Thực trạng lạm phát của Việt Nam trong năm 2007

Hướng tới là thay đổi cơ cấu của hàng xuất khẩu. Chúng ta không thể dựa mãi vào xuất khẩu các mặt hàng nguyên liệu thô. M ột trong những yếu tố quan trọng nhất là “thay đổi cơ cấu sản xuất của Việt Nam, nơi xuất khẩu các sản phẩm thô chiếm tỷ trọng rất lớn, tức là p hần giá trị gia tăng thấp. Hiện nay xuất khẩu dầu thô, nông sản thực phẩm và hàng gia công chiếm tỷ trọng quá lớn trong kim ngạch nhập khẩu. M uốn để tăng phần này lên thì phần nguyên liệu phải ít đi để tăng phần giá trị gia tăng do người Việt Nam tạo ra thì mới thay đổi được tương quan giữa xuất và nhập. Điều này đòi hỏi phải có một chiến lược rất căn bản, tức chuyển dịch cơ cấu đầu tư sang phía những ngành dựa trên lợi thế của Việt Nam cộng với giá trị gia tăng cao”.

pdf21 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2452 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng lạm phát của Việt Nam trong năm 2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Đề tài: Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Học viên thực hiện: (Nhóm 09) 1. Lê Thị Vân Anh 2. Lê Thị Hồng Minh 3. Ngô Thị Thùy Trang 4. Đinh Thị Trang 5. Phạm Thị Cẩm Tú Lớp: Cao học Ngân Hàng Đêm 2 – Khóa: 16 Tp.Hồ Chí Minh, tháng 02/2008 Lời mở đầu ................................................................................................................................. 1 Chương 1: Tổng quan về lạm phát.................................................................................... 2 1. Khái niệm .................................................................................................................................2 2. Phân loại ...................................................................................................................................3 3. Cách t ính lạm phát .................................................................................................................4 4. Nguyên nhân và tác động .....................................................................................................5 Chương 2: Thực trạng và giải pháp................................................................................ 10 1. Thực trạng và nguyên nhân ...............................................................................................10 2. Giải pháp ................................................................................................................................15 Tài liệu tham khảo................................................................................................................. 19 Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 1 Nền kinh tế thế giới nói chung và nến kinh tế Việt Nam nói riêng luôn phải đối mặt với nguy cơ xảy ra lạm phát. Ngày nay hầu hết các quốc gia đếu áp dụng chế độ lưu thông tiền giấy và đều này đã dẫn đến việc lạm phát thường xuyên xảy ra ở các quốc gia. Trong quá khứ chúng ta đã từng chứng kiến nhiều quốc gia phải đối mặt với lạm phát một cách kinh khủng mà đển hình là ở nước Đức từ 1921 đến 1923 mức lạm phát là 34 tỷ lần. Việt Nam cũng đã từng xảy ra lạm phát lên đến hơn 700%. Lạm phát xảy ra ở mức cao (>10%) sẽ gây tác động hết sức tồi tệ đến nền kinh tế, ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống xã hội. Do đó việc kiềm chế lạm phát ở mức độ vừ phải phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn là mối quan tâm của các quốc gia và vì vậy chính phủ các nước luôn áp dụng biện pháp thích hợp để lập lại trật tự trong lưu thông tiền tệ. Nền kinh tế Việt Nam đã có được mức tăng trưởng cao và khá ổn định trong hơn 10 năm trở lại đây. Để tiếp tục duy trì được tốc độ phát triển này thì việc kìm giữ lạm phát ở mức vừa phải là hết sức quan trọng. Chính vì thế mà những biến động của chỉ số giá tiêu dùng theo chiều hướng được gọi là “bão giá” trong năm qua trở thành vấn đề kinh tế vĩ mô nổi bật nhất cần được quan tâm giải quyết. Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 2 CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT    1. Khái niệm lạm phát Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn ngập trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết của lưu thông hàng hóa làm cho tiền giấy bị mất giá và giá cả của hàng hóa được biểu hiện bằng đồng tiền mất giá không ngừng tăng lên. Có thể nói lạm phát thường xuyên xảy ra trong chế độ lưu thông tiền giấy. Điều này xuất phát từ chỗ tiền giấy chỉ là một loại dấu hiệu giá trị được phát hành vào lưu thông để thay thế cho tiền đủ giá nhằm thực hiện vai trò trung gian trao đổi. Như vậy, thực chất tiền giấy không có giá trị nội tại mà chỉ mang giá trị danh nghĩa, nghĩa là, tiền giấy không phải do có giá trị mới lưu thông mà nhờ lưu thông chấp nhận nên tiền giấy có giá trị. Do đó, khi có hiện tượng thừa tiền giấy trong lưu thông thì người ta không có xu hướng giữ lại trong tay mình những đồng tiền bị mất