Thực trạng đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu các doanh nghiệp Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Phần I: Lý luận chung về đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu Đầu tư - Đầu tư phát triển . 2Đầu tư theo chiều rộng 3 2.1. Khái niệm 2.2. Nội dung 2.3. Đặc điểm 2.4. Vai trò Đầu tư theo chiều sâu . 4 3.1. KháI niệm 3.2. Nội dung 3.3. Đặc điểm 3.4. Vai trò Mối liên hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu 7 4.1. Sự cần thiết phảI kết hợp giữa đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu . 7 4.2. Đầu tư theo chiều rộng là cơ sở nền tảng để đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả . 8 4.3. Đầu tư theo chiều sâu là động lực thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tiếp tục đầu tư theo chiều rộng 9 Phần II: Thực trạng đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu các doanh nghiệp Việt Nam 10 I. Đầu tư theo chiều rộng 10 I. Đầu tư theo chiều sâu 17 1. Công nghệ 2. Nguồn nhân lực · Xét trong các ngành: Công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông II. Liên kết hoạt động đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu 28 Phần III: Giải pháp để tăng cường đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu 35 I. Tầm vĩ mô: 35 1. Trước hết Nhà Nước cần đưa ra hệ thống các giải pháp chung tạo tiền đề phát triển cho hoạt động đầu tư. 2.Các giải pháp tăng cường đầu tư chíều sâu. 3.Các giải pháp tăng cường đầu tư chíều rộng. II. Tầm vi mô: 44 1. Các giảI pháp đầu tư theo chiều rộng 2. Các giaỉ pháp đầu tư theo chiều sâu KẾT THÚC VẤN ĐỀ thắc mắc gì về bài viết bạn liên hệ tới sô ***********

doc51 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5211 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o cùng là hạn chế đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Phẩm chất của lao động khi tham gia vào quá trình toàn cầu hóa không những nâng cao khả năng về chuyên môn kỹ thuật, tay nghề mà còn có phẩm chất khác nữa như: tác phong công nghiệp hóa, ứng xử, ngoại ngữ, kỷ luật, sức khoẻ… nhưng những phẩm chất này của nguồn nhân lực nước ta còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó, quản lý nguồn nhân lực của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém. Các hoạt động quản trị nguồn nhân lực còn mang nặng tính truyền thống, theo kinh nghiệm, chưa được thực hiện một cách chuyên nghiệp, do vậy chưa khai thác và phát huy được thế mạnh về nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Điều này được thể hiện trong các hoạt động cụ thể của quản trị nguồn nhân lực: kế hoạch nguồn nhân lực thiếu gắn kết với chiến lược và kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, hoạt động đào tạo và phát triển chưa có chiến lược và hiệu quả còn thấp …. Xét cụ thể trong từng ngành, ta thấy như sau: * Trong ngành công nghiệp: Kết quả điều tra đánh giá trình độ công nghệ trong ngành công nghiệp nhẹ cũng thấy hiình ảnh chung như sau: 46% doanh nghiệp có trình độ công nghệ ở mức trung bình khá theo nghĩa có thể duy trì việc sản xuất kinh doanh ổn định từ 3-5 năm nữa.40% doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình theo nghĩa cần dược cải tiến nâng cao mới có thể hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. 14% doanh nghiệp có trình độ công nghệ thấp ở mức phải đổi mới hoàn toàn mới mong hoạt động đựơc. Chỉ có 11% doanh nghiệp công nghiệp nhà nước ở trung ương và 16% doanh nghiệp công nghiệp nhà nước địa phương sử dụng dưới 50% năng lực sản xuất hiện có. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên trước hết là do nguồn vốn trong nước có thể huy động cho hiện đại hoá công nghệ là rất nhỏ bé, do quy mô của nền kinh tế là nhỏ.Tỷ trọng đầu tư cho công nghệ chỉ dưới 40% tổng đầu tư toàn xã hội, chưa đủ để phát triển ngành, đặc biệt la ngành mũi nhọn.Tổng kinh phí nhà nước cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ năm 2000 khoảng 100 triệu USD, trong khi đó ở Hàn Quốc là 7,5 tỷ USD.Mặt khác sư đóng góp của các trường đại học, viện nghiên cứu cho phát triển công nghệ còn rất khiêm tốn,do thiếu kinh nghiệm, thiếu cơ chế thích hợp và chưa thực sự gắn với nhu cầu bức xúc của nền kinh tế. Bên cạnh đó, hiện tượng đầu tư dàn trải, đầu tư theo phong trào hoặc theo lợi nhuận còn phổ biến và kéo dài làm giảm hiệu quả đầu tư. Đồng thời sự yếu kém của ngành cơ khí, chế tạo máy công cụ, chưa đủ khả năng trang bị máy móc cho nền kinh tế. Năm 2000, các ngành công nghiệp của cả nước chỉ chế tạo ra bình quân mỗi ngay 130 đông cơ điện công nghiệp, 40 đông cơ diezen, 2 máy bơm công nghiệp, 7 máy kéo. Một nguyên nhân cơ bản khác dẫn tới sự yếu kém về công nghệ, đó là do chinh bản thân các doanh nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp còn chưa chú trọng đồng thời cũng không có khả năng đầu tư nâng cao trình độ công nghệ, tiến hành đầu tư theo chiều sâu, thậm chí có doanh nghiệp còn không có chiến lược dài hạn, không phân tích thị trường, không biêt đối thủ cạnh tranh. Nguyên nhân một phần cũng do các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những doanh nghiệp này ít có khả năng về tài chính để tiến hành đầu tư theo chiều sâu.Trong khi vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Đây cũng la những đơn vị có thể dễ ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất vì số vốn đầu tư không đòi hỏi quá lớn. Tình hình đối với những doanh nghiệp có quy mô lớn cung không khả quan hơn. Lí do là những doanh nghiệp này với lợi thế độc quyền, không bị sức ép cạnh tranh nên cũng không quan tâm tới đầu tư chiều sâu để nâng cao chất lượng sản phẩm. Mặt khác quy mô vốn đầu tư để đổi mới công nghệ trong những doanh nghiệp nay rất lớn. Hiện nay ở Việt Nam nhưng doanh nghiệp có trinh độ công nghệ tiên tiến chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do những doanh nghiệp này có quy mô vốn lớn, lại được chuyển giao công nghệ hiện đại từ nước ngoài, chiến lược kinh doanh chú trọng đến đầu tư theo chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, trong các liên doanh nước ngoài, bên Việt Nam góp 30% vốn, chi phí vật tư, khấu hao máy móc chiếm đến 80% giá thành, chứa đựng lợi nhuận cho bên nước ngoài do bên Việt Nam không có khả năng cung cấp và kiểm soát giá nhập khẩu vật tư, máy móc. Với tình trạng công nghệ, máy móc lạc hậu như vậy chúng ta khó có khả năng bắt kịp các nước trong khu vực, mục tiêu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 không có khả năng trở thành hiện thực. * Trong ngành nông nghiệp: Đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôbn, việc ứng dụng khoa học công nghệ có vai trò quyết định. Những kết quả mà nền nông nghiệp nước ta đạt được trong thời gian qua có sự đóng góp quan trọng của khoa học công nghệ. Ước tính 50% giá trị gia tăng của sản xuất lương thực là do nông dân tiếp