Thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong quá trình phát triển của một đất nước, hệ thống Ngân hàng thương mại đóng vai trò rất quan trọng. Các Ngân hàng thương mại góp phần điều hoà lượng tiền trong lưu thông giúp ổn định giá cả, chống lạm phát, cung cấp các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế giúp quá trình sản xuất – trao đổi - tiêu dùng diễn ra trôi chảy hơn. Ngân hàng thương mại huy động với mọi nguồn vốn trong nền kinh tế để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, thực hiện việc tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu. Thực hiện tốt việc tự do di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Tuy hoạt động tín dụng của Ngân hàng đem lại hiệu quả cao nhưng kèm theo đó là rủi ro tiềm ẩn rất lớn. Một Ngân hàng gặp rủi ro lớn sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống Ngân hàng.Vì thế, rủi ro tín dụng là vấn đề quan tâm hàng đầu không những đối với cán bộ Ngân hàng mà còn là của toàn xã hội. Bên cạnh những chuyển biến tích cực trong quá trình hoạt động, các Ngân hàng thương mại đã và đang gặp không ít khó khăn trong việc huy đọng vốn và sử dụng vốn đạt hiệu quả. Đặc biệt đối với kinh tế ngoài quốc doanh, hoạt động cho vay đối với loại hình này còn có nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng.

docx63 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2592 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng và phân loại nợ theo Điều 7 tại BIDV đã được triển khai một cách bài bản, quyết liệt trong toàn hệ thống. Sau hơn 6 năm triển khai thực hiện phân loại nợ theo Điều 7 Quyết định 493, kết quả XHTD NB đã được đánh giá là phản ánh chính xác chất lượng tín dụng theo thông lệ quốc tế để từ đó BIDV có thể đưa ra được các biện pháp, giải pháp xử lý nợ xấu và kiểm soát nợ xấu phát sinh. Nợ xấu năm 2006 theo kết quả phân loại nợ theo Điều 7 QĐ 493 là 9,6% (kết quả xếp loại theo Điều 6 – Quyết định 493 chỉ có 3,2%) đã đặt ra áp lực rất lớn đối với BIDV trong việc giảm tỷ lệ nợ xấu trong những năm tiếp theo. BIDV đã mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật, triển khai quyết liệt 9 giải pháp xử lý nợ xấu theo phương án đã trình lên NHNN tại hai thời điểm 31/12/2004 và 31/12/2005 góp phần quyết định xử lý cơ bản nợ xấu đã được Thống đốc NHNN ghi nhận và đánh giá cao. Tỷ lệ nợ xấu theo chuẩn mực quốc tế của BIDV do kiểm toán quốc tế thực hiện đã giảm từ 9,6% năm 2006 xuống còn 3,2% vào cuối năm 2007 và đến 31/12/2009 tỷ lệ nợ xấu chỉ còn ở mức 2,8%. Từ năm 2010 đến nay, BIDV tiếp tục kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng theo thông lệ quốc tế, kiểm soát nợ xấu của BIDV nằm trong tỷ lệ cho phép của NHNN. Với việc thực hiện phân loại nợ theo Điều 7- Quyết định 493, kết quả phân loại nợ của BIDV đã ngày càng sát với kết quả phân loại nợ theo chuẩn mực quốc tế. Khoảng cách giữa tỷ lệ nợ xấu theo phân loại của BIDV với phân loại của công ty kiểm toán quốc tế ngày càng được rút ngắn là do hai bên đã có chung một tiếng nói - cơ sở đánh giá khách hàng đó là Hệ thống XHTDNB. Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Viettinbank) Hệ thống chấm điểm của Viettinbank được thực hiện một cách tự động theo các chuẩn mực quốc tế. Trong hệ thống XHTDNB của mình, Viettinbank sử dụng kết hợp các chỉ tiêu định tính để chấm điểm bổ sung cho các chỉ tiêu định lượng, bao gồm: Lưu chuyển tiền tệ, năng lực kinh nghiệm quản lý, uy tín giao dịch với ngân hàng gồm quan hệ tín dụng và phi tín dụng, môi trường kinh doanh, các đặc điểm hoạt động khác. So với hệ thống XHTD của BIDV thì mô hình của Viettinbank chú trọng đến các chỉ tiêu tài chính nhiều hơn, tuy nhiên tỷ trọng các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính vẫn có sự cân bằng, không quá chênh lệch. Kết quả tích cực của việc xây dựng một hệ thống XHTDNB hoàn chỉnh và chi tiết là việc Viettinbank luôn là ngân hàng dẫn đầu của khối NHTMNN trong việc kiểm soát nợ xấu, trong khi các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao thì Viettin vẫn duy trì ở mức dưới 2,5%, mặc dù Viettinbank vẫn đạt tốc độ tăng trưởng huy động vốn và tăng trưởng tín dụng cao trong khối. Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) Thông qua dự án này, Vietcombank đã và đang từng bước ứng dụng mô hình tổ chức hiện đại với mô thức quản trị điều hành theo các chuẩn mực quốc tế hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động kinh doanh, đồng thời tạo dựng một cơ chế giám sát và quản trị rủi ro hữu hiệu. Mô hình hệ thống XHTD mà Vietcombank hoàn thành đã có sự trợ giúp của các chuyên gia tài chính thuộc WB trong chương trình thực hiện Dự án Liên kết kỹ thuật cơ cấu lại Ngân hàng với một Đề án tổng thể cơ cấu lại toàn bộ hoạt động, tổ chức, quản trị điều hành…của Vietcombank theo các chuẩn mực quốc tế. Do vậy, nó tương đối phù hợp với các tiêu chuẩn đang sử dụng của nhiều tổ chức tín nhiệm trên thế giới. Mô hình XHTD của Vietcombank tuân theo các trình tự, tiêu chí rất nghiêm ngặt và chặt chẽ. Với hệ thống này, việc đo lường, định dạng RRTD tại Vietcombank được thực hiện thống nhất. Nhìn chung thì mô hình chấm điểm khách hàng doanh nghiệp trong XHTD của Vietcombank vẫn bám sát khung hướng dẫn của NHNN, nhưng có sự điều chỉnh dựa theo kinh nghiệm xếp hạng của các tổ chức tín nhiệm thế giới. Mô hình chấm điểm các chỉ tiêu phi tài chính tại các chi nhánh còn đưa vào nhóm chỉ tiêu dự báo ảnh hưởng của thay đổi chính sách Nhà nước và dự báo tác động của cạnh tranh đến lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là điểm hết sức tiến bộ nhằm tăng cường khả năng dự báo nguy cơ gặp khó khăn về tài chính trong tương lai của các khách hàng được xếp hạng. Thông qua mô hình này, Vietcombank tiến hành chấm điểm tín dụng khách hàng để làm cơ sở quyết định giới hạn tín dụng. Đây là một trong những công cụ quan trọng giúp Vietcombank nâng cao chất lượng cấp phát tín dụng của mình, tăng cường hiệu quả QTRRTD. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) Với Agribank việc chấm điểm khách hàng đã được thực hiện hoàn toàn tự động trên toàn hệ thống chi nhánh và tại hội sở với sự hỗ trợ công nghệ tích hợp hiện đại IPCAS. + Tại khối NHTMCP Trong đó, ngân hàng TMCP Quân đội là ngân hàng đầu tiên xây dựng và triển khai hệ thống một cách hoàn chỉnh và cũng là ngân hàng duy nhất trong khối đã thực hiện phân loại nợ theo phương pháp định tính, dựa trên hệ thống XHTDNB. Ngay từ năm 2003, MB đã bắt đầu công tác nghiên cứu, xây dựng hệ thống XHTD với sự tham gia của các chuyên gia giàu kinh nghiệm. Năm 2005, ngân hàng này hoàn thiện hệ thống XHTDNB gần với thông lệ quốc tế và áp dụng thử nghiệm trong toàn hệ thống. Tháng 9/2008, được sự chấp thuận của Thống đốc NHNN chấp thuận cho MB áp dụng phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo điều 7 quyết định 493, MB đã chính thức trở thành NHTMCP đầu tiên ở Việt Nam quản trị RRTD theo thông lệ quốc tế. Cũng giống như BIDV, hệ thống XHTD của MB thực hiện trên cơ sở chấm điểm chỉ tiêu bao gồm chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng với trọng số cho từng nhóm chỉ tiêu phù hợp với ngành, quy mô hoạt động, của khách hàng. Hệ thống được vận hành trên nguyên tắc thận trọng, khách quan, thống nhất và được xây dựng trên một phần mềm chuyên dụng hoàn toàn phù hợp với hệ thống ngân hàng lõi Core-banking của MB. Một điểm mới của hệ thống này so với hệ thống XHTD của BIDV là ngoài chức năng xếp hạng, phân loại nợ, hệ thống còn có chức năng cho phép trích lập dự phòng trực tiếp và chiết xuất được ra các bản báo cáo theo yêu cầu quản trị. Hệ thống XHTDNB đã giúp MB đánh giá chất lượng của toàn bộ danh mục tín dụng, xác định một cách hợp lý, chính xác nhất tổn thất tín dụng theo từng dòng sản phẩm hoặc lĩnh vực hay ngành kinh tế, phân tích được rủi ro và lợi nhuận của các dòng sản phẩm một cách thống nhất, tập trung trong suốt quá trình cấp và quản lý tín dụng từ hội sở tới các phòng giao dịch. [16] Việc MB áp dụng hệ thống XHTDNB cũng sẽ giúp rút ngắn thời gian thẩm định và phê duyệt khoản vay, tạo điều kiện cho khách hàng kịp thời tiếp cận được các cơ hội kinh doanh và tiến dần đến các thông lệ quốc tế trong việc xếp hạng tín nhiệm. Một số NHTMCP khác cũng đã triển khai thành công hệ thống XHTDNB dưới sự tư vấn hỗ trợ xây dựng và hoàn thiện của công ty Kiểm toán quốc tế Ernst & Young Việt Nam. Các hệ thống này được xây dựng cụ thể cho từng ngành kinh tế, cho 3 nhóm khách hàng riêng biệt là doanh nghiệp; cá nhân và định chế tài chính tuân thủ theo đúng thông lệ quốc tế. Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) Từ cuối tháng 8/2008, Sacombank và công ty Kiểm toán quốc tế Ernst & Young Việt Nam đã khởi động chương trình dịch vụ tư vấn hỗ trợ hoàn thiện hệ thống XHTDNB. Qua đó, số lượng ngành nghề áp dụng cho hệ thống XHTD khách hàng doanh nghiệp tại SCB hiện là 31 ngành nghề. Trong thời gian tới, Sacombank sẽ chính thức nộp hồ sơ lên NHNN Việt Nam xin phép được triển khai áp dụng hệ thống XHTDNB để phân loại nợ và áp dụng chính sách dự phòng sau khi hoàn tất chương trình tư vấn hoàn thiện hệ thống trên. Ngân hàng TMCP Hàng Hải (Maritime Bank) Xác định việc xây dựng hệ thống XHTDNB là một cấu phần quan trọng và là một công cụ đắc lực trong quản trị kinh doanh ngân hàng, từ quý II năm 2007, Maritime Bank đã thực hiện triển khai xây dựng hệ thống XHTDNB và đưa chương trình vào ứng dụng với tên gọi là MSB Ratings. Chương trình MSB Ratings đã đem lại nhiều lợi ích trong việc ra quyết định phê duyệt tín dụng, QTRR của Maritime Bank, là cơ sở thực hiện xây dựng chính sách khách hàng . Tuy nhiên, để hướng tới mục tiêu trở thành ngân hàng bán lẻ hiện đại, năng động và bền vững hàng đầu Việt Nam, đồng thời khắc phục những hạn chế từ hệ thống XHTDNB hiện hành và nâng cao hiệu quả trong QTRRTD, Maritime Bank hiểu rằng việc nâng cấp hệ thống XHTDNB là cần thiết. Maritime Bank đã triển khai xây dựng và nâng cấp thành công Hệ thống XHTDNB mới, gồm 9 bộ chỉ tiêu XHTD. Tuy nhiên, đối tượng khách hàng được chấm điểm của Maritimebank còn mở rộng ra đối với hộ kinh doanh, đây là điều mà các ngân hàng khác chưa làm được. Ngoài ra, Maritime Bank và Ernst & Young còn xây dựng thành công phần mềm chấm điểm, xếp hạng khách hàng kết nối với máy chủ tại Trụ sở chính. Hệ thống này được chính thức đưa vào sử dụng từ quý II năm 2010. Với hệ thống xếp hạng được xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế, có sự điều chỉnh phù hợp với đặc điểm riêng của ngân hàng và phù hợp với quy định của NHNN, VIB có thể quản trị một cách hiệu quả và toàn diện chất lượng tín dụng của Ngân hàng, đồng thời các báo cáo quản trị giúp ngân hàng này đưa ra các chính sách tín dụng phù hợp trong từng giai đoạn cụ thể. Phân tách chức năng của các bộ phận trong quy trình phê duyệt cấp tín dụng: Những năm gần đây, tại hầu hết các NHTM, chúng ta đều không còn thấy sự hiện diện của phòng tín dụng với chức danh cán bộ tín dụng – người vốn chịu trách nhiệm chính trong phòng tín dụng, đảm nhiệm các công việc như: tiếp xúc khách hàng, phân tích đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, xác định mức độ rủi ro, sau đó trình lên cấp trên xin ý kiến trước khi quyết định giải ngân cho các khách hàng. Thay vào đó, quy trình tín dụng giờ đây, được thực hiện bởi 3 phòng riêng biệt, độc lập: Phòng quan hệ khách hàng, phòng quản lý RRTD, phòng tác nghiệp. Trong đó, phòng quan hệ khách hàng sẽ tập trung chủ yếu vào hoạt động tiếp thị, tiếp xúc khách hàng, khởi tạo tín dụng. Phòng quản lý RRTD sẽ thực hiện thẩm định tín dụng độc lập và ra các ý kiến về cấp tín dụng cũng như giám sát quá trình thực hiện các quyết định thực hiện tín dụng của bộ phần quan hệ khách hàng. Phòng tác nghiệp sẽ tiến hành lưu trữ hồ sơ, nhập hệ thống máy tính. Có thể nói, việc tách bạch các phòng ban như trên giúp cho các quyết định cho vay mang tính khách quan hơn. Đặc biệt, nhờ sự chuyên môn hóa sâu hơn theo chức năng mà việc thực hiện phân tích tín dụng sẽ sâu sắc và chính xác hơn, giúp nhận diện các rủi ro tiềm năng và có biện pháp phòng ngừa thích hợp. Mặt khác, sự giám sát của bộ phận quản lý RRTD đối với bộ phận quan hệ khách hàng trong quá trình thực hiện các quyết định cấp tín dụng đã tạo nên cơ chế kiểm tra và giám sát liên tục, song song trong quá trình cho vay và giảm thiểu được những rủi ro sau khi cho vay mà cơ chế kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, với mô hình mới này, tình trạng RRTD xảy ra với ngân hàng khi cán bộ tín dụng “bắt tay” với khách hàng trong việc thẩm định, làm giả hồ sơ các khoản vay…sẽ được hạn chế đáng kể. Những hạn chế trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại hệ thống ngân hàng Việt Nam: Về phía ngân hàng nhà nước và cơ quan có thẩm quyền: -Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương: Trong những năm gần đây, các cơ quan chức năng đã ban hành nhiều Luật, văn bản dưới luật, văn bản hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động TDNH. Luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: Trong những hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực tế, các NHTM không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng… cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng NHTM không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng. - Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa đạt hiệu quả cao của NHNN: Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng vẫn còn nhiều điểm hạn chế: + Hoạt động giám sát của NHNN vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu trong 25 nguyên tắc giám sát của Basel Các nguyên tắc giám sát mà NHNN đã đáp ứng được mới chỉ bao gồm nguyên tắc liên quan đến hoạt động giám sát đối với việc chuyển đổi quyền sở hữu của NHTM, các cuộc sáp nhập lớn của các NHTM, tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn tối thiểu, giới hạn tín dụng đối với khách hàng lớn, rủi ro thanh khoản và kiểm toán, kiểm soát nội bộ của NHTM. + Các quyết định liên quan đến hoạt động giám sát NHTM còn nhiều hạn chế Trong số các quyết định liên quan đến hoạt động giám sát thì NHNN mới chỉ được các tổ chức quốc tế đánh giá là thực hiện tốt và có quy định rõ ràng cách tính tỷ lệ giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro. Đồng thời, quy định mức tỷ lệ tối thiểu cần thiết đối với một NHTM là 8% theo như thông lệ quốc tế. Ngoài ra, các yêu cầu khác liên quan đến việc giám sát khả năng quản trị các loại rủi ro của NHTM thì NHNN vẫn chưa xây dựng được những văn bản pháp lý phản ảnh những yêu cầu này. Các nội dung đưa ra trong quyết định mới chỉ giám sát mang tính định lượng mà chưa có những nhận định mang tính định tính về mức độ rủi ro và khả năng QTRR của NHTM. các tiêu chí để đánh giá RRTD của một NHTM mới chỉ được thể hiện trong nội dung giám sát chất lượng tài sản Có thông qua việc thống kê các khoản nợ quá hạn, trong việc giám sát giới hạn tín dụng của NHTM. Tuy nhiên, điều này là chưa đủ để đánh giá mức độ RRTD của NHTM vì cần phải có thêm những đánh giá định tính khác như đánh giá các tiêu chuẩn cấp tín dụng và quá trình xem xét tín dụng của ngân hàng, đánh giá mức độ công bằng trong cấp tín dụng… Các quyết định 457 và 493 được xây dựng dựa trên cơ sở áp dụng chuẩn mực và thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển ngày càng nhanh, mạnh và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của hệ thống ngân hàng, các quy định này đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế và kém hiệu quả trong việc đảm bảo an toàn hoạt động và quản lý RRTD của các NHTM. + NHNN chưa chuẩn hóa nội dung hướng dẫn cho các NHTM trong công tác giám sát và quản trị rủi ro trong nội bộ ngân hàng. Nhiều NHTM chưa có khái niệm về việc xây dựng chiến lược tín dụng tổng thể và kế hoạch khả thi để thực hiện chiến lược này, điều này ảnh hưởng sâu sắc đến việc phát triển nguồn nhân lực và ưu tiên đầu tư chiều sâu để tạo vị thế cạnh tranh cho từng ngân hàng. Các NHTM chưa xác định được chính xác mức độ rủi ro hiện có và rủi ro tiềm ẩn do một số hạn chế như phân loại nợ theo tiêu chí định lượng là chủ yếu, dẫn đến tỷ lệ nợ xấu chưa phản ánh đúng chất lượng tín dụng thực tế. Hệ thống quản trị thông tin còn yếu, chưa hỗ trợ việc phân tích chất lượng tín dụng, chưa lượng hóa được RRTD của các đối tác thanh toán, chưa đánh giá thường xuyên năng lực của cán bộ tín dụng và mức độ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Nhiều NHTM đã xây dựng cẩm nang tín dụng nhưng chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả việc thực hiện cẩm nang này. Hệ thống xếp XHTD là cốt lõi của hệ thống QTRRTD nhưng chưa nhiều ngân hàng xây dựng hệ thống này để hỗ trợ việc thẩm định hay áp dụng chính sách khách hàng, giám sát khách hàng, phân loại nợ trên cơ sở kết hợp phân tích yếu tố định tính và định lượng theo thông lệ quốc tế. -Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập: Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin TDNH (CIC) của NHNN đã hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật và ngoài ra việc kết nối thông tin với trang Web – CIC qua đường X25 của Chi cục tin học ngân hàng còn nhiều trục trặc, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin tại TP.HCM. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng. 2.2.2.Về phía các ngân hàng thương mại 2.2.2.1 Bất cập trong áp dụng nguyên tắc quản trị rủi ro: - Hệ số an toàn vốn còn thấp so với chuẩn quốc tế mà các nước trong khu vực đang áp dụng và nợ xấu chưa được phản ánh đúng thực chất. a, Hệ số an toàn vốn CAR Chúng ta không thể phủ nhận những nỗ lực của các NHTM Việt Nam trong nỗ lực cải thiện hệ số an toàn vốn CAR thời gian qua, thế nhưng, cho đến nay, việc đáp ứng yêu cầu quốc tế về chỉ tiêu này của các ngân hàng nước ta vẫn còn hết sức nan giải. Vấn đề đầu tiên là việc tính toán CAR của các NHTM Việt Nam hiện nay đều tính theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS), cho đến nay mới chỉ có riêng BIDV đã xác định hệ số này theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS), trong khi kết quả thu được từ việc áp dụng hai chuẩn mực kế toán này lại có sự chênh lệch rất lớn. Như vậy, nếu tính theo IFRS thì cho đến nay, CAR của ngân hàng này dù đã được cải thiện thì vẫn còn quá thấp so với con số 8 %, vẫn chưa đáp ứng được chuẩn Basel I. Hơn nữa, hiện nay trên thế giới, việc áp dụng hệ số an toàn vốn tối thiểu hiện phổ biến là theo tiêu chuẩn của Basel II với mức 12%, chứ không còn là 8% theo Basel I nữa. Và trước yêu cầu tăng cường QTRR, theo thông lệ quốc tế, việc nâng hệ số CAR này bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại tại Việt Nam đang được tính tới, đồng thời với việc hoàn thiện công thức xác định vốn tự có và xác định CAR cho phù hợp với thông lệ quốc tế hơn nữa. Một số thống kê cho thấy hệ số CAR tại các NHTM của khu vực châu Á - Thái Bình Dương bình quân hiện nay là 13,1%, của khu vực Đông Á là 12,3%. Đây cũng là mức mà thực tế một số NHTM Việt Nam hiện nay đang đạt được, nhưng chưa nhiều. Có thể nói, cho đến nay, việc đáp ứng yêu cầu quốc tế về hệ số an toàn vốn tại các NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn mà nhiều nguyên nhân chủ yếu là do tiềm lực tài chính còn quá non yếu so với các ngân hàng có quy mô vốn lớn trên thế giới. b, Vấn đề nợ xấu. Những tồn tại: Theo các chuyên gia phân tích, khái niệm nợ xấu của Việt Nam tuy áp dụng các chuẩn mực quốc tế nhưng cách phân loại nợ lại hoàn toàn khác. Việc phân loại nợ chủ yếu dựa vào thời hạn trả nợ, thiếu các sự đánh giá kết hợp nên không phản ánh đúng thực chất khoản nợ. Những con số nợ xấu này chắc chắn còn tăng lên nhiều lần nếu áp dụng đúng các tiêu chuẩn chặt chẽ theo thông lệ quốc tế trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là tại các NHTMNN bất chấp Ngân hàng Nhà nước gần đây đã bơm thêm vốn (tái cấp vốn) cho các ngân hàng thương mại quốc doanh. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, các khoản nợ xấu đã tăng từ mức 2,17% của năm 2008 lên 2,2% trong năm 2009, năm 2010 là 2,14%, lên 3,3% ở năm 2011 và năm 2012 ở mức an toàn dưới 3%. Con số này vẫn nằm trong giới hạn 3,5% do ngân hàng Nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, xét trên chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) của bốn ngân hàng quốc doanh, tổ chức đánh giá tín nhiệm Fitch - một trong ba tổ chức xếp hạng được Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái Mỹ (SEC) công nhận - cho rằng, nợ xấu phải ở mức 13% vào thời điểm cuối năm 2008, theo báo cáo công bố cuối tháng 4 vừa qua. Tổ chức này vừa hạ mức đánh giá tín nhiệm các khoản vay tiền đồng của Việt Nam từ mức BB xuống mức BB-. Fitch nhận định, không loại trừ ảnh hưởng xấu từ các gói vay hỗ trợ kích cầu khiến chất lượng các khoản vay nợ ngân hàng sẽ giảm đi trong thời gian tới. Trên thực tế các NHTMNN vẫn yếu kém hơn so với mức thừa nhận công khai. Đến nay, nợ tồn đọng cũ chưa giải quyết xong, nợ mới lại phát sinh. Đó là một vòng luẩn quẩn mà nếu chúng ta không có những phản ánh chính sách có tính quyết định thì tình trạng tài chính của các NHTMNN sẽ ngày càng xấu thêm. Rõ ràng, nếu đánh giá một cách kỹ lưỡng, đầy đủ, đúng quy định thì nợ xấu của hệ thống NHTM nước ta hẳn sẽ tăng lên đáng kể. Trong khi đó, năng lực tài chính, cơ sở quan trọng đảm bảo sức chống đỡ, chịu đựng rủi ro của một số NHTM Việt Nam dù được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được thông lệ quốc tế, mà điển hình là hệ số an toàn vốn CAR đã phân tích ở trên. -Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ: Từ năm 2005, các TCTD đã bắt đầu nghiên cứu để từng bước xây dựng hệ thống XHTDNB. Nhưng mặc dù hạn chót đệ trình đề án XHTDNB để NHNN xem xét và phê duyệt đã qua từ lâu, nhưng cho đến nay, không ít NHTM gặp phải khó khăn trong việc xây dựng hệ thống đánh giá này. Để xây dựng được một hệ thống XHTDNB thành công, trước hết ngân hàng phải thiết lập được một hệ thống chỉ tiêu đánh giá và quy định thang điểm cho các chỉ tiêu đó. Trong hệ thống chỉ tiêu, không chỉ có các chỉ tiêu mang tính định tính như các chỉ tiêu tài chính: lợi nhuận, doanh thu, chi phí, vốn…mà còn có các chỉ tiêu mang tính định tính có tác động lớn đến các doanh nghiệp như môi trường kinh doanh, lĩnh vực, ngành nghề, phạm vi hoạt động, mặt hàng kinh doanh, sự biến động của thị trường, khả năng quản lý doanh nghiệp của bộ máy lãnh đạo…Một điều dễ nhận thấy là, các chỉ tiêu định lượng thì dễ xác định và dễ đạt được sự thống nhất trong sự đánh giá, nhưng các chỉ tiêu định tính thì hoàn toàn ngược lại. Việc thu thập thông tin định tính cần thiết và chính xác về doanh nghiệp là điều không hề dễ dàng với các ngân hàng. Nguyên nhân xuất phát từ thực trạng thiếu minh bạch, công khai tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã tồn tại từ lâu. Việc tìm kiếm thông tin cực kì khó khăn và tình trạng thông tin bất cân xứng là một tổn tại chua thể khắc phục được trên thị trường Việt Nam hiện nay. Mặc dù trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN ngày càng phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin về khách hàng, thực hiện phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, cung cấp các thông tin cảnh báo…góp phần tích cực trong sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam vì mục tiêu an toàn, hiệu quả. Tuy nhiên, trên thực tế, những đòi hỏi về thông tin của các ngân hàng vẫn chưa được đáp ứng một cách tin cậy, nhanh chóng và kịp thời. Trong thời gian tới, với sự ra đời của nghị định số 10/2010/NĐ-CP về hoạt động TTTD, tình hình có khả năng sẽ được cải thiện. Ngay cả các ngân hàng đã hoàn thiện và triển khai hệ thống từ một vài năm nay thì trong cùng một hệ thống phòng ngừa rủi ro vẫn đồng thời tồn tại hai mô hình XHTD doanh nghiệp tại hội sở chính và các chi nhánh với các chỉ tiêu chưa thống nhất. Do một số ngân hàng đang thử nghiệm một vài mô hình nhằm xác định các điểm tối ưu, sau đó sẽ rà soát và kết hợp thành một mô hình chung. Đối với mô hình XHTD cá nhân, do một số chỉ tiêu năng lực tài chính chưa được cập nhật với thực trạng nên cán bộ nghiệp vụ ở hầu hết các ngân hàng đều ngại áp dụng vì nếu chấm điểm thì sẽ cho kết quả cao hơn thực tế. Ví dụ như nếu thu nhập cá nhân chỉ xét đến 120 triệu đồng/tháng là đạt điểm tối ưu thì sẽ có sự cào bằng nghĩa vụ trả nợ đối với các cá nhân vay vài triệu đồng với những các nhân vay hàng tỷ đồng. Ngoài ra việc cá nhân đó vừa thay đổi chỗ làm hoặc được bổ nhiệm lên vị trí cao hơn hoặc thấp đi đều khó có thể cập nhật. Điều này làm cho hệ thống XHTD cá nhân tại hầu hết các ngân hàng mới chỉ được triển khai một cách dè dặt và thận trọng, chưa thực sự mang lại hiệu quả. Một vấn đề nữa là theo đánh giá chung của các NHTM thì rất khó xây dựng được một hệ thống xếp hạng "chuẩn". Vì mỗi TCTD phải xây dựng một hệ thống XHTD riêng, dựa vào kinh nghiệm, điều kiện kinh doanh và những tiêu chí do ngân hàng tự lựa chọn. Ví dụ, để đánh giá doanh nghiệp, hiện nay các NHTM sử dụng 11 chỉ tiêu với 32 ngành kinh tế và thang điểm 40- 60-80-100. Nhưng cơ sở để chấm chỉ tiêu nào đó của doanh nghiệp là 40 điểm hay 60 điểm thì lại không dễ xác định. Mặt khác, trong môi trường nhiều biến động như hiện nay, việc các chỉ tiêu tài chính, các thông tin về tài sản doanh nghiệp, môi trường kinh doanh của họ sẽ liên tục thay đổi,  khiến ngân hàng khó mà cập nhật được. Hơn thế nữa, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp hiện nay, trừ các công ty cổ phần niêm yết trên sàn chứng khoán, đều chưa bị bắt buộc phải kiểm toán nên độ tin cậy của các thông tin tài chính trên các báo cáo này chưa cao. Một nguyên nhân nữa dẫn tới sự chậm trễ trong quá trình xây dựng hệ thống XHTDNB là hiện nay một số ngân hàng dường như chưa muốn nhìn thẳng vào bản chất vấn đề chất lượng tín dụng mà chỉ chạy theo lợi nhuận trước mắt. Thực tế tỷ lệ nợ xấu tăng vọt của ngân hàng BIDV trong năm đầu tiên áp dụng phân loại nợ theo điều 7 quyết định 493 của NHNN năm 2005 có thể đã khiến các nhà quản trị ngân hàng chần trừ trong việc minh bạch hóa và công khai tài chính. Bên cạnh đó, vẫn còn tâm lý "trông chờ" vào hướng dẫn của các cơ quan quản lý như NHNN và Bộ Tài chính, coi đó là mục tiêu theo đuổi về mặt quản