Khóa luận TN đại học Lao Động xã hội: 70 trang
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Sức khỏe là vốn quý nhất của con người, là một trong những điều cơ bản nhất; con người sống hạnh phúc là mục tiêu và là nhân tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ tổ quốc. Chăm sóc sức khỏe không chỉ là nhu cầu cuả mỗi cá nhân mà nó còn là mục tiêu cho sự pháp triển của xã hội.
Hiện nay quan hệ tình dục sớm dẫn đến tình trạng có thai ngoài ý muốn ngày càng gia tăng, và những hậu quả tai hại của nó là không tránh khỏi. Những hiện tượng nạo phá thai, có thai tuổi vị thành niên; việc sinh con của các bà mẹ quá trẻ 13, 14, 15 tuổi, việc kết hôn sớm xảy ta rất nhiều kéo theo rất nhiều tác hại lớn khác cho bản thân các em và cho gia đình, cho xã hội như: tình trạng bệnh tật, đẻ con dị dạng, sức khoẻ của người mẹ và đứa con yếu kém nghiêm trọng, nhất là tốc độ lây lan các bệnh đường tình dục như bệnh lậu, bệnh giang mai, nhiễm HIV và gây nên những tác hại lớn về kinh tế, xã hội, tâm lí
Trong khi đó, ở Việt Nam ta còn có tình trạng yếu kém nhận thức về văn hoá xã hội, về đời sống giới tính. Những kiểu ăn chơi, sinh hoạt thiếu lành mạnh, những biến tướng không tốt của các loại hình sinh hoạt văn hoá như: karaoke, vũ trường, nhậu nhẹt là tình trạng khá phổ biến, gây nên nhiều hậu quả không tốt trong đời sống của thanh thiếu niên và xã hội. Ngoài ra các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển rất phức tạp
Trước tình hình đó, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trở nên vô cùng quan trọng và cần thiết. Nó trở thành một vấn đề cấp bách mà xã hội và các nhà giáo dục cần phải giải quyết. Đó là nhu cầu của các em và cũng chính là nhu cầu của xã hội hiện đại.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Thực trạng nhu cầu chăm sóc giáo dục SKSS của học sinh THPT tại trường THPT Trương Định - Hoàng Mai - Hà Nội” Nhằm mục đích nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản và mong muốn đáp ứng đúng nhu cầu của học sinh trong việc cung cấp kiến thức sức khỏe sinh sản
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
LỜI CẢM ƠN 2
MỤC LỤC 3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 6
1. Lý do chọn đề tài 7
2. Mục đích nghiên cứu : 8
3. Nhiệm vụ nghiên cứu: 8
5. Khách thể nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. 8
5.1 Khách thể nghiên cứu: 8
5.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu: 8
5.3 Mẫu nghiên cứu: 9
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 9
CHƯƠNG 1. 10
CƠ SỞ LÍ LUẬN 10
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC SỨC KHỎE CHO HỌC SINH THPT 10
1.1Tổng quan về vấn đề nghiên cứu: 10
1.1.1Một số nghiên cứu về sức khỏe sinh sản vị thành niên trên thế giới 10
1.1.2 Một số nghiên cứu về sức khỏe sinh sản vị thành niên ở Việt Nam 11
1.2 Khái niệm chính: 13
1.2.1 Khái niệm nhu cầu: 13
1.2.2 Khái niệm Giáo dục: 13
1.2.3 Khái niệm chung về sức khoẻ sinh sản. 14
1.2.5 Khái niệm học sinh THPT: 15
1.2.6 Khái niệm nhu cầu giáo duc SKSS cho hoc sinh THPT: 17
1.3Các khái niệm liên quan: 17
1.3.1 Khái niệm về giới: 17
1.3.2 Khái niệm giáo dục giới tính: 17
1.3.3 Khái niệm tình dục: 18
1.3.4 Khái niệm trẻ vị thành niên: 18
1.4 Ý nghĩa của công tác giáo dục SKSS cho học sinh THPT: 18
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHU CẦU CHĂM SÓC GIÁO DỤC SỨC KHỎE CỦA HỌC SINH THPT TẠI TRƯỜNG THPT TRƯƠNG ĐỊNH_HOÀNG MAI _HÀ NỘI 20
2.1 Khái quát chung về địa bàn điều tra: 20
2.1.1 Khái quát chung về trường THPT Trương Định: 20
2.2 Đánh giá hiểu biết về sức khỏe sinh sản của học sinh THPT Trương Định. 21
2.2.1 Những hiểu biết về tình yêu và tình dục: 21
2.2.2 Hiểu biết của học sinh THPT về các biện pháp tránh thai. 24
2.2.3 Hiểu biết của học sinh THPT về các bệnh lây qua đường tình dục 25
2.2Thực trạng nhu cầu giáo dục SKSS cho học sinh THPT tại trường THPT Trương Định _Hoàng Mai_Hà Nội. 28
2.2.1 Nhu cầu tìm hiểu các kiến thức về sức khỏe sinh sản và nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản trong nhà trường. 28
2.3.2 Nhu cầu về nội dung kiến thức sức khỏe sinh sản của học sinh 32
2.3.3 Nhu cầu về thời điểm giáo dục giới tính 34
2.3.4 Nhu cầu về hình thức giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT 36
2.3.5 Nhu cầu về đối tượng tiến hành hoạt động giáo dục cho học sinh 38
2.3.5.1 Những đối tượng mà học sinh đã trao đổi về giới tính – tình yêu –tình dục 38
2.3.5.2 Đối tượng mà học sinh muốn nhận được sự tư vấn về giới tính – tình yêu – tình dục. 42
CHƯƠNG III. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC GIÁO DỤC SỨC KHỎE SINH SẢN CHO HỌC SINH HIỆN NAY. 45
3.1 Những thuận lợi trong việc giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT 45
3.2 Những khó khăn trong việc giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT: 46
KẾT LUẬN 48
4. Một số khuyến nghị và giải pháp: 50
4.1 Khuyến nghị: 50
4.2 Giải pháp: 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
PHẦN PHỤ LỤC: 56
PHỤ LỤC 1 : 56
PHIẾU HỎI 56
PHỤ LỤC 2: BIÊN BẢN THẢO LUẬN NHÓM NỮ 62
PHỤ LỤC 3: BIÊN BẢN THẢO LUẬN NHÓM NAM 64
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU VỚI THẦY CÔ GIÁO 66
Bài nghiên cứu có 8 biểu đồ và 4 bảng biểu
69 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 12959 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng nhu cầu chăm sóc giáo dục sức khỏe sinh sản của học sinh THPT tại trường THPT Trương Định - Hoàng Mai - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t cách sử dụng các hình thức giảng dạy linh hoạt, cởi mở với học sinh thì thực sự đây là một môi trường lý tưởng để cung cấp kiến thức sức khỏe sinh sản cho các em.
Trích phỏng vấn nhóm nữ: “Em muốn học những kiến thức về sức khỏe sinh sản tại nhà trường bởi ở trường việc học tập trung hơn được trao đổi với bạn bè và thầy cô những kiến thức mà mình chưa biết hay còn thắc mắc”
Như vậy nhu cầu giáo dục sức khỏe sinh sản trong nhà trường là rất lớn tuy nhiên hiện nay các kiến thức về sức khỏe sinh sản tại các trường học hầu hết chưa được giảng dạy như một môn học mà chỉ lồng ghép vào các chương trình, kiến thức thông qua bài học môn sinh học hay sinh hoạt câu lạc bộ… chính vì vậy mà nhà trường chưa đáp ứng được nhu cầu học tập và tìm hiểu kiến thức của học sinh.