thu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất. Khoa học công nghệ đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi ngắn ngày đạt năng suất, chất lượng cao. Do đó, ngành nông nghiệp có sự tăng trưởng liên tục, sức cạnh tranh của hàng nông sản được nâng cao. Tuy nhiên, việc chuyển giao khoa học công nghệ vào nông nghiệp nông thôn vẫn chưa tương xứng với tầm quan trọng của khu vực kinh tế này. Tiến độ chuyển giao khoa học công nghệ gặp phải không ít lực cản. Tổng mức đầu tư của nhà nước cho nghiên cứu khoa học công nghệ nông nghiệp từ 1997-2000 khoảng trên 80 tỷ/năm, tương đương 1,8% chi tiêu của nhà nước cho nông nghiệp. Trong khi đó của Trung Quốc là 6%, Malaixia, Thái Lan là 10%. Với mức vốn đầu tư như vậy chúng ta khó có thể duy trì được các chương trình nghiên cứu triển khai có hiệu quả, để cải thiện và phát triển các giống cây trồng, vật nuôi tốt nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Hầu hết các loại cây trồng, vật nuôi ở nước ta đều có năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh thấp, hiệu quả chưa cao, chưa bền vững. Việc áp dụng công nghệ sinh học vào nông nghiệp còn rất hạn chế, trình độ cơ giới hoá trong snả xuất còn thấp. Đặc biệt là vấn đề bảo quản, chế biến, đóng gói bao bì hàng nông sản còn yếu kém làm cho giá trị hàng hoá giảm đáng kể. Trong tiến trình khu vực hoá, toàn cầu hoá, với tình trạng sản xuất yếu kém như vậy, chúng ta không khỏi lo ngại cho tương lai của đát nước, về nguy cơ tụt hậu xa hơn với thế giới. Để giải quyết vấn đề này cần phải có nhận thức đúng đắn, phải đề ra được hướng đi thích hợp. Về nguồn nhân lực trong nông nghiệp: Đây là yếu tố rất quan trọng để có thể tiến hành đầu tư theo chiều sâu trong nông nghiệp, nông thôn.Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong khu vực này có trình độ lao động thấp. Nguyên nhân dẫn đến tinh trạnh này, một phần do thu nhập thấp nên lao động trong nông nghiệp ít có điều kiện được đào tạo, tau dồi tri thức. Theo thông kê, số lao động được đào tạo trong tổng số lao động trong ngành chỉ đạt 9,28%. Trong đó ở các khu vực kinh tế trong điểm có tỷ lệ này cao hơn, đồng bằng sông Hồng là 20%, Đông Nam Bộ là 21%, đồng bằng sông Cửu Long là 10%. Điều này gây cản trở lớn cho việc tiếp thu khoa học kĩ thuật hiện đại vào sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, các cán bộ làm công tác khuyến nông còn thiếu, đặc biệt là cán bộ có trình độ. Số lượng cán bộ khuyến nông ở cấp tỉnh, huyện mới có khoảng 2800, trong khi phải phục vụ số lượng đông đảo trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất nông nghiệp. * Trong giao thông vận tải: Đánh giá các năm qua, hoạt động KHCN của ngành GTVT Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng phấn khởi. Chúng ta có nhiều công trình ghi dấu ấn về tiến bộ KHCN. Các công trình như Hầm đường bộ đèo Hải Vân, cầu dây văng Mỹ Thuận, Bãi Cháy, đoàn tàu kéo đẩy … là sự thể hiện sinh động trình độ, năng lực KHCN của đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công nhân viên ngành GTVT đang ngày càng nâng cao. Hoạt động KHCN GTVT đã đi đúng hướng, đáp ứng được yêu cầu đổi mới và hiện đại hoá công nghệ, quản lý chất lượng, sản xuất kinh doanh, dịch vụ và xây dựng trong toàn ngành. Các kết quả nghiên cứu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới trong các khâu tư vấn, chuẩn bị và thực hiện đầu tư, chuyển giao, đào tạo, tiếp nhận và làm chủ các công nghệ mới, nhất là trong xây dựng giao thông, trong công nghiệp đóng tàu, công nghiệp đã đưa trình độ công nghệ của ngành GTVT tiến kịp khu vực, trong đó có một số lĩnh vực chuyên ngành đạt trình độ công nghệ các nước tiên tiến. Những thành tích, kết quả trong hoạt động KHCN đã và đang góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển GTVT trong thời gian qua, nhất là trong việc tháo gỡ những khó khăn về chủ trương kỹ thuật, giải pháp kỹ thuật, công nghệ để đảm bảo và nâng cao hiệu quả đầu tư, đảm bảo chất lượng, giảm giá thành của công trình, sản phẩm, tăng năng suất lao động, từng bước thực hiện được phương châm của Đại hội Đảng lần thứ VII đề ra là: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bằng và dựa vào khoa học công nghệ” Trong thời gian qua, mặc dù nhiều thành tựu KHCN đã được áp dụng trong ngành GTVT nhưng điều đó luôn là chưa đủ. Để các công trình, sản phẩm, dịch vụ GTVT đáp ứng được nhu cầu của xã hội, không lúc nào chung ta không cần tìm ra những vật liệu mới, những giải pháp công nghệ thi công, sản xuất mới. Hơn nữa, chúng ta cần đến cả những phương thức tổ chức lao động, quản lý sản xuất mới tiên tiến … Tất cả những điều này chỉ có được khi hoạt động KHCN của ngành GTVT được thúc đẩy mạnh mẽ. Về nguồn nhân lực trong GTVT: qua 60 năm phát triển, ngành GTVT đã xây dựng được một lực lượng GTVT hết sức hùng hậu. Lực lượng đó là đội ngũ đông đảo các cán bộ, kỹ sư công nhân nhiều thế hệ: từ những cán bộ nhiều kinh nghiệm thực tiễn tới những cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, tiếp thu nhanh chóng các kiến thức tiên tiến. Lực lượng đó là hệ thống các cơ quan quản lý chuyên ngành GTVT đã được tổ chức khá hợp lý và khoa học bao quát hết các lĩnh vực GTVT. *Trong ngành bưu chính viễn thông: Đến cuối năm 2003, VNPT đã có 20 doanh nghiệp công nghiệp bưu chính viễn thông. Trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp công nghiệp đã từng bước hiện đại hóa, đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, nhằm chủ động cung cấp các sản phẩm với chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật theo kịp trình độ công nghệ cập nhật của thế giới cho mạng lưới, thay thế dần nhập khẩu và từng bước xuất khẩu. Dưới đây là những kết quả chủ yếu của quá trình đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp thuộc VNPT: - Về trình độ công nghệ: với chủ trương đầu tư, đi thẳng vào các kỹ thuật công nghệ mới, hiện đại, tiên tiến, các doanh nghiệp đã tiếp thu được những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ, bước đầu đã nâng cao trình độ công nghệ ở các doanh nghiệp từ mức trung bình yếu lên mức trung bình tiên tiến, cập nhật các công nghệ tiên tiến thế giới, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. - Về phát triển sản phẩm mới: các doanh nghiệp đã nghiên cứu triển khai và phát triển nhiều sản phẩm mới nhằm đa dạng hóa chủng loại sản phẩm, đáp ứng kịp thời và đón đầu nhu cầu phát triển mạng lưới. Việc đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất đã giúp các doanh nghiệp phát triển các sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu phát triển của mạng lưới như thiết bị tổng đài, thiết bị truyền dẫn … Các sản phẩm mới đạt chất lượng tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, được hợp chuẩn trước khi đưa lên mạng, góp phần hạn chế nhập khẩu. - Về chuyển giao công nghệ: chuyển giao công nghệ sản xuất các sản phẩm