Kể từ khi Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa đất nước, các quan hệ dân sự- kinh tế có yếu tố nước ngoài có thêm mảnh đất để phát triển. Trong các quan hệ dân sự- kinh tế có yếu tố nước ngoài đó, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài phát triển tương đối nhanh và có chỗ đứng nhất định. Nhìn chung thì đó là một tất yếu của sự phát triển đất nước và các quyền con người (kết hôn và ly hôn là một quyền con người), những gì mà quan hệ kết hôn với người nước ngoài mang lại cho đất nước và chính những người than gia quan hệ là không nhỏ. Nhưng khi giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam mới thấy hết hệ quả mà nó giành cho đất nước, xã hội và bản thân người tham gia quan hệ. Chính vì vậy việc tìm hiểu một số nét thực trạng, nguyên nhân và cách thức giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài (chủ yếu là ly hôn giữa người Việt Nam và người nước ngoài) là một việc làm cần thiết không chỉ cho những người đang tham gia, sẽ tham gia vào quan hệ này và những người nghiên cứu, học tập pháp luật hôn nhân và gia đình trong thời kỳ đất nước hội nhập.
Tiêu đề Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1
I. Những vấn đề chung về việc ly hôn có yếu tố nước ngoài 1
1. Khái niệm về vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài 1
2. Hệ thống pháp luật điều chỉnh. 2
II. Thực Trạng việc ly hôn có yếu tố nước ngoài 3
1. Thực trạng ly hôn có yếu tố nước ngoài 3
2. Thực trạng của việc giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài 5
3. Nghiên cứu tại tỉnh Hậu Giang – địa bàn nóng cả về kết hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài 6
III. Nguyên nhân của việc ly hôn có yếu tố nước ngoài 9
1. Nguyên nhân ly hôn có yếu tố nước ngoài 9
2. Nguyên nhân giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài 9
1.2. Khó về thủ tục giải quyết là nguyên nhân chính. 9
2.2. Thiếu những Hiệp định tương trợ tư pháp. 10
3.2. Pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề này còn đang thiếu và chưa đồng bộ 10
IV. Cách thức giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài 11
1. Cách thức giải quyết vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài trong trường hợp bị đơn đang thường trú tại nước ngoài tại Tòa án Việt Nam 11
2. Công nhận bản án, quyết định ly hôn của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam 13
3. Cách thức giải quyết của Tòa án Việt Nam đối với việc ly hôn hoặc vụ án ly hôn mà một hoặc cả hai bên đương sự là người nước ngoài thường trú tại Việt Nam 14
V. Một số kiến nghị cá nhân. 14
1. Sửa đổi, bổ sung luật để kịp thời điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh 14
2. Cần nhiều hơn những văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành. 15
3. Hoàn thiện việc ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp. 15
KẾT THÚC VẤN ĐỀ 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
18 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3821 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng của việc giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Kể từ khi Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa đất nước, các quan hệ dân sự- kinh tế có yếu tố nước ngoài có thêm mảnh đất để phát triển. Trong các quan hệ dân sự- kinh tế có yếu tố nước ngoài đó, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài phát triển tương đối nhanh và có chỗ đứng nhất định. Nhìn chung thì đó là một tất yếu của sự phát triển đất nước và các quyền con người (kết hôn và ly hôn là một quyền con người), những gì mà quan hệ kết hôn với người nước ngoài mang lại cho đất nước và chính những người than gia quan hệ là không nhỏ. Nhưng khi giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam mới thấy hết hệ quả mà nó giành cho đất nước, xã hội và bản thân người tham gia quan hệ. Chính vì vậy việc tìm hiểu một số nét thực trạng, nguyên nhân và cách thức giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài (chủ yếu là ly hôn giữa người Việt Nam và người nước ngoài) là một việc làm cần thiết không chỉ cho những người đang tham gia, sẽ tham gia vào quan hệ này và những người nghiên cứu, học tập pháp luật hôn nhân và gia đình trong thời kỳ đất nước hội nhập.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Những vấn đề chung về việc ly hôn có yếu tố nước ngoài
1. Khái niệm về vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài
Theo quy định tại Điều 104 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 quy định về ly hôn có yếu tố nước ngoài như sau:
“1. Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của Luật này.
2. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì theo pháp luật Việt Nam.
3. Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.
4. Bản án, quyết định ly hôn của Toà án hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài được công nhận tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam”.
2. Hệ thống pháp luật điều chỉnh
Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài đã có từ rất sớm và ngày càng được hoàn thiện. Có thể kể ra:
- Luật Hôn nhân & Gia đình năm 1986; Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2000;
- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
- Pháp lệnh công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, ngày 17/04/1993;
- Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ cho phép thực hiện ghi vào sổ sự thay đổi về hộ tịch của công dân Việt Nam do việc ly hôn ở nước ngoài;
- Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 Quy định chi tiết thi hành một số điều của luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (sau được được bổ sung bằng Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006);
- Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình;.v.v…
II. Thực Trạng việc ly hôn có yếu tố nước ngoài
1. Thực trạng ly hôn có yếu tố nước ngoài
Theo số liệu thống kê, từ năm 2002- 2008 có gần 18 nghìn trường hợp phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, trong đó tỷ lệ lấy chồng Đài Loan chiếm 81% (hiện nay ở Đài Loan có khoảng 80.000 cô dâu Việt Nam). Thời gian chung sống dưới ba tháng của những cặp vợ chồng chiếm đến 67%. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ về ly hôn có yếu tố nước ngoài (chỉ tính đối với Đài Loan và Hàn Quốc) từ năm 2004 đến năm 2008 là 122 vụ. Cụ thể năm 2004 là 52 vụ; năm 2005 là 29 vụ; năm 2006 là 11 vụ; năm 2007 là 13 vụ và năm 2008 là 17 vụ. Trong đó có khoảng 80% là người Đài Loan, khoảng 20% là người Hàn Quốc. Trung bình mỗi tháng Tòa án nhân dân TP. HCM xử lý khoảng 50 trường hợp ly hôn (chủ yếu là vụ án ly hôn), trong đó ly hôn có yếu tố nước ngoài chiếm khoảng 85%, có một thực tế là những cuộc hôn nhân này đám cưới luôn rình rang, hoan hỉ nhưng những phiên tòa xử ly hôn luôn vắng bóng một người.
Tham dự các phiên tòa ly hôn có yếu tố nước ngoài mới biết có hàng nghìn lý do để các cô gái Việt Nam lấy “chồng ngoại”. Người vì tình, kẻ vì tiền. Nhưng cũng có nhiều người có những lý do đôi khi chẳng giống ai. Kim Tuyết, 24 tuổi quyết định lấy chồng Đài Loan để “được đi máy bay”. Thùy Anh, 22 tuổi thì mơ mộng đến ngớ ngẩn “lấy chồng Trung Quốc sẽ được sang đó ở, được nhìn thấy tuyết hàng ngày”. Nhất Lan, đang là sinh viên cũng quyết định lấy chồng người Đức chỉ vì “có mấy đứa bạn ở bên Đức, mình muốn qua đó cho… vui”.
Ở Cần Thơ, trung bình một năm, Tòa án tỉnh thụ lý gần 100 vụ án xin ly hôn với người nước ngoài, trong đó trường hợp lấy chồng Đài Loan chiếm đa số. Tuy nhiên, hiện tượng những cô gái trẻ nông thôn đồng bằng sông Cửu Long lấy chồng Đài Loan vẫn tiếp tục bùng phát. Năm 2000, chỉ riêng tỉnh Cần Thơ có 1.800 cô gái lấy chồng ngoại. Có những xã như Tân Lộc, Thốt Nốt, Cần Thơ; xã Hưng Thành và Hưng Hội, Vĩnh Lợi, Bạc Liêu, việc “kiếm” chồng nước ngoài rộ lên thành phong trào.
Trong một cuộc phỏng vấn, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Đài Loan cho biết, ở Đài Loan mặc dù chính quyền các cấp kiểm tra giấy tờ rất nghiêm khắc song vẫn “lọt lưới” một số trường hợp người có vợ hoặc mắc bệnh tâm thần vẫn xin được giấy chứng nhận độc thân, sức khỏe bình thường để lấy vợ Việt Nam. Đa số người Đài Loan lấy vợ ngoài lãnh thổ là do hoàn cảnh đặc biệt, bị dị tật, tuổi cao. Ông Thứ trưởng cho rằng con số 15-20% cô dâu Việt Nam sống không hòa thuận với gia đình chồng như Viện Nghiên cứu Trung ương Đài Loan công bố là hơi thấp. Thực tế, tỷ lệ này cao hơn vì sau hôn nhân nảy sinh hàng loạt vấn đề phức tạp, khiến nhiều cô dâu nước ngoài thất vọng.