2.3.2 Nhu cầu về nội dung kiến thức sức khỏe sinh sản của học sinh
Sức khỏe sinh sản có nhiều nội dung như: Làm mẹ an toàn; Kế hoạch hoá gia đình; Giảm phá thai, phá thai an toàn; Sức khoẻ sinh sản Vị thành niên; Nhiễm khuẩn đường sinh sản; Bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS; Ung thư tử cung, ung thư vú; Giáo dục tình dục/ sức khoẻ tình dục; Vô sinh; Tuyên truyền giáo dục về chăm sóc Sức khoẻ sinh sản [ 9 ]
Với học sinh THPT các em đang trong độ tuổi vị thành niên nên những kiến thức cần trang bị cho các em bao gồm những kiến thức biết những thay đổi cơ thể và tâm sinh lý để đối mặt và đón nhận nó một cách tích cực ; Biết cách vệ sinh cơ quan sinh dục; Phân biệt giữ tình yêu và tình dục; hiểu biết về các bệnh lây truyền qua đường tình dục, cách sử dụng bao cao su đúng cách, biết các biện pháp phòng tránh thai… tuy nhiên những nội dung nào các em quan tâm nhất và nội dung nào là nội dung mà các em mong muốn được trang bị nhất. Điều này có vai trò quan trọng trong việc hiểu biết đâu là nội dung mà những nhà giáo dục, cha mẹ, xã hội cần đào sâu, phổ biến nhiều hơn và giải thích rõ hơn cho con em mình.
Bảng 6 : Nhu cầu học tập nội dung kiến thức sức khỏe sinh sản của học sinh Đơn vị %
STT
Nội dung kiến thức sinh sản vị thành niên
Số học sinh chọn
Tỷ lệ %
1
Kiến thức về tình yêu tình dục
15
30
2
Kiến thức về các biện pháp phòng tránh thai
20
40
3
Cách sử dụng bao cao su
14
28
4
Vệ sinh cơ quan sinh dục
5
10
5
Các bệnh lây qua đường tình dục
20
40
6
Tất cả
25
50
7
Khác
1
2
(Nguồn : kết quả điều tra năm 2011)
Nhìn vào bảng trên nhận thấy rằng các bạn rất quan tâm đến các vấn đề liên quan đến sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên (50%) đó là những kiến thức tổng hợp về mọi vấn đề về sức khỏe sinh sản. Nội dung được rất nhiều bạn quan tâm là các biện pháp phòng tránh thai; các bệnh lây qua đường tình dục; kiến thức về tình yêu tình dục; cách sử dụng bao cao su được rất nhiều bạn quan tâm chiếm (50%,40%,30%,28%), đây cũng là những nội dung chính mà trong việc giảng dạy cũng như tuyên truyền chúng ta hết sức lưu ý bởi đây là chủ đề mà học sinh rất quan tâm.Tuy nhiên hiện nay do rất nhiều yếu tố khác nhau mà nhu cầu này chưa được đáp ứng, các kiến thức hầu như được phổ biến một cách tổng hợp với thời gian ngắn nên những kiến thức mà các em quan tâm có thể chưa được đào sâu, những điều các em chưa hiểu chưa được đem ra thảo luận làm rõ, chính vì lẽ đó kiến thức của các em còn hạn chế. Có biết nhưng biết chưa rõ, đó cũng là một mối quan tâm mà nhà trường và gia đình cần tác động để nâng cao kiến thức cho các em.
Trích phỏng vấn thầy cô giáo trường THPT Trương Định: “các em học sinh hiện nay quan tâm nhiều đến vấn đề sức khỏe sinh sản nói chung, các vấn đề mà các em quan tâm luôn toàn diện chứ không phải chỉ ở mảng nào,chỉ khi có kiến thức đầy đủ các em mới sống khỏe mạnh và an toàn”( Cố vấn đoàn trường Trương Định cô Nguyến Thị Thu Hà)
Với những nhà giáo dục luôn nhấn mạnh đến việc giáo dục toàn diện. đó là định hướng đúng đắn nhằm trang bị nhiều kiến thức bổ ích cho học sinh. Tuy nhiên chú trọng những kiến thức, hay những mảng nội dung mà cac em quan tâm là cách đáp ứng đúng và đủ nhu cầu cho học sinh.
2.3.3 Nhu cầu về thời điểm giáo dục giới tính
Hiện nay giáo dục giới tính đã được đưa vào từ những khối lớp ở bậc tiểu học qua bộ môn tự nhiên xã hội. Tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu của học sinh thì khối lớp nào giáo dục giới tính là phù hợp với các em? Khi nghiên cứu vấn đề này đã cho những số liệu như sau:
Biểu đồ 7: Nhu cầu giáo dục giới tính ở các khối lớp
(Nguồn : kết quả điều tra năm 2011)
Nhìn vào biểu đồ trên nhận thấy các khối lớp mà các em mong muốn được giáo dục giới tính bắt đầu từ khối lớp 5 (2%), và tỷ lệ các bạn chọn cao nhất là khối lớp 9. Điều này được lý giải là lớp 5 các em đã có những thắc mắc về giới và khi đó cũng như cần được trang bị các kiến thức vệ sinh cơ thể bản thân bởi ở độ tuổi này các em đã bắt đầu biết tự mặc quần áo, tự tắm…
Khối lớp 9 được các bạn chọn nhiều nhất (20%) là bởi theo các bạn đây là thời điểm bắt đầu tuổi dậy thì cơ thể của các bạn có rất nhiều sự thay đổi do đó các bạn có nhiều thắc mắc và mong muốn được giáo dục giới tính nhất. Như vậy, bắt đầu giáo dục giới tính ở độ tuổi nhỏ cũng là nhu cầu của các bạn, trong đó chú trọng giai đoạn dậy thì.
Ngày nay, nhiều nhà khoa học đều thống nhất rằng, nên giáo dục giới tính cho con người càng sớm càng tốt. Giới tính xuất hiện từ rất sớm ở con người, bởi vậy để con người phát triển toàn diện và tốt đẹp, cũng cần giáo dục giới tính từ rất sớm. Tuy nhiên, đối với tuổi dậy thì, giáo dục giới tính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là lứa tuổi có nhiều biến động to lớn trong đời sống tâm lí cơ thể, lứa tuổi diễn ra quá trình chín muồi tính dục. Giáo dục giới tính trong thời kì này có tác dụng rất to lớn trong cuộc sống. Nó tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Giáo dục giới tính cho tuổi thiếu niên và tuổi thanh niên là rất quan trọng vì các em đã bước sang thời kì phát dục và ở thời kì này, gia đình và nhà trường giúp đỡ các em được nhiều nhất.
Trích thảo luận nhóm nam: “Em bắt đầu thắc mắc về giới tính nhiều khi em đến tuổi dậy thì, những lúc đó thấy cái gì cũng thay đổi và có lúc em có cảm giác sợ, hoang mang” như vậy lứa tuổi dậy thì là lứa tuổi mà các em có nhu cầu được trang bị kiến thức về giới tính và sức khỏe sinh sản nhiều nhất. Đây cũng là thời điểm mà gia đình và nhà trường cần có sự quan tâm để các em không bị bỏ rơi, bản thân có thể chia sẻ những thắc mắc để được giải đáp kịp thời.
