dầu thô và giá lương thực không ngừng leo thang, cùng với đó là sự suy giảm mạnh của nền kinh tế Mỹ đã đẩy nền kinh tế thế giới đi vào một cuộc khủng hoảng. Rất nhiều nước nghèo mà đồng tiền của họ bị trượt giá quá nhanh, người dân ở đó đang phải sống rất khó khăn và nghèo đói luôn bao trùm lấy họ. Giá lương thực tăng cao làm cho người dân phải hứng chịu rất nhiều khó khăn. Theo một số chuyên gia kinh tế thì “kỷ nguyên của giá rẻ đã kết thúc, chúng ta phải đối mặt với tình trạng giá cả leo thang”. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế. Nghiên cứu lạm phát, kiềm chế và chống lạm phát được ở nhiều quốc gia trên thế giới. Càng ngày cùng lúc với sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế, và nguyên nhân của lạm phát cũng ngày phức tạp. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điếu tiết của nhà nước, việc nghiên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát có vai trò to lớn góp phần vào sự phát triển của đất nước. ØMục đích: Nêu được thực trạng của lạm phát ở nước ta hiện nay đồng thời đưa ra được một số biện pháp hạn chế để đẩy lùi lạm phát.

docx33 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2870 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng của lạm phát ở nước ta và một số biện pháp hạn chế, đẩy lùi lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng kết quả khơng đáng kể. Nội lực của nền kinh tế bị thương tổn nghiêm trọng. Tăng trưởng kinh tế của VN từ 1992 đến 1996 đạt đến 9% năm, nhưng từ 1997 thì giảm dần. Một số báo cáo cho rằng do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế châu Á. Đĩ là cách lý giải mà ngay từ lúc đĩ cũng khơng cĩ sức thuyết phục. Dấu ấn của chính sách tỷ giá, tiền tệ các năm đĩ lớn hơn là ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực. Chính là cơ chế cứng nhắc cùng với tỷ giá đồng nội tệ cao đã làm mất đi cơ hội của đất nước khi mà dịng FDI thế giới đang hướng mạnh vào. Thâm hụt thương mại do tỷ giá và cũng được giải quyết bởi tỷ giá (Số liệu do tác giả tính tốn). Kết quả kỳ diệu của cơ chế tỷ giá năm 1997 Đồng nội tệ đã bị đánh giá cao cùng với tỷ giá bị cố định cứng trong khoảng thời gian dài từ 1992 đến 1996 đã thúc đẩy nhập khẩu ồ ạt. Do vậy, thâm hụt thương mại liên tục tăng để lên đến đỉnh cao hơn 45% vào năm 1995. Năm 1997, lần đầu tiên cơ chế xơ cứng của tỷ giá được điều chỉnh và kết quả thật kỳ diệu. Liên tục trong 4 năm thâm hụt thương mại giảm mạnh để chỉ cịn -1% vào năm 2000. Các năm 1999-2000 chỉ số giá chỉ tăng 0,1% và -0,6%. Tăng trưởng của GDP cũng thấp: 4,8% năm 1999 và 6,7% năm 2000. Giải pháp được đưa ra lúc này là kích cầu tăng trưởng thơng qua gia tăng chi tiêu cơng và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Chi tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ 5% năm 2000 lên trên 8% từ sau năm 2005. Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến 40% từ năm 2004 đến nay (2007). Từ đây các nhân tố lạm phát được nuơi dưỡng. Tốc độ tăng trưởng GDP thống kê qua các năm và ước tính cho 2008 (Số liệu do tác giả cung cấp). Đến hơm nay lạm phát quay trở lại Năm 2004 đã xuất hiện những dấu hiệu của cuộc lạm phát mới và được xác nhận lại vào năm 2005 nhưng đã khơng cĩ những giải pháp thoả đáng. Thậm chí đến giữa năm 2007 dấu hiệu trở nên rõ ràng hơn thì một lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước vẫn tuyên bố mạnh mẽ “lạm phát khơng thể đến mức hai con số”. Nếu nhìn lại trong vịng 3 thập kỷ qua, tính chu kỳ của nền kinh tế bộc lộ rõ hơn: cứ 10 năm lặp lại một lần. Suy thối diễn ra vào các năm x7, x8 sau khi đạt được đỉnh tăng trưởng trong các năm x4, x5, x6. Tuy nhiên, đến nay liệu chúng ta đã cĩ đủ kinh nghiệm để khơng bị cuốn theo chu kỳ? Kiểm chứng về chính sách từ lạm phát và hậu lạm phát năm 86 đến nay, cho thấy những lúc khĩ khăn nhất thì cĩ nhiều tiếng nĩi và cĩ sự lắng nghe hơn, xuất hiện những cải cách mạnh mẽ. Nhưng vào những lúc nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao dần thì nhiều quyết định được đưa ra rất bất ngờ, ít được tham vấn, tiếng nĩi đĩng gĩp cũng ít xuất hiện. Phải chăng đây là căn bệnh cố hữu khơng thể vượt qua? Chương II: Khái niệm, nguyên nhân và tác động của lạm phát. Khái niệm về lạm phát: Lạm phát là gì? Cĩ khá nhiều định nghĩa khác nhau về lạm phát thuộc các nhà kinh tế khác nhau. Karl Marx cho rằng: “lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá mức cần thiết”. V.L.Lenine cũng đưa ra một ý niệm tương tự “lạm phát là sự thừa ứ tiền giấy trong lưu thơng”. Vào thập niên 1960, Milton Friedman (thuộc trường phái trọng tiền) khẳng định rằng: “lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Theo thuyết trọng tiền (monetarism) – một trường phái lớn về kinh tế vĩ mơ cho rằng, cần phải chú ý đến tổng mức chi tiêu của xã hội và việc cung ứng tiền cho chi tiêu đĩ. Thuyết trọng tiền cho rằng tiền tệ là trung tâm của nền kinh tế, và việc cung ứng tiền là nhân tố quyết định những sự vận động của tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa trong ngắn hạn và nĩ là nhân tố quyết định đến giá cả trong dài hạn. Thực ra khơng nhất thiết bắt nguồn từ nguyên nhân là tiền tệ, tức là tăng lượng tiền cung ứng quá mức đối với nền kinh tế. Nhiều cuộc lạm phát xảy ra lại càng bắt nguồn từ giá hoặc xuất phát từ sự suy giảm trong tổng cung của chính nền kinh tế đĩ. R.Dornbusch và Fisher cho rằng: Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một thời gian nhất định. Nếu căn cứ vào biểu hiển của nĩ, ta cĩ thể đưa ra một khái miệm chung về lạm phát như sau: lạm phát diễn ra khi mà giá cả của tư liệu sản xuất tăng lên, cùng với việc tăng giá hàng tiêu dùng một cách liên tục và vững chắc, bên cạnh đĩ tiền lương danh nghĩa biểu hiện như là giá cả sức lao động cũng cĩ xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, thu nhập thực tế của người lao động nĩi chung cĩ lúc tăng tương ứng với lạm phát nhưng nhìn chung là suy giảm một cách nghiêm trọng. Điều cần lưu ý là chúng ta sử dụng khái niệm mức giá chung (theo từng “rỗ” hàng hĩa) chứ khơng phải căn cứ theo mức giá đơn lẻ, bởi vì rất cĩ thể trong khi giá cả chung tăng lên lại cĩ một số mặt hàng cĩ mức giá khơng tăng hoặc cĩ khi lại giảm so với trước, đồng thời giá cả các loại hàng hĩa tăng lên khơng phải theo cùng một loại tỷ lệ như nhau. Đề cập đến lạm phát, người ta thường cĩ hai khái niệm kèm theo đĩ là giảm phát hay cịn gọi là thiếu phát và giảm lạm phát. ªGiảm phát (deflation) là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống đi liền với việc giảm bớt thu nhập quốc dân và sản lượng. ªGiảm lạm phát (disinflation) là sự sụt giảm tỷ lệ lạm phát_nghĩa là mức giá chung vẫn tăng lên, tức vẫn cịn lạm phát, nhưng với mức độ thấp hơn trước, tức tốc độ tăng giá trở nên chậm lại. Cố định lạm phát ở mức thấp là mơi trường kinh tế vĩ mơ để khuyến khích tiết kiệm ,mở rộng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cả lạm phát quá cao và lạm phát quá thấp đều ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Phân loại lạm phát. Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát một con số biểu hiện mức tăng giá ở tỷ lệ thấp, dưới 10% trong một năm. Với loại lạm phát này mức giá cả tăng chậm, dược giới hạn ở mức một con số hàng trăm. Với lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm, đến nổi người ta khơng cảm nhận là đang cĩ lạm phát, và do đĩ dược coi như là giá cả tương đối ổn định. Trong tình hình này, dân chúng vẫn cịn tin vào giá trị của đồng tiền, và do vậy, người ta sẽ khơng lãng phí thời gian và sức lực để cố gắn bảo tồn của cải dưới các dạng tài sản phi tiền tệ. Lạm phát phi mã: là loại lạm phát hai hay ba con số, tức khoảng 10%, 50%, 200%, 300%, v.v…trong một năm.Với mức lạm phát này, mức độ tăng giá đã gây mức nghiêm trọng đối với nền kinh tế, biểu diễn bằng đồng tiền mất giá một cách nhanh chĩng, lãi suất thực giảm xuống dưới số 0 và cĩ nơi lãi suất thực giảm xuống đến 50% - 100% (-50% đến 100%/năm) và do vậy, nhân dân tránh giữ tiền mặt mà muốn bảo tồn của cải dưới dạng tài sản phi tiền tệ. Chính điều đĩ làm cho lạm phát càng trầm trọng thêm, đoi khi dẫn đến hiện tượng “xốy trơn ốc” rất nguy hiểm. Trong tình hình đĩ thị trường tài chính cĩ nguy cơ suy sụp. Trong thập niên năm 1980, cĩ nhiều nước đã lâm vào tình trạng lạm phát phi mã đến 700% như Việt Nam, Argentina, Brazil. Mặt dù vậy, cĩ những nước đang trong thời kì lạm phát phi mã nhưng vẫn cĩ khả năng phát triển nền kinh tế,điển hình như Brazil và Ixraen vào thập niên 1970. Tuy nhiên, sự tăng trưởng đĩ đã bị biến dạng bởi phần lớn vốn đầu tư được đưa ra nước ngồi, làm giảm đầu tư trong nước. Siêu lạm phát: là loại lạm phát với tốc độ tăng giá trên 1000 lần/năm. Các cuộc siêu lạm phát điển hình như ở Đức xảy ra vào tháng 11-1923 với tỷ lệ 10.000.000 lần so với 1-1922. Một tờ séc cĩ giá trị 30.000.000 USD, sau 2 năm khơng mua nổi một chiếc kẹo cao su (từ 1921-1923 kho tiền của Đức tăng 7 tỷ lần). Sau này, ở các nước khác, siêu lạm phát diễn ra như Bolivia vào năm 1985 với tỷ lệ 50.000%. Thực tình, khơng thể nĩi bất kì điều tốt lành nào cho các cuộc siêu lạm phát cả. Dân chúng bị chìm ngập trong khối tiền tệ, lặng ngụp trong khối tiền tệ ấy để tìm kiếm một chút ít hàng hĩa, vì hàng hĩa đều hết sức khan hiếm. Chức năng quan trọng đầu tiên của tiền là làm phương tiện trao đổi, thì qua lạm phát, bị triệt tiêu. Cĩ sẵn tiền khơng dễ dàng gì mau được hàng vì khơng ai muốn bán hàng hĩa để rồi nhận lấy những đồng tiền luơn bị mất giá đến mức chống mặt. Trong bối cảnh đĩ, nền tài chính hồn tồn bị suy sụp, nhiều giao dịch diễn ra trên cơ sở hàng đổi hàng, và chức năng tồn trữ giá trị bằng tiền thay bằng việc tồn trữ bằng hàng hĩa. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế: Khơng lúc nào như thời gian từ đầu năm 2008 đến nay, vấn đề lạm phát và tăng trưởng thu hút sự quan tâm của nhiều giới khác nhau: từ người dân thường mỗi ngày khi ra chợ cĩ cảm nhận như mình bị mĩc túi; các chủ doanh nghiệp phải vật lộn với những toan tính từ chi phí vật tư, hàng hố, dịch vụ, lương cơng nhân đến giá thành, giá bán, thị trường cung cấp vật tư, hàng hố và tiêu thụ sản phẩm; các chủ nhà băng tính tốn lãi suất huy động và cho vay như thế nào vừa để thu hút tiền gửi của người gửi tiền và người vay vốn cĩ thể chấp nhận với lãi suất cao hơn; các nhà lập pháp, hành pháp và hoạch định chính sách đau đầu về những đơn thuốc chữa trị cho nền kinh tế khi lâm vào bão bệnh “lạm phát cường độ cao”, hậu quả là tăng trưởng bị suy giảm, đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, người cĩ thu nhập thấp gặp khĩ khăn; trong dài hạn, Chính phủ lại lo ngại khi tăng trưởng kinh tế bị suy giảm gây hậu quả giảm phát, làm cho đời sống của các tầng lớp dân cư càng gặp khĩ khăn hơn, sức mua giảm dẫn đến kinh tế bị suy thối, những ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng tài chính từ nước Mỹ và tồn cầu đang tác động xấu đến nền kinh tế nước ta, thị trường xuất khẩu hàng hố bị giảm sút, vốn đầu tư gián tiếp cĩ nguy cơ bị rút khỏi thị trường chứng khốn, vốn đầu tư trực tiếp khơng thực hiện được như cam kết. Để kích thích nền kinh tế, trong lúc tích luỹ của nền kinh tế, dự trữ ngân sách, dự trữ ngoại hối của nước ta cịn rất hạn hẹp, Nhà nước ta khơng đủ nguồn lực để cung cấp các gĩi kích thích nền kinh tế như các nước phát triển hoặc như Trung Quốc, Ấn Độ với hàng trăm tỷ đơ la; Nhà nước chỉ cĩ những khoản kích thích bằng tăng vốn đầu tư trực tiếp cho sản xuất nơng nghiệp, nơng thơn, xuất khẩu, trợ cấp bằng tăng các khoản cho vay, giảm thuế, giảm lãi suất cho vay, tăng lương hoặc giảm giờ làm việc, giảm giá hàng hố, dịch vụ hoặc tăng trợ cấp cho các đối tượng chính sách. Để làm rõ mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng, đã cĩ nhiều cơng trình nghiên cứu của các nhà kinh tế trong nước và thế giới, về lý thuyết và thực nghiệm cĩ thể tĩm tắt như sau: Lý thuyết về lạm phát và tăng trưởng. Về lý thuyết, lạm phát cĩ thể tác động tiêu cực lẫn tích cực lên tăng trưởng kinh tế: Theo Mundell (1965) và Tobin (1965), cĩ mối tương quan tỉ lệ thuận giữa lạm phát và tăng trưởng; hai trường phái Keynes và trường phái tiền tệ đều cho rằng trong ngắn hạn, chính sách nới lỏng tiền tệ kích thích tăng trưởng, đồng thời làm gia tăng lạm phát; đường cong Phillips nổi tiếng về sự đánh đổi giữa mục tiêu lạm phát và thất nghiệp. - Stagflation nghĩa là suy thối và lạm phát, tình trạng nền kinh tế vừa cĩ những dấu hiệu của lạm phát, mà cơ bản nhất là giá cả leo thang, tiền mất giá nhưng lại vừa cĩ những biểu hiện của suy thối như sản xuất đình trệ, thất nghiệp gia tăng, lạm phát cao, tăng trưởng thấp. - Lạm phát cĩ thể tác động tiêu cực lên tăng trưởng như: dấu hiệu bất ổn kinh tế vĩ mơ; tăng sự khơng chắc chắn của các hoạt động đầu tư; lạm phát làm thay đổi giá cả tương đối, làm méo mĩ quá trình phân bổ nguồn lực; lạm phát cịn được xem như là một loại thuế đánh vào nền kinh tế. Các nghiên cứu kiểm nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. - Nghiên cứu ban đầu (những năm 60) khơng tìm thấy mối quan hệ cĩ ý nghĩa thống kê nào. - Giai đoạn sau khủng hoảng dầu hỏa 1973-1974, tìm thấy quan hệ âm giữa lạm phát và tăng trưởng (Fischer, 1993; Bruno và Easterly, 1995; Barro, 1998). Lạm phát và tăng trưởng trên thế giới. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng là phi tuyến tính. Lạm phát chỉ tác động tiêu cực lên tăng trưởng khi đạt ngưỡng nhất định nào đĩ (threshold). Ở mức dưới ngưỡng, lạm phát khơng nhất thiết tác động tiêu cực lên tăng trưởng, thậm chí cĩ thể tác động dương như lý thuyết Keynes đề cập. & Kết quả kiểm nghiệm ảnh hưởng ngưỡng của lạm phát - Nghiên cứu của Khan và Senhadji (2001): 140 nước, giai đoạn 1960-1998. Các nước đang phát triển, ngưỡng lạm phát từ 11-12%/năm. - Nghiên cứu của Li (2006): Số liệu cho 90 nước đang phát triển, giai đoạn 1961-2004, ngưỡng là 14%/năm. - Nghiên cứu của Christoffersen và Doyle (1998) tìm ra ngưỡng là 13% cho các nền kinh tế chuyển đổi. & Kết luận: ngưỡng tiêu cực của lạm phát là từ 11%-14% trở lên. Tương đồng với nghiên cứu trên, tác giả Tú Anh - Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng cho rằng: giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường cĩ mối quan hệ nhất định. Tuy nhiên, mức độ gắn kết như thế nào là vấn đề cịn tranh cãi. Một số nghiên cứu và thực nghiệm cho thấy, lạm phát cĩ thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế khi nĩ vượt qua một ngưỡng nhất định. Fischer (1993) là người đầu tiên nghiên cứu vấn đề này đã kết luận, khi lạm phát tăng ở mức độ thấp, mối quan hệ này cĩ thể khơng tồn tại, hoặc mang tính đồng biến, và lạm phát ở mức cao mối quan hệ này là nghịch biến. Một số các nhà nghiên cứu sau này như Sarel (1996), Gosh và Phillips (1998), Shan và Senhadji (2001), và một số các nhà nghiên cứu khác đã cố gắng tìm ra đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Bằng các nghiên cứu khác nhau, họ đã tìm ra một ngưỡng lạm phát, mà tại ngưỡng đĩ nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ cĩ tác động tiêu cực (tác động ngược chiều) đến tăng trưởng. Theo Sarel, ngưỡng lạm phát là 8%, theo Shan và Senhadji, ngưỡng lạm phát cho các nước đang phát triển là 11-12%, các nước cơng nghiệp khoảng 1-3%. Gần đây nhất là nghiên cứu của tác giả Khan (2005) đã tập trung nghiên cứu xác định mức lạm phát tối ưu. Kết quả Khan đã tìm ra mức lạm phát tối ưu đối với các nước vùng Trung Đơng và Trung Á là khoảng 3,2%. Học thuyết kinh tế vĩ mơ đã khẳng định, nếu sản lượng thực tế vượt sản lượng tiềm năng sẽ làm lạm phát gia tăng. Thực tế 2005-2006, lạm phát thế giới gia tăng, ngồi nguyên nhân giá dầu cịn do nền kinh tế nhiều nước phát triển quá nĩng. Lạm phát và tăng trưởng ở Việt Nam. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam cũng phù hợp với lý thuyết và kết quả kiểm nghiệm trên thế giới. Ở mức lạm phát thấp (thường là một chữ số) thì lạm phát khơng cĩ tác động tiêu cực lên tăng trưởng. Ở mức lạm phát thấp, gia tăng lạm phát thường gắn liền với tăng trưởng cao hơn (giai đoạn 1992-2007). Tuy nhiên, khi lạm phát đạt đến một ngưỡng cao nhất định, thì lạm phát bắt đầu tác động tiêu cực lên tăng trưởng (giai đoạn trước 1992). Tuy nhiên, thời gian gần đây, ở Việt Nam xuất hiện thêm quan điểm mới, đĩ là “tỉ lệ lạm phát tốt nhất là khơng vượt quá tốc độ tăng trưởng”; đây là quan điểm của ơng Lê Đức Thuý, nguyên Thống đốc NHNN khi phát biểu quan điểm này trước Quốc hội: “Tơi cho rằng một nền kinh tế phát triển bền vững thì lạm phát ở mức thấp hơn tăng trưởng 1-2%. Chẳng hạn GDP năm 2006 là 8% thì lạm phát là 6-7%”. Theo PGS., TS. Nguyễn Ái Đồn, quan điểm này khơng cĩ cơ sở lý thuyết rõ ràng, khơng được khẳng định về mặt lý thuyết, đĩ là cách phát biểu mang tính ứng dụng trong những điều kiện nhất định; trên thực tế, luận điểm này đã trở thành nền tảng cho việc thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng kéo dài ở Việt Nam và hệ quả tất yếu là lạm phát ở mức báo động; theo đĩ, quan điểm về một tỉ lệ lạm phát tốt nhất là tỉ lệ lạm phát nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng, thực chất chỉ là một cách phát biểu sai lệch, pha trộn giữa một mức lạm phát mong muốn 1-3% và một mức lạm phát vừa phải cịn kiểm sốt được, tức là lạm phát dưới hai chữ số đã biến thành mức lạm phát tốt nhất (2); tương đồng với phân tích trên của PGS., TS. Đồn, Ơng Nguyễn Văn Phúc, Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh, cũng cho rằng: khơng cĩ cơ sở khoa học, khơng cĩ lý thuyết nào đề cập, khơng cĩ nghiên cứu kiểm nghiệm; ngưỡng tác động tiêu cực của lạm phát khơng phải là bằng tốc độ tăng GDP. Quan điểm về lạm phát theo ơng Lê Đức Thuý “Ngay ở nước ta, trong điều kiện bình thường, khơng ít nhà khoa học đã đề nghị tơi đẩy lạm phát lên cao hơn để thúc đẩy tăng trưởng. Thậm chí họ cho rằng, nếu Việt Nam muốn tăng trưởng cao thì lạm phát hai chữ số là bình thường. Nhưng với tơi, chừng nào cịn được giao nhiệm vụ này, sẽ tiếp tục theo đuổi quan điểm giữ cho lạm phát nằm trong tầm kiểm sốt, và tốc độ lạm phát tốt nhất là khơng vượt quá tốc độ tăng trưởng”. Việc muốn tăng cung tiền, chấp nhận lạm phát là hệ quả trực tiếp của quan điểm về lạm phát như: lạm phát, tăng cung tiền là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế; cĩ sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng, chấp nhận lạm phát để tăng trưởng; hai quan điểm này tuy khác nhau nhưng cĩ tác động bổ sung cho nhau và làm cho các nhà hoạch định chính sách tin rằng lạm phát cĩ lợi hơn là cĩ hại cho nền kinh tế (đặc biệt tỉ lệ lạm phát dưới hai chữ số), lạm phát tăng cung tiền để thêm vốn đầu tư từ ngân sách là giải pháp tốt nhất để đạt mức tăng trưởng nhanh. Cùng quan điểm tăng cung tiền là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, ý kiến của ơng Vũ Ngọc Nhung cho rằng “Lạm phát tạo vốn lớn và cực rẻ cho phát triển kinh tế, vốn phát hành tiền chỉ tốn chi phí in tiền nên cực rẻ”; hoặc “Lạm phát giúp ngân sách vay ngân hàng nhiều hơn để chi cho sản xuất, tăng thu nhập của người dân”. Các nhà kinh tế cho rằng tỉ lệ lạm phát cao, tác động tiêu cực đến sản lượng sản xuất của nền kinh tế thơng qua các kênh như đầu tư, tín dụng, tiêu dùng; người cho vay khơng cĩ động lực để cho vay vì lãi suất cho vay thường âm trong thời kỳ này và cho vay thời hạn càng dài càng bị lỗ, với chi phí huy động vốn cao, đẩy lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp dù thiếu vốn cũng rất e ngại vay vốn vì làm