giá và lượng tiền thừa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khi nghiên cứu về vấn đề lạm phát, các nhà kinh tế thường nhìn nó dưới nhiều góc độ : - Như K.Marx cho rằng hiện tượng lạm phát thường dẫn đến việc phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội có lợi cho giai cấp bóc lột và làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân lao động. Lạm phát mang bản chất giai cấp rõ rệt, là một phương pháp để các nhà nước tư sản chiếm đoạt một bộ phận thu nhập của nhân dân lao động. - Theo V.I.Lênin cho rằng lạm phát là một hình thức công trái cưỡng bách sâu xa nhất, vì lạm phát làm cho giá cả hàng hóa tăng, thu nhập của nhân dân bị đánh giá lại và làm cho đời sống của nhân dân trở nên khó khăn. - Trong những năm 1960, đại bộ phận các nhà kinh tế học M ỹ đều thống nhất lạm phát và giá cả hàng hóa gia tăng là cùng một ý nghĩa. - Song đến thập niên 80 các nhà kinh tế Châu Âuu lại thỏa hiệp với quan điểm: lạm phát là sự phát hành tiền tệ nằm trong chính sách tài chính của nhà nước chịu áp lực của sự thâm thủng ngân sách nhằm tài trợ cho các khoản chi của nhà nước. Tuy nhiên, định nghĩa được nhiều người chấp nhận nhất thì lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung trong nền kinh tế. Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 3 Và dù nhìn lạm phát ở khía cạnh nào thì những quốc gia có xảy ra lạm phát luôn có những đặc trưng đó là: - Hiện tượng gia tăng quá mức của lượng tiền giấy dẫn đến hệ quả là t iền giấy mất giá. - Do tiền giấy mất giá nên điều tất yếu là giá cả hàng hóa sẽ tăng đồng bộ và liên tục, nghĩa là sức mua của đồng tiền bị giảm và đồng tiền bị giảm giá trên thị trường hối đoái. - Sự bất ổn định trong đời sống kinh tế xã hội. 2 . Phân loại lạm phát Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là giá cả hàng hóa tăng liên tục nên người ta thường căn cứ vào chỉ số giá cả hàng hóa tăng để làm căn cứ phân làm 3 mức độ lạm phát: - Lạm phát vừa phải ở mức độ thấp còn gọi là lạm phát một con số: biểu hiện ở giá cả hàng hóa tăng chậm trong khoảng 10% / năm trở lại. Do đó, đồng tiền mất giá không lớn, chưa ảnh hưởng nhiều đến sản xuất kinh doanh. Loại lạm phát này thường được các nước có nền kinh tế phát triển duy trì như một chất xúc tác cho nền kinh tế phát triển. - Lạm phát phi mã: loại này xãy ra khi giá cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số như 20%, 100%, 200% ….Lạm phát này đã bắt đầu gây tác hại trong nền kinh tế. Đồng tiền mất giá một cách nhanh chóng, lãi suất thực tế giảm xuống dưới 0, dân chúng tránh giữ tiền mặt. Ví dụ như : ở Việt nam giai đoạn 1986 – 1987 đã xảy ra lạm phát phi mã 774%/ năm. Lúc đó người ta ví đồng tiền Việt Nam như hòn than đang cháy nổ. Nó rơi vào túi người nào thì ngay lập tức họ sẽ mua hàng để tung đồng tiền đó vào túi người khác. - Siêu lạm phát: trường hợp xảy ra lạm phát này tiền giấy phát hành ào ạt, giá cả tăng lên với tốc độ chóng mặt từ 1000%/ năm trở lên, vì thế trong giai đoạn này người ta ví nó như căn bệnh ung thư gây chết người và có tác động rất lớn đến nền kinh tế mà lịch sử lạm phát của thế giới phải ghi nhận như lạm phát ở Đ ức 1920 – 1923, cụ thể trong giai đoạn từ 1/1922 – 11/1923 chỉ số giá cả tăng từ 1 đến 10.000.000, 1921 – 1923 kho tiền của Đức tăng 7 tỉ lần. Giá của một quả trứng tại thị trường Berlin là 1 triệu D.M; hoặc siêu lạm phát hoành hành ở Bolivia trong những năm giữa thập niên 1980, với tỷ lệ lạm phát bằng 50.000% / năm….. Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 4 Tỷ lệ lạm phát cao là một triệu chứng không an toàn về “sức khỏe” của một nền kinh tế, và do đó là một trong những vấn đề mà dân chúng cũng như nhà chức trách về chính sách kinh tế quan tâm. 3. Cách tính lạm phát Lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát mà nó là suất tăng của mức giá tổng quát theo thời gian. Vấn đề đặt ra trước tiên là mức giá tổng quát được tính toán như thế nào? Hai thước đo thông dụng phản ánh mức giá tổng quát là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh GDP (GD P deflator). Chỉ số giá tiêu dùng là một tỷ số phản ánh của hàng hóa trong nhiều năm khác nhau so với giá của cùng rổ hàng hóa đó trong năm gốc. Chỉ số giá tiêu dùng CPI =  qi0 p i t qi0p i 0 Trong đó: qi là rổ hàng hóa và pi là giá của các mặt hàng, t là năm hiện hành, 0 là năm gốc. Chỉ số giá này phụ thuộc vào năm được chọn làm gốc, và sự lựa chọn rổ hàng hóa tiêu dùng. Nhược điểm chính của chỉ số này là mức độ bao phủ cũng như sử dụng trọng số cố định trong tính toán. Mức độ bao phủ của chỉ số giá này chỉ giới hạn đối với một số hàng hóa tiêu dùng và trọng số cố định và tỷ phần chi tiêu đối với một số hàng hóa cơ bản của người dân thành thị mua vào năm gốc. Những nhược điểm mà chỉ số này gặp phải khi phản ánh giá cả sinh hoạt là CPI không phản ánh sự biến động của giá hàng hóa. Trong khi đó, chỉ số điều chỉnh GDP không phản ánh sự biến đổi trong cơ cấu hàng hóa