Nếu biết phải trả giá quá đắt không hiểu các cô gái và gia đình họ có dám bước vào “con đường chồng ngoại”? Nhưng có vẻ như những “tấm gương bất hạnh” tuy nhiều song lại hiện ra khá mờ nhạt trong mắt mọi người. Hình ảnh những căn nhà vách đất được “lên đời” sau khi gia đình có con lấy chồng ngoại lại gây ấn tượng mạnh mẽ với người dân nông thôn hơn. Hơn nữa, do số phụ nữ bị bạc đãi từ quê chồng trở về thường bỏ đi làm ăn xa hoặc không muốn nói lên sự thật. Mộng Thảo, đã ly hôn với người chồng Đài Loan tâm sự: “Em còn mặt mũi nào mà về quê. Biết hoàn cảnh em như thế này, chắc cha mẹ cũng chẳng vui vẻ gì khi sống trong căn nhà được sửa lại khang trang bằng số tiền em đem về khi mới lấy chồng Đài Loan”. Hiện nay, Mộng Thảo đang làm tiếp viên nhà hàng ở thành phố. Một số cô sau khi về nước lại làm môi giới cho những bạn gái khác kiếm chồng ngoại để kiếm hoa hồng.
Trong một phiên tòa ly hôn mới đây, Ngọc Hiền, người đứng đơn ly hôn tâm sự: “Trước đây người ta nói nhiều chuyện tiêu cực về việc lấy chồng Tây rồi, nhưng em không tin. Vậy là em lấy ông chồng Nhật để có 20.000 USD. Ba năm ở bên đó em bị đối xử còn tệ hơn đứa ở. Bị đánh nhiều đến nỗi không biết đau nữa. Mà tiền chồng hứa cho gia đình em trả nợ cũng chẳng thấy đâu… Em không dám có con vì sợ sau này con mình giống…cha nó”. Nói xong, cô cười khoe Tòa án đã quyết định cho cô ly hôn sau năm lần bảy lượt hầu tòa. Hầu hết, những người phụ nữ đứng đơn ly hôn đều cho biết sẽ “quyết tâm” ly hôn cho bằng được giống như quyết tâm lấy chồng ngoại ban đầu.
2. Thực trạng của việc giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài
Khi tiến hành giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam xuất hiện rất nhiều khó khăn trong thực tiễn, đặc biệt là trong hoạt động ủy thác tư pháp trong một số công việc như ghi lời khai, tống đạt giấy tờ, thu thập chứng cứ, xác minh địa chỉ, trưng cầu giám định…
Đối với các vụ án hôn nhân gia đình, bị đơn thường là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, công dân nước ngoài, hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đang định cư ở nước ngoài. Việc ủy thác tư pháp để ghi lời khai của những người đang ở những nước mà Việt Nam chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp thì hầu như không có kết quả. Ví dụ: Bị đơn là công dân Mỹ, đang định cư tại Mỹ, có địa chỉ rõ ràng, văn bản ủy thác ghi lời khai của bị đơn Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ghi là “Tòa án có thẩm quyền của Hoa Kỳ” gửi đến Bộ Tư pháp kèm theo bản dịch bằng tiếng Anh (do đương sự nộp chi phí dịch thuật) để Bộ Tư pháp gửi Bộ Ngoại giao (Cục Lãnh sự) thực hiện ủy thác đến Hoa Kỳ thì rõ ràng rất khó có kết quả. Tòa án có thẩm quyền ở đây là Tòa án nào, phía Mỹ thực hiện việc ủy thác của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thì họ có lợi gì trong khi không có phí ủy thác. Gặp những vụ án như thế này thì việc thời hạn để xét xử không đảm bảo, việc kéo dài và bế tắc khi không có kết quả ủy thác sẽ làm thiệt thòi quyền lợi của người đang ở trong nước; nếu họ lấy vợ, chồng khác thì cuộc sống hôn nhân trái pháp luật các quyền lợi về vợ chồng không được đảm bảo.