trị doanh nghiệp, cũng như quản trị ngân hàng nhưng đó chỉ là những quy định tối thiểu về quản trị. Tuy nhiên, theo thông tin từ Vụ các ngân hàng và TCTD, do mỗi ngân hàng có một cơ sở khách hàng với mức độ RRTD khác nhau, nên NHNN rất khó đưa ra một hướng dẫn chung về XHTD phù hợp cho tất cả ngân hàng và TCTD. Đầu năm 2009, NHNN đã có công văn yêu cầu các ngân hàng và TCTD báo cáo về tiến độ xây dựng hệ thống XHTDNB. Qua báo cáo của các ngân hàng, hầu hết ngân hàng đều đang trong quá trình thực hiện, tuy nhiên có một số ngân hàng đáp ứng đúng tiến độ và một số ngân hàng bị chậm với nguyên nhân chính do vướng mắc về công nghệ. Trong thời gian tới, NHNN sẽ có những biện pháp cụ thể hỗ trợ các ngân hàng trong quá trình xây dựng hệ thống này. 2.3.2.1.3 Phân tách chức năng của các bộ phận trong quy trình phê duyệt cấp tín dụng Khi triển khai mô hình mới, sự phân tách nhiệm vụ giữa bộ phận quan hệ khách hàng, quản lý RRTD và bộ phận tác nghiệp đã tạo nên những khối chức năng độc lập nhưng lại chưa đảm bảo mối dây liên kết chặt chẽ, đôi khi còn xuất hiện tình trạng “ném bóng qua tường” khi các bộ phận chỉ chú trọng làm hết nhiệm vụ của mình mà không quan tâm ảnh hưởng đến các bộ phận kế tiếp. Khả năng tiếp cận khách hàng và cung cấp thông tin cần thiết của bộ phận quan hệ khách hàng chưa đáp ứng được các yêu cầu giảm thiểu tình trạng thông tin bất cân xứng, gây nên tâm lý e ngại trong các quyết định cấp tín dụng của bộ phận quản lý RRTD và làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của ngân hàng khi mà trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm pháp lý của các bộ phận tham gia vào hoạt động tín dụng chưa thật rõ ràng. 2.2.3 Chiến lược rủi ro tín dụng chưa rõ ràng. Chiến lược về RRTD của các NHTM tồn tại qua các văn bản thể hiện tầm nhìn của ngân hàng, cẩm nang tín dụng và các văn bản dưới dạng định hướng hàng năm. Tuy nhiên, hiện nay ngoài một số ngân hàng lớn thực sự nhận thức được tầm quan trọng, thì một phần không nhỏ các ngân hàng vẫn chưa xây dựng được rõ nét chiến lược RRTD. Các chiến lược của các ngân hàng này mới chỉ mang tính chất chung chung mà không dựa vào các phân tích cụ thể. Điều này có liên qua trực tiếp tới những bất cập trong hệ thống dự báo và đo lường RRTD của các NHTM nước ta. Chương 3. NHỮNG GIẢI PHÁP Trong điều kiện thị trường trong nước chịu tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngày càng có sự tham gia đa dạng của các nhà đầu tư, nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro, thời gian qua, các NHTM trong nước đã tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, thực hiện quản lý tập trung, đào tạo và đào tạo lại cán bộ, áp dụng nhiều tiêu chuẩn quốc tế trong quản trị rủi ro. Do vậy, hầu hết các TCTD đã đảm bảo các tỷ lệ an toàn theo quy định của NHNN, trong đó đặc biệt là khả năng chi trả, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Để nâng cao năng lực quản trị RRTD, các NHTM cần tập trung thực hiện tốt hơn nữa những công việc sau: 3.1 Xây dựng, triển khai và hoàn thiện hệ thống XHTDNB để nhanh chóng tiến tới phân loại nợ theo phương pháp định tính XHTD là một công cụ hiệu quả, mang tính khoa học trong quản trị RRTD thông qua lượng hóa các đánh giá và đưa ra các quyết định phù hợp, vì vậy hệ thống XHTDNB ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn đối với công tác quản trị rủi ro, đặc biệt là RRTD của các NHTM. Do đó, các NHTM cần khẩn trương xây dựng, triển khai và hoàn thiện hệ thống XHTDNB của mình bám sát các thông lệ quốc tế nhằm tăng cường khả năng quản lý và ứng phó với những bất ổn có thể xảy ra. Mặt khác, các NHTM cần đổi mới tư duy, nhận thức về công tác quản trị rủi ro để từ đó có cái nhìn chính xác hơn và sẵn sàng đối mặt với những nguy cơ thực sự tồn tại trong chính bản thân mình từ trước tới nay. Có như vậy mới có thể tìm ra những biện pháp thích hợp cải thiện tình tình. Phân loại nợ theo phương pháp định tính dựa trên hệ thống XHTDNB đã được các nước tiên tiến áp dụng từ lâu và cho thấy hiệu quả thực tế. Nhưng không ít các NHTM Việt Nam lại cố tình chậm trễ trong việc thực thi quy định của NHNN, vì không muốn công khai thông tin và đối mặt với khiếm khuyết của mình. Với chủ trương tiến gần tới trình độ quản trị rủi ro của quốc tế, trong thời gian tới, NHNN sẽ ban hành những quy định chặt chẽ hơn về vấn đề phân loại nợ, vì vậy, các NHTM phải chủ động nâng cao tính thực tiễn và khả năng đánh giá chính xác của hệ thống XHTDNB, thực hiện XHTD theo định kỳ và duy trì một cách liên tục để làm cơ sở trong xây dựng chính sách khách hàng về giới hạn tín dụng, áp dụng hình thức bảo đảm tiền vay thích hợp, các định hướng tín dụng với từng khách hàng. 3.2 Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ, bổ sung, hoàn thiện và nâng cấp hệ thống ngân hàng lõi – Core banking, phục vụ công tác quản trị rủi ro Trên 80% ngân hàng Việt Nam đã và đang tiếp cận dần với hệ thống Core Banking theo hướng ngân hàng hiện đại và online. Có thể thấy, ở nước ta, việc sử dụng Core Banking hiện đại trong 3 năm gần đây diễn ra như một xu thế tất yếu, nhưng giữa việc lựa chọn một Core Banking tốt không đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ triển khai và vận hành tốt, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Mục tiêu của phần mềm lõi Core Banking là sự hướng tới của các ngân hàng, đáp ứng các đòi hỏi khắt khe của một hệ thống giao dịch tài chính hiện đại, đặc biệt trong vấn đề quản lý rủi ro ở tầm vĩ mô, kiểm soát an toàn, xử lý giao dịch tự động nhanh chóng, đưa ra sản phẩm mới trên thị trường một cách nhanh nhất. Chính vì thế, Core Banking đòi hỏi một lượng vốn lớn để đầu tư triển khai Core Banking đồng bộ cả về mạng, bảo mật và các ứng dụng khác…, nhưng hiện nay mới chỉ đồng bộ từng phần, mà chưa đáp ứng nhu cầu quản trị tập trung. Tuy rằng các ngân hàng có các kiến trúc, mạng lưới chi nhánh, mạng lưới cung cấp dịch vụ, hệ thống mạng diện rộng, mạng cục bộ, core banking, bảo mật nhưng thiếu một thiết kế tổng thể. Chính vì vậy, các NHTM cần phải tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ, bổ sung, hoàn thiện và nâng cấp hệ thống ngân hàng lõi , kết hợp với quá trình tái cấu trúc ngân hàng để nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong điều kiện sau khủng hoảng, đặc biệt là RRTD. 3.3 Tiếp tục đầu tư hoàn thiện quá trình tái cấu trúc hoạt động ngân hàng và quá trình xây dựng bộ máy quản trị rủi ro hiện đại Những thách thức mới của môi trường kinh doanh cũng như nhu cầu phát triển trong khủng hoảng hiện nay khiến nguy