Trích thảo luận nhóm nữ: “Em thấy giáo dục giới tính rất quan trọng lắm dậy càng sớm càng tốt và các em sẽ có những kiến thức từ cơ bản đến hiểu biết sâu rộng hơn khi trưởng thành”
Theo các nhà khoa học nếu được giáo dục giới tính từ sớm, trẻ sẽ không có những hành vi lệch lạc về giới tính, sinh hoạt tình dục muộn hơn và có ít nguy cơ bị xâm hại hơn những trẻ tự mò mẫm trong bể kiến thức về giới tính. Tuy nhiên cần chú trọng đến cách thức giáo dục cụ thể như với trẻ lứa tuổi mẫu giáo, chưa đủ nhận thức để hiểu được những kiến thức rắc rối, cung cấp kiến thức cần phải trực quan và dễ hiểu.Tốt nhất là nên liên hệ với những hình ảnh sinh động trong cuộc sống xung quanh bé. Mua truyện tranh có nội dung về giáo dục giới tính cũng là một giải pháp có hiệu quả nếu không có khả năng diễn đạt.
Với trẻ lớn hơn, đã có hiểu biết và nhận thức, có thể giải thích với trẻ một cách chính xác, khoa học. Như vậy nên giáo dục trẻ ở lứa tuổi nhỏ với cách tiếp cận kiến thức sinh động dễ hiểu, tập trung vào giai đoạn dậy thì để cung cấp đầu đủ kiến thức cho học sinh.
2.3.4 Nhu cầu về hình thức giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT
Hình thức giáo dục có vai trò quan trọng trong việc tiếp thu kiến thức và hứng thú trong việc trao đổi chia sẻ kiến thức về sức khỏe sinh sản ở lứa tuổi vị thành niên. Giáo dục sức khỏe sinh sản là một quá trình lâu dài để có được những thông tin chính xác, nó giúp hình thành thái độ, niềm tin và những giá trị về bản ngã, về các mối quan hệ tình cảm. Giáo dục giới tính giúp trẻ vị thành niên có một quan điểm tích cực về tình dục, đồng thời cung cấp các thông tin và kỹ năng để trẻ vị thành niên có được thái độ và hành vi đúng, hiểu biết và có trách nhiệm về những quyết định của mình. Các chương trình giáo dục giới tính cần sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Hiện nay có rất nhiều hình thức được sử dụng để giáo dục sức khỏe vị thành niên đó là giáo dục tại gia đình, nhà trường, địa phương, các đoàn thể tổ chức xã hội vậy đâu là hình thức được các bạn quan tâm và thấy thức sự hiệu quả.
Bảng 5: Loại hình giáo dục SKSS phù hợp với học sinh (đơn vị %)
STT
Hoạt động
Tỉ lệ (%)
Rất QT
Quan Trọng
Có thì tốt
Không
QT
Không nên có
1
Hoạt động tuyên truyền tổ chức ở địa phương
10
12
62
17
2
2
Hội thi, sân chơi về GDGT do Hội PN, Đoàn TN ở Phường tổ chức
12
35
31
21
1
3
Các chuyên mục: GDGT trên phương tiện thông tin đại chúng: imternet; báo, đài, tivi….
59
27
8
6
0
4
Các mục giải đáp thắc mắc về GT trên báo, Internet
23
65
9
3
0
5
Các
phòng tư vấn tâm lý
21
66
12
1
0
Nhìn vào bảng trên ta thấy học sinh nhận thấy hình thức các chuyên mục: GDGT trên phương tiện thông tin đại chúng: internet; báo, đài, tivi…. Là quan trọng nhất, Các mục giải đáp thắc mắc về GT trên báo, Internet (65%) các phòng tư vấn tâm lý (66%)và Hội thi, sân chơi về GDGT do Hội PN Đoàn TN ở Phường tổ chức(35%) … Như vậy các hình thức trên có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực và kiến thức cho học sinh và những hình thức trên là những hình thức phát huy hiệu quả nhất.
Trích phỏng vấn nhóm nữ “Em thích được đọc các kiến thức trên các trang báo như mực tím, hay tâm sự bạn trẻ…những kiến thức rât bổ ích, những thắc mắc mình có thể gửi thư để các bác sĩ trả lời”. Có thể nhận thấy các em học sinh trên địa bàn Hà Nội tiếp cận thông tin trên Internet khá dễ dàng và thuận tiện, tuy nhiên đây cũng là một thực tế để các nhà quản lý quan tâm trong việc đưa nội dung chính thống chuẩn xác trên các trang báo, trang mạng. Với hình thức hội thi sân khấu, phong trào cũng được các em học sinh hết sức quan tâm bởi đây là những hoạt động gần gũi các em nhất và bản thân các em trong hoạt động tìm tòi và sáng tạo sẽ tạo niềm hứng khởi cho các em. Tuy nhiên các hoạt động này chưa được thực hiện nhiều do còn ảnh hưởng bởi các hoạt động phong trào và kinh phí thực hiện.
Trích phỏng vấn đoàn trường Trương Định : “ Nhà trường cũng có nhiều hoạt động nhằm tuyên truyền sức khỏe sinh sản nhưng chỉ tập trung vào các hoạt động như ngày phòng chống HIV/AIDS lồng ghép để tuyên truyền về sức khỏe sinh sản thôi, còn tùy thuộc nhiều vấn đề để tổ chức lắm như là tài trợ hay kinh phí chẳng hạn”
Nhìn chung các hình thức cần được quan tâm và chú trọng và phù hợp với học sinh là việc xây dựng các trang mạng lành mạnh, có thông chính xác, cần tổ chức nhiều hoạt động về phong trào để thu hút học sinh tham gia, các phòng tư vấn tâm lý được xây dựng và thân thiện như trường học có nhân viên xã hội để tư vấn tâm lý và giải đáp các thắc mắc của các em học sinh.
2.3.5 Nhu cầu về đối tượng tiến hành hoạt động giáo dục cho học sinh
2.3.5.1 Những đối tượng mà học sinh đã trao đổi về giới tính – tình yêu –tình dục
Các kiến thức về sức khỏe sinh sản hiện nay hầu hết học sinh tìm hiểu qua các nguồn thông tin khác nhau cụ thể như: qua thầy cô, bạn bè, sách báo, qua anh em…tuy nhiên đâu là đối tượng mà học sinh đang hướng tới và nhu cầu của các em về nhóm đối tượng này như thế nào.
Bảng 7: Đối tượng mà vị thành niên đã trao đổi về giới tính – tình yêu –tình dục. (đơn vị %)
Đối tượng trao đổi
Số học sinh
(%)
Cha mẹ
10
20
Anh chị em
9
18
Thầy cô
5
10
Bạn bè
41
82
Tư vấn viên
9
18
Tự tìm hiểu qua sách báo...