Mặc khác, còn chưa kể đến các đương sự cố tình kéo dài thời gian giải quyết vụ án thậm trí cố tình làm cho vụ án không thể giải quyết được. Ví dụ: Bị đơn cố tình vắng mặt tại phiên tòa thì phải hoãn phiên tòa theo Điều 200 BLTTDS năm 2004 hoặc bị đơn cố tình để mình không nhận được quyết định mở phiên tòa gây rất nhiều khó khăn cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
Không những khó khăn đến từ cơ quan được ủy thác từ nước ngoài và các đương sự, mà khó khăn còn đến từ chính những quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là thủ tục giải quyết tại Tòa án.
3. Nghiên cứu tại tỉnh Hậu Giang – địa bàn nóng cả về kết hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài
Xuất giá tòng phu, người phụ nữ sau khi kết hôn thường theo chồng về nước chung sống cùng gia đình chồng. Trong số đó, cũng có không ít những cặp vợ chồng hạnh phúc, các cô gái có thể tiếp cận và hoà nhập với nền văn hoá mới, môi trường sống và nếp sống của gia đình chồng. Nhưng phần đa các chị em phụ nữ là những người con gái lam lũ chốn quê nghèo mong muốn kết hôn, lấy chồng nước ngoài để có một cuộc sống tươi sáng hơn trong khi họ không được trang bị các kiến thức cần thiết để có thể hoà nhập với môi trường sống mới. Sự bất đồng về ngôn ngữ, sự khác biệt về truyền thống, văn hoá ứng xử, sự lệch nhau về nếp sống… những điều đó đã khiến rất nhiều cô gái Việt Nam phải hứng chịu những bất hạnh trong đời sống hôn nhân với người chồng ngoại quốc. Nhiều chị em phải chịu cảnh đòn roi, đánh đập, ngược đãi của chồng và gia đình chồng, nhiều trường hợp phải bỏ trốn về Việt Nam sinh sống mà không có sự thoả thuận ly hôn với chồng hoặc không có phán quyết cho ly hôn từ phía nước ngoài.
Đây là một vấn đề còn gặp khá phổ biến khi Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Hậu Giang tiến hành trợ giúp pháp lý lưu động. Qua quá trình người dân xin tư vấn, những kết quả thống kê vụ việc về yêu cầu tư vấn của người dân, đặc biệt là phụ nữ về vấn đề ly hôn với người nước ngoài cho thấy đây là một vấn đề được rất nhiều người quan tâm và có vướng mắc, rất nhiều phụ nữ trên địa bàn tỉnh Hậu Giang đang ở trong tình trạng “bỏ chồng” nhưng chưa ly hôn, điều đó dẫn đến khó khăn cho chị em trong vấn đề “tái hôn” và một số vấn đề nhân thân cũng như việc tham gia một số giao dịch dân sự khác. Khi gặp các trường hợp đó, Trung tâm trợ giúp pháp lý đã tư vấn thủ tục xin ly hôn có yếu tố nước ngoài cho các chị em. Một số trường hợp đã được Toà án thụ lý giải quyết, nhưng cũng có những vụ việc do chị em không cung cấp đựơc những giấy tờ liên quan đến yêu cầu xin ly hôn của mình nên Toà án chưa thụ lý (do căn cứ vào Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh của đương sự). Điều này khiến cho cuộc sống của những người phụ nữ bị ảnh hưởng rất nhiều, gây nên sự hoang mang, thất vọng, cuộc sống gặp nhiều khó khăn.
Để giải quyết được thực trạng còn tồn đọng này, đồng chí Trần Hồng Diên - đại biểu Quốc hội khóa XII của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hậu Giang đã có chất vấn về vấn đề này. Và ngày 04/6/2008, Toà án nhân dân tối cao đã có Công văn số 180/TANDTC-TK trả lời chất vấn, công văn này có đoạn “theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn (kể cả trường hợp có một bên không đồng ý hoặc không có ý kiến gì về việc ly hôn); Toà án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định pháp luật về tố tụng dân sự. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 164 Bộ luật Tố tụng dân sự; hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tại mục 4 phần I, Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 (hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết các vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự) và hướng dẫn tại Văn bản số 109/KHXX ngày 30 tháng 6 năm 2006 của Toà án nhân dân tối cao thì trong nội dung đơn khởi kiện phải ghi rõ địa chỉ của bị đơn và những yêu cầu cụ thể của người yêu cầu để Toà án xem xét, giải quyết. Trong trường hợp người khởi kiện không biết được địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện thì họ phải có nghĩa vụ thông báo tìm kiếm tin tức, địa chỉ của người bị kiện (trong trường hợp cụ thể này thì người khởi kiện có thể yêu cầu Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước liên hệ với cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài để tìm địa chỉ của người bị kiện)”.