tiêu dùng cũng như sự thay đổi trong phân bổ chi tiêu của người tiêu dùng cho những hàng hóa khác nhau theo thời gian. Chỉ số điều chỉnh GDP =  qit p i t qitp i 0 Chỉ số điều chỉnh GDP là loại chỉ số có mức bao phủ rộng nhất nó bao gồm tất cả các hàng hóa dịch vụ được sản xuất trong nền kinh tế và trọng số tính toán được điều chỉnh vào mức độ đóng góp tương ứng của các loại hàng hóa và dịch vụ vào giá trị gia tăng. Về mặt khái niệm, đây là chỉ số đại diện tốt hơn cho việc tính toán tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ số giá này không phản ánh trực tiếp sự biến động trong giá hàng nhập khẩu cũng như sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nhược điểm chỉnh của chỉ Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 5 số giá này là không thể hiện được sự thay đổi của chất lượng hàng hóa khi tính toán tỷ lệ lạm phát và chỉ số không phản ánh được sự biến động giá cả trong từng tháng. Việt Nam trong những năm qua cũng sử dụng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để tính tỷ lệ lạm phát và sử dụng nó cho mục đích điều hành chính sách tiền tệ. Ngoài những nhược điểm như phân tích ở trên, chỉ số này không phản ánh được tình hình lạm phát khi mà nó thường xuyên dao động. Sự dao động trong ngắn hạn không có liên quan gì đến áp lực lạm phát căn bản trong nền kinh tế và việc sử dụng chỉ số này làm mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ có thể làm chệch hướng chính sách. Với mục tiêu là ổn định tiền tệ trung hạn, chính sách tiền tệ nên tập trung vào xu hướng tăng giá thay vì sự dao động của giá. 4. Nguyên nhân và tác động của lạm phát a) Nguyên nhân của lạm phát Theo quan điểm của các nhà kinh tế học có nhiều nguyên nhân khác nhau để dẫn đến lạm phát. - Trong giai đoạn các nước còn đang áp dụng chế độ lưu thông tiền kim khí và đặc biệt là vẫn thực hiện cơ chế tiền giấy khả hoán (loại tiền giấy có thể đổi trực tiếp ra vàng) Thì theo quan điểm của K.Marx, ông cho rằng: “Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn trong số lượng vàng (hay bạc) do tiền giấy tượng trưng mà lẽ ra phải lưu thông thực sự”. Từ đó, cho thấy nếu phát hành tiền vượt quá lượng tiền vàng (bạc) cần thiết thì tiền giấy sẽ bị mất giá, và lạm phát sẽ xảy ra khi trong lưu thông bị dư thừa quá mức các dấu hiệu giá trị vượt quá lượng kim loại mà chúng đại diện trên danh nghĩa. - Sau thế chiến thứ II, các nước chuyển sang giai đoạn lưu thông tiền giấy pháp định. Việc phát hành tiền gần như tách rời cơ sở đảm bảo bằng vàng mà thường phát hành để thõa mãn nhu cầu chi của nhà nước. Trước nạn lạm phát lan tràn đã xuất hiện nhiều lý thuyết về lạm phát trong đó có thể kể đến: + Lý thuyết lạm phát giá cả: theo lý thuyết này lạm phát là sự tăng cao toàn bộ giá cả hàng hóa, các nhà kinh tế M ỹ như G.F Luthringer, L.V Chandler, D.C Cline đã tuyên bố: “ bất kỳ thời kỳ nào có mức giá tăng lên, và sự phát sinh điều thay đổi lâu dài đó có tính chất chu kỳ hay không đều là thời kỳ lạm phát” Thuyết lạm phát giá cả đã xoá nhòa sự khác biệt giữa lạm phát và giá cả tăng lên, giá cả hàng hóa tăng lên do nhiều nguyên nhân không phải tất cả các trường hợp giá Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 6 cả tăng đều là lạm phát mà cần khẳng định rằng giá cả hàng hóa đồng loạt tăng lên chỉ là một trong những biểu hiện cơ bản của lạm phát. Từ quan điểm của lạm phát giá cả đã nảy sinh 2 quan điểm : + Lý thuyết chi phí và lý thuyết cầu thừa:  Lý thuyết chi phí cho rằng lạm phát xảy ra do việc gia tăng chi phí sản xuất kinh doanh lớn hơn năng suất lao động, đặc biệt sự tăng chi phí do tăng tiền lương khi phải đáp ứng những yêu sách của phong trào công nhân với những cuộc đình công, biểu tình. Quan điểm này còn mang màu sắc chính trị.  Thuyết đồng hóa lạm phát với nhu cầu thừa: với đại diện là B. Hasen người Mỹ sau khi định nghĩa lạm phát là tăng giá cả đã cho rằng nguyên nhân của sự tăng giá là do nhu cầu vượt qua nguồn cung ứng về hàng hóa. + Lý thuyết ca tụng lạm phát do J.M.Keynes đề xướng, xem nguyên nhân cơ bản của lạm phát do sự mất cân đối cung cầu. Khi nền kinh tế phát triển mức cung tăng vượt quá cầu dẫn đến sản xuất bị trì trệ và thất nghiệp xảy ra. Do đó, nhà nước cần tăng cầu lên bằng cách phát hành thêm tiền vào lưu thông, vừa chống được khủng hoảng kinh tế vừa chống thất nghiệp. Quan điểm này phù hợp trong điều kiện nền kinh tế phát triển có hiệu quả, những thành tựu khoa học kỹ thuật được ứng dụng mạnh mẽ trong đời sống kinh tế thì lạm phát là một công cụ kích thích tăng trưởng kinh tế. + Lý thuyết cơ cấu: cho rằng lạm phát phát sinh do sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế làm cho nền kinh tế phát triển không hiệu quả. Ngoài những quan điểm nêu trên còn tồn tại những quan điểm khác lý giải về nguyên nhân của lạm phát như qua điểm của lạm phát tín dụng, lạm phát tài chính, lạm phát nhập khẩu. - Tuy nhiên, có thể nói trên thực tế hiện tượng lạm phát