29
58
Khác
10
20
(Nguồn : Kết quả điều tra năm 2011)
Nhìn vào bảng trên ta thấy các em học sinh chọn đối tượng để trao đổi các kiến thức về sức khỏe sinh sản cao nhất là bạn bè (82%) sau đó đến tự tìm hiểu qua sách báo (58%), đứng thứ 3 là gia đình (20%). Như vậy học sinh chọn bạn bè làm đối tượng để các bạn trao đổi các thắc mắc liên quan đến sức khỏe sinh sản bởi bạn bè có thể trao đổi một cách thẳng thắn và các bạn dễ dàng thu nhận được các thông tin hơn vì đây là lứa tuổi ham khám phá và ham tìm hiểu các kiến thức. Ở lứa tuổi này tình bạn đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ xã hội, trao đổi với bạn bè thường dễ dàng hơn với cha mẹ.Tuy nhiên thông tin và sự trao đổi qua bạn bè nhiều khi các thông tin không chuẩn xác, mang tính chủ quan thậm chí nhiều em còn có hiểu biết chưa đúng nên dễ tạo nên tâm lý hiểu mang máng, hiểu nhầm hay suy luận thiếu khoa học. Ví dụ như có rất nhiều bạn trẻ ngộ nhận là cho rằng quan hệ tình dục lần đầu không gây có thai, hay không thể có thai trong “những ngày ấy”… Nhưng đây cũng là một thuận lợi rất lớn cho việc tiến hành công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về SKSS thông qua hình thức giáo dục đồng đẳng. Một trong những đặc điểm tâm lý nổi bật của lứa tuổi này là các em có nhu cầu giao lưu bạn bè rất lớn, các em thường chia sẻ với bạn bè nhiều hơn cha mẹ, khi nói với bạn các em đánh giá được bản thân mình qua lăng kính của bạn bè. Vì vậy cũng nảy sinh ra nhiều vấn đề về sức khỏe sinh sản khác nhau cụ thể nhiều em thắc mắc sao cơ thể mình lại bé hơn bạn này, nếu không được giải đáp thắc mắc các em sẽ càng tự ti, mặc cảm…
Trích phỏng vấn nhóm nữ: “Em hay nói với bạn thân của em, chúng em hiểu nhau và em cũng không giấu bạn ấy điều gì cả kể cả những thắc mắc về giới tính” tuy nhiên khi được hỏi: bạn có làm em thỏa mãn với những thông tin em đang thắc mắc không? Thì đa phần các bạn nói “có lúc có, lúc không nhưng nói ra được với bạn em thấy vấn đề nhẹ nhàng hơn rất nhiều”
Rất nhiều bạn trong câu hỏi này được hỏi vì sao lại lựa chọn đối tượng trên thì đa phần các bạn nói rằng trao đổi với bạn bè dễ chia sẻ hơn, thoải mái hơn vì cùng lứa tuổi với nhau.
Số lượng các bạn chọn đó là sách báo, tạp chí, internet là 29 em (58%) đây là một kênh thông tin rất phong phú đa dạng và cũng rất dễ tìm kiếm. Tuy nhiên nếu các kênh này không chính thống và các thông tin không chuẩn xác thậm chí có nhiều thông tin trái chiều thì lại là mối đe dọa với học sinh. Gia đình là lựa chọn thứ 3 của học sinh.Hiện nay các bậc phụ huynh cho dù là học thức cao nhưng chưa chắc họ đã cho việc nói chuyện về giới tính là việc làm cần thiết mà bản thân họ cho rằng đây là việc làm “vẽ đường cho hươu chạy”. Ngoài ra vấn đề giới tính là một vấn đề tế nhị không phải phụ huynh nào cũng biết cách gợi chuyện và cởi mở chia sẻ một cách thông minh cho con cái mình. Đó là trở ngại chính vì vậy trẻ có nói ra thì bị cho là nói nhảm nhí, bậy bạ, … Ngoài ra khi trẻ đang lớn nhu cầu xác định giá trị bản thân rất cao các em có xu hướng muốn làm người lớn và muốn được cư xử như người lớn. Tuy nhiên với cha mẹ các em vẫn là những đứa trẻ,chính vì thế bản thân các em không muốn chia sẻ với cha mạ nếu cha mẹ không khéo léo gợi chuyện và hiểu tâm lý trẻ.
Bảng 8: Cản trở trong việc tiếp cận thông tin về sức khỏe sinh sản
(Nguồn : Kết quả điều tra năm 2011)
Nhìn vào bảng trên ta nhận thấy khó khăn trong việc trao đổi thông tin về sức khỏe sinh sản có rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Có 3 nguyên nhân chính được nêu ra ở đây đó là: khó tiếp cận thông tin, ngại tìm hiểu về vấn đề này, và những người thân không sẵn sàng chia sẻ. Trong khảo sát trên có 33 học sinh chiếm 66% số học sinh được khảo sát nhận thấy khó khăn trong việc trao đổi thông tin là những người xung quanh không sẵn sàng chia sẻ. Điều đó lý giải tại sao cha mẹ không phải là đối tượng mà các em hướng đến khi trao đổi về sức khỏe sinh sản, cha mẹ không sẵn sàng tạo thành một rào cản kiến cho các em khó tiếp cận và chia sẻ thông tin. Có 15% em cho rằng khó tiếp cận thông tin bởi bản thân các em khó khăn trong việc thường xuyên được chia sẻ trao đổi các vấn đề này. 13% em thấy ngại ngùng khi tiếp cận hay trao đổi về vấn đề này. Các em bị ảnh hưởng bởi quan niệm của người lớn đặc biệt là cha mẹ, đây là vấn đề khó nói tế nhị không dễ nói ra cho ai. Điều này là một thực tế đáng lo ngại khi các em không dám chia sẻ để được giải đáp những thắc mắc về cơ thể mình. Nhiều khi những kiến thức không chỉ đọc là hiểu mà nhiêu khi các kiến thức phải có sự trao đổi thậm chí mổ xể thì mới được làm rõ.
2.3.5.2 Đối tượng mà học sinh muốn nhận được sự tư vấn về giới tính – tình yêu – tình dục.
Với câu hỏi các bạn có nhu cầu được tư vấn về giới tính và sức khỏe sinh sản không? (Câu trả lời: có/ không) có đến 82% Các bạn có mong muốn được tư vấn về các vấn đề sức khỏe sinh sản. Như vậy các bạn có rất nhiều thắc mắc muốn trao đổi và nhận được sự tham vấn. Với những bạn không có nhu cầu giáo dục sức khỏe sinh sản bởi bản thân các bạn chưa nhận thức được vai trò của tư vấn hỗ trợ các kiến thức sức khỏe, bản thân các bạn e ngại về những vấn đề của mình khó nói hay bộc lộ cho người khác.
(Nguồn : kết quả điều tra năm 2011)
Biểu đồ 9 Nhu cầu được tư vấn về Giới tính và SKSS
Ngoài những kiến thức các em mong muốn khám phá tìm hiểu thì ở lứa tuổi vị thành niên có rất nhiều những khó khăn, khủng hoảng và những thắc mắc khó mà tháo gỡ được. Vậy đâu là đối tượng để các em muốn nhận được sự tư vấn về giới tính, tình yêu và tình dục.
Biểu đồ 10 Đối tượng mà học sinh muốn nhận được sự tư vấn về sức khỏe sinh sản đơn vị: %
(Nguồn : kết quả điều tra năm 2011)
Nhìn vào sơ đồ trên ta thấy tỷ lệ đối tượng mà học sinh muốn nhận được sự tư vấn về sức khỏe sinh sản chính là các nhà tư vấn (75%) sau đó đến thầy cô (17%) và thứ ba là bố mẹ (14%). Biểu đồ cho ta thấy các em mong muốn có một dịch vụ tư vấn thân thiện và chuyên nghiệp. Đây là câu hỏi cho các nhà làm dịch vụ sao cho xây dựng mạng lưới dịch vụ có thể đáp ứng được những yêu cầu của học sinh. Các em học sinh hiện nay có rất nhiều thắc mắc mà bản thân các em không thể lý giải được, hay khi các em gặp một trục trặc nào đó như chia tay bạn trai, bị xâm hại, có thai ngoài ý muốn… các em cần lắm những dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ tâm lý. Đây là lứa tuổi còn non nớp nên các em rất dễ bị tổn thương sâu sắc khi gặp những khó khăn trong cuộc sống nếu thời điểm đó không có sự hỗ trợ của gia đình và xã hội.
Trích phỏng vấn nhóm nữ: “Em muốn được nhận được sự tư vấn của các nhà tư vấn bởi họ am hiểu vấn đề của chúng em nhất, ngoài ra mình có thể giải quyết vấn đề nhanh và hiệu quả hơn, nói cho cha mẹ có khi còn bị mắng”
Rõ ràng bản thân các em có những lúng túng và thắc mắc nhưng chưa thực sự mở lòng được với cha mẹ bởi các em và cha mẹ chưa thực sự cởi mở về lĩnh vực sức khỏe giới tính. Chính ví vậy mà cần có những sự thay đổi trong cách thức tiếp cận với các em sao cho những người gần gũi với các em nhất là người sẽ là người bạn chia sẻ những buồn vui và giải đáp những thắc mắc của lứa tuổi mới lớn. Thầy cô là lựa chọn thứ hai sau tư vấn viên, sở dĩ lựa chọn đối tượng này vì các em cho rằng nói chuyện với thầy cô dễ dàng hơn cha mẹ bởi thầy cô có nhiều kiến thức hơn và thầy cô hiểu tâm lý học sinh hơn. Đây cũng là tín hiệu đáng mừng khi giáo viên có thể tạo nên lòng tin cho học sinh chỉ khi các em chia sẻ cởi mở sẵn sàng xem thầy cô như những người bạn thì lúc đó những thắc mắc sẽ được giải đáp và sẽ tạo ra môi trường thực sự thân thiện và lành mạnh với học sinh.
Như vậy cuộc khảo sát không mang tính phổ quát trên diện rộng nhưng đã một phần phản ánh thực trạng hiểu biết của học sinh THPT về sức khỏe sinh sản, đặc biệt khảo sát được nhu cầu của học sinh về việc giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản của học sinh THPT hiện nay. Có thể thấy hiểu biết của các em học sinh đáng được ghi nhận tuy nhiên những kiến thức đó có phần sơ sài, cần bổ sung và giáo dục nhiều hơn nữa. Với thực trạng như vậy rất khó để các em có thể tránh những được sai lầm hay những trở ngại liên quan đến sức khỏe sinh sản.
Nhu cầu giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT về hiểu biết các kiến thức là rất lớn, nhu cầu giáo dục tại trường hiện nay rất được các em quan tâm. Hiện nay các em mong muốn được giáo dục sức khỏe sinh sản ở rất nhiều kiến thức liên quan, tuy nhiên các em quan tâm đến các nội dung chính là các biện pháp tránh thai, các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Không những thế đối tượng mà các em mong muốn được tư vấn chia sẻ lại chính là những tư vấn viên chuyên nghiệp, cha mẹ và thầy cô… Đó là nhu cầu và mong muốn đã được thu thập được. Với những mong muốn như trên các em thực sự đang rất cần một sự chuyển biến mới trong giáo dục đó là sự quan tâm nhiều hơn, cởi mở nhiều hơn, và giáo dục nhiều hơn nữa về những nội dung mà cho đến bây giờ nhiều người vẫn cho là tế nhị và khó nói.
Vị thành niên THPT là những người đang chuẩn bị bước vào lứa tuổi thanh niên. Đây cũng là lứa tuổi có nhiều biến động về tâm sinh lý hình thành nên sự phát triển của các em. Để các em vững bước vào đời với đầy kiến thức và tâm lý vững vàng rất cần sự vào cuộc của gia đình, của nhà trường và toàn xã hội.
CHƯƠNG III. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC GIÁO DỤC SỨC KHỎE SINH SẢN CHO HỌC SINH HIỆN NAY.
3.1 Những thuận lợi trong việc giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT
Vấn đề GDGT được nhà nước ta quan tâm từ rất lâu, đặc biệt được thể hiện trong chỉ thị 176A của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Từ đó cho đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu, các đề tài giải quyết vấn đề giáo dục giới tính dưới sự chỉ đạo của nhà nước, của Bộ GD-ĐT, của Viện khoa học giáo dục. Đặc biệt là chương trình VIE/88/P09 và VIE/88/P10 được thực hiện từ năm 1988 đến 1992. Chương trình này đã được nghiên cứu rất quy mô, sâu rộng trên toàn quốc ở 18 tỉnh, thành, trên hàng trăm ngàn phụ huynh và học sinh, trên hàng ngàn giáo viên với sự tham gia của các nhà khoa học, các sở giáo dục và nhiều ngành có liên quan [4].
Vấn đề giáo dục giới tính ngày càng có nhu cầu cao do sự phát triển của xã hôi mang lại. Do đó vấn đề giáo dục giới tính ngày càng được quan tâm hơn, nhiều hình thức truyền thông nâng cao kiến thức sức khỏe sinh sản cho học sinh đã được thực hiện. Đây là một hoạt động lâu dài và ko thể thực hiện một sớm một chiều nên hiệu quả tuy chưa rõ rệt nhưng đã đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi nhận thức của chính bản thân các em những người trong cuộc và các bậc phụ huynh, người dân trong giáo dục giới tính.
Nhà trường hiện nay đã có nhiều hình thức để đưa giáo dục giới tính sức khỏe sinh sản tới học sinh và nhận được sự hưởng ứng rất mạnh mẽ của học sinh. Việc thành lập các câu lạc bộ, hoạt động ngoại khóa liên quan đến các vấn đề giới tính được quan tâm và thực hiện nhiều hơn.
Gia đình hiện nay do sự truyền thông về sức khỏe sinh sản nên nhận thức của các bậc phụ huynh có phần được nâng lên. Nhiều bậc phụ huynh đã ý thức được việc nên trò chuyện và thẳng thắn trao đổi với con về vấn đề sức khỏe, giới tính.
Tuy nhiên giáo dục sức khỏe sinh sản đang là một vấn đề mới và cần sự quan tâm của gia đình và sự tham gia của cộng đồng nhiều hơn nữa.
3.2 Những khó khăn trong việc giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT:
Vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông đã bắt đầu nhận được sự quan tâm của các nhà khoa học giáo dục.Tuy nhiên, còn một số tồn tại như: Vẫn còn có những băn khoăn e ngại của một số giáo viên, học sinh và phụ huynh khi tiếp cận với những bài thuộc về lĩnh vực nhạy cảm (tình dục, tình yêu, cấu trúc hệ cơ quan sinh dục, kinh nguyệt…), đặc biệt là việc dạy những gì, dạy như thế nào.
Việc thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các hoạt động giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong một số trường phổ thông chưa được thức hiện đồng bộ. Thậm chí, một số trường, một số nhà quản lí giáo dục còn bỏ qua hoặc không thực hiện đầy đủ các nội dung và thời lượng giảng dạy các vấn đề giới tính theo quy định chung (nhất là những tri thức có tính nhạy cảm) vì nhiều lí do như: dồn thời gian vào dạy những môn mà họ cho là trọng tâm, quan trọng, nằm trong nội dung thi tốt nghiệp, coi nhẹ những nội dung tri thức này, hoặc có quan niệm cho rằng những kiến thức này không cần thiết không nên dạy trong trường phổ thông.
Cơ sở vật chất đóng vai trò quan trọng cũng là một vấn đề đáng quan tâm cụ thể là: Chưa có sách giáo khoa chính thức về giáo dục giới tính, việc tích hợp các kiến thức giới tính trong các môn có liên quan như Sinh học, Giáo dục công dân… chưa được thực hiện một cách đầy đủ, toàn diện, chưa được thể hiện rõ ràng trong các sách giáo khoa. Vì vậy giáo viên không có đủ tài liệu giảng dạy cần thiết.