công nghệ cao chủ yếu được thực hiện tại các liên doanh. Chuyển giao công nghệ bao gồm 3 vấn đề chủ yế: Công nghệ sản phẩm bao gồm các bí quyết công nghệ, các tài liệu thông tin kỹ thuật liên quan, phương pháp thiết kế …, công nghệ sản xuất gồm kỹ thuật sử dụng thiết bị công nghệ trong các dây chuyền sản xuất, kỹ năng vận hành…, và phương pháp điều hành quản lý gồm công tác lập kế hoạch sản xuất, tiêu thụ … Mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng trong đổi mới công nghệ, nhưng nhìn chung đổi mới công nghệ của khối công nghiệp vẫn còn hạn chế, chưa ngang tầm với yêu cầu phát triển của mạng lưới VNPT như: các sản phẩm công nghiệp còn nghèo nàn, thiếu tính đồng bộ, trình độ công nghệ sản xuất ở mức trung bình, quy mô năng lực sản xuất còn nhỏ bé … Về nguồn nhân lực: trình độ các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân kỹ thuật đã có nhiều tiến bộ, đã sử dụng thành thạo và làm chủ các máy móc thiết bị mới, nắm vững các công nghệ chuyển giao, làm chúng thích nghi với điều kiện của doanh nghiệp; chủ động phát triển một số sản phẩm mới, tự giải quyết được những khó khăn trong quá trình sản xuất … Các doanh nghiệp đã có sự quan tâm và đầu tư cho cán bộ kỹ thuật tiếp cận với các công nghệ mới để đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh. III. LIÊN KẾT HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ CHIỀU SÂU. Trong xu thế toàn cầu hoá, khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng và có tính chất nhảy vọt. Sản xuất phát triển theo chiều sâu với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao nhằm tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trở thành chiến lược phổ biến ở hầu hết các nước. Các Quốc gia không thể lơ là chậm chễ trong việc đầu tư phát triển khoa học, công nghệ vì khoa học đã trở thành vũ khí lợi hại nhất để dành thắng lợi trong cạnh tranh. Bên cạnh đó đầu tư cho mở rộng tài nguyên, mở rộng thị trường, quy mô sản xuất cũng đóng một vị trí vô cùng quan trọng trong chiến lựơc phát triển của doanh nghiệp. Việt nam với xu thế hội nhập kinh tế Quốc tế và khu vực rất khẩn trương, tạo cơ hội to lớn cho Việt Nam phát triển một nền kinh tế vững mạnh về mọi mặt. Song thách thức cạnh tranh đang đặt ra rất gay gắt, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải hết sức nhanh chóng chuyển hướng đi đúng đắn cho chiến lược phát triển sản xuất của mình, phải đảm bảo gắn kết nhuần nhuyễn giữa đầu tư theo chiều rộngvà đầu tư theo chiều sâu. Bởi đầu tư theo chiều rộng là cơ sở , là nền tảng để đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả và đầu tư theo chiều sâu là động lực thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tiếp tục đầu tư theo chiều rộng. Thực tiễn Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động ra sao? Đã nhận thức vấn đề này như thế nào? Đây là một câu hỏi khó đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp Việt Nam cũng như các cấp, các ngành, các Bộ trong vấn đề lập kế hoạch chiến lược phát triển một nền kinh tế vững mạnh, công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Thực trạng liên kết hoạt động đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu tại các doanh nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến triển mạnh dạn, tuy nhiên vẫn còn nhiều những bất cập. Tính đến năm 2001 số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta( theo quy mô ) chiếm 95,6% tổng số doanh nghiệp, điều đó cũng có nghĩa là tổng số doanh nghiệp có quy mô lớn là 4,4%. Nếu như đem chỉ tiêu vốn ra để so sánh, thì số các doanh nghiệp lớn ở nước ta cũng còn nhỏ bé so với ngay cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. cụ thể như về vốn sản xuất, bình quân một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 136,3 tỷ đồng gấp 1,14 lần doanh nghiệp Nhà nước( bình quân chỉ có 119,5 tỷ đồng). Chính do nguồn vốn quá hạn chế này của các doanh nghiệp nên mức trang bị kỹ thuật, khoa học, công nghệ cho sản xuất sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Mức trang bị kỹ thuật thể hiện bằng tài sản cố định cho một lao động của một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 365tr/ một lao động, trong khi đó doanh nghiệp Nhà nước mới chỉ đạt 97,6tr/ một lao động. Vấn đề đáng bàn ở đây chính là phương thức đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, dùng công nghệ hiện đại có hàm lượng khoa học công nghệ cao và vốn lớn để đạt mục tiêu cuối cùng của sản xuất là làm tăng năng suất ngay từ cơ sở sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh. Vốn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường là từ các công ty mẹ, các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia. Chính vì vậy mà khả năng cạnh tranh của các công ty này thường hơn hẳn so với các doanh nghiệp ở Việt Nam. Các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam với quy mô vốn quá hạn chế như thế thì việc áp dụng khoa học công nghệ cao trong sản xuất nâng cao khả năng cạnh tranh là một việc hết sức khó khăn. ở nước ta cần khắc phục tình trạng doanh nghiệp đông về số lượng nhưng rất manh mún về quy mô. Nhất là loại hình doanh nghiệp tư nhân, về thực chất thì chỉ nên coi là cơ sở kinh doanh cá thể siêu nhỏ(với mức bình quân một doanh nghiệp chỉ có 12,2 lao động và 0,8 tỷ đồng vốn) và yếu kém về công nghệ , nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành thị và nông thôn. Trong quá trình phát triển có nhiều doanh nghiệp thậm chí cả ngành công nghiệp chuyên môn hoá còn đang bị tình trạng quy mô nhỏ, manh mún làm cho giá thành sản phẩm cao, khả năng cạnh tranh rất thấp và đang mong muốn có sự đổi mới về quy mô trong thời gian hiện tại cũng như tương lai gần. Điều này thấy rất rõ ở ngành thép Việt Nam, chi phí sản xuất một tấn thép cán ở Việt Nam là rất cao so với thế giới, tiêu hao vật chất quy ra tiền( chưa kể chi phí khấu hao, quản lý phí, bảo hiểm, …) bình quân các nhà máy thép của tổng công ty thép Việt Nam là 26,6USD trong khi đó bình quân của các công ty trên thế giới là 14,3USD. Nguyên nhân chính dẫn đến chi phí sản xuất cao ở các nhà máy của tổng công ty có quy mô dây chuyền sản xuất nhỏ, lạc hậu, công nghệ thấp, công suất trung bình của một nhà máy cán thép Việt Nam là 100.000tấn/ 1 năm., rất thấp so với quy mô của các nhà máy cán thép ở khu vực Đông Nam á, trung bình khoảng 500.000tấn/ 1 năm. khi nghiên cứu thực trạng sản xuất tại các công ty, doanh nghiệp tại Việt Nam, người ta thấy rằng trong điều kiện sản xuất chưa hiện đại, thì sản xuất với quy mô lớn có thể giảm đáng kể chi phí sản xuất. Tuy nhiên, một thực tế rõ ràng đây không phải là phương án sản xuất tối ưu để thu được lợi nhuận như mong muốn của các doanh nghiệp. Mặt khác, nếu như chỉ chú ý đến mở rộng quy mô sản xuất quá lớn dễ dàng tạo nên sự hạn chế trong việc quan tâm đến chất lượng sản phẩm, sản phẩm được