xảy ra được đưa đến từ những nguyên nhân khác nhau, điều này bị chi phối bởi bối cảnh của mỗi quốc gia nhưng nhìn một cách tổng quát qua lịch sử lạm phát thế giới thì có những nguyên nhân cơ bản và chủ yếu sau: + Những nguyên nhân chủ quan bắt nguồn từ những chính sách quản lý kinh tế không phù hợp của nhà nước như: chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất, chính sách thuế ….làm cho nền kinh tế bị mất cân đối, hiệu quả sản xuất bị sút kém ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. M ột khi ngân sách bị thâm thủng thì điều tất yếu thường xảy ra là nhà nước phải tăng chỉ số phát hành. Đặc biệt đối với một số quốc gia trong những Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 7 điều kiện nhất định nhà nước chủ trương dùng lạm phát như một công cụ để thực thi chính sách phát triển kinh tế. + Những nguyên nhân khách quan đưa đến như: thiên tai, động đất hoặc nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh, tình hình biến động của thị trường nhiên liệu trên thế giới…. + Ngoài ra, do những nguyên nhân chủ quan hay khách quan gây nên khủng hoảng hệ thống chính trị, từ đó người dân bị mất lòng tin vào nhà nước họ không tiêu xài hoặc đánh giá thấp giấy bạc mà nhà nước phát hành. b) Tác động của lạm phát. - Sự mất giá của các loại chứng khoán: Cùng với sự tăng giá của các loại hàng hóa khác thì giá cả của các loại chứng khoán khác bị sụt giảm nghiêm trọng. Việc mua công trái, mua tín phiếu là nhằm thu các khoản lợi khi đáo hạn, nhưng vì giá trị của đồng tiền bị sụt giảm nghiêm trọng nên mọi người không thích tích lũy theo hình thức mua công trái và tín phiều nữa mà chuyển sang trữ vàng và ngoại tệ mạnh. - Sự giảm giá của đồng bản tệ so với ngoại tệ và vàng: Trong điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế. Đồng ngoại tệ và vàng coi như thứ tiêu chuẩn để đo lường sự mất giá của đồng bản tệ. Đồng bản tệ càng giảm giá so với vàng và ngoại tệ bấy nhiêu thì nó càng tác động nâng giá hàng hóa lên bấy nhiêu. Lúc này công chúng bán hàng hóa dựa trên cơ sở quy đổi ra vàng hoặc ngoại tệ để bán mà không căn cứ vào tiền quốc gia nữa. - Kích thích sản xuất, chống thất nghiệp trong điều kiện mức độ lạm phát thấp: lạm phát trong điều kiện hiện đại còn là chính sách của các nước nhằm kích thích sản xuất, chống thất nghiệp, bù đắp các chi phí thiếu hụt của ngân sách. Đôi khi lạm phát bị những kẻ bóc lột lợi dụng để bóc lột nhiều hơn nữa những người làm công ăn lương. Bởi khi lạm phát gia tăng, giá cả hàng hóa tăng nhanh hơn sự gia tăng của tiền lương. Vì vậy mà các nhà tư bản dễ dàng kiếm được lợi lộc do bán hàng. Thế nhưng đôi khi lạm phát lại kích thích sự phát triển kinh tế, vì nó có tác dụng làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các doanh nghiệp, kích thích sự tiêu dùng của chính phủ và công chúng. Vì vậy nó kích thích sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Thế nhưng, sử dụng chính sách lạm phát làm tăng trưởng kinh tế phải thận trọng vì nó dễ dẫn đến sự quá đà đưa lạm phát tiến lên tốc độ cao. Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 8 - Làm phân phối lại thu nhập: khi lạm phát xảy ra thì giá cả các loại hàng hóa, tài sản tăng lên, còn giá trị của đồng tiền giảm xuống cho nên những người làm công ăn lương, những người gửi tiền bị thiệt. Nhưng những người vay nợ, những người tích lũy tài sản thì có lợi. Để tránh thiệt hại cho những người gửi tiền thì lãi suất cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát, nhưng việc điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát chỉ có thể thực hiện được ở mức tỷ lệ lạm phát thấp, lạm phát một con số một năm. - Các tác động khác: + Khi lạm phát cân bằng có tính trước: là lạm phát không có ảnh hưởng gì đến thu nhập cả. Giá cả tăng lên tăng lên bao nhiêu phần trăm thì thu nhập cũng tăng lên bấy nhiêu phần trăm. Đây là trường hợp lý tưởng, nó không phân chia lại thu nhập. Ở đây nhà nước đã dự đoán trước được lạm phát và điều chỉnh các chính sách cho phù hợp, công chúng cũng vậy, họ đã biết trước được tỷ lệ lạm phát và điều chỉnh các hành vi của mình cho phù hợp. M ột cuộc lạm phát cân bằng được dự đoán trước thì không có ảnh hưởng gì đến sản lượng thực tế, hiệu quả kinh tế hoặc phân phối thu nhập. + Khi xảy ra lạm phát không cân bằng (lạm phát cao) trường hợp này thường đẩy các chi phí tăng lên, đẩy thuế tăng lên tức nó ảnh hưởng đến sản lượng và thu nhập. Chẳng hạn ấn định mức thu nhập trên 5 triệu đồng thì phải đóng thuế, nhưng khi có lạm pháp chính sách thuế sẽ không thay đổi kịp nên người có thu nhập tăng lên nhanh chóng phải đóng thuế nhiều hơn. Nhà nước sẽ thu được nhiều thuế hơn còn công chúng thì bị thiệt hại do phải đóng thuế cho nhà nước. Lạm phát xảy ra thì vòng quay của tiền tăng rất nhanh làm cho lượng tiền trong lưu thông bị dư thừa lớn, tốc độ lạm phát sẽ bị đẩy lên nhanh. Khi tình hình lạm phát phát triển nhanh, giá cả tăng lên thường không