Như vậy, theo quan điểm của Toà án nhân dân tối cao trong trường hợp phụ nữ Việt Nam có chồng nước ngoài muốn đơn phương xin ly hôn theo pháp luật Việt Nam thì Toà án phải thụ lý giải quyết.
Trước thực trạng nhiều phụ nữ tỉnh Hậu Giang sau khi gặp bất hạnh trong cuộc sống hôn nhân với người chồng ngoại quốc nhưng khi trở về Việt Nam lại không được giải quyết cho ly hôn khiến cuộc sống của họ tiếp tục gặp phải những khó khăn và không thể ổn định tâm lý để tiếp tục cuộc sống đời thường. Là người thường xuyên tiếp xúc, có điều kiện lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng, khó khăn của người dân, đặc biệt là vai trò giúp đỡ, hỗ trợ những người dân trong diện yếu thế, gặp phải khó khăn, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Hậu Giang đã đề xuất Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hậu Giang, Hội đồng nhân dân tỉnh, Hội liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hậu Giang có ý kiến đến Toà án nhân dân tỉnh Hậu Giang về việc thụ lý và giải quyết các vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài cho chị em phụ nữ có yêu cầu. Đảm bảo cho chị em, những người sau khi đã rời bỏ những nỗi đau, sự thiếu hụt hạnh phúc trong hôn nhân để về lại quê hương tìm cơ hội có được cuộc sống mới, thanh bình và yên ổn hơn.
III. Nguyên nhân của việc ly hôn có yếu tố nước ngoài
1. Nguyên nhân ly hôn có yếu tố nước ngoài
Để chỉ “chỉ mặt đặt tên” đâu là những nguyên nhân của việc ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam thật là khó, bởi việc xác lập quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam cũng có đến cả trăm ngàn lý do, nguyên nhân, người vì tiền, kẻ vì muốn được ra nước ngoài, kẻ lại muốn thay đổi cuộc đời.v.v… Nhưng có một nguyên nhân mà trong quá trình giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố đã tổng kết đó là hầu hết các cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài là “tự nguyện giả rối” được che phủ bởi “vật chất” dẫn đến khi bước vào cuộc sống hôn nhân nguyên đơn mới thấy hết được những khó khăn: ngôn ngữ, phong tục tập quán hay bị đánh đập, hành hạ…. đến mức nhiều người phải bỏ trốn tìm sự “giải thoát”. Hầu hết pháp luật các quốc gia đều quy định sự tự nguyện làm điều kiện (nguyên tắc) hàng đầu để được kết hôn, những cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài sự tự nguyện được “che đậy” bởi “vật chất” nên hệ quả tất yếu là dẫn đến việc ly hôn khi không đạt được mục đích của cuộc sống hôn nhân.
2. Nguyên nhân của việc giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài
1.2. Khó về thủ tục giải quyết là nguyên nhân chính
Theo quy định của pháp luật đối với các vụ, việc ly hôn có yếu tố nước ngoài thì TAND tỉnh, hoặc thành phố nơi nguyên đơn có hộ khẩu thường trú sẽ thụ lý và thời hạn tối đa cho các trường hợp ly hôn này là 4 tháng và có thể gia hạn thêm 2 tháng đối với những trường hợp phức tạp. Nhưng trên thực tế việc xét xử đối với những trường hợp này hết sức gian nan. Sau hai lần Tòa án ủy thác tư pháp qua Bộ Tư pháp, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài và Tòa án nước ngoài điều tra tống đạt nhưng hết thời hạn 6 tháng không có kết quả trả lời, hoặc trả lời rất chậm. Chính vì vậy việc lấy lời khai, tống đạt các văn bản của Tòa án hoặc xác định tài sản ở nước ngoài là không thực hiện được làm cho vụ án kéo dài, vi phạm thời hạn xét xử. Tòa án phải tạm đình chỉ vì không tìm được địa chỉ hoặc không có lời khai của bị đơn. Nhiều vụ không thể thụ lý giải quyết do công dân Việt Nam xin ly hôn chỉ cung cấp cho Tòa án bản đăng ký kết hôn có địa chỉ của bên kia, ngoài ra không có một thông tin nào khác. Điều này dẫn đến thực tế nhiều cuộc hôn nhân chỉ mang tính hình thức vẫn bị kéo dài ảnh hưởng đến cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của nguyên đơn.