sản xuất ra nhiều, song chất lượng lại không cao thì quá trình tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp khó khăn. chính vì vậy mà trong 5 năm tới, các doanh nghiệp Việt Nam đang hướng tới việc sử dụng công nghệ tương đối hiện đại với quy mô lớn, nhằm khai thác lợi thế nhờ quy mô và công nghệ hiện đại. Sự kết hợp hợp lý giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu sẽ tạo nên hiệu quả tốt nhất trong sản xuất và kinh doanh. Vai trò của đổi mới công nghệ và mở rộng quy mô được thể hiện rõ ràng. Trước hết ở tầm vĩ mô, sự kết hợp này sẽ làm thay đổi cơ cấu ngành nghề trong nền kinh tế, ngành công nghệ cao sẽ phát triển thay thế các ngành truyền thống hao phí nhiều vật tư, lao động. Quy mô sản xuất lớn lại tạo điều kiện cho việc tiếp cận với công nghệ cao dễ dàng và linh hoạt hơn. Cơ cấu ngành kinh tế nhờ đó mà từ từ thay đổi một cách thích hợp và hiệu quả kinh tế sẽ dễ dàng được như mong muốn. Thứ hai, là tạo ra năng suất cao hơn cùng với sự phong phú về chủng loại sản phẩm, tiện ích cho các qúa trình sử dụng. Thứ ba là tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và các nên kinh tế trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế. Thứ tư là được quan tâm nhiều hơn đó là vai trò của công nghệ đối với vấn đề môi trường trong quá trình khai thác tài nguyên thiên nhiên, quá trình chế tác và sử dụng. Việt Nam đang bị lệ thuộc về công nghệ do vậy hạn chế còn nhiều. Các doanh nghiệp Việt Nam mong muốn rằng công nghệ hiện đại sẽ là chìa khoá mở cửa hội nhập, theo kịp với thế giới. Và quan trọng hơn cả là quy mô sản xuất có phù hợp với quá trình áp dụng công nghệ khoa học hiện đại hay không? Điều này thực sự quan trọng. Việc liên kết đầu tư chiều rộng và chiều sâu thì chỉ có những doanh nghiệp có quy mô lớn mới làm được, số doanh nghiệp này ở Việt Nam còn quá ít. Tuy nhiên, trên thực tế có những doanh nghiệp mà quy mô được coi là lớn và có chỗ đứng trên thị trường lại không quan tâm đến chất lượng, dịch vụ của sản phẩm. Điều này cần phải xem xét lại. Quy mô sản xuất được nói đến ở đây chính là chỉ tiêu vốn. Khi các doanh nghiệp lớn có lợi thế chắc chắn về quy mô điều đó có nghĩa là họ có đủ năng lực để đầu tư tiếp cận công nghệ của thế giới, tạo ra một làn sóng đầu tư đổi mới công nghệ để có sản phẩm cạnh tranh. Tuy nhiên, thị trường công nghệ khá phức tạp, nhưng thành quả khoa học của thế giới đang “ngổn ngang” giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và lạc hậu, cái sắp ra đời khiến các doanh nghiệp lớn của các quốc gia có nền công nghệ hiện đại cũng phải nghiên cứu sắp đặt, lựa chọn và loại bỏ, chính ví thế đối với các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam thì thực tế việc đòi hỏi việc đầu tư đổi mới công nghệ càn được nghiên cứu về mặt lý luận, phân tích, đánh giá tình hình và nhận diện các xu thế phát triển, đưa ra các giải pháp cho đầu tư đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp một cách hợp lý nhất. Các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang trong quá trình đổi mới chiều sâu về phương pháp quản lý sản xuất kinh doanh. Vốn, công nghệ, thị trường luôn là những yếu tố mà các doanh nghiệp sử dụng trong cạnh tranh, giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Các doanh nghiệp Nhà nước trong quá khứ đã có thị trường rộng, gần như không có cạnh tranh, hiện nay bị thu hẹp thị trường là do thiếu vốn, thiếu công nghệ hiện đại, cơ chế quản lý của Nhà nước và kỹ năng quản trị kinh doanh không theo kịp nhu cầu thị trường đang trong xu thế hội nhập, tự do hoá và cạnh tranh. Việc đầu tư mở rộng quy mô, thị trường hết sức hợp lý với đầu tư đổi mới công nghệ đòi hỏi sự đồng bộ, nhất quán. Cần có sự hiểu biết về công nghệ và vai trò quan trọng của việc kết hợp giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Để định hướng chiến lược một cách rõ ràng, đúng đắn nhất. Thiếu nguồn vốn nên các doanh nghiệp chwmj đổi mới công nghệ, nếu vốn ít hay sức ép về lãi suất và thời hạn hoàn vốn sẽ làm cho các doanh nghiệp mãi tụt hậu về công nghệ. ở Việt Nam, các doanh nghiệp đangồcn vưỡng vào cái vòng luẩn quẩn này, khiến cho sự phát triển khó lòng đạt đến đỉnh cao. Nhật Bản là một trong những nước đi đầu về công nghệ hiện đại. họ coi trọng chính sách hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh ở các hãng, tức là sự đổi mới công nghệ mang tính tự giác, tự thêm, tự chủ và hiệu quả, Chính phủ cho áp dụng các ưu đãi về thuế: miễn thuế nhập khẩu công nghệ, tăng mức khâu hao, đưa vào giá thành các chi phí chuyển giao công nghệ, hỗ trợ các hợp đồng có quy mô lớn, cho vay với lãi suất thấp từ quỹ “ cung cấp tài chính cho phát triển công nghệ mới”. Việt Nam nên chăng cũng cần xem xét đến những chính sách khuyến khích như vậy? Hiện nay doanh nghiệp công nghiệp cơ khí ở Việt Nam đề nghị tài trợ tín dụng lãi suất 2% - 4% năm, thời hạn 20 năm và 5 năm ấn hạn. Tất nhiên việc này cần có sự kiểm soát tín dụng của ngân hàng để có vốn đầu tư đúng mục đích. Trên thực tế trong điều kiện cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế còn thấp, Việt Nam cần có chính sách phát triển các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh. Nghĩa là cần xây dựng chiến lược cạnh tranh thích hợp tích cực đi liền với chính sách cơ cấu. Mặt khác, các doanh nghiệp phải chủ động đổi mới, tranh thủ các cơ hội do tiến trình toàn cầu hoá mang lạivề vốn, công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức trên cơ sỏ phát huy các lợi thế so sánh của mình về tài nguyên lao động và thị trường. Tính đến tháng 6 năm 2003 cả nước đã có hơn 130.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, không kể các doanh nghiệp cá thể. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển các doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn gặp khó khăn lớn về tài chính. Quy mô đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước thấp, thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất. Số lượng các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chiếm khoảng 90% tổng số các doanh nghiệp hiện có ở Việt Nam, nhưng số vốn đăng ký của các doanh nghiệp này chỉ chiếm khoảng gần 30% tổng số vốn kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong cả nước. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều có số vốn dưới 5 tỷ đồng. Sau khi luật doanh nghiệp ra đời, số lượng doanh nghiệp tăng một cách đáng kể, nhưng hầu hết số doanh nghiệp mới thành lập đều có quy mô quá nhỏ, gần 75% doanh nghiệp có số vốn dưới 50 triệu đồng. Quy mô quá nhỏ, không cho phép các doanh nghiệp thực hiện đầu tư đổi mới công nghệ, chuyển giao các công nghệ mới vào hoạt động. Bên cạnh đó. Doanh nghiệp Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn do năng lực công nghệ thấp và kỹ thuật hạn ché, trình độ của người quản lý và người lao động thấp, bình quân hiện nay khoảng 7,4% lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam chưa học hết phổ thông và chỉ khoảng 30% chủ doanh nghiệp đã qua trường lớp đào tạo, thiếu thông tin cần thiết về tình hình kinh tế tài chính trong và ngoài nước, về thị trường và giá cả, về môi trường kinh doanh nói chung,… phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng là những khó khăn lớn của các doanh nghiệp Việt Nam, năng lực canh tranh sản phẩm của doanh nghiệp thấp làm cho các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể dành thắng lợi trong cạnh tranh ngay chính thị trường trong nước. Tình trạng nhập lậu tràn lan, chưa kiểm soát nổi, nhất là các mặt hàng tiêu dùng đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là khi các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện để hạ giá thành trong cạnh tranh. Mặc dù đã có những nỗ lực rất lớn cả về phía các cơ quan quản lý và chính bản thân các doanh nghiệp, tuy nhiên các doanh nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi được vòng luẩn quẩn: thiếu vốn để đầu tư dẫn đến trang thiết bị kỹ thuật lạc hậu, khả năng thu hút lao động có tay nghề và trình độ cũng như đào tạo để nâng cao trình độ của người lao động thấp, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh thấp, làm cho các doanh nghiệp không có thị trường, mức tích lũy thấp, và cuối cùng là không có điều kiện để đầu tư. PHẦN III: GIẢI PHÁP ĐỂ TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ THEO CHÍỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHÍỀU SÂU. TẦM VĨ MÔ Đầu tư đóng vai trò quan trọng nhất trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Công cuộc đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường đã và đang tạo ra những biến động sâu sẳc trong hoạt động đầu tư. Vai trò của đầu tư theo chíều rộng, chíều sâu và đặc biệt là mối quan hệ giữa hai hình thức này cần được Nhà Nước và các doanh nghiệp nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn. Một doanh nghiệp muốn đứng vứng, phát triển trên thị trường phải biết vận dụng một cách tối ưu mối quan hệ giữa đầu tư theo chíều rộng và đầu tư theo chíều sâu trong chíến lược phát triển của mình. Vậy với vai trò quản lý và đIều tiết nền kinh tế, Nhà Nước cần làm gì để giúp đỡ các doanh nghiệp đồng thời thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng và bền vững? Trước hết Nhà Nước cần đưa ra hệ thống các giải pháp chung tạo tiền đề phát triển cho hoạt động đầu tư. Thực hiện chíến lược phát triển kinh tế xã hội, trong 5 năm tới mục tiêu đầu tư phát triển của nước ta là tăng nhanh vốn đầu tư phát triển kinh tế, xã hội; xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh; hoàn chỉnh một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng; tạo đIều kiện đầu tư thích đáng cho các vùng kinh tế trọng đIểm; hỗ trợ đầu tư nhiều hơn cho các vùng còn nhiều khó khăn. Để thực hiện được mục tiêu trên, Nhà Nước phải thực hiện tốt các biện pháp chủ yếu sau: Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô thông qua các chính sách ổn định giá trị tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái. Đây được coi là đIều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Vì vậy Nhà Nước cần nhanh chóng cảI thiện và đồng nhất môi trường đầu tư để tạo đIều kiện cho việc khai thác các nguồn vốn đầu tư phát triển trong các thành phần kinh tế. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp theo hướng đồng bộ hơn, đầy đủ hơn, nhất quán hơn, minh bạch hơn để huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển. Chủ động hội nhập, đa dạng hóa đa phương hoá các quan hệ kinh tế quốc tế. Phát huy lợi thế, tạo thế và lực trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thu hút tăng cường nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó, Nhà Nước cũng cần cảI cách cơ chế quản lý theo hướng đơn giản gọn nhẹ, tạo đIều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Để đầu tư đúng hướng và thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh bền vững thì Nhà Nước cũng cần hoàn thiện chíến lược và lập quy hoạch đầu tư cho tất cả các ngành, vùng kinh tế. Như vậy để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư cũng như nâng cao hiệu quả, chất lượng đầu tư thì Nhà Nước cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản trên. Các giải pháp tăng cường đầu tư chíều sâu. Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu kém, công nghệ nghèo nàn lạc hậu. Trong khi đó, Khoa học công nghệ là nhân tố quan trọng và là nền tảng phát triển của nhiều ngành nhiều lĩnh vực. Công cuộc đổi mới kinh tế hiện nay đòi hỏi Việt Nam phải có một hệ thống các giải pháp để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, nhằm tăng năng suất lao động, cảI tiến, thay đổi và phát triển nhiều loại hàng hoá dịch vụ mới có chất lượng cao đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thị trường. Chính vì vậy đầu tư vào khoa học công nghệ và ứng dụng vào sản xuất trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Thứ nhất, để nâng cao trình độ công nghệ và vận dụng có hiệu quả vào sản xuất, Nhà Nước cần xây dựng chíến lược khoa học công nghệ một cách hợp lý khoa học phù hợp với chíến lược kinh tế xã hội và đIều kiện của nước ta. Chíến lược công nghệ quốc gia đóng vai trò quan trọng trong định hướng phát triển công nghệ cũng như đầu tư đổi mới công nghệ của từng doanh nghiệp; nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp có được hướng đI đúng, tiết kiệm nguồn lực, tránh được những rủi ro không đáng có. Trước thực trạng công nghệ ở nước ta, Nhà Nước đã đặt ra mục tiêu đổi mới công nghệ từng bước bắt kịp trình độ công nghệ của các nước trong khu vực và trên thế giới, tiến tới chủ động sáng tạo công nghệ theo mô hình Nghiên cứu_ triển khai. Trong giai đoạn đầu con đường duy nhất đúng là tiếp nhận công nghệ hiện đại thông qua chuyển giao_nhập công nghệ. Theo đó, các cơ quan quản lý ngành kinh tế kỹ thuật cần có nghiên cứu quy hoạch ngành để lập chương trình đổi mới công nghệ cho các ngành và dự án. Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng chíến lược khoa học công nghệ, Nhà Nước cần lựa chọn đúng các lĩnh vực, các nhóm ngành hàng cần ưu tiên phát triển, đặc biệt là các nhóm ngành hàng có năng lực cạnh tranh. Thứ hai, Nhà Nước cần phát huy vai trò của mình trong việc đẩy nhanh ứng dụng khoa học kỹ thuật. Nhà Nước đóng vai trò vô cùng quan trọng trong định hướng tiến bộ khoa học công nghệ cho các ngành, lĩnh vực như: năng lượng, xây dựng, giao thông, nông lâm ngư nghiệp và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Bên cạnh đó Nhà Nước chú trọng một số hướng công nghệ trọng đIểm, mũi nhọn như công nghệ thông tin và truyền thông, sinh học, công nghệ vật liệu mới, tự động hoá, chế tạo máy… Nhà Nước tăng vốn đầu tư cho khoa hoc công nghệ và xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lý đối với khoa học công nghệ bằng các chính sách khuyến khích hoạt động đổi mới công nghệ như đIều chỉnh các chính sách thuế và triển khai luật khoa học công nghệ, hỗ trợ thông tin và xúc tiến thương mại, hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp, tạo môi trường bình đẳng giữa các doanh nghiệp… Thứ ba, Nhà Nước cần huy động và sử dụng tốt năng lực và nguồn lực cán bộ khoa học công nghệ của đất nướcvào nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ. Đối với mỗi cán bộ khoa học có trình độ cao(đặc biệt ở các trường đại học) cần được giao nhiêm vụ nghiên cứu khoa học nhiều hơn. Đồng thời phát triển hệ thống các viện trong trường đại học, thành lập các doanh nghiệp nghiên cứu khoa học và sản xuất trong các trừơng đại học. Bên cạnh đó, việc phân chía lợi nhuận sau thuế của các sản phẩm được làm ra từ việc ứng dụng các kết quả khoa học và công nghệ cần có sự bình đẳng giữa doanh nghiệp Nhà Nước và các doanh nghiệp khác. Thứ tư là phát triển thị trường khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ cũng là một loại hàng hoá đo đó nó cũng được mua bán trên thị trường riêng_ thị trường khoa học công nghệ. Nhà Nước cần xây dựng và vận hành thị trường công nghệ theo hướng công khai qua các hội trợ, các thông tin trên các phương tiện truyền thông rõ ràng giữa các bên mua và bán, nội dung công nghệ và giá cả của nó. Đồng thời cần đổi mới công tác thông tin về các kết quả, thành tựu nghiên cứu khoa học công nghệ để các doanh nghiệp có thể nhanh chóng tiếp cận và ứng dụng ngay vào sản xuất. Ngoài ra công tác tư vấn về tiến bộ khoa học công nghệ cũng cần được khuyên khích phát triển. Nhờ đó có thể khắc phục được tâm lý và thói quen của các nhà khoa học và công nghệ vốn được sinh ra và sống quá lâu trong cơ chế kinh tế cũ, và do vậy tạo ra sự liên kết giữa nhà khoa học công nghệ vơI doanh nghiệp. Trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, yêu cầu đổi mới công nghệ là đòi hỏi cấp thiết của cả nền kinh tế nói chung và các ngành các doanh nghiệp nói riêng. Quá trình đổi mới công nghệ mỗi ngành, mỗi lĩnh vực kinh tế đòi hỏi sự quản lý, chỉ đạo riêng của Nhà Nước để đảm bảo tính thống nhất và theo đúng định hướng phát triển của nền kinh tế. Đối với ngành công nghiệp, trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế quản lý theo hướng thị trường có sự quản lý của Nhà Nước đã diễn ra quá trình đổi mới sâu rộng về chế độ sở hữu, chế độ chính sách của Nhà Nước, đặc biệt là đầu tư đổi mới công nghệ. Để nâng cao chất lượng đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Nhà Nước cần thực hiện các giải pháp sau: Đầu tư chíều sâu vào các sản phẩm, các nhóm nghành hàng có năng lực cạnh tranh cao như dịch vụ vật tư cho sản xuất, công nghệ chế biến, thuỷ sản, dệt may da giày. Bên cạnh đó cũng cần tập trung đầu tư để sản xuất các hàng tiêu dùng công nghiệp cấp cao đang phải nhập khẩu. Lập quy hoạch ngành từ đó lập chương trình đổi mới công nghệ cho ngành và từng dự án. Tăng cường hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu triển khai, hỗ trợ đổi mới công nghệ và triển khai áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế như: miễn thuế nhập khẩu công nghệ, tăng mức khấu hao, đưa vào giá thành các chí phí chuyển giao công nghệ, tài trợ tín dụng với lãi suất thấp… Nhà Nước cần ban hành các chính sách không chỉ thực sự khuyến khích mà còn phải buộc các doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Xây dựng và triển khai luật khoa học công nghệ, khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp mới, hình thành thị trường công nghệ công khai và rõ ràng. Đổi mới công nghệ phải đồng bộ và hiện đại. Tránh tình trạng đầu tư theo phong trào hoặc theo lợi nhuận trước mắt, gây lãng phí vốn và các nguồn lực. Trong ngành nông nghiệp, đầu tư nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ nông nghiệp có tác động tích cực trong việc nâng cao năng suất và sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản trên thị trường. Chính vì vậy việc đầu tư cho đổi mới công nghệ được ưu tiên hàng đầu. Giải pháp chủ yếu để đẩy nhanh đầu tư phát triển khoa học công nghệ nông nghiệp là: Một là,xây dựng cơ chế chính sách phù hợp để khuyến khích và tăng cường huy động các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển khoa học và công nghệ nông nghiệp. Bên cạnh đó cần xã hội hóa các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Hai là, tăng tỷ trọng vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ, công tác giống, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Ba là, cần tiến hành tổ chức lại và hiện đại hoá hệ thống các trung tâm, viện nghiên cứu, các trường đào tạo cán bộ khoa học và có các chính sách thoả đáng để phát triển nguồn nhân lực đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá quy mô lớn và thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Bốn là, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc hình thành và phát triển thị trường hàng hóa khoa học công nghệ Năm là cần ưu tiên tập trung vào nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học để có bước đột phá về giống cây, giống con cho năng suất và giá trị cao; nghiên cứu công nghệ bảo quản, chế biến nông sản, công nghệ bao bì đóng gói làm tăng giá trị và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Trong ngành giao thông vận tải, việc áp dụng nhiều thành tựu khoa học công nghệ đã và đang góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển giao thông vận tải trong thời gian qua. Nhưng để các công trình các sản phẩm dịch vụ giao thông vận tải đáp ứng hơn nữa nhu cầu của xã hội thì hoạt động khoa học công nghệ cần phải được thúc đẩy mạnh mẽ. Trong chíến lược phát triển khoa học công nghệ đến năm 2020 và lộ trình công nghệ đến năm 2010 của ngành giao thông vận tải đã đề cập đến một số giải pháp sau: Thứ nhất, đó là cần xây dựng các chính sách khích lệ, hỗ trợ đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động khoa học công nghệ hướng tới các mục tiêu như tạo lập thị trường khoa học công nghệ sôI động; gắn kết chặt chẽ khoa học công nghệ với sản xuất; thúc đẩy đầu tư vào nghiên cứu – phát triển. Bên cạnh đó cần tiến hành đổi mới cơ chế quản lý khai thác nhằm phát huy các tiềm năng, yếu tố trí tuệ, tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài… Thứ hai là huy động tối đa mọi nguồn lực, đa dạng hoá nguồn đầu tư, khuyến khích các nguồn đầu tư ngoài ngân sách Nhà Nước. Mở rộng hợp tác quốc tế, chuyển giao khoa học công nghệ,ưu tiên cho nhiệm vụ tiếp thu làm chủ công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại. Thứ ba là tạo đIều kiện tiép cận và vận dụng khoa học công nghệ mới phục vụ xây dựng các công trình giao thông vận tải, chế tạo và sản xuất các sản phẩm công nghiệp giao thông( tàu thuỷ, xe buýt, toa xe, trạm trộn bê tông…) Ngành Bưu chính viễn thông