giống nhau giữa các nơi, các địa phương. Thông tin về giá không chính xác, quá trình mua bán trở nên hỗn loạn vì mọi người luôn tìm nơi có giá thấp. Nói chung khi xảy ra lạm phát không cân bằng và không dự đoán trước được thì sẽ có tác hại về cả mặt hiệu quả và cả mặt phân phối lại thu nhập quốc dân. - Như vậy, tác hại của lạm phát có thể tóm lại như sau: + Nếu lạm phát là cân bằng và dự đoán được thì không gây tác hại gì cả. + Nếu lạm phát là cân bằng nhưng không dự đoán trước được thì gây ra sự phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 9 + Nếu lạm phát không cân bằng nhưng có dự đoán trước được thì không gây ra tác hại đối với thu nhập quốc dân nhưng gây thiệt hại về hiệu quả kinh tế. + Nếu lạm phát không cân bằng mà cũng không dự đoàn trước được thì gây ra thiệt hại về hiệu quả kinh tế và phân phối lại thu nhập quốc dân. Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 10 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP    Một trong những thách thức lớn nhất mà các nước châu Á, đặc biệt là những nền kinh tế mới nổi như VN, đang phải đối mặt là lạm phát gia tăng. Theo ADB, lạm phát vào những tháng cuối năm 2007 tăng lên mức cao nhất trong 16 năm qua ở Singapore, 12 năm ở Trung Quốc... Tại VN lạm phát cũng đã tăng lên mức cao nhất kể từ năm 2005. Theo ước tính mới nhất của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam vào tháng 12/2007 đã tăng 12,6% so với tháng 12/2006. Đây là mức tăng giá tiêu dùng cao nhất trong vòng 12 năm qua. Nếu tính chung cả năm 2007, CPI ước khoảng trên 10,5- 11% đã tác động nâng tổng mức lạm phát của cả năm 2007 lên tới 12,63%, vượt xa mức tăng trưởng 8,55% và là mức tăng cao kỷ lục trong suốt 10 năm qua. 1. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN a. Giá cả thế giới biến động mạnh Trong năm 2007 giá lương thực – thực phẩm và giá dầu thế giới đã tăng cao như giá gạo tăng 18%, giá cà phê tăng 27,5%, giá cao su tăng 3,6%, giá hạt tiêu tăng 102,4%, giá hạt điều tăng 5,8%, giá chè tăng 7%... Do hai nhóm hàng hóa này đều là những sản phẩm ngoại t hương chủ đạo của Việt Nam và đồng thời chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu CPI, cho nên đây là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát cao ở Việt Nam trong suốt năm nay. Ngoài ra xét trong điều kiện quy mô của nền kinh t ế nhỏ, độ mở của nền kinh tế ở đầu vào đặc biệt lớn khi ta so tổng kim ngạch nhập khẩu với GDP năm 2006 bằng 74,13%, năm 2007 bằng 82,85%; mặt khác trong rổ hàng hóa nhập khẩu đó, tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu quá lớn như: xăng dầu 100%, phôi thép 65%-70%, nguyên liệu sản xuất thuốc 60%... mà đây lại là những mặt hàng thường bị “sốt” giá, nên mỗi khi những mặt hàng này “sốt” giá thì biến động giá ấy cũng kéo theo vào thị trường trong nước làm biến động giá trong nước. Tuy nhiên so với các quốc gia trong khu vực, ta thấy Việt Nam là một trong những nước chịu tác động trực tiếp và chịu hậu quả nặng nề nhất. Nếu giá lương thực – thực phẩm và giá dầu lửa thế giới là nguyên nhân chính, thì các nước trong khu vực như Thái Lan và Trung Quốc cũng phải chịu sức ép tăng giá tương tự. Tuy nhiên, trong khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2007 lên tới 2 chữ số, thì Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức 6,5% và Thái Lan 2,9%. Và khác biệt rõ rệt nhất giữa Việt Nam với các quốc gia có Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 11 lạm phát thấp hơn, như Trung Quốc và Thái Lan, đó là tốc độ tăng cung tiền. Tính tới cuối t háng 6 năm 2007, lượng tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi ngân hàng ở Việt Nam đã tăng tới 21,1% so với đầu năm. Con số tương ứng của Trung Quốc và Thái Lan lần lượt là 10,0% và 1,4%. Năm 2007 có thể nói là năm có độ “mở” của nền kinh tế Việt Nam trong rất lớn so với nhiều nền kinh tế khác, nên bị tác động trực tiếp từ những biến động bên ngoài. Trong khi đó, chúng ta chưa có hệ thống “van” điều chỉnh phù hợp với nền tảng kinh tế mở như vậy. Thông thường, ở những nước có tiềm lực tài chính, tiềm lực kinh tế mạnh, họ sẽ có nguồn dự trữ để trung hòa bớt những tác động trực tiếp hoặc chuyển sang thành tác động gián tiếp. Tích trữ hàng hóa tại thời điểm giá thấp. Sau đó, khi giá thị trường tăng cao thì tiêu dùng bằng quỹ dự trữ. Do đó với một nền kinh tế nhỏ, việc “mở cửa” là tốt nhưng vấn đề là Việt Nam còn thiếu một hệ thống công cụ điều hành, điều này có thể giải thích tại sao cả thế giới cùng chịu nhưng Việt Nam lại chịu tác động mạnh như vậy. b. Tăng tiền trong lưu thông Về mặt nguyên tắc, giá trị tính theo tiền của một mặt hàng luôn bằng lượng nhân với giá. Nếu giá t rị tính t heo tiền tăng lên, nhưng lượng hàng không tăng hay t ăng chậm hơn, thì giá buộc phải tăng. Ta có thể hình dung GDP (sau khi loại bỏ yếu tố trượt giá) là tổng sản lượng sản xuất ra trong năm để phục vụ tiêu dùng cuối cùng, đầu tư hay ngoại thương. Còn mức cung tiền là tổng giá t rị tính theo tiền. Mức cung tiền vượt GDP nhiều lần thì lạm phát cao là điều không tránh khỏi. Thực tế ở Việt Nam, tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi lượng tiền đưa vào lưu thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm phát sẽ nảy sinh.. Nhưng lạm phát bùng lên trong năm nay có thể còn bắt nguồn từ mức chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của Việt Nam đã ngày một dãn rộng trong vòng 3 năm qua. Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 12 So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100%. Cung tiền đo bằng M2 (gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng) (Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng số liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của Việt Nam và Trung Quốc lấy từ nguồn Economist Intelligent Unit.) Qua sơ đồ ta thấy trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch giữa t ăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan là hầu như không đáng kể. Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng cung tiền lại cao hơn rất nhiều. Đó chính là lý do chính để giải thích tại sao lạm phát ở Việt Nam cao hơn hẳn những nước khác, trong khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2007 lên tới 2 chữ số, thì Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức 6,5% và Thái Lan 2,9% . Thực tế năm 2007, cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh là do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến, theo ước tính lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào VN năm nay lên tới con số kỷ lục 15 tỷ USD, tương đương 25% GDP của năm 2006. Điều này đã làm cho tất cả các dấu hiệu “bội thực” ngoại tệ hiển hiện trong nền kinh tế VN: bùng nổ tiêu dùng và xây dựng, đầu dựng đất đai và chứng khoán. Ngoài ra có 1 hiện tượng kinh tế đặc thù là sự tăng trưởng mạnh mẽ của kiều hối (bao gồm một phần rất lớn và ngày càng tăng tiền gửi của người đi xuất khẩu lao động theo ước lượng không chính thức) có khoảng hơn 5 tỷ USD kiều hối đã được gửi về những tháng đầu năm 2007. Cũng do dòng vốn ngoại chảy vào VN quá nhiều, Ngân hàng Nhà nước đã phải bỏ ra hàng trăm nghìn tỷ VND để hút ngoại tệ ổn định tương đối tỷ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu và đấu tư. Trong 7 tháng đầu năm 2007, nhà nước tung ra 112.000 tỉ đồng trong để hút 7 tỉ USD khỏi thị trường, điều này đẩy 1 khối lượng lớn tiền đồng vào lưu Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 13 thông. Ước tính dự trữ ngoại tệ của VN năm nay lên tới gần 20 tỷ USD, tăng tới 9 tỷ USD so với năm 2006 buộc NHNN phải mua vào dự trữ để ổn định tương đối tỉ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu và đầu tư. Có thể nói dòng vốn nước ngoài vào nhiều gây áp lực lạm phát là chuyện bình thường của một nền kinh tế mới nổi. Trong tương lai dòng vốn đổ vào ngày càng tăng, quy mô thị trường tài chính ngày càng lớn. c. Điều hành chính sách vĩ mô thiếu đồng bộ, bị động, khả năng dự báo hạn chế ­ Điều hành chính sách vĩ mô trong thời gian qua dường như thiếu đồng bộ và bị động. Các nhà hoạch định chính sách không dự đoán được khả năng có thể xảy ra đối với nền kinh tế, nhất là trong việc thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ. ­ Một nguyên nhân nữa là điều hành chính sách tiền tệ không linh hoạt, trong khi trên thế giới đồng USD mất giá thì tại VN vẫn duy trì chính sách giữ ổn định tỷ giá, giữ nguyên lãi suất cơ bản tiền đồng, trong khi vốn nước ngoài đổ vào VN nhiều thì những chính sách như vậy khiến VN trở thành điểm trũng đầu tư. Tuy nhiên, do không dự báo sát diễn biến nên chúng ta chưa có những chính sách tốt để hấp thụ nguồn vốn đó. Kết quả là nếu như 6 tháng đầu năm Ngân hàng NN tung VNĐ ra mua USD để tăng dự trữ thì thời điểm này việc hạn chế mua USD vào lại đẩy thị trường vào cơn sốt căng thẳng về lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. ­ Sau khi gia nhập WTO, chúng ta chủ trương hàng hóa VN phải tiếp cận giá thế giới. Giá lên do chính sách Nhà nước thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số loại vật tư đầu vào cơ bản của nền kinh tế. Thực hiện điều chỉnh giá theo cơ chế thị trường, Chính phủ quyết định dùng biện pháp giảm thuế, bỏ qua các biện pháp khác. Khi tiến hành giảm thuế nhập khẩu 20 mặt hàng để giảm giá, nhiều doanh nghiệp (DN) vẫn kêu giá nguyên liệu tăng cao nên khó lòng điều chỉnh giảm giá hàng hóa . Như vậy giảm thuế nhưng không giảm được giá. Cuối cùng DN được hưởng lợi nhuận tăng cao, còn người dân vẫn chịu giá cao. Nhiều nước gần VN như Thái Lan, Philippines, Trung Quốc..., dù giá nguyên vật liệu thế giới tăng cao, nhưng do nhà nước dùng nhiều biện pháp, trong đó có cả biện pháp hành chính, đã kiểm soát được thị trường, can thiệp vào giá cả nên chỉ số CPI cũng như lạm phát thấp hơn VN. Nhiều chuyên gia cho rằng giá cả tăng là do một số DN đầu cơ; “té nước theo mưa”, lợi dụng