chi phí tăng cao, hệ quả là kênh tín dụng bị thu hẹp; những kết quả thực tế theo cơng bố của NHNN cho thấy dư nợ tín dụng 10 tháng đầu năm 2008 chỉ tăng hơn 19,6%, thấp hơn mức tăng 37,73% so với cùng kỳ năm 2007; tỉ lệ lạm phát cao làm cho thu nhập hộ gia đình giảm, chỉ số lạm phát đến tháng 10/2008 là 22,14% cũng cĩ nghĩa với việc giảm hơn 22% thu nhập so với cuối năm 2007. Mọi người phải tiết kiệm chi tiêu dẫn đến giảm tiêu dùng; các nhà đầu tư tiềm năng sẽ giảm đầu tư vì độ rủi ro cao và hậu quả là làm giảm sản lượng sản xuất của nền kinh tế. Như vậy, việc sử dụng lạm phát cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thực chất đây là liệu pháp “sốc” với mong muốn tăng trưởng nhanh để đạt được thành tích mong muốn, nhưng hậu quả tiêu cực gây ra cho nền kinh tế và ảnh hưởng đến đời sống của dân cư, nhất là tầng lớp nghèo, thu nhập thấp bị tác động nhiều nhất. Các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng, đây là giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng kém bền vững; hay cịn gọi đĩ là giải pháp tăng trưởng “bong bĩng”. Vì vậy, trong thời gian qua, đã cĩ nhiều ý kiến cần thay đổi quan điểm về lạm phát như ơng Lê Xuân Nghĩa và ơng Vũ Quang Việt để đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững. Lạm phát của Việt Nam gia tăng trong mấy năm gần đây, phải chăng cũng cĩ chịu ảnh hưởng bởi sự gia tăng sản lượng vượt mức tiềm năng? Theo đánh giá của IMF (2006) về các nguyên nhân làm tăng lạm phát ở Việt Nam, bắt đầu từ năm 2005, cĩ dấu hiệu bởi sự gia tăng sản lượng vượt mức tiềm năng (những năm trước đĩ mối quan hệ này là khơng nhất quán và khơng rõ nét). Một trong những điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng một cách bền vững đĩ là sự ổn định sức mua của đồng tiền; đây là một trong những nhiệm vụ luơn luơn đặt lên hàng đầu ở tất cả các quốc gia trên thế giới được ghi vào Hiến pháp và Luật Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) của các nước, trong đĩ Luật NHNN Việt Nam đã ghi rõ: “Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, gĩp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phịng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân”. Xu hướng các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực chất, đĩ là dựa trên cơ sở giá cả ổn định ở mức thấp. Căn cứ biện luận cho giải pháp này là: Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát ổn định thì tính dự báo được nâng cao. Điều đĩ giúp các nhà đầu tư cĩ thể xây dựng được các phương án đầu tư hiệu quả. Đối với người tiêu dùng thì chi tiêu yên tâm, họ khơng phải lo cân nhắc các mặt hàng khác để thay thế do giá tăng. Tất cả điều đĩ đã gĩp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thực chất. Hiện nay, các nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2% là mức tối ưu cho tăng trưởng. Tuy nhiên, cũng phải hiểu rằng, lạm phát ổn định chỉ là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, cịn điều kiện cần cho tăng trưởng phải là vấn đề của Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và cơng nghệ kỹ thuật... Đối với Việt Nam mức lạm phát nào là tối ưu cho tăng trưởng kinh tế? Các ngưỡng cùng với các phân tích nêu trên cĩ thể cung cấp một mức chuẩn cho Việt Nam, với một thực tế rằng, các doanh nghiệp Việt Nam và người tiêu dùng khơng thích một mức lạm phát cao và khơng ổn định. Mức lạm phát chuẩn của Việt Nam cĩ thể gần với mức lạm phát của các nước Đơng Nam Á. Nghiên cứu bước đầu của IMF (2006) về mức độ lạm phát ở Việt Nam với các nước Đơng Nam Á cũng đã chỉ ra rằng, mức lạm phát tối ưu cho tăng trưởng kinh tế ở các nước vùng Đơng Nam Á, trong đĩ cĩ Việt Nam khoảng 3,6%. Một thực tế rằng, các kết quả nghiên cứu về ngưỡng lạm phát tốt cho tăng trưởng đều khơng đưa ra với mức tăng trưởng kinh tế là bao nhiêu. Đây là câu hỏi quan trọng cho Việt Nam, bởi vì lạm phát mục tiêu được đưa ra trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế. - Qua phân tích số liệu trong hơn 20 năm qua, dường như mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam cũng tuân theo quy luật chung. Nguyên nhân gây ra lạm phát: Nguyên nhân của lạm phát: - Lạm phát do cầu kéo Nhiều người cĩ trong tay một khoản tiền lớn và họ sẵn sàng chi trả cho một hàng hố hay dịch vụ với mức giá cao hơn bình thường. Khi nhu cầu về một mặt hàng tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đĩ. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đĩ leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hố trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu được gọi là “lạm phát do cầu kéo”, nghĩa là cầu về một hàng hố hay dịch vụ ngày càng kéo giá cả của hàng hố hay dịch vụ đĩ lên mức cao hơn. Các nhà khoa học mơ tả tình trạng lạm phát này là”quá nhiều tiền đuổi theo quá ít hàng hố”. - Lạm phát do chi phí đẩy Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy mĩc, chi phí bảo hiểm cho cơng nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên. Các xí nghiệp vì muốn bảo tồn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của tồn thể nền kinh tế cũng tăng. - Lạm phát do cơ cấu Ngành kinh doanh cĩ hiệu quả tăng tiền cơng danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh khơng hiệu quả, vì thế, khơng thể khơng tăng tiền cơng cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh từ đĩ. - Lạm phát do cầu thay đổi Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường cĩ người cung cấp độc quyền và giá cả cĩ tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ cĩ thể tăng mà khơng thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn khơng giảm giá. Trong khi đĩ mặt hàng cĩ lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát. - Lạm phát do xuất khẩu Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng. - Lạm phát do nhập khẩu Khi giá hàng hố nhập khẩu tăng thì giá bán sản phẩm đĩ trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên. - Lạm phát tiền tệ : Khi lạm phát xảy ra, giá trị của đồng tiền sụt giảm.Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua cơng trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thơng tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát. Ai là người chịu tác động của lạm phát? Khi lạm phát xảy ra thì hầu hết mọi thành phần của nền kinh tế đều trở thành nạn nhân của lạm phát, bởi nhìn một cách tổng thể thì mỗi người đều là người tiêu dùng. Tuy nhiên, 3 thành phần chịu nhiều thiệt thịi nhất là: - Người về hưu: Lương hưu là một trong những “hàng hố” ổn định nhất về giá cả, thường chỉ được điều chỉnh tăng lên đơi chút sau khi giá cả hàng hố đã tăng lên gấp nhiều lần. - Những người gửi tiền tiết kiệm: Hẳn nhiên sự mất giá của đồng tiền khiến cho những người tích trữ tiền mặt nĩi chung và những người gửi tiền tiết kiệm đánh mất của cải nhanh nhất. - Những người cho vay nợ: Khoản nợ trước đây cĩ thể mua được một mĩn hàng nhất định thì nay chỉ cĩ thể mua được những mĩn hàng cĩ giá trị thấp hơn. Vậy ai là người được hưởng lợi? Cĩ lẽ khi đồng tiền mất giá dần thì người sung sướng nhất chính là những con nợ vì nay khoản nợ họ phải trả cĩ vẻ nhẹ gánh hơn. - Những người thuộc diện nghèo trong xã hội (thu nhập dưới 1USD/ngày): đây là những người chịu hậu quả nặng nề nhất của lạm phát khi số tiền ít ỏi của họ giờ đây khơng đủ cho 1 bữa ăn gia đình. FTuy nhiên lạm phát ở mức độ vừa phải cũng cĩ cái lợi, đĩ là nĩ gĩp phần phân phối lại thu nhập trong xã hội, giữa những người thừa tiền và những người cĩ hàng hố cần thanh lý. Sau khi lạm phát kết thúc thì tiền sẽ phân phối đều hơn, ít trường hợp người này wá nhiều tiền cịn người kia wá nhiều hàng nhưng lại thiếu vốn. Tác động của lạm phát. Mặc dù lạm phát diễn ra ở hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên tác động do lạm phát mang lại khơng hồn tồn đồng nhất với nhau, giữa các nhà kinh tế xuất hiện hai trường phái khi đề cập đến tác động của lạm phát. Trường phái thứ nhất: Đại diện là Benjamin Franklin, trường phái này cho rằng: khơng phải mọi lạm phát đều xấu mà ngược lại nhiều khi lạm phát được sử dụng như một thứ thuốc kích thích cho tăng trưởng kinh tế, nghĩa là nếu chúng ta muốn lạm phát bằng 0 thì ta thu về tăng trưởng cũng bằng 0, do vậy cần sử dụng mức lạm phát phù hợp, mức lạm phát đĩ phải là mức lạm phát vừa phải, tức là dưới 2 con số/năm, bằng một câu nĩi sau đây của ơng ta “vào khoảng thời gian cĩ tiếng kêu địi cĩ nhiều tiền giấy hơn…tơi đã đứng về phía phát hành thêm vì tơi tin chắc rằng số lượng nhỏ đầu tiên in vào năm 1723 đã đem lại nhiều điều tốt, thúc đẩy buơn bán, tạo thêm nhiều cơng ăn việc làm cho số dân ở các tỉnh. Tính lợi ích đĩ qua thời gian và kinh nghiệm đã hiển nhiên đến mức sau đĩ khơng cịn ai tranh cải gì nhiều. Tuy nhiên cũng cĩ giới hạn của nĩ mà vượt quá giới hạn đĩ thì lại trở thành hại”. Thực tiển đã chứng minh tính đúng đắn quan điểm của Benjamin Franklin, tức là ta chấp nhận lạm phát ở mức vừa phải. Trường phái thứ hai: lên án hết sức dữ dội lạm phát và khơng thừa nhận lạm phát ở bất kì mức độ nào, trường phái này cho rằng lạm phát là một thứ thế phi lí nhất, vơ nhận đạo nhất, và do vậy cũng là tàn nhẫn nhất và coi đĩ là âm mưu tước đoạt tài sản của dân chúng. Trên đây là hai luận điểm khác nhau về lạm phát, tuy nhiên xét một cách tồn diện về cả mặt tích cực và tiêu cực của nĩ thì lạm phát cĩ những tác động cụ thể sau: Tái phân phối lại thu nhập: Khi mà lạm phát xảy ra thì tầng lớp cĩ thu nhập bằng tiền cố định thì bị tác động trực tiếp của lạm phát nghĩa là sức mua của thu nhập giảm đi so với trước trong khi đĩ người cĩ tài sản hoặc người đi vay nợ bằng tiền lại cĩ lợi. Trong tình hình đĩ thì người ta phải điều chỉnh lãi suất, nhưng dù sử dụng biện pháp nào đi nữa thì người cĩ thu nhập bằng tiền vẫn bi thiệt hại vì khơng đuổi kịp lạm phát. Như vậy khi lạm phát xảy ra thì dân chúng cĩ khuynh hướng giữ vàng hay nĩi cách khác người ta tìm cách trốn khỏi thị trường tiền để tìm đến một loại tài sản nào đĩ, hay nĩi cách khác người ta tìm cách đẩy tiền mất giá ra khỏi tay để mong sở hữu một loại tài sản nào đĩ mà ít hoặc khơng bị mất giá theo thời gian. FTĩm lại, vai trị tái phân phối của lạm phát nĩ tập trung ở chổ những người đi vay bằng tiền thì cĩ lợi, cịn người cho vay bằng tiền thì bị thiệt, thứ 2: nguời tích trữ tài sản (tài sãn thực) thì khơng chịu tác động của lạm phát, thứ 3: lãi suất thực dù đã điều chỉnh nhưng thường bằng 0 hoặc âm. Do vậy nên trực tiếp tái phân phối lại thu nhập. Tác động đến tăng trưởng kinh tế: Thơng thường khi lạm thì lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế tăng lên từ đĩ làm cho lãi suất thị trường giảm xuống và khi lãi suất thị trường giảm xuống thí kích thích người đi vay, chủ yếu là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá nhân muốn sử dụng cơng cụ tín dụng để tăng v ốn sản xuất kinh doanh từ đĩ nĩ cũng gĩp phần cho tăng trưởng kinh tế. Tuy ngiên nhìn chung thì bất kì loại lạm phát nào tùy mức độ khác nhau đều gây ra hậu quả và tác động tiêu cực khác nhau. Nếu lạm phát vừa phải thì thiệt hại là vừa phải, nếu lạm phát cao thì thiệt hại cao. Tuy nhiên với lạm phát vừa phải thì bên cạnh mặt tiêu cực của nĩ nĩ cũng cĩ thể tạo ra mức tăng trưởng kinh tế khi giá cả tiêu dùng ở mức các doanh nghiệp cĩ thể chấp nhận, tức là với lạm phát vừa phải vừa cĩ lợi cho tăng trưởng vừa tác động đến những người cĩ thu nhập bằng tiền cố định, do vậy thường nhà nước sử dụng các biện pháp “An sinh xã hội”, tức là tìm cách để trợ cấp cho người cĩ thu nhập thấp để khắc phục được mức sống bị giảm đi do lạm phát gây ra. Các tác động khác đối với lạm phát. Tác động khác đối với lạm phát tùy thuộc vào các tình huống khác nhau của lạm phát: Trường hợp 1: lạm phát cân bằng và cĩ dự kiến. Ví dụ: mức lạm phát dự kiến là 15% thì lãi suất danh nghĩa cũng tăng lên 15%, tiền lương tăng 15%. Nếu lạm phát cân bằng và cĩ dự kiến trước thì nĩi chung khơng cĩ ảnh hưởng gì vì tốc độ của lạm phát, lãi suất, tiền lương đều như nhau. Trường hợp 2: nếu lạm phát khơng cân bằng: Nếu lạm phát khơng cân bằng sẽ đẩy các loại chi phí tăng lên, thuế cũng tăng lên làm ảnh hưởng đến sản lượng và thu nhập. Do vậy, kết luận tất cả các loại lạm phát (trừ lạm phát cân bằng và cĩ dự kiến) thì khơng cĩ ảnh hưởng gì.Nếu lạm phát khơng cân bằng và khơng cĩ dự kiến thì lạm phát luơn cĩ những tác động xấu kèm theo. Thơng thường mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp là quan hệ chặt chẻ với nhau biểu hiện bằng đường “Philips”. Thất nghiệp Lạm phát Nghĩa là nếu lạm phát tăng thì thất nghiệp giảm. Ở các doanh nghiệp khi cĩ lạm phát xảy ra thì sẽ làm lãi suất thấp do đĩ sẽ tạo điều kiện để mở rộng sản xuất, thu hút thêm nhiều lao động, giải quyết thêm nhiều việc làm. Tuy nhiên, theo nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng đường Philips chỉ đúng trong ngắn hạn mà khơng đúng trong dài hạn, bằng chứng là trong dài hạn giá cả tăng lên mà thất nghiệp thì cứ xảy ra. Chương III:Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay Thực trạng của lạm phát: Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh tốn cĩ số dư). Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy vong nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đĩ là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang. Ngân hàng đầu tư Merrill Lynch của Mỹ vừa cơng bố một báo cáo về tình hình kinh tế châu Á, trong đĩ lấy Việt Nam làm tâm điểm để phân tích tình trạng lạm phát leo thang trong khu vực Báo cáo nhận định, Việt Nam chỉ là một nền kinh tế nhỏ trong khu vực châu Á vì GDP 70 tỷ USD của Việt Nam chỉ tương đương với 1% GDP của tồn khu vực này, trừ Nhật Bản. Trong những năm gần đây, Việt Nam gây ấn tượng bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục. Mặc dù vậy, Việt Nam đang chịu tác động từ chính thành cơng quá lớn và quá nhanh chĩng của chính mình. Theo các số liệu đưa ra trong báo cáo, các dịng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2007 cĩ thể đạt 5,7 tỷ USD (8,1% GDP), cịn các dịng vốn khác cĩ thể đạt khoảng 8,9 tỷ USD (12,7% GDP). Cùng với đĩ, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%, thị trường chứng khốn cũng phát triển bùng nổ. Ở các nước châu Á khác, giá lương thực - thực phẩm tăng cao là nguyên nhân chính gây lạm phát, nhưng ở Việt Nam, giá cả các mặt hàng phi lương thực cũng tăng tới trên 10% so với cùng kỳ năm ngối do tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu cao và thanh khoản dồi dào. Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay được coi là một ví dụ về “cú sốc” lạm phát. Một số ví dụ khác bao gồm Trung Quốc hồi mùa xuân năm 2004 và mùa thu năm 2007, Ấn Độ đầu 2008, Indonesia mùa hè 2005… Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất thấp và lạm phát ở mức rất cao (trên 20%). Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ cịn 6,7% mặc dù tốc độ tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là 8,5- 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của quý 1/2007. Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát năm 2008 tình đến nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư mức cả năm 2007, đã vượt qua mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu USD), cả về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)... Lạm phát ở nước ta trong năm 2008 là sự tích hợp của nhiều yếu tố: Lạm phát cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát tiền tệ, lạm phát do yếu tố tâm lý.... Chúng ta đã bàn nhiều đến nguyên nhân trong nước và quốc tế nhưng nguyên nhân cơ bản là do đã mở rộng tín dụng và đầu tư một cách quá mức để hy vọng đạt được tăng trưởng kinh tế cao trong ngắn hạn. Chính vì vậy, bây giờ chúng ta phải trả giá bằng mất ổn định kinh tế vĩ mơ, ít nhất là trong trung hạn . Chuyên gia IMF cho rằng, với chính sách hiện nay, Việt Nam đang nhập khẩu lạm phát từ bên ngồi. Việt Nam cần cĩ một cách tiếp cận mới, linh hoạt hơn, thích ứng với biến động thị trường để cuối 2008 lạm phát cĩ thể trở về một con số. Cách đây vài năm, năm 2004, Việt Nam cũng đặt trong chỉ số lạm phát của Việt Nam ở mức 9,4%. Tuy nhiên, so với thời điểm đĩ, tình hình lạm phát năm nay cĩ nhiều điểm khác. ØMột là, đồng USD bị mất giá trên tồn cầu, địi hỏi cĩ những tính tốn, cân nhắc về việc cĩ nên tiếp tục cố định tỷ giá tiền đồng so với tiền USD khơng. ØHai là, dịng vốn từ nước ngồi đổ vào Việt Nam nhiều hơn rất nhiều so với trước. Ngân hàng Nhà nước giữ vai trị điều tiết buộc phải đĩng vai trị người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thơng. Tốc độ tăng cung tiền của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực, đặc biệt mức chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của Việt Nam dãn rộng trong 3 năm qua. Mức tăng cung tiền của Việt Nam lớn hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực. @Đối với một nước dân số đơng và tăng nhanh như Việt Nam, số người nghèo cĩ thể tăng lên cùng với lạm phát. Ứng phĩ trước tình trạng này, chỉ một bộ phận người Việt cĩ thể đầu tư vào lĩnh vực tài chính, bảo vệ chính mình. Người nghèo khơng cĩ được cơng cụ bảo vệ đĩ. Họ phụ thuộc vào thu nhập hằng ngày. Họ cĩ thể bị đĩi trong "cuộc đua" mua hàng hĩa trong cơn lạm phát. Việt Nam đang nhập khẩu lạm phát @Nhìn ra khu vực, cùng chịu tác động của cú sốc cung, của tăng giá hàng hĩa nhưng tình trạng lạm phát của các nước rất thấp, ngay cả Trung Quốc cĩ tốc độ phát triển kinh tế nhanh hơn nhiều so với Việt Nam. @Chuyên gia IMF cho rằng, một trong những lí do tại sao lạm phát ở Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan thấp hơn Việt Nam nằm ở chính sách tỷ giá hối đối. Việt Nam ràng buộc tỷ giá vào một điểm so với đồng USD trong khi đồng tiền này biến động trên thị trường tiền tệ tồn cầu. Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam đã nhập khẩu một phần ảnh hưởng lạm phát của việc đồng USD mất giá. FTrong khi đĩ, các nước khác trong khu vực đã cho phép tỷ giá biến động phù hợp với những biến động của đồng USD trên thị trường. Đồng USD đã giảm giá 9% so với euro, 7% so với đồng yên. Điều này đồng nghĩa với giá hàng hĩa trên thế giới tính theo tiền USD tăng rất nhanh. Phản ứng của các nước này giúp cho giá hàng hĩa khơng bị tăng theo sự mất giá của đồng USD, xĩa đi một số tác động xấu đối với nền kinh tế. Năm 2011, lạm phát 4 tháng đầu năm nay ở nước ta cũng cao hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Ví dụ, lạm phát tháng 3 năm nay ở Trung Quốc là 5,4% so với cùng kỳ năm ngối; cịn lạm phát quý I năm nay ở Indonesia cĩ thể tăng lên 7,1%, ở Phillipine là 4,9%, Thái Lan là 4% và Malaysia là khoảng 2,8% so với cùng kỳ năm ngối.Lạm phát cao, kéo dài trong nhiều năm liên tục đã gây nhiều tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống của người dân. Lạm phát cao là một trong các biểu hiện của bất ổn kinh tế vĩ mơ. Lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mơ là bất lợi lớn đối với khuyến khích và thu hút đầu tư; làm cho mơi trường kinh doanh ở nước ta kém cạnh tranh hơn so với các nước khác. Lạm phát cao, biến động liên tục đã làm gia tăng chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận; làm cho các kế hoạch đầu tư trung và dài hạn trở nên rủi ro hơn và khơng dự tính được một cách chắc chắn. Hệ quả là, các doanh nghiệp nĩi chung khơng những phải cắt giảm đầu tư phát triển, mà cĩ thể phải cắt giảm cả quy mơ sản xuất hiện hành để đối phĩ với lạm phát cao. Thực tế cho thấy, lượng vốn FDI đăng ký bốn tháng đầu năm nay chỉ bằng 52% của cùng kỳ năm ngối. Lần đầu tiên trong hơn 10 năm qua, số doanh nghiệp đăng ký mới và số vốn đăng ký đã giảm xuống, chỉ bằng khoảng 75% của cùng kỳ năm ngối. Điều tra của Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu cũng cho thấy chỉ số lạc quan kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên ở Việt Nam trong quý I/2011 đã giảm đáng kể. Lạm phát cao (nhưng tiền lương và thu nhập bằng tiền khác của người lao động khơng tăng lên tương ứng) đã làm cho thu nhập thực tế của họ giảm xuống. Ví dụ, trong hai năm qua, lạm phát đã làm cho thu nhập thực tế của người lao động mất hơn 20%; từ đĩ, đời sống của đa số dân cư đã trở nên khĩ khăn hơn nhiều so với trước đây. Lạm phát cao làm giảm giá trị thực của đồng tiền nội tệ, làm xĩi mịn giá trị số tiền tiết kiệm của dân chúng; làm giảm lịng tin và mức độ ưa chuộng của người dân trong việc nắm giữ và sử dụng đồng nội tệ. Điều đĩ vừa gây áp lực thêm đối với lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mơ trước mắt, vừa làm xĩi mịn nền tảng phát triển lâu dài trong trung và dài hạn. Nguyên nhân cơ bản của thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay: Thực trạng lạm phát ở nước ta cĩ nhiều nguyên nhân. Giá cả trên thị trường thế giới tăng cao và các điều kiện quốc tế bất lợi khác rõ ràng cĩ tác động đến giá cả và lạm phát ở nước ta. Tuy vậy, lạm phát cao kéo dài và sự chênh lệch rất lớn giữa lạm phát ở nước ta và các nước trong khu vực, kể cả các nước cĩ nền kinh tế mở hơn, chứng tỏ các nguyên nhân chủ quan, bên trong vẫn là chủ yếu. Nguyên nhân sâu xa, bao trùm và cơ bản nhất của thực trạng lạm phát hiện nay bắt nguồn từ mơ hình tăng trưởng và cách thức mà chúng ta sử dụng để đạt được mục đích tăng trưởng. Tăng trưởng của chúng ta cho đến nay chủ yếu vẫn dựa vào mở rộng đầu tư, nhưng đầu tư nhìn chung lại kém hiệu quả, nhất là đầu tư nhà nước. Tổng đầu tư xã hội nhiều năm liền luơn ở mức cao từ 40-42% GDP; hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư (viết tắt là ICOR) cao và đang cĩ xu hướng gia tăng. Trong giai đoạn 2006-2010 hệ số này của khu vực nhà nước là 10,2, của khu vực cĩ vốn đầu tư nước ngồi là 9,7, và của khu vực tư nhân trong nước là 5(1). Đĩng gĩp của yếu tố vốn vào tăng trưởng trong giai đoạn nĩi trên chiếm khoảng 65%; các yếu tố khác như đổi mới cơng nghệ, tri thức và kỹ năng, phương thức tổ chức quản lý,… gĩp phần chưa đáng kể. Do đĩ, cái giá hay phí tổn phải trả cho một đơn vị tăng trưởng là rất lớn và cĩ xu hướng tăng thêm. Tuy mơ hình và cách thức tăng trưởng đã tới hạn nhưng chúng ta vẫn dựa vào đĩ để đạt được mục tiêu tăng trưởng, do đĩ về ngắn hạn thì cách chủ yếu để đạt tăng trưởng đĩ là mở rộng đầu tư. Do đĩ, tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh tốn, thâm hụt tài khĩa gia tăng, thâm hụt cán cân thanh tốn gia tăng… tất cả những điều đĩ là nguyên nhân mang tính nội tại làm cho lạm phát của chúng ta trong mấy năm qua luơn ở mức cao và cao hơn nhiều so với các nước. Cịn đối với lạm phát 4 tháng đầu năm nay, thì ngồi những nguyên nhân nĩi trên, thì điều chỉnh tăng giá xăng dầu, điện, tỷ giá, các mặt hàng khác .v.v… là nguyên nhân trực tiếp làm cho lạm phát trong mấy tháng gần đây cao hơn so với cùng kỳ của các năm trước. Một số biểu đồ thể hiện tình hình lạm phát ở nước ta hiện nay. Chương IV: Một số biện pháp hạn chế lạm phát. Như đã nĩi trên, lạm phát cĩ nhiều mức độ khác nhau do đĩ cũng cĩ nhiều cách khắc phục khác nhau. Vấn đề của nền kinh tế là làm thế nào vừa tạo được cơng ăn việc làm đầy đủ cho người lao động, vừa cĩ thể làm giảm được tác hại của lạm phát. Chính sách siết chặt cung tiền tệ. Ngân hàng nhà nước cĩ thể quyết định thắt chặt cung tiền tệ. Điều đĩ sẽ cĩ kết quả là lãi suất tăng lên. Lãi suất tăng lên ở một mức độ nhất định sẽ làm cho các doanh nghiệp và cá nhân tự động cắt giảm lượng tiền đang cĩ và lượng tiền thanh tốn trên tài khoản tại ngân hàng để chuyển thành tiền gửi cĩ kỳ hạn nhằm hưởng mức lãi suất cao hơn. Lý do của hệ quả nĩi trên là do thị trường tiền tệ bị chi phối bởi sự phối hợp qua lại giữa sự mong muốn của cơng chúng về việc nắm giữ tiền và chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Sự tác động qua lại này sẽ tác động vào thị trường tiền tệ quyết định đến lãi suất thị trường. Một chính sách thắt chặt tiền tệ sẽ nâng cao lãi suất thị trường. Điều này được thể hiện qua hình sau: M D D’ I 2 4 6 8 10 Hình 12.6: Thể hiện cung cầu tiền tệ qua định lãi suất. Hình trên nĩi lên rằng mọi người sẽ giữ một lượng M1 khác nhau ở nhiều mức lãi suất khác nhau. Khi lãi suất tăng lên, lượng tiền trong lưu thơng sẽ giảm đi, và điều đĩ sẽ làm cho giá cả hàng hĩa giảm xuống ( cần chú ý là ở đây chúng ta giả định là đã biết trước về sản lượng và giá cả. Nếu thực tế mà sản lượng và giá cả tăng lên thì đường cong DD’ sẽ bị đẩy về phía phải). Kiềm chế giá cả. Để chống lại sự tăng giá của hàng hĩa, nhà nước cĩ thể thực hiện chính sách kiềm giữ giá cả bằng nhiều biện pháp khác nhau như: Nhập hàng hĩa của nước ngồi để bổ sung cho khối lượng hàng hĩa trong nước, tạo ra sự cân bằng giữa cung cầu hàng hĩa để kiềm giữ giá cả. Xuất kho dự trữ vàng và ngoại tệ bán cho cơng chúng.Điều này khĩ thực hiện ở các nước nghèo và lạc hậu vì khối lượng dự trữ vàng và ngoại tệ ít. Kiểm sốt giá cả: Nhà nước ấn định mức giá và kiểm sốt giá. Biện pháp này chỉ cĩ tác động nhất thời và trong cơ chế thị trường, Nhà nước khĩ lịng để kiểm sốt được mức giá cả. Ấn định mức lãi suất cao. Nhà nước quyết định mức lãi suất tiền gởi tăng lên nhằm thu hút bớt khối lượng tiền trong lưu thơng. Khi mức lãi suất tiền gởi tăng lên những người cĩ tiền sẽ thấy cĩ lợi khi gởi tiền vào ngân hàng. Nhưng biện pháp này sẽ làm cho hoạt động của các ngân hàng sẽ khĩ khăn vì lãi suất tín dụng cũng tăng lên, kết quả là ngân hàng sẽ khơng thể cho vay được nhiều và sẽ bị lỗ. Trong những điều kiện như vậy, hoạt động của các ngân hàng phải được sự hỗ trợ của ngân sách và ngân hàng Nhà nước trung ương để giảm lãi suất tín dụng. Nhưng một tai biến cĩ thể xảy ra là nếu lãi suất tiền gởi cao quá mức lợi tức đầu tư thì các nhà kinh doanh sẽ khơng đầu tư cho sản xuất nữa mà tìm cách đưa vốn của mình vào ngân hàng vì nĩ khơng chịu sức ép của rủi ro và vẫn cĩ lợi tức cao. Giảm chi tiêu của ngân sách. Thuyết trọng tiền cho rằng: mức cung tiền tệ là nhân tố chính cĩ tính hệ thống quyết định mức tăng GNP danh nghĩa. Theo cơng thức MV = PQ →P = MVQ = VQM = KM Trong đĩ: GNP = PQ Nhiều tác giả cổ điển cho rằng (K= VQ) khơng