Mặc dù, TANDTC đã ban hành Nghị quyết 01/2003/HĐTP có hướng dẫn đối với những trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài nhưng người nước ngoài đã về nước mà không liên hệ với công dân Việt Nam, nay công dân Việt Nam xin ly hôn thì Tòa án thụ lý giải quyết nhưng thực tế, các Tòa án không phải sau khi thụ lý một vài tháng là có thể đưa ra xét xử, mà vẫn phải tiến hành điều tra, xác minh và ủy thác tư pháp, đến khi không có kết quả trả lời từ phía cơ quan nhận ủy thác tư pháp thì Tòa mới xử cho ly hôn, do đó, các vụ án vẫn kéo dài. Bên cạnh đó thủ tục hợp thức hóa lãnh sự đối với các việc mà Tòa án Việt Nam yêu cầu thì nhiều Tòa án nước ngoài chưa đáp ứng kịp thời cũng gây khó khăn cho việc xét xử.
2.2. Thiếu những Hiệp định tương trợ tư pháp
Đây là một nguyên nhân làm cho việc làm cho việc giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài trở nên khó khăn, bế tắc. Hiện nay Việt Nam ký chưa nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước, đặc biệt là với các nước mà công dân của họ kết hôn nhiều với người Việt Nam. Đơn cử như Hiệp định tương trợ tư pháp mới được ký với Hàn Quốc và có hiệu lực trong năm 2005 là một nguyên nhân gây khó khăn khi giải quyết vụ án ly hôn giữa công dân Việt Nam với công dân Hàn Quốc của Tòa án Việt Nam trong suốt một thời gian dài trước đó.
3.2. Pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề này còn đang thiếu và chưa đồng bộ
Như đã trình bày ở trên, hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề này đã được ban hành nhiều nhưng về cơ bản vẫn còn thiếu và chưa được bổ sung kịp thời. Hiện nay thì chỉ có những quy định tại Nghị định 68/2002/NĐ-CP, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP và các Nghị quyết của HĐTP TANDTC là được áp dụng có hiệu quả. Một trong những điểm bất cập của Luật HN&GĐ 2000 là chưa có những quy định về ly thân mà hầu hết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài vợ chồng đã sống “tách” nhau về quan hệ nhân thân và tài sản trong một thời gian dài;.v.v…
IV. Cách thức giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài
1. Cách thức giải quyết vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài trong trường hợp bị đơn đang thường trú tại nước ngoài tại Tòa án Việt Nam
Trình tự thủ tục của vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài như thủ tục chung của vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình nói chung. Nhưng trong quá trình giải quyết thì vấn đề ủy thác tư pháp để lấy lời khai của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ gặp nhiều vấn đề khó khăn hơn cả, đặc biệt khi bị đơn hoặc người có nghĩa vụ liên quan đang ở nước ngoài. Về vấn đề này, em xin nêu các bước cụ thể như sau:
- Bước 1: Lấy lời khai và ý kiến của bị đơn, cùng những tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ (Tòa tiến hành các thủ tục ủy thác tư pháp). Trong trường hợp, sau khi tiến hành các thủ tục ủy thác tư pháp, không có kết quả do bị đơn không có địa chỉ rõ ràng, sống lưu vong, không ai quản lý, thì Toà án yêu cầu thân nhân của bị đơn đó gửi cho họ lời khai của nguyên đơn và báo cho họ gửi về Toà án những lời khai hoặc các tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án.
Bước 2: Sau khi có kết quả, Toà án có thể căn cứ vào những lời khai và tài liệu đó để xét xử, nếu nguyên đơn ở trong nước công nhận những lời khai hoặc tài liệu gửi về đúng là của bị đơn đang ở nước ngoài.