cơ hội “làm giá. ­ Tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư, tham nhũng cũng gây nên lạm phát. Qua thanh tra một số công trình xây dựng cho thấy, tỉ lệ thất thoát đến 30%-50%. Mỗi Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 14 năm vốn ngân sách, vốn tín dụng ưu đãi và vốn ODA đầu tư vào xây dựng phát triển trên cả nước khoảng 80.000 tỉ đồng. Với tỉ lệ thất thoát như trên thì mỗi năm đã có hàng chục ngàn tỉ đồng bị mất. Theo kết quả kiểm toán năm 2006 về niên độ ngân sách 2005, kiểm toán Nhà nước cũng kiến nghị xử lý tài chính 7.622,5 tỉ đồng. ­ Nhiều ngành, lĩnh vực ít có lợi nhuận không phát triển được. Các nhà đầu tư chỉ tập trung vào 2 lĩnh vực đang tăng trưởng nóng tại VN là địa ốc và chứng khoán do lợi nhuận cao hơn các ngành kinh doanh khác. Các ngân hàng thương mại nước ta cũng đẩy mạnh cho vay tiền mua đất, bất động sản, kinh doanh chứng khoán. Chính nguồn cho vay dư thừa từ phía ngân hàng đầu tư bất động sản và mua cổ phiếu ồ ạt là nguyên nhân của sự bùng nổ lạm phát. ­ Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế, trong hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế của VN, chi phí sản xuất, quảng cáo đều rất cao. Giá hầu hết các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của VN đều cao hơn các đối thủ cạnh tranh, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm. So với ASEAN, Trung Quốc, giá điện VN cao hơn 50%; giá nước hơn 71%; cước vận tải biển hơn 27%; cước phí điện thoại quốc tế hơn 174%; quần áo, hàng điện tử, điện máy hơn 30%-50%. Rau quả, thịt heo, cá basa... của ta cũng đắt hơn nhiều nước. ­ Ban hành và thực thi một số chính sách thể hiện sự lúng túng trong điều hành như việc điều chỉnh can thiệp vào giá bán xăng dầu vào tháng 5 năm nay của Bộ Thương mại (cũ) cụ thể cho doanh nghiệp quyết định giá cả vào thời điểm không thích hợp. Phân tích về khía cạnh chính trị trong nước đang có bầu cử quốc hội, trong khi đó trên thế giới tình hình bất ổn chính trị tại Trung Đông đang căng thẳng và có rất nhiều dự báo khác nhau về những cú sốc giá xăng dầu tiếp tục. Việc cho doanh nghiệp tự quyết giá xăng khi các điều kiện đảm bảo như công cụ thị trường, giám sát, cấu trúc thị trường chưa hoàn thiện dẫn đến việc khi có những cú sốc giá cả, muốn áp dụng các biện pháp hành chính lại là rất khó. Việc này không những làm chậm hơn tiến trình tiến tới thị trường mà còn gây ra những tác động không tốt về mặt kiềm chế giá cả cũng như tác động xã hội. Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 15 Các bước trong phản ứng chính sách và những hậu quả của nó 2. GIẢI PHÁP  Tăng cường tính hiệu quả của nguồn vốn đầu tư công Theo Tổng cục Thống kê, năm 2007, khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế là 461,9 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% GDP, trong đó khu vực Nhà nước chiếm 200 nghìn tỷ đồng và phần còn lại của khu vực ngoài Nhà nước và FDI. Còn tính toán của các nhà kinh tế Đ ại học Havard cho thấy năm 2007, tăng trưởng kinh tế Việt Nam ước tính tăng 8,48% so với năm 2006 và chỉ số ICOR của Việt Nam trong năm nay là: 40,4 : 8,48 = 4, 76/1. Điều này được hiểu là tăng vốn đầu tư 4,76% thì chỉ tăng được 1% GDP, thấp xa so với Đài Loan khi họ chỉ đầu tư vốn ở mức 20% GDP nhưng tăng trưởng lại ở mức 9 - 10%, chỉ số ICOR đạt từ 2 - 2,5/1. Chỉ số ICOR càng cao thì sự thất thoát, lãng phí trong đầu tư cũng lớn tương ứng. Theo các chuyên gia, tỷ lệ trên ước khoảng 30% tổng vốn đầu tư. Giả định rằng, con số đó là thực tế thì số tiền thất thoát, lãng phí trong đầu tư công của 2007 lên tới 60 nghìn tỷ đồng chưa kể khu vực đầu tư ngoài quốc doanh. Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 16 Trong giai đoạn hiện nay, Chính phủ cần rà soát lại các dự án công, kiên quyết dừng đầu tư những dự án có tính khả thi thấp, đồng thời kiểm soát chặt tình trạng thất thoát, lãng phí và tham nhũng. Đó là cách tốt nhất, góp phần hạ chỉ số ICOR xuống. Điều này không chỉ giúp nền kinh tế tăng trưởng bền vững mà tự thân nó còn góp phần chống lạm phát một cách hiệu quả, thay vì chỉ ngóng vào các biện pháp "bơm", "hút", "thắt"... trong cung tiền của Ngân hàng Nhà nước và hậu quả là dồn mọi khó khăn lên ngân hàng thương mại và doanh nghiệp vay vốn.  Về mặt tiền tệ - tín dụng, cần khắc phục các hạn chế, bất cập trong năm trước để dự báo đúng, dự báo sớm, tránh bị động, lúng túng, chậm trễ. Trong đó có một số biện pháp đáng lưu ý.  Chủ động thắt chặt và có lộ trình, kế hoạch đưa tiền ra để mua ngoại tệ và đặc biệt là hình thức dùng tiền Việt để mua ngoại tệ một cách phù hợp, nhằm giữ phương tiện thanh toán cả năm ở mức 22-24% so với cuối năm 2007. Hơn nữa, dư nợ tín dụng nên kiềm chế ở mức 22-25%. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc năm trước đã tăng gấp đôi lên 10%, đầu năm nay tăng thêm 1%, nhưng vẫn còn thấp hơn tỷ lệ 13,4% sau năm lần tăng trong năm 2007 của Trung Quốc. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế 9% thì tốc độ tăng M 2 chỉ nên vào khoảng trên dưới 20%; có thể còn phải tăng thấp hơn hoặc phải hút mạnh tiền vào hơn nữa để hạ bớt tốc độ tăng đã quá cao trong các năm trước. Nói cách khác, cần phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1-2 điểm phần trăm nữa để hãm tiền ra.  Hai, để thu hút lượng ngoại tệ đang chảy mạnh vào nước ta và lượng ngoại tệ trên thị trường, phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước, không chỉ là trái phiếu ngoại tệ của Chính phủ, mà còn cho phép các tập đoàn, doanh nghiệp lớn, có uy tín, có nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước. Có thể áp dụng giải pháp cho phép doanh nghiệp bán cổ phần bằng ngoại tệ. Đây là giải pháp có tác dụng về nhiều mặt. Vừa có thể tiếp tục thu hút được ngoại tệ đã, đang và sẽ vào nước ta phục vụ yêu cầu đầu tư tăng trưởng. Vừa thu hút được lượng ngoại tệ đang trôi nổi trên thị trường. Vừa không phải đưa một lượng lớn tiền đồng ra mua ngoại tệ tạo ra sức ép lạm phát. Đây là giải pháp có tác dụng kép: vừa hút được USD về, vừa tránh đưa tiền đồng ra lưu thông tạo sức ép lạm phát, vừa ổn định được tỷ giá. Trung Quốc cũng đã áp dụng giải pháp này và đã đạt kết quả tích cực: vừa tăng mạnh dự trữ (hiện đã lên đến 1.530 tỉ USD, lớn nhất Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 17 thế giới, vượt xa nước đứng thứ hai là Nhật Bản), vừa khống chế tốc độ tăng giá. Vấn đề đặt ra là cần có mức lãi suất trái phiếu phải đủ sức hấp dẫn và sử dụng có hiệu quả số USD huy động được từ trái phiếu.  Xem xét tình trạng thừa USD của các ngân hàng thương mại hiện nay có thể thấy 3 hiện tượng. Thứ nhất, một số ngân hàng thương mại có thể lâm vào trạng thái “thừa thật” - biểu hiện ở số dư ngoại tệ lớn hơn trạng thái dư cho phép. Tuy diễn biến này chỉ xảy ra ở một số ngân hàng nhưng cũng báo hiệu rằng luồng USD vào Việt Nam trong năm 2007 là rất lớn. Biểu hiện thứ hai là một số ngân hàng thừa ngoại tệ tương đối do cơ cấu dự trữ ngoại tệ bất hợp lý, trong khi thừa đồng USD nhưng lại thiếu trầm trọng các ngoại tệ khác như Euro, Nhân dân tệ, Yên Nhật. Thứ ba là các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung còn thiên về việc sử dụng nghiệp vụ tín dụng ngoại tệ ngắn và trung hạn, coi nhẹ các quan hệ mua đứt, bán đoạn cũng như coi nhẹ việc sử dụng các công cụ phái sinh ngoại tệ, với cơ chế hoạt động như vậy, ngoài hiệu ứng kích thích tình trạng Đôla hoá, còn khiến cho các ngân hàng thương mại trở thành nơi luôn bị động trong việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ khi doanh nghiệp đột xuất có nhu cầu, đột xuất xin mở L/C và “vay” thanh toán hàng nhập theo L/C, còn như tình hình hiện nay xét trong ngắn hạn thì ngân hàng thương mại lại đang là nơi cất giữ tiền hộ cho DN xuất khẩu một cách bất hợp lý về cơ cấu ngoại tệ. Vì vậy với chính sách quản lý ngọai hối, cần có lộ trình sớm xóa bỏ cơ chế tín dụng ngọai tệ, trước hết là cơ chế TD ngoại tệ ngắn hạn để thay bằng cơ chế mua đứt, bán đọan và/hoặc sử dụng các công cụ phái sinh… làm cho trạng thái ngoại tệ của NH thay đổi từng ngày, từng giờ, cơ cấu ngọai tệ năng động, đa dạng hơn. Chỉ trong điều kiện đó NHTM mới có thể thực hiện tốt sứ mệnh là người mua, bán cuối cùng và cơ cấu dự trữ ngọai tệ tại NHTW mới có điều kiện đa dạng hơn cùng với sự đa dạng ngoại tệ của ácc NHTM.  Chấp nhận sự lên giá của tiền đồng. Một mặt do đô la giảm giá mạnh trên thị trường thế giới, kể cả các đồng nội tệ của các nước khu vực. Việc giảm giá 0,03% trong năm 2007 của tỷ giá VND/USD là quá nhỏ. Mặt khác, 1 đô la tại Việt Nam có giá sức mua tương đương với 3,4 đô la tại M ỹ. Ngoài ra, trong điều kiện Việt Nam còn nhập siêu lớn, nợ nước ngoài còn cao thì tỷ giá tăng là bất lợi. Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 18 Hướng tới là thay đổi cơ cấu của hàng xuất khẩu. Chúng ta không thể dựa mãi vào xuất khẩu các mặt hàng nguyên liệu thô. Một trong những yếu tố quan trọng nhất là “thay đổi cơ cấu sản xuất của Việt Nam, nơi xuất khẩu các sản phẩm thô chiếm tỷ trọng rất lớn, tức là phần giá trị gia tăng thấp. Hiện nay xuất khẩu dầu thô, nông sản thực phẩm và hàng gia công chiếm tỷ trọng quá lớn trong kim ngạch nhập khẩu. Muốn để tăng phần này lên thì phần nguyên liệu phải ít đi để tăng phần giá trị gia tăng do người Việt Nam tạo ra thì mới thay đổi được tương quan giữa xuất và nhập. Điều này đòi hỏi phải có một chiến lược rất căn bản, tức chuyển dịch cơ cấu đầu tư sang phía những ngành dựa trên lợi thế của Việt Nam cộng với giá trị gia tăng cao”. Lạm phát của Việt Nam GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa Nhóm 09 – Cao học Ngân hàng Đêm 2 K16 19 1. “Tài chính quốc tế” – TS. Trần Ngọc Thơ và TS. Nguyễn Ngọc Định – Khoa Tài chính doanh nghiệp – Trường ĐH Kinh tế TP.HCM. 2. 3. 4. 5. 6. Các nguồn tư liệu tổng hợp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftieu_luan_6971.pdf
Luận văn liên quan