cơ rủi ro trong kinh doanh ngân hàng nói chung và RRTD nói riêng gia tăng nhanh chóng. Chính vì vậy, việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng  trong nước thật sự là một điều cấp thiết. Ngành Ngân hàng Việt Nam đang ở chặng đường đầu của sự phát triển, cần có nhiều đổi mới và phát triển để đạt được những chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng. Nghiên cứu và ứng dụng có chọn lọc những kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là con đường ngắn nhất để thực hiện mục tiêu này. Nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu có thể xem là một trong những cơ sở nền tảng khi xây dựng mô hình quản trị RRTD tại Việt Nam để đảm bảo tính an toàn, hiệu quả và phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước. Cụ thể là: Thực hiện phân tách chức năng bán hàng, chức năng thẩm định, quản lý RRTD và chức năng quản lý nợ trong hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp. Theo đó, toàn bộ việc xây dựng giới hạn tín dụng trên cơ sở xác định rủi ro tổng thể (thông qua thực hiện XHTD, phân tích ngành, khả năng phát triển của khách hàng trong tương lai…) sẽ do bộ phận quản lý RRTD thực hiện độc lập, đảm bảo tính khách quan cũng như hạn chế sự phân tán thông tin khi cung cấp các sản phẩm tín dụng (cho vay, tài trợ thương mại…). Đối với đánh giá các rủi ro giao dịch (được hiểu theo nghĩa xem xét từng lần vay cụ thể), tùy theo mức độ phức tạp và/hoặc giới hạn tín dụng được xác định, có thể giao cho bộ phận quan hệ khách hàng trực tiếp thực hiện thẩm định hoặc giao cho bộ phận phân tích tín dụng (đối với những doanh nghiệp có dư nợ lớn, tính phức tạp của các khoản vay cao). Cách thức này sẽ giúp đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách nhanh chóng và phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam. Trên cơ sở sự phân tách trên, bộ phận quan hệ khách hàng sẽ chịu trách nhiệm tiếp xúc, tiếp nhận các yêu cầu của khách hàng, cung cấp thông tin cho bộ phận quản lý RRTD, đồng thời kiểm tra giám sát quá trình thực hiện các cam kết của khách hàng (sử dụng vốn vay, các cam kết về bảo đảm tiền vay…). Bộ phận quản lý RRTD thực hiện việc “giám sát song song” quá trình bộ phận quan hệ khách hàng thực hiện các quyết định phê duyệt tín dụng để phát hiện các dấu hiệu rủi ro cũng như can thiệp kịp thời như giám sát việc thực hiện kiểm tra sử dụng vốn vay, kiểm tra tài sản bảo đảm, các điều kiện giải ngân… Như vậy, quá trình đánh giá RRTD được thực hiện một cách tổng thể, liên tục trước, trong và sau khi cho vay, nâng cao hiệu quả quản lý RRTD, khắc phục được tình trạng không kịp thời khi chỉ sử dụng một cơ chế hậu kiểm của kiểm tra nội bộ. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm pháp lý của bộ phận quan hệ khách hàng, quản lý RRTD và quản lý nợ. Sự rạch ròi trong phân định trách nhiệm sẽ đảm bảo tính công bằng trong đánh giá chất lượng công việc, là điều kiện để quá trình xử lý các dấu hiệu RRTD được nhanh chóng, hịêu quả và kịp thời cũng như tạo sự yên tâm trong suy nghĩ, hành động của cán bộ các bộ phận. Đồng thời, mỗi bộ phận trong chức năng, nhiệm vụ của mình cần xây dựng các mục tiêu trong hoạt động cấp tín dụng (tỷ lệ nợ xấu chấp nhận được, số lượng và nhóm khách hàng cần thiết lập, mức độ tăng trưởng tín dụng…), các giải pháp hiện thực hóa các mục tiêu đó, đảm bảo sự phối hợp uyển chuyển, nhịp nhàng giữa các bộ phận tác nghiệp khi thực thi các mục tiêu quản trị RRTD đã đề ra, phù hợp với đặc thù của mỗi ngân hàng cũng như chính sách tín dụng của ngân hàng. Tiêu chuẩn hóa cán bộ theo dõi RRTD để đáp ứng các yêu cầu của nguyên tắc Basel. Theo đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý RRTD có kinh nghiệm, có kiến thức và khả năng nhanh nhạy khi xem xét, đánh giá các đề xuất tín dụng. Ngân hàng có thể xây dựng một hệ tiêu chuẩn đối với cán bộ RRTD như trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế, có thời gian trải qua công tác tại bộ phận quan hệ khách hàng… Những yêu cầu này sẽ giúp cho đội ngũ cán bộ quản lý RRTD có đủ trình độ, kinh nghiệm thực tế để xử lý nhanh chóng, hiệu quả và một sự thận trọng hợp lý trong quá trình phân tích, thẩm định và giám sát tín dụng. Đồng thời, cần nâng cao tính chuyên nghiệp của cán bộ ngân hàng, theo đó mỗi cán bộ trong chức năng, nhiệm vụ của mình phải thực hiện một cách đầy đủ, hết trách nhiệm và thái độ tất cả vì công việc chung trong xử lý mối quan hệ giữa các bộ phận. Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin hiệu quả, đảm bảo sự liên lạc thường xuyên, liên tục và cập nhật kịp thời các thông tin trọng yếu giữa các bộ phận chức năng trong hoạt động cấp tín dụng. Mô hình quản lý RRTD hiện đại theo nguyên tắc Basel chỉ có thể thành công khi giải quyết được vấn đề cơ chế trao đổi thông tin, đảm bảo sự phân tách các bộ phận chức năng để thực hiện chuyên môn hóa và nâng cao tính khách quan nhưng không làm mất đi khả năng nắm bắt và kiểm soát thông tin của bộ phận quản lý RRTD. Muốn vậy, những thông tin trọng yếu trong quá trình cho vay cần phải được bộ phận quan hệ khách hàng cập nhật định kỳ và/hoặc đột xuất và chuyển tiếp những thông tin này cho bộ phận quản lý RRTD phân tích, đánh giá những rủi ro tiềm ẩn. Như vậy, sự vận hành của mô hình mới có thể thông suốt và giảm thiểu những e ngại của bộ phận quản lý RRTD trong các nhận định cấp tín dụng. Đồng thời, ngân hàng cần xây dựng hệ thống thông tin và phân tích thông tin toàn diện, cung ứng nguồn thông tin chính xác, đáng tin cậy cho các bộ phận chuyên môn có liên quan. Các phân tích về ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế đang được các ngân hàng bắt đầu thực hiện để xây dựng kho dữ liệu phân tích tín dụng nhưng chưa được đầy đủ và thiếu tính kết nối, hỗ trợ giữa các ngân hàng trong chia sẻ thông tin. Sự hợp tác một cách toàn diện giữa các ngân hàng trong xây dựng và chia sẻ cơ sở dữ liệu thông tin về doanh nghiệp, về ngành là con đường ngắn nhất để hoàn thiện hệ thống thông tin và giảm chi phí khai thác thông tin một cách hợp lý nhất. Đào tạo cán bộ mới gia nhập cũng như tái đào tạo đối với những người đã công tác và thành lập các phòng ban nghiệp vụ theo mô hình tổ chức nhằm thực hiện chiến lược trở thành ngân hàng đa năng.          