Mặt khác, đội ngũ giáo viên giảng dạy giáo dục giới tính lại chưa được đào tạo bài bản, phần lớn là các giáo viên bộ môn khác kiêm nhiệm, các nhà trường đào tạo giáo viên cũng không trang bị cho họ những kiến thức về giới và giới tính để họ có đủ năng lực, kiến thức giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
Về phía gia đình và cộng đồng: Sự “lệnh pha” quá lớn giữa hai thế hệ, hai hệ tư tưởng, hai quan niệm sống, hai nhu cầu xã hội của người lớn và trẻ vị thành niên đã đẩy các em vào tình trạng “đói khát” kiến thức, thông tin về giới và giới tính. Sự trái ngược giữa quan điểm giáo dục với “đất lề quê thói” cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Đó chính là nguyên dẫn đến những hành vi thiếu hiểu biết và phải đón nhận những hậu quả đau lòng...
Trong lĩnh vực truyền thông và tuyên truyền vẫn còn nhiều người, nhiều sách báo, tài liệu để cập đến những vấn đề này một cách lệch lạc, phiến diện, theo chiều hướng đi sâu vào những khía cạnh, kiến thức có tính hấp dẫn, kích thích trí tò mò của học sinh nhiều hơn là giáo dục ý thức và thái độ đúng đắn ở các em. Vì vậy, nếu không thận trọng, việc giáo dục những tri thức này lại có thể gây ra tác dụng phản diện nhiều hơn.
Đời sống tình dục là một phần tất yếu của đời sống con người và có thể bắt đầu giáo dục từ lứa tuổi vị thành niên. Nhưng do quan niệm không đúng, các bậc cha mẹ cũng như thầy cô giáo còn e dè và sợ rằng việc giáo dục cặn kỹ về tình dục an toàn chẳng khác nào “vạch đường cho hươu chạy” nên chưa giúp các em có định hướng đúng đắn về vấn đề này. Chính vì vậy, sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội cũng như giữa các chương trình giáo dục chính khóa và ngoại khóa; đặc biệt, cần có sự quan tâm nhiều hơn của gia đình đối với con em mình trong vấn đề giáo dục giới và giới tính nhất là từ cuối cấp học trung học cơ sở trở lên là rất cần thiết.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu thực trạng nhu cầu chăm sóc giáo dục sức khỏe sinh sản tại trường THPT Trương Định - Hoàng Mai- Hà Nội cho thấy một số khía cạnh về hiểu biết nhận thức và đặc biệt nghiên cứu về nhu cầu của học sinh về giáo dục sức khỏe sinh sản hiện nay.Trẻ vị thành niên là đối tượng có nhiều sự thay đổi quan trọng về sinh lý và tâm lý. Những sự biến đổi sinh lý kéo theo sự thay đổi về mặt tâm lý đã khiến trẻ gặp những khó khăn khi những kiến thức về sinh lý của cơ thể không được đáp ứng. Như vậy đáp ứng và cung cấp các kiến thức và thông tin là hết sức cần thiết và thiết thực.
Về hiểu biết của vị thành niên về sức khỏe sinh sản của học sinh trường THPT Trương Định
Nhận thức về tình yêu và tình dục:
Đa số các em đồng ý với việc không nên quan hệ tình dục ở lứa tuổi vị thành niên (80%) trong đó có 20% các bạn đồng ý với việc quan hệ tình dục trước hôn nhân. Tuy các em chưa hiểu biết rõ ràng và nhận thức sâu sắc được đâu là tình yêu thực sự hay chỉ là rung cảm giới tính. Do đó có cái nhìn về tình yêu thường rất đẹp do đó cần có sự trang bị kiến thức nhiều hơn nữa về lĩnh vự c này để các em nhìn nhận đúng đắn về tình yêu và tình dục ở lứa tuổi này.
Hiểu biết về các biện pháp tránh thai:
Hiểu biết của các em về BPTT tương đối tốt, bệnh giang mai, lậu và HIV/AIDS (90%; 90%; 92%) là những bệnh mà các em nắm bắt khá tốt và phổ biến hiện nay. Tuy vẫn còn một số em hiểu sai về biện pháp hút thai và nạo thai là biện pháp tránh thai. Vì vậy cần có sự giáo dục nhiều hơn nữa của gia đình và nhà trường về vấn đề này.
Hiểu biết về các căn bệnh lấy qua đường tình dục:
Những kiến thức về các căn bệnh lây qua đường tình dục được các em nắm bắt tương đối tốt, cụ thể là những bệnh nguy hiểm và hay được biết đến như lậu, giang mai. HIV/AIDS… được các em biết đến nhiều hơn, một số căn bệnh khác như hạ cam, mụn rộp sinh dục, hay viêm nhiễm ít được các em biết đến. Những kiến thức này rất quan trọng trong việc biết để nhận biết và phòng ngừa.
Tóm lại khi khảo sát ba nội dung của sức khỏe sinh sản trên cho thấy hiểu biết của học sinh về sức khỏe sinh sản nói chung là có, nhưng kiến thức không sâu, còn sơ sài thiếu tính hệ thống. Chính vì vậy rất cần sự quan tâm giáo dục hơn nữa của nhà trường, gia đình và xã hội.
Về nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh THPT:
Nhu cầu giáo dục sức khỏe sinh sản với học sinh THPT là rất lớn. Do chưa có nhiều kiến thức và bản thân các em lúng túng với những kiến thức hiện có về sức khỏe sinh sản nên các em rất mong muốn đươc giáo dục sức khỏe sinh sản.Với nhu cầu giáo dục tại nhà trường là rất lớn, do các em có mong muốn được tiếp cận với những kiến thức này một cách tổng hợp và có sự trao đổi với bạn bè và thầy cô.
Về thời điểm giáo dục các em mong muốn được giáo dục lớn nhất là ở độ lớp 9 đây là độ tuổi các em bắt đầu dậy thì, có rất nhiều sự thay đổi của cơ thể khiến các em băn khoăn về cơ thể và mong muốn được giải đáp một cách rõ ràng nhất. Tuy nhiên có nhiều ý kiến mong muốn được giáo dục từ lớp 5 đây là độ tuổi các em đã nhận thức được cơ thể mình, các em đã tự tắm và vệ sinh cho bản thân. Giáo dục ở độ tuổi này còn có tác dụng giúp các em tránh được những hành vi gây hại cho trẻ như xâm hại.
Nôi dung kiến thức mà các em quan tâm và mong muốn là nội dung tổng hợp các kiến thức về sức khỏe sinh sản vị thành niên bao gồm: sự thay đổi cơ thể; Biết cách vệ sinh cơ quan sinh dục; Phân biệt giữ tình yêu và tình dục; hiểu biết về các bệnh lây truyền qua đường tình dục, cách sử dụng bao cao su đúng cách, biết các biện pháp phòng tránh thai…tuy nhiên nội dung mà các em quan tâm nhiều hơn là các biện pháp tránh thai, bệnh lây qua đường tình dục, cách sử dụng bao cao su…đây cũng chính là những nội dung mà các nhà giáo dục cần chú trọng để có những kiến thức phù hợp với nhu cầu thực sự của các em.
Hình thức giáo dục mà các em quan tâm đó là các thông tin những giải đáp thắc mắc trên các trang báo, hình thức tuyên truyền bằng các hoạt động sân khấu hay hội thi…điều đó chứng tỏ đó là những hình thức mà các em cho rằng nó phù hợp và thực sự thu hút các em. Những nhà quản lý nên chú trọng những hình thức này để tổ chức để thu hút các em tham gia.