ngày càng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Nhưng thực trạng khoa học công nghệ của các doanh nghiệp trong ngành còn rất lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, để đáp ứng yêu câu hội nhập, đổi mới công nghệ ngày càng trở nên cấp thiết. Thứ nhất, cần tiếp tục định hướng vào công nghệ đI tắt đón đầu làm động lực phát triển ngành. Vận dụng linh hoạt các hình thức đầu tư chíều sâu như: đổi mới quy trình công nghệ, chuyển giao công nghệ, hợp tác đầu tư, nghiên cứu sản xuất các sản phẩm đón đầu… Thứ hai, cần mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất các sản phẩm chủ yếu, đáp ứng nhu cầu phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông. Thứ ba là tăng cường độc lập tự chủ và hợp tác quốc tế, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ nhập một cách sáng tạo. Xây dựng công nghiệp bưu chính viễn thông tin học theo hướng lựa chọn công nghệ cao. Một trong những giải pháp quan trọng để tăng cường đầu tư theo chíều sâu là đầu tư và phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực được coi là nguồn lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Phát triển nguồn nhân lực là tạo ra sự thay đổi về chất của nguồn nhân lực về các mặt thể lực, trí lực, chuyên môn kỹ thuật, phẩm chất và nhân cách để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế, văn hoá xã hôI… Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại thì phát triển nguồn nhân lực trở thành yêu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết. Các giải pháp phát triển nguồn nhân lực gồm: Trước hết, Nhà Nước cần quy hoạch lại mạng lưới các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và trường dạy nghề theo hướng Nhà Nước chỉ quản lý các cơ sở đào tạo lớn còn lại giao cho các đIạ phương, đoàn thể và tư nhân quản lý. Nhờ đó có thể tăng cường xã hội hoá, đa dạng hoá các hình thức sở hữu và thu hút vốn cho giáo dục và đào tạo đồng thời đào tạo nghề sẽ bám sát hơn với nhu cầu lao động của từng địa phương. Thứ hai, Nhà Nước cũng cần đIều chỉnh lại cơ cấu đào tạo một cách hợp lý theo tỷ lệ cao hoc, đại học – trung học chuyên nghiệp – công nhân kỹ thuật là 1 – 4 – 10 thông qua việc giao chỉ tiêu tuyển sinh, hỗ trợ tài chính… Thứ ba, cần tuyên truyền và vận động người dân nhằm nâng cao nhận thức của xã hội về đào tạo để họ có những định hướng đúng cho thế hệ tương lai. Thứ tư là hoàn thiện chính sách thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực như khuyến khích người lao động tham gia đào tạo chuyên môn kỹ thuật, phát triển và đIều chỉnh thị trường lao động… Thứ năm là nâng cao chỉ số HDI ( chỉ số phát triển con người) của nước ta thông qua các kế hoạch giải pháp tăng tốc phát triển kinh tế, nâng cao mức sống, tăng số năm đI học, đảm bảo tỗt chăm sóc y tế, phúc lợi xã hội cho dân cư và người lao động. các giải pháp tăng cường đầu tư chíều rộng. Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, ở nước ta còn tồn tại tình trạng doanh nghiệp đông về số lượng nhưng rất manh mún về quy mô. Tình trạng đó đã dẫn đến giá thành sản phẩm cao khả năng cạnh tranh thấp do không tận dụng được lợi thế quy mô. Chính vì vậy xu hướng tất yếu của sự phát triển là cảI thiện nhanh chóng quy mô của doanh nghiệp. Vậy Nhà Nước đã có những giải pháp gì để giúp các doanh nghiệp mở rộng quy mô, tăng cường đầu tư theo chíều rộng. Thứ nhất, Nhà Nước cần tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm thu hút FDI và ODA. Do đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng hàng đầu trong sự tăng trưởng kinh tế, là nguồn cung cấp vốn cơ bản giúp các doanh nghiệp đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Để giới thiệu quảng cáo cơ hội đầu tư với bên ngoài, Nhà Nước cần tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát, tổ chức các hội thảo khoa học, các diễn đàn đầu tư, kinh tế ở khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, cần tích cực sử dụng các phương tiện truyền thông, xây dựng mạng lưới các văn phòng đại diện ở nước ngoài nhằm cung cấp thông tin kịp thời, nhanh chóng khi các đối tác có ý định đầu tư vào nước ta. Thứ hai, Nhà Nước cần tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đồng thời kết hợp đồng bộ với các chính sách khuyến khích đầu tư, đào tạo nhân lực, thị trường và cạnh tranh… Thứ ba, Nhà Nước đã xây dựng một hệ thống các giải pháp tăng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như các giải pháp về tài chính, tín dụng hỗ trợ phát triển hay các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tự sát nhập với nhau theo mô hình kinh tế mẹ con… Các giải pháp tài chính tín dụng nhằm hộ trợ cho sự các doanh nghiệp vừa và nhỏ như: Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế nhằm tạo ra khả năng tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thành lập các quỹ hỗ trợ đầu tư, nhằm giúp các doanh nghiệp vay vốn trung và dàI hạn với lãi suất thấp hoặc trợ cấp vốn không hoàn lại nhằm tạo đIều kiện cho việc thành lập doanh nghiệp mới và đầu tư mở rộng doanh nghiệp hiện có. Tuy nhiên để thực hiện có hiệu quả cần có cơ chế đIều hành minh bạch, xác định đúng đối tượng hỗ trợ Chính phủ thực hiện chính sách lãi suất thấp để kích thích đầu tư. Bên cạnh đó cũng cần phải có những chính sách hỗ trợ như hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tái cấp vốn và mua bán tái chíết khấu các giấy tờ có giá. Mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ như mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn, mở rộng các hình thức và đIều kiện vay vốn, giảm bớt thủ tục giấy tờ.. Bên cạnh đó, trong giai đoan hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có xu hướng sát nhập, liên kết hợp tác với nhau theo mô hình công ty mẹ_con hoặc tập đoàn kinh tế hoặc các công ty đa quốc gia… để có khai thác được lợi thế quy mô, thu lợi nhuận cao, giảm chí phí và có thể đứng vững trong thị trương cạnh tranh II. TẦM VI MÔ 1. Các giải pháp đầu tư theo chiều rộng Chủ động trong công tác xúc tiến đầu tư. Các doanh nghiệp nên xây dựng các trang web riêng , tham gia các hội chợ, triển lãm trong nước cũng như nước ngoài để quảng cáo sản phẩm, tìm kiếm đối tác, và tìm kiếm các nhà đầu tư. Đồng thời, các doanh nghiệp nên đẩy mạnh nghiên cứu thị trường nước ngoài để nắm bắt cơ hội kinh doanh tìm kiếm các thị trường mới. Có thể mở văn phòng đại diện, thành lập cơ quan xúc tiến thương mại tại thị trường xuất khẩu lớn. Nguồn nhân lực Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ nhưng tay nghề, trình độ chuyên môn còn thấp. Để tận dụng triêt đẻ nguồn nhân lực hiện có nầyt phải có biện pháp đào tạo và phát triển : Một là, các ban quản lý khu công nghiệp cần phải kết hợp với bộ ngành có liên quan và chính quyền địa phương để mở các trung tâm đào tạo nghề nhằm đào tạo trực tiếp công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp sản xuất