* Nếu theo cách thức liên hệ nói trên- thủ tục ủy thác tư pháp- và đã liên hệ được với bị đơn đang ở nước ngoài, nhưng họ cố tình từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết đến lần thứ hai, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
Nếu theo cách thức liên hệ nói trên, nhưng không liên hệ được thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định của BLTTDS 2004 và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú xác định bị đơn mất tích hoặc đã chết theo thủ tục quy định về việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết.
- Bước 3: Đối tượng các trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm vẫn không có hoặc không biết địa chỉ của bị đơn để tống đạt bản án và thân nhân của họ ở trong nước cũng từ chối việc thông báo cho họ kết quả xét xử của Toà án, thì Toà án gửi công văn cho cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài kèm theo bản sao bản án và yêu cầu niêm yết bản sao bản án tại trụ sở của cơ quan ngoại giao đó; đồng thời Toà án cấp cho thân nhân của họ ở trong nước một bản sao bản án và yêu cầu họ gửi cho bị đơn đang ở nước ngoài. Trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày Toà án gửi công văn và bản sao bản án yêu cầu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài niêm yết bản sao bản án và kể từ ngày Toà án cấp cho thân nhân của họ ở trong nước bản sao bản án, dù Toà án có nhận được hay không nhận được thông báo của cơ quan ngoại giao nước ta ở nước ngoài cũng như thông báo của thân nhân của họ ở trong nước về việc đã niêm yết bản sao bản án, đã gửi bản sao bản án cho họ hay chưa mà không có đơn, thư của bị đơn đang ở nước ngoài về việc họ có kháng cáo, đồng thời trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị được quy định tại Điều 59 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (nay là BLTTDS 2004), bản án cũng không bị những người khác kháng cáo hoặc Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị, thì bản án được thi hành theo thủ tục chung.
2. Công nhận bản án, quyết định ly hôn của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam
Theo quy định tại khoản 4, Điều 104 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000: “Bản án, quyết định ly hôn của Tòa án hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài được công nhận ở Việt Nam”. Như vậy, bản án, quyết định ly hôn ở nước ngoài sẽ được công nhận ở Việt Nam. Người có yêu cầu có quyền gửi đơn yêu cầu tòa án Việt Nam công nhận bản án ly hôn này.
Theo đó, người có yêu cầu phải chuẩn bị đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của nước ngoài tại Việt Nam và các giấy tờ tài liệu được gửi kèm theo đơn để gửi cho Bộ Tư pháp như: Bản sao hợp pháp bản án, quyết định của Toà án nước ngoài; văn bản xác nhận bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật, chưa hết thời hiệu thi hành và cần được thi hành tại Việt Nam (trừ trường hợp trong bản án, quyết định đó đã thể hiện rõ những điểm này); văn bản xác nhận việc đã gửi cho người phải thi hành bản sao bản án, quyết định đó.
Trường hợp người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó vắng mặt tại phiên toà của Toà án nước ngoài thì phải có văn bản xác nhận người đó đã được triệu tập hợp lệ (Điều 350 Bộ luật Tố tụng dân sự). Lưu ý, đơn yêu cầu và các tài liệu gửi kèm theo phải được dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
Sau khi nhận được hồ sơ, Bộ Tư pháp sẽ chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm quyền để xét đơn yêu cầu. Sau khi nghiên cứu hồ sơ Tòa án sẽ ra một trong các quyết định sau đây: (i) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu; (ii) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu và trả lại hồ sơ cho Bộ Tư pháp; hoặc (iii) Mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Sau khi Toà án đã ra quyết định nói trên, thì Toà án gửi cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp quyết định đó; nếu đương sự ở nước ngoài thì quyết định được gửi thông qua Bộ Tư pháp.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Toà án ra các quyết định nói trên, đương sự, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo quyết định đó; trường hợp đương sự, người đại diện hợp pháp của họ không có mặt tại phiên họp xét đơn yêu cầu thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được quyết định đó.
3. Cách thức giải quyết của Tòa án Việt Nam đối với việc ly hôn hoặc vụ án ly hôn mà một hoặc cả hai bên đương sự là người nước ngoài thường trú tại Việt Nam
Đối với những vụ, việc trên thì nguyên tắc áp dụng luật là luật Việt Nam (nguyên tắc lãnh thổ). Chính vì vậy, Tòa án Việt Nam sẽ giải quyết theo trình tự chung trên cơ sở những quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình và những quy định tố tụng dân sự hiện hành khi một trong các bên có yêu cầu.