Kết hợp với hệ thống XHTDNB và hệ thống ngân hàng lõi core banking, mô hình quản trị RRTD hiện đại này sẽ giúp các NHTM giám sát chặt chẽ chất lượng tín dụng, từ đó đạt được những hiệu quả thực sự trong công tác quản trị RRTD hiện đang làm đau đầu các nhà lãnh đạo hiện nay. 3.4 Tích cực xử lý nợ xấu Những nguyên nhân của nợ xấu đã được phân tích ở chương II. Trên thực tế các NHTM Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng có vốn sở hữu nhà nước vẫn yếu kém hơn so với mức thừa nhận công khai. Đến nay, nợ tồn đọng cũ chưa giải quyết xong, nợ mới lại phát sinh. Đó là một vòng luẩn quẩn mà nếu các ngân hàng không có chính sách xử lý nợ xấu tốt có thì tình trạng tài chính của các NHTM sẽ ngày càng xấu đi rất nhiều. Điều đó cho thấy, các khoản nợ xấu ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh của các chủ nợ, họ sẽ mất nhiều thời gian, công sức, tiền của để đôn đốc thu hồi nợ. Nhiều trường hợp, việc thu nợ trực tiếp từ khách nợ hầu như không thể do doanh nghiệp không còn nguồn trả nợ, nếu thực hiện kê biên và bán tài sản đảm bảo để thu hồi nợ thì đồng nghĩa với việc chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp và việc này cũng không hề đơn giản nếu bên có tài sản đảm bảo không hợp tác, hoặc tẩu tán tài sản... Trường hợp không có tài sản đảm bảo thì chủ nợ phải nộp đơn ra toà yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp khách nợ để thu hồi vốn từ thanh lý tài sản. Áp dụng biện pháp phá sản doanh nghiệp khách nợ cũng chỉ là "bất đắc dĩ" vì quy trình, thủ tục phá sản rất phức tạp, khó khăn và mất thời gian, có nhiều trường hợp đến 5 năm chưa thực hiện được. Hiện nay, các NHTM Việt Nam đang triển khai một số biện pháp thu hồi và xử lý nợ xấu như sau: Thứ nhất, chủ nợ tự tổ chức quản lý hoặc bàn giao khoản nợ xấu cho công ty quản lý nợ trực thuộc để tiếp tục theo dõi các khoản nợ nhằm thực hiện thu hồi nợ thông qua việc xử lý các tài sản đảm bảo khoản nợ, khai thác tài sản đảm bảo, tiếp tục theo đuổi các vụ kiện để thu hồi một phần nợ từ thanh lý tài sản của DN phá sản... Đây là hướng đi được một số NHTM thực hiện. Tuy nhiên, thực hiện giải pháp này, các chủ nợ vẫn mất nhiều thời gian và tiền bạc để thu hồi nợ xấu, vẫn phải duy trì một bộ máy, bộ phận riêng để quản lý nợ xấu, cho nên không khả thi. Thứ hai, là biện pháp thu nợ có chiết khấu. Đây là hình thức giảm giá trị khoản nợ phải trả cho DN khách nợ, giá trị triết khấu do chủ nợ và DN thoả thuận nhưng theo hướng có lợi cho DN nhằm thúc đẩy khách nợ thanh toán dứt điểm khoản nợ, chủ nợ tuy chịu thiệt một chút nhưng cũng sớm thu hồi được một phần vốn và cắt bỏ được "cục nợ" dây dưa này. Thứ ba, bán nợ cho các tổ chức có chức năng mua - bán nợ chuyên nghiệp, đây là phương án xử lý nợ xấu nhanh nhất giúp chủ nợ thu hồi một phần vốn kinh doanh để phục vụ cho các nhu cầu và cơ hội kinh doanh mới, nhằm cải thiện tình hình tài chính. Hiện ở Việt Nam mới có Công ty Mua, bán nợ tồn đọng của DN (DATC) trực thuộc Bộ Tài chính, chủ yếu tập trung hỗ trợ tiến trình cải cách các DN nhà nước, sự hợp tác xử lý nợ xấu của các ngân hàng mới chỉ là bước đầu. Trong khi đó, một số NHTM cũng đã thành lập công ty quản lý và khai thác tài sản, nhưng hầu hết chỉ hoạt động giới hạn trong việc mua, bán các khoản nợ mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay, chứ chưa được phép mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực mua, bán nợ của DN, tổ chức và cá nhân. Gần đây, thành viên mới nhất trong lĩnh vực này là Công ty trách nhiệm hữu hạn Quản lý nợ và Khai thác tài sản đảm bảo (VIB AMC - Công ty 100% vốn của Ngân hàng Quốc tế VIB), ngoài việc đặt mục tiêu “quản lý, khai thác có hiệu quả những tài sản đảm báo của các khoản nợ xấu nhằm nâng cao chất lượng và sự an toàn trong các hoạt động tín dụng của VIB”, có công bố sẽ “sử dụng các kỹ năng chuyên sâu để phục vụ nhu cầu xử lý nợ và tài sản tồn đọng của các tổ chức tín dụng khác”. Một hướng đi mới trong việc xử lý nợ xấu là chuyển nợ thành vốn góp gắn với tái cấu trúc DN. Đây là hoạt động khá mới tại Việt Nam và cũng chỉ có DATC đã thực hiện thành công hoạt động này. Sau khi mua nợ từ các chủ nợ, DATC đàm phán với chủ sở hữu, cổ đông khác của doanh nghiệp để chuyển nợ thành vốn góp. Sau khi trở thành cổ đông, DATC thực hiện các giải pháp tái cấu trúc doanh nghiệp như xoá một phần nợ và lãi, hoãn trả nợ, thay đổi thời gian trả nợ, hỗ trợ về thị trường, quản trị, hỗ trợ về tài chính như cho vay, bảo lãnh… nhằm phục hồi từ doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, mất khả năng thanh toán thành doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có lãi, chính hiệu quả hoạt động của DN sẽ tạo nguồn trả nợ cho DATC. Các doanh nghiệp đã được DATC tái cấu trúc thành công đến nay đều hoạt động kinh doanh có lãi, đã trả hết nợ ngân sách, nợ bảo hiểm xã hội, trả gần hết nợ cho DATC, đặc biệt một số đơn vị đạt tỷ suất lợi nhuận trên vốn khoảng 30%. Có thể thấy, việc chuyển nợ thành vốn góp gắn với tái cấu trúc doanh nghiệp là một hướng đi mới trong việc xử lý triệt để nợ xấu và góp phần làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của nền kinh tế nói chung và của chủ nợ nói riêng. Để việc thu hồi, xử lý nợ xấu hiệu quả hơn, các NHTM Việt Nam có thể tập trung thực hiện những biện pháp sau: Trong việc xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vay, không nhất thiết chỉ bằng con đường kiện tụng, mà nên khai thông phương thức xử lý như thỏa thuận trong hợp đồng, các NHTM cần phải hết sức cẩn trọng, chặt chẽ từ khâu lập, thẩm định tính pháp lý hồ sơ, thủ tục, soạn thảo, ký kết các loại hợp đồng. Thành lập công ty có nhân lực chuyên sâu về xử lý tài sản đảm bảo, có đủ trình độ pháp lý, nghiệp vụ mua bán nợ trực thuộc ngân hàng nhằm giúp ngân hàng ứng phó tốt hơn với nợ xấu, đồng thời cần tích cực chủ động phối hợp với các ngân hàng khác để xử lý các khoản nợ phức tạp, khắc phục tình trạng ngân hàng đơn lẻ xử lý nợ. Hiện nay, các ngân hàng ở Việt Nam thường có chung khách hàng doanh nghiệp, nhưng khi phát sinh nợ xấu, hầu như chưa có sự hợp tác giữa các ngân hàng để xử lý khoản nợ xấu chung đó, mà các ngân hàng mới chỉ tập trung xử lý tài sản đảm bảo liên quan đến khoản nợ của mình. Điều này phần nào hạn chế hiệu quả của việc xử lý và thu hồi nợ. Khi tiến hành, phải xây dựng các tiêu chí cụ thể để kiểm soát, quản trị các rủi ro trong quá trình mua - bán nợ hoặc mua - bán nợ gắn với tái cấu trúc doanh nghiệp khách nợ. Bên cạnh đó, phải hết sức thận trọng, lựa chọn chặt chẽ khi quyết định chuyển nợ xấu thành vốn góp tại doanh nghiệp, phải căn cứ vào năng lực của ngân hàng và khả năng phục hồi của khách hàng. Đồng thời, phải nghiên cứu kỹ mọi phương án kinh doanh mua bán nợ và tái cấu trúc doanh nghiệp để đảm bảo được hiệu quả cao nhất, không để xảy ra tình trạng DN tiếp tục hoạt động không hiệu quả sau khi được cơ cấu lại. 3.5 Tập trung xử lý những rủi ro tiềm ẩn của tín dụng bất động sản Trước lo ngại tăng trưởng tín dụng sẽ gây sức ép lên lạm phát, và tình hình quá nóng cục bộ của thị trường bất động sản, năm 2008, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tăng cường kiểm soát chất lượng cho vay bất động sản. Đồng thời, do lợi nhuận của việc đầu tư vào thị trường này giảm dần và nợ đọng tăng  nên bản thân các NHTM cũng giảm dần cho vay thị trường này. Theo thông tin từ NHNN, tỷ lệ nợ xấu năm 2009 của hệ thống NHTM Viêt Nam là vào khoảng 3.5% trên tổng dư nợ, trong đó có một phần không nhỏ liên quan đến các khoản cho vay bất động sản. Tính đến cuối tháng 4.2009, dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản là gần 150.000 tỉ đồng. Cảnh báo về nguy cơ bong bóng tài sản mới trên thế giới và lo ngại về nguy cơ lạm phát khiến NHNN đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ chỉ ở mức 25%; chỉ đạo hạn chế cho vay các nhu cầu vốn không thuộc các lĩnh vực sản xuất; sự thận trọng của các NHTM là những nhân tố cho thấy vốn vào thị trường bất động sản năm 2010 sẽ không mạnh. Tuy nhiên, thực tế là một số dự án bất động sản của Việt Nam còn đang ở trên giấy, chứ không phải căn nhà hẳn hoi. Mặt khác, các bất động sản của Việt Nam được bản thân doanh nghiệp và các nhà đầu cơ đẩy giá lên, vượt quá nhiều so với giá trị thật của chính bất động sản đó. Cho nên, độ rủi ro của chúng có thể là tương tự những chứng khoán được hình thành từ các khoản vay thế chấp bất động sản dưới chuẩn, chứ không phải là độ rủi ro của chính các khoản vay này. Nói cách khác, những dự án này tương tự như những tài sản “độc hại” của Mỹ. Điều đó cho thấy rủi ro tiềm ẩn của tín dụng bất động sản là không hề thấp. Vì vậy, để đảm bảo an toàn hoạt động, ngăn chặn khủng hoảng, các NHTM Việt Nam tích cực xử lý những rủi ro liên quan đến bất động sản, bao gồm cả các khoản nợ xấu và những rủi ro mang tính tiềm ẩn bằng những biện pháp sau: Nên ưu tiên tín dụng cho các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh không thuộc bất động sản, đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu. Tăng cường thẩm định các dự án bất động sản trong quá trình xét duyệt cho vay để sàng lọc những dự án bất động sản với mục đích đầu cơ và các dự án còn nằm trên giấy, mà ưu tiên cho các khoản vay phát triển dự án bất động sản đáp ứng nhu cầu thực sự. Có các biện pháp để thương lượng với các doanh nghiệp nhằm chuyển đổi các khoản nợ kỳ hạn ngắn sang kỳ hạn dài, vẫn tiếp tục cho vay mà tài sản đảm bảo là bất động sản, nhằm tăng vòng quay vốn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể trả lãi và vốn được. Các ngân hàng nên chấp nhận một tỷ lệ nợ xấu nào đó để có thể tiếp tục tài trợ cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có phương án kinh doanh khả thi. 3.6 Tuyển dụng, đào tạo nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ, nhân viên nghiệp vụ để áp dụng triệt để các thông lệ quốc tế về quản trị rủi ro. Đây chính là điều kiện tiên quyết để việc triển khai các biện pháp đã đề xuất ở trên thực sự khả thi và mang lại hiệu quả. Bởi lẽ, tất cả những hệ thống XHTDNB, mô hình quản trị rủi ro hiện đại hay những giải pháp công nghệ tiên tiến thì cũng cần phải có nguồn nhân lực để thực hiện và triển khai các biện pháp đó nhằm đem lại hiệu quả cuối cùng, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ như ngân hàng. Hơn nữa, năng lực và kinh nghiệm đánh giá rủi ro của các cán bộ quản lý và nhân viên nghiệp vụ ngân hàng cũng là một yếu tố hết sức cần thiết khi mà hệ thống đánh giá XHTDNB của các NHTM còn nhiều vấn đề như hiện nay. Mặt khác, hiện các thông lệ quốc tế chưa được phổ biến ở Việt Nam. Vì vậy, để nâng cao năng lực quản trị rủi ro, đặc biệt là quản trị RRTD thì các NHTM cần phải chú trọng và tăng cường đầu tư cho việc tuyển dụng, đào tạo nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ, nhân viên nghiệp vụ bằng việc đưa các thông lệ quốc tế về quản trị rủi ro vào chương trình đào tạo. KẾT LUẬN Trong quá trình phát triển của một đất nước, hệ thống Ngân hàng thương mại đóng vai trò rất quan trọng. Các Ngân hàng thương mại góp phần điều hoà lượng tiền trong lưu thông giúp ổn định giá cả, chống lạm phát, cung cấp các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế giúp quá trình sản xuất – trao đổi - tiêu dùng diễn ra trôi chảy hơn. Ngân hàng thương mại huy động với mọi nguồn vốn trong nền kinh tế để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, thực hiện việc tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu. Thực hiện tốt việc tự do di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Tuy hoạt động tín dụng của Ngân hàng đem lại hiệu quả cao nhưng kèm theo đó là rủi ro tiềm ẩn rất lớn. Một Ngân hàng gặp rủi ro lớn sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống Ngân hàng.Vì thế, rủi ro tín dụng là vấn đề quan tâm hàng đầu không những đối với cán bộ Ngân hàng mà còn là của toàn xã hội. Bên cạnh những chuyển biến tích cực trong quá trình hoạt động, các Ngân hàng thương mại đã và đang gặp không ít khó khăn trong việc huy đọng vốn và sử dụng vốn đạt hiệu quả. Đặc biệt đối với kinh tế ngoài quốc doanh, hoạt động cho vay đối với loại hình này còn có nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bài giảng “ Quản trị ngân hàng nâng cao” Ts. Lâm Chí Dũng 2. Giáo trình” Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại” Ts. Nguyễn Minh Kiều. NXB Thống kê. 3.Giáo trình”Quản trị ngân hàng thương mại” PGS. Nguyễn Thị Mùi. NXB Tài chính. 4. Tạp chí ngân hàng. 5. Các website: ww.sbv.gov.vn 6. Báo cáo tài chính, báo cáo thường niên các NHTM năm 2009 và 2012. Ngân hàng TMCP Á Châu, Báo cáo thường niên 2009 - 2012 Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, Báo cáo thường niên 2009 - 2012 Ngân hàng TMCP Hàng Hải, Báo cáo thường niên 2009 – 2012 Ngân hàng TMCP Kỹ thương, Báo cáo thường niên 2009 - 2012 Ngân hàng TMCP Nam Á, Báo cáo thường niên 2009 - 2012 Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, Báo cáo thường niên 2009 - 2012 Ngân hàng TMCP Phát triển nhà Hà Nội, Báo cáo thường niên 2009 – 2012 Ngân hàng TMCP Quân đội, Báo cáo thường niên 2009 – 2012 Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương, Báo cáo thường niên 2009 – 2012 Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín, Báo cáo thường niên 2009 -2012 Ngân hàng TMCP Việt Á, Báo cáo thường niên 2009 - 2012

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxbai_tap_nhom_mon_qtnhnc_nhom_9_4148.docx
Luận văn liên quan