thay đổi trong thời hạn rất ngắn hoặc thay đổi chậm chạp theo thời gian. Quan điểm này là quan điểm của thuyết số lượng thơ sơ (Crude quantily theory). Khi K giữ nguyên hoặc thay đổi chậm thì rõ ràng P thay đổi chủ yếu là do M nhiều hay ít. Nên việc hạn chế khối lượng tiền trong lưu thơng là một phương sách chống lạm phát cĩ hiệu quả. Tuy nhiên ở đây cĩ sự hạn chế của nĩ là nếu chúng ta xem xét rằng nếu V ổn định thì động lực duy nhất thúc đẩy PQ là M. Đơn giản là thuế và chi tiêu cùa Nhà nước khơng tác động gì đến PQ. Như vậy, chính sách tài chính cĩ tác động độc lập với lạm phát, sản lượng và thất nghiệp. Ví dụ khi thâm hụt ngân sách nhà nước phải vay của nhân dân để chi tiêu đẩy lãi suất lên và do đĩ nâng cao tốc độ lưu thơng của tiền tệ. Như vậy cĩ thể kết luận rằng việc hạn chế chi tiêu của nhà nước (bằng cách phát hành tiền để chi tiêu) là một con đường chống lạm phát hữu hiệu. Chính sách về thuế cao sẽ cĩ tác động nâng cao giá cả hàng hĩa và cĩ khả năng hạn chế sản xuất tương tự như lãi suất ngân hàng. Biện pháp hạn chế tăng tiền lương. Ở đây là cần thiết cĩ sự tự nguyện giảm tiền lương, vì các nhà kinh tế tư bản cho rằng khi tiền lương tăng sẽ đẩy chi phí sản xuất tăng lên và do đĩ giá cả tăng lên. Tiền lương tăng lên cĩ nghĩa là khối lượng tiền trong lưu thơng tăng lên. Đây gọi là lạm phát do chi phí đẩy. Một số nhà kinh tế cho rằng cơng đồn là thủ phạm của lạm phát do họ đã đấu tranh cho tiền lương tăng lên? Nhưng theo Paul A.Samuelson và william D.Nordhaus thì cơng đồn đã làm giảm được tốc độ tăng của lạm phát khi nĩ đang lên và giữ khơng cho lạm phát xuống quá nhanh khi nĩ đang xuống. Các cơng đồn, đặc biệt là những người thương lượng hợp đồng tập thể 3 năm là nguồn gốc chính của sức ỳ trong lạm phát giá cả. Thực tế ở các nước tư bản là tiền lương của cơng nhân ngồi cơng đồn tăng trước và nhiều nhất. Chính sách tự nguyện về tiền lương – giá cả đã tỏ ra cĩ hiệu quả ở Hà Lan và Hoa Kỳ. Nhưng với thời gian, chính sách này tỏ ra khơng cĩ hiệu quả và khơng cơng bằng. Biện pháp lạm phát chống lạm phát. Tức là nhà nước tăng việc phát hành để chi phí chi việc mở rộng đầu tư, mở rộng sản xuất và hy vọng khi các cơng trình đầu tư này mang lại hiệu quả nĩ sẽ chặn đứng được lạm phát. Chính sách này địi hỏi phải cĩ tiềm lực mạnh về các yếu tố sản xuất, cĩ trình độ khoa học và kỹ thuật cao, các chính sách kinh tế và quản lý kinh tế cĩ trình độ cao thì mới cĩ thể thành cơng được. Cĩ nghĩa là việc đầu tư phải mang lại hiệu quả chắc chắn. Nếu khơng nĩ sẽ đẩy lạm phát lên cao hơn nữa. Thực hiện một chiến lược thị trường cạnh tranh tồn cầu. Ở đây các nhà kinh tế chủ trương rằng cần phải xĩa bỏ mọi ngăn cản đối với hoạt động của thị trường. Và nếu quá trình cạnh tranh được nâng lên ở mức độ hồn hảo thì giá cả sẽ cĩ xu hướng giảm đi (do cạnh tranh). Ở các nước mà tiềm năng của các yếu tố sản xuất cịn nhiều, cạnh tranh sẽ giúp các nhà sản xuất cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý và do đĩ chi hpi1 sản xuất sẽ được giảm đi (chống được lạm phát do chi phí đẩy) và sẽ cĩ kết quả là giá cả hàng hĩa sẽ được giảm đi. Chính sách thu nhập dựa trên thuế. Đây chỉ là một chính sách mới được gợi ý gần đây là tìm cách chế ngự hệ thống giá cả, sử dụng kích thích vi mơ để đạt chính sách vĩ mơ. Nội dung của chính sách này là trợ cấp cho những người tiền lương thấp hoặc các mặc hàng cĩ giá cả tăng chậm và đánh thuế những người làm tăng lạm phát. Ví dụ là nhà nước đặt ra chỉ tiêu là tiền lương chỉ được phép tăng 4%/năm. Như vậy các doanh nghiệp nào cĩ mức lương tăng trên 4% đều phải chịu thuế. Mua lấy một tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát. Trong cơ chế thị trường, các nhà kinh tế cho rằng lạm phát và thất nghiệp là hai yếu tố đối nghịch nhau. Vì vậy khơng thể triệt tiêu lạm phát được vì như thế thất nghiệp sẽ tăng lên rất nhanh. Vì vậy ở đây người ta phải mua lấy một tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp “vừa phải” để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bình thường. Tỷ lệ tự nhiên cao của thất nghiệp, cùng với sự cần thiết kèm theo phải chấp nhận nhiều thất nghiệp nhưng khơng tự nguyện là nhược điểm trung tâm của chủ nghĩa tư bản hỗn hợp hiện đại. Và thực tế, vấn đề này cĩ vẽ ngày càng xấu đi vì ngày càng cĩ mức thất nghiệp cao nhơn để hạn chế lạm phát (Paul A.Samuelson và william D.Nordhaus). Hiện nay bên cạnh tính chất pháp quyền của nhà nước tư bản, người ta phải thiết lập một nhà nước phúc lợi cĩ nghĩa là người thất nghiệp phải luơn nhận được bồi thường thất nghiệp, trợ cấp sa thải, trợ cấp phúc lợi, v.v…và ít ai đề nghị trở lại chế độ tàn ác của chủ nghĩa tư bản thuần túy như trước đây cĩ nghĩa là ai khơng cĩ việc làm phải chịu đĩi. FKết luận và kiến nghị. - Việt Nam cần chấp nhận đánh đổi giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế; đây là một quyết định khĩ khăn; nhưng lạm phát hiện tại đã đạt mức độ tiêu cực và ưu tiên hàng đầu là kiềm chế lạm phát là cần thiết. - Để thực hiện các nhĩm giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mơ, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững theo Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP của Chính phủ, cần từ bỏ quan điểm tăng trưởng kinh tế theo kiểu “bong bĩng” từ nhiều năm qua, vì tăng trưởng kiểu này chỉ là chạy theo thành tích mà khơng quan tâm đến những hệ lụy của lạm phát, gây hậu quả lâu dài đến phát triển kinh tế bền vững, đời sống của người dân và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. - NHNN cần sớm xây dựng và ứng dụng lạm phát mục tiêu trong cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, nghĩa là NHNN cần cơng bố và cam kết trước Quốc hội, Chính phủ và cơng chúng một tỉ lệ lạm phát trong dài hạn để đạt được mức tăng trưởng như mong muốn; muốn thực hiện cơ chế này, địi hỏi NHNN cần sớm xây dựng NHTƯ theo hướng độc lập hơn, được giao trách nhiệm rõ ràng và thực quyền hơn trong việc điều hành và sử dụng các cơng cụ chính sách tiền tệ, cần cĩ sự phối kết hợp giữa các cơ quan điều hành kinh tế vĩ mơ như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Cơng thương trong chính sách tài khố, chính sách đầu tư cơng, chính sách xuất nhập khẩu… dưới sự chỉ đạo của Chính phủ. THE END! Tài liệu tham khảo: Một số tài liệu tham khảo trên mang. Giáo trình: nhập mơn “Tài chính tiền tệ” của PGS.TS Lê Văn Tề & TS.Lê Đình Viên.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docx74612643-TIEU-LUAN.docx
Luận văn liên quan