trong KCN. Hai là, các doanh nghiệp cần chủ động tiếp cận với các cơ sở đào tạo nghề để kết hợp mở các khoá đào tạo nghề theo nhu cầu của doanh nghiệp. Như vậy doanh nghiệp sẽ dễ dàng tuyển được lao động như ý cũng như giảm chi phí trong khâu đào tạo lại sau khi tuyển dụng Ba là, sau khi tuyển dụng, lao động chưa đáp ứng tốt chuyên môn thì doanh nghiệp nên phân công xuống các tổ sản xuất để bố trí việc làm cụ thể. Qua đó, lao động vừa làm vừa học nghề hoặc doanh nghiệp có thể mở các khoá đào tạo tại trụ sở với việc thuê giáo viên hoặc các chuyên gia kỹ thuật trong và ngoài doanh nghiệp giảng dạy, sau đó yêu cầu người lao động thực hành ngay tại vị trí của mình 2. Các giải pháp đầu tư theo chiều sâu Đẩy nhanh tiến bộ khoa học cộng nghệ vào sản xuất: Để đẩy nhanh quá trình này doanh nghiệp cần thực hiện một số biện pháp sau: Một là, doanh nghiệp cần có chiến lược phát triển khoa học công nghệ. Các doanh nghiệp trên cơ sở hoạch định chiến lược sản phẩm cần xây dung chiến lược khoa học thể hiện sự gắn bó giữa nhu cầu sản phẩm của thị trường với yêu cầu huy động, quản lý, sử dụng vốn và công nghệ của doanh nghiệp. Hai là, phát huy vai trò của doanh nghiệp trong việc đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. Doanh nghiệp là khâu quyết định việc đổi mới công nghệ. Cần xuất phát từ nhu cầu thị trường, từ nhu cầu đổi mới chủng loại, chất lượng sản phẩm, cũng như nhu cầu về tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm và căn cứ vào khả năng huy đông vốn từ mọi nguồn, khả năng khai thác sử dụng nguồn nhân lực của doanh nghiệp để lựa chọn:hình thức mức độ đổi mới công nghệ thích hợp. Các doanh nghiệp cần nâng mức đầu tư cho khoa học công nghệ và đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư, phấn đấu để mức đầu tư có thể đạt 2-3% so với doanh thu. Trong quá trình sản xuất doanh nghiệp phải thườn xuyên đánh giá trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp để thấy được năng lực nội tại và làm cơ sở phân tích định tính và điịnh lượng trình độ công nghệ, so sánh với đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó, đánh giá các xu hướng đổi mới trong tương lai để biết hướng đầu tư phát triển công nghệ như thế nào:mức độ đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, khu vực đầu tư và thị trường. Và từ đây rút ra kết luận và đưa ra giải pháp cạnh tranh tập trung vào thành phần nào của công nghệ, thị trường nàp, giai đoạn nào. Giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực phải được quản lý một cách có chiến lược; chú trọng và nâng cao hiệu quả để mọi người đều làm hết mình và có chất lượng cao. Thứ nhất, các doanh nghiệp cần phải quản lý chặt chẽ nguồn nhân lực của mình. Doanh nghiệp cần có một triết lý kinh doanh làm cơ sở tinh thần cho cộng đồng người lao đọng của doanh nghiệp. Tạo ra môi trường làm việc tích cực( bao gồm điều kiện lao động, bầu không khí nơi làm việc, văn hoá doanh nghiệp, các quan hẹ lao động). Thứ hai, tuyển lựa sắp xếp cán bộ vào đúng vị trí để có hiệu quả cao. Các doanh nghiệp cần tổ chức các khoá đào tạo để nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, để cán bộ tiếp thu được những tiến bộ của thời đại như các phần mềm mới, hình thức quản lý mới có hiệu quả cao.Hơn nữa, nếu có điều kiện có thể gửi những cán bộ có năng lự đi nước ngoài học hỏi kinh nghiệm. Thứ ba, các doanh nghiệp phải có chế độ đãi ngộ thích đáng đối với những cán bộ chuyên gia có năng lực, phẩm chất tốt để họ hết lòng với công việc của mình. Các doanh nghiệp cần tăng cường thông tin về công nghệ. Các doanh nghiệp phải cập nhật được thông tin của thị trường công nghệđể mau chóng tiếp cận với các kết quả đó và ứng dụng ngay vào sản xuất nếu được, tránh việc nghiên cứu trùng lặp, gây ra lãng phí cho doanh nghiệp. Ngoài ra, nó còn tránh cho doanh nghiệp mua những dây truyền sản xuất lạc hậu với giá đắt. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Từ những phân tích ở trên, ta thấy nền kinh tế Việt Nam từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, trong tình trạng trì trệ thì dưới sự tác động của cơ chế thị trường nền kinh tế đã có sự biến đổi sâu sắc theo hướng tích cực. Hoạt động đầu tư đã có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn có nhiều vấn đề cần phải xem xét. Trước hết hoạt động đầu tư của cả Nhà nước và doanh nghiệp phải có chiến lược, bài bản. Phải có chiến lược lâu dài cho hiện tại và cho cả tương lai, phải đánh giá đúng vai trò của đầu tư chiều rộng và chiều sâu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, vai trò của Nhà nước cũng rất quan trọng. Nhà nước phải sớm ban hành các chính sách đồng bộ, ưu đãi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích đầu tư và đặc biệt phải có những chính sách ưu đãi, hợp lý để thu hút vốn đầu tư nước ngoài MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Phần I: Lý luận chung về đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu Đầu tư - Đầu tư phát triển ……………………………………. 2 Đầu tư theo chiều rộng …………………………………… 3 Khái niệm Nội dung Đặc điểm Vai trò Đầu tư theo chiều sâu ………………………………………. 4 KháI niệm Nội dung Đặc điểm Vai trò Mối liên hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu ……….. 7 Sự cần thiết phảI kết hợp giữa đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu ……………………………………………………. 7 Đầu tư theo chiều rộng là cơ sở nền tảng để đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả ………………………………………. 8 Đầu tư theo chiều sâu là động lực thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tiếp tục đầu tư theo chiều rộng ……….. 9 Phần II: Thực trạng đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu các doanh nghiệp Việt Nam ……………………………………………………………….. 10 I. Đầu tư theo chiều rộng ……………………………………………… 10 Đầu tư theo chiều sâu ……………………………………………… 17 Công nghệ Nguồn nhân lực Xét trong các ngành: Công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông Liên kết hoạt động đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu …… 28 Phần III: Giải pháp để tăng cường đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu ………………………………………………………………….. 35 Tầm vĩ mô: ………………………………………………… 35 Trước hết Nhà Nước cần đưa ra hệ thống các giải pháp chung tạo tiền đề phát triển cho hoạt động đầu tư. Các giải pháp tăng cường đầu tư chíều sâu. Các giải pháp tăng cường đầu tư chíều rộng. Tầm vi mô: ……………………………………………….. 44 Các giảI pháp đầu tư theo chiều rộng Các giaỉ pháp đầu tư theo chiều sâu KẾT THÚC VẤN ĐỀ Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế đầu tư Giáo trình Thống kê đầu tư và xây dựng Tình hình Kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm qua Tạp chí Kinh tế phát triển Tạp chí Nghiên cứu kinh tế Tạp chí Giao thông vận tải Tạp chí Thời báo kinh tế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu các doanh nghiệp Việt Nam.DOC
Luận văn liên quan