V. Một số kiến nghị cá nhân
1. Sửa đổi, bổ sung luật để kịp thời điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh
Như đã đề cập ở trên, pháp luật HN&GĐ đang bộc lộ những bất cập trong quá trình áp dụng, trong đó có cả những bất cập trong việc giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài. Cụ thể là có nên bổ sung các quy định về ly thân làm điều kiện để ly hôn.v.v… Cũng như quy định chặt chẽ hơn về điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài để tiến tới hạn chế việc kết hôn có yếu tố nước ngoài có sự “tự nguyện giả tạo” dẫn đến việc ly hôn.
2. Cần nhiều hơn những văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành
Rất nhiều vụ án trở nên phức tạp do chính sự “bất cần” của chính nguyên đơn khi họ không tìm hiểu kỹ “đối tác” của mình (về nhân thân, địa chỉ...). Điều này không chỉ khiến họ phải gánh chịu thiệt thòi mà còn gây khó khăn, tốn kém về thời gian, công sức cho Tòa án. Cũng có những vụ án gặp vướng do ý thức pháp luật của bị đơn - chẳng hạn bị đơn bỏ về nước trốn tránh nghĩa vụ ra tòa - Tòa án rất khó có biện pháp bắt buộc triệu họ về Việt Nam để tham gia vụ kiện. Mặt khác, hiện nay hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện nên còn nhiều bất cập trong việc xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài. Tòa án chỉ công nhận những vụ án ly hôn khi có bản án ly hôn ở nước ngoài hoặc có thỏa thuận ly hôn của người chồng hoặc vợ. Khi đó nguyên đơn có đơn yêu cầu thì Tòa án sẽ xem xét giải quyết bằng vụ án khác. Nhiều Tòa án địa phương đã kiến nghị với TAND Tối cao nên có hướng dẫn cụ thể để có cơ sở xét xử những trường hợp trên.
3. Hoàn thiện việc ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có công dân kết hôn nhiều với công dân Việt Nam, để làm cơ sở cho việc giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài một cách có hiệu quả. Nhưng trên hết, chẳng một biện pháp pháp lý nào có ý nghĩa hơn việc tuyên truyền giáo dục về tác hại của hôn nhân có yếu tố nước ngoài khi không có sự tự nguyện thực sự và tác hại của ly hôn đối với đất nước, xã hội, gia đình và bản thân người tham gia quan hệ.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Quan hệ hôn nhân và gia đình ở nước ta, trong đó có quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài đang diễn ra ngày càng phức tạp và khó giải quyết. Để giải quyết vấn đề này tốt hơn trong thời gian tới, thiết nghĩ một mặt Nhà nước phải xây dựng và ban hành những văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề này có hiệu quả hơn nữa. Mặt khác, mỗi một chủ thế tham gia quan hệ này phải có ý thức thực hiện và tuân thủ pháp luật tốt hơn nữa. Đó là những gì em đúc rút được khi nghiên cứu về vấn đề này- Vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Giáo trình và sách tham khảo:
1. Giáo Trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội. Nxb. Công an nhân dân, năm 2008;
2. Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế / TS. Nông Quốc Bình, TS. Nguyễn Hồng Bắc. Nxb. Tư pháp, năm 2006.
II. Luận án và Tạp chí:
1. Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn có một bên đương sự ở nước ngoài theo luật tố tụng dân sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học / Nguyễn Thị Thuý; Người hướng dẫn: PGS.TS. Hà Thị Mai Hiên . Hà Nội, 2004;
2. Công nhận bản án ly hôn của toà án nước ngoài tại Việt Nam, hiện trạng và giải pháp / Chu Tấn Đức / Toà án nhân dân, Số 2/2000;
3. Giải quyết việc ly hôn mà vợ, chồng thường trú ở nước ngoài/ Nguyễn Thị Liên Hương / Tạp chí Luật học Số2/1999.
III. Tài Liệu Internet:
1.
2.
3.
MỤC LỤC
Tiêu đề Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập học kỳ luật HN&GĐ - Thực trạng của việc giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài.doc