Đối tượng mà các em muốn trao đổi bao gồm bạn bè, thầy cô, bố mẹ, tự tìm hiểu qua sách báo…Qua nghiên cứu cho thấy các em thường trao đổi với bạn bè nhiều hơn với bố mẹ, ngoài ra các em có xu hướng tự tìm hiểu khá cao do không tìm được nguồn thông tin. Như vậy thực trạng các em trao đổi với các bạn là khá cao, tuy nhiên không phải nguồn thông tin nào của bạn bè cũng là đúng nên bản thân các em sẽ bị thiếu thông tin hoặc các thông tin sẽ sai lệch.
Đối tượng mà các em muốn được tư vấn là tư vấn viên ,thầy cô, bố mẹ… với mong muốn có thể được giải đáp các thắc mắc một cách chuyên nghiệp và thấu đáo. Như vậy cần mở rộng nhiều hình thức tư vấn bao gồm tư vấn trực tiếp, tư vấn qua điện thoại, tư vấn qua thư… sao cho có thể đáp ứng nhu cầu tìm hiểu các thông tin mà các em đang cần tìm hiểu.
Như vậy việc cung cấp các kiến thức về sức khỏe sinh sản đóng vai trò rất lớn đến việc đáp ứng nhu cầu cho học sinh hiện nay. Để đáp ứng được những nhu cầu trên cần có sự phối hợp đồng bộ của gia đình nhà trường và các tổ chức đoàn thể xã hội sao cho việc cung cấp kiến thức cho học sinh hiện nay.
4. Một số khuyến nghị và giải pháp:
4.1 Khuyến nghị:
Việc chăm sóc giáo dục sức khỏe sinh sản đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách và giá trị của mỗi thanh thiếu niên khi các em bước vào đời. Ngay từ bây giờ mọi cấp mọi ngành cần quan tâm đến giáo dục sức khỏe một cách đồng bộ và toàn diện nhằm nâng cao nhận thức và đáp ứng nhu cầu của học sinh hiện nay.
Đối với cha mẹ: Cung cấp kiến thức chính xác và cập nhật về SKSS/TD để có thể nói chuyện với được với con cái. Cha mẹ quan tâm hơn nữa đến con cái, hãy luôn cởi mở để có thể trò chuyện với con cái mình.
Đối với địa phương: Tại các xã phường nơi sinh sống chú trọng tăng cường tuyên truyền cho các bậc phụ huynh và nhà lãnh đạo cộng đồng để chuyển đổi quan niệm truyền thống tiêu cực. Ngoài ra vận động sự ủng hộ của các nhà lãnh đạo địa phương đối với việc xây dựng các góc dịch vụ thân thiện và sử dụng các dịch vụ SKSS/TD được cung cấp. Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi, của lớp học, của yêu cầu giáo dục đặc trưng thích hợp với đối tượng, phải phù hợp với phong tục tập quán của từng vùng, từng địa phương.
Đối với nhà trường: Cần có nhiều hoạt động giáo dục giới tính hơn nữa. Đối với bản thân học sinh: Tích cực tham gia học tập để trao dồi các kiến thức về sức khỏe sinh sản. Bên cạnh đó tích cực tham gia các hoạt động tập thể lành mạnh để có một cơ thể khỏe mạnh và phát triển toàn diện.
4.2 Giải pháp:
Đối với việc giáo dục sức khỏe cho thanh thiếu niên cần chú ý tập trung vào các kiến thức trọng tâm về sức khỏe sinh sản đó là: Cung cấp kiến thức và thông tin chính xác về khả năng sinh sản, chu kỳ kinh nguyệt, thời kỳ thụ thai cho thanh thiếu niên theo tùy độ tuổi; Đẩy mạnh tuyên truyền về cách sử dụng và lợi ích và tác dụng phụ của các biện pháp tránh thai. Đặc biệt chú trọng tuyên truyền giúp thanh thiếu niên phân biệt được các thông tin đúng thông tin sai lệch về HIV để tránh nguy cơ lây nhiễm cao tránh thái độ kỳ thị trong cộng đồng với người nhiễm HIV. Tăng cường cung cấp thông tin kiên thức cho thanh thiếu niên về các căn bệnh lây qua đường tình dục, triệu chứng cách phòng chống và điều trị. Cung cấp cho thanh thiếu niên các thông tin về dịch vụ tư vấn tránh thai nạo phá thai các bệnh lây qua đường tình dục. Nhằm đáp ứng nhu cầu về nội dung giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh.
Tiếp tục đa dạng hóa các chương trình truyền thông đại chúng. Nội dung chương trình phải được xây dựng hấp dẫn chú ý không phân biệt các đối tượng giới tính độ tuổi. Tăng cường tư vấn trực tiếp nhằm giúp thanh thiếu niên có dược những sự hiểu biết sâu về SKSS/TD. Để đẩy mạnh các dịch vụ tư vấn đội ngũ tư vấn viên (cán bộ y tế, nhân viên công tác xã hội…) được đào tạo có chuyên môn kỹ năng tư vấn. Tăng cường mở rộng các hoạt động giáo dục đồng đẳng và có chính sách khuyên khích thanh thiếu niên tham gia hoạt động này.
Tăng cường các hoạt động truyền thông để nâng cao nhận thức của cộng đồng về giáo dục sức khỏe sinh sản. Quan niệm “vẽ đường cho hươu chạy” là hoàn toàn sai lầm.
Các cuốn sách giáo dục giới tính cần được đưa đến học sinh và cha mẹ nhiều hơn. Sao cho những kiến thức cơ bản về sức khỏe sinh sản các em phải nắm được.
Khoảng cách giữa cha mẹ và con cái là một vấn đề quan trọng trong việc giáo dục sức khỏe sinh sản. Cha mẹ cần thường xuyên trò chuyện với con cái, cởi mở về vấn đề giới tính sao cho cha mẹ sẽ là những người bạn có thẻ sẻ chia và giải đáp mọi thắc mắc cho các em.
Nhà trường nên có nhiều hoạt động tuyên truyền sức khỏe sinh sản như hội thi các hoạt động sâu khấu, để nâng cao kiến thức sức khỏe sinh sản cho cho học sinh. Bản thân các thầy cô giáo thường xuyên nâng cao kiến thức về sức khỏe sinh sản, cập nhật kiến thức để có thể chia sẻ với học sinh và giáo dục sao cho có hiệu quả nhất. Việc giáo dục giới tính cho thanh niên học sinh là vấn đề quan trọng, cần thiết, tuy nhiên cũng là một lĩnh vực phức tạp và tế nhị. Vì vậy ngoài việc phải đảm bảo những nguyên tắc chung như: tính khoa học, tính giáo dục, tính thực tiễn… như các môn học khác, cần phải chú ý thêm những vấn đề sau đây: Giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách, hình thành thế giới quan khoa học. Giáo dục giới tính phải gắn liền với việc giáo dục và tính thành nếp sống sinh hoạt lành mạnh, lối sống văn hoá văn minh. Cần phải xác định rằng, đó là một trong những mục tiêu cơ bản của giáo dục giới tính; Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách toàn diện cả về sinh lí giới tính, tâm lí giới tính, thẩm mĩ giới tính, xã hội giới tính Không nên chỉ tập trung vào những vấn đề sinh lí tính dục mà coi nhẹ các vấn đề tâm lí xã hội giới tính; Phải kết hợp việc giảng dạy tri thức khoa học với việc hình thành thái độ đúng đắn. Khi giảng dạy những “vấn đề nhạy cảm”, không nên chi tập trung mô tả các sự kiện, hiện tượng một cách “trần trụi”, “sống sượng”, mà cần chú ý kết hợp với việc tính thành ý thức đạo đức phê phán những biểu hiện sai trái.
Tóm lại việc đáp ứng nhu cầu của học sinh trong việc được giáo dục sức khỏe sinh sản là một việc làm rất quan trọng. Chăm sóc sức khỏe sinh sản ảnh là việc làm cần thiết ảnh hưởng đến tương lai giống nòi của đất nước. Vì vậy mỗi cá nhân phải nâng cao vai trò trách nhiệm cả mình vào nhiệm vụ chung đó là ngày càng nâng cao nhận thức và hiểu biết của học sinh về sức khỏe sinh sản.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
[ 1] Bùi Ngọc Oánh (1989), Về chương trình giáo dục đời sống gia đình. Kỷ yếu Hội nghị khoa học của chương trình VIE/88/P09, Tp. HCM trang 23
[ 2 ] Bùi Ngọc Oánh (1989), Một số vấn đề về giáo dục giới tính, tình bạn, tình yêu trong học sinh. Kỷ yếu Hội nghị khoa học của chương trình VIE/88/P09, Tp. HCM. ) trang 32
[ 3 ] Bộ Y tế, Vụ Bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em và Kế hoạch hóa gia đình (1998),Chương trình sức khỏe sinh sản, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.
[ 4 ] Trương đại học y Thái Bình: “ báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu sức khỏe sinh sản VTN ở 5 tỉnh Việt Nam” Thái Bình 1999, trang 16.
[ 5 ] Phan Thục Anh , Danienl Goodkind : Kiến thức thái đọ hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản liên quan đến HIV/AIDS trong thanh thiên Việt Nam “kết quả điều tra và phương pháp luận, SKSS thanh thiếu niên” Báo cáo hội nghị hội thảo Hà Nội, tháng 12/1997 trang 1-8
[ 6 ] Phạm Thị Minh Đức “chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên sức khỏe và phát triển, do tổ chức WHO và ISO tổ chức tại Việt Nam. Trang 7-34
[ 7 ] Theo:
[ 8 ]
[ 9 ]
[ 10 ] Theo
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Ngọc Oánh (1989), Một số vấn đề về giáo dục giới tính, tình bạn, tình yêu trong học sinh. Kỷ yếu Hội nghị khoa học của chương trình VIE/88/P09, Tp. HCM. )
Bùi Ngọc Oánh (1991), Giáo dục giới tính và đời sống gia đình ở TP. HCM. Sở Giáo dục và đào tạo Tp.Hồ Chí Minh. Đề tài NCKH.
Đỗ Thị Hồng Nga “Bảo vệ quyền sức khỏe sinh sản/tình dục của phụ nữ và vị thành niên - Vai trò của truyền thông”,
(http:// www.baomoi.com/info/Bao-ve-quen- suc-khoe-sinh-san-tinh- duc-cua-phu-nu-va-vi-thanh-nien-vai-tro-cua-truyen- thong/139/4767092/epi)
Hà Thị Thư : “ giáo trình tâm lý học phát triển” Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội, 2007
Nguyễn Quỳnh Trang, Debra Efroymson, Nguyễn Khánh Linh. Do Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Tổ chức PATH Canada xuất bản. NXB Thanh niên 2001.Sách “Trò chuyện về tình yêu, giới tính, sức khoẻ”.
Phan Thục Anh, Danienl Goodkind : Kiến thức thái độ hành vi chăm sóc sức khỏe sính sản liên quan đến HIV/AIDS trong thanh thiên Việt Nam “ kết quả điều tra và phương pháp luận, SKSS thanh thiếu niên”
Trương Thị Mỹ Hương, “Giáo dục sức khỏe vị thành niên thời hội nhập” ( truong-thi-my-huong/146)
Sức khỏe sinh sản thanh thiếu niên Việt Nam _ Điều tra ban đầu chương trình RHTYA (HN 2006 PGS .ts Nguyễn Thị Thiền – THs Lưu Bích Ngọc.
Trang Web: www.girlspace.com.vn
Trang Web: www.tamamsubantre.org
Trang Web: www.gioitinhtuoiteen.org
Trang Web: www.ykhoa.net
PHẦN PHỤ LỤC:
PHỤ LỤC 1 :
PHIẾU HỎI
Chăm sóc sức khỏe sinh sản đóng vai trò quan trọng trong việc trang bị những kiến thức cần thiết cho các em học sinh hiện nay. Với mong muốn tìm hiểu nhu cầu của hoc sinh trong việc giáo dục và chăm sóc sức khỏe sinh sản. Tôi tiến hành một cuộc nghiên cứu nhỏ này, rất mong các bạn hãy cung cấp các thông tin sau. Với sự hợp tác của các bạn sẽ giúp ích vào quá trình nghiên cứu và góp phần đáp ứng nhu cầu giáo dục sức khỏe sinh sản của các bạn hiện nay. Xin chân thành cảm ơn!
Họ và tên: (có thể không ghi)
Tuổi:
Giới tính: Nam Nữ
Hãy khoanh tròn vào các phương án bạn chọn
Câu 1: Khi lớn lên bạn có những thắc mắc về cơ thể mình không?
Có
Không
Câu 2: Bạn đã có người yêu chưa?
Có rồi
Chưa có
Câu 3: Theo bạn những biện pháp nào sau đây là biện pháp tránh thai:
Hút thai
Nạo thai
Thuốc tránh thai
Bao cao su
Xuất tinh ngoài âm đạo
Tất cả
Khác
Câu 4: Một số ý kiến cho rằng vẫn có thể quan hệ tình dục trước hôn nhân ý kiến của bạn như thế nào?
Đồng ý
Không đồng ý
Câu 5: Bạn có biết bệnh nào sau đây là bệnh lây qua đường tình dục không?
Lậu
Giang mai
HIV/AIDS
Mụn rộp sinh dục
Hạ cam
Sùi mào gà
Viêm gan B
Tất cả
B. Nhu cầu giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Câu 6: Bạn có quan tâm đến các kiên thức chăm sóc sức khỏe sinh sản không?
Rât quan tâm
Quan tâm
Bình thường
Không quan tâm
Vì sao: ………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………
Câu 7: Để thỏa mãn những thắc mắc về cơ thể mình, và sự thay đổi tâm sinh lý bạn tìm đến kênh thông tin nào?
Bố mẹ, họ hàng
Thầy cô
Bạn bè
Sách báo
Internet, ti vi, đài…
Nhân viên y tế
Tờ rơi quảng cáo
Tư vấn viên
Khác:
Vì sao:
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Câu 8: Những thắc mắc của em khi hỏi những kênh thông tin đó gặp khó khăn gì không?
Có
Không
Câu 9: Theo bạn những khó khăn nào cản trở em tìm hiểu các thông tin sức khỏe sinh sản.
Khó tiếp cận thông tin
Ngại tìm hiểu về vấn đề này
Những người xung quanh không thẳng thắn chia sẻ các thông tin về sức khỏe sinh sản.
Khác: …………………………………………………………………………
Câu 10: Đối tượng mà bạn muốn nhận được sự tư vấn về sức khỏe sinh sản là ai?
Cha mẹ
Thầy cô
Tư vấn viên
Khác: …………………………………………………………………..
Câu 11: Các bạn có nhu cầu được tư vấn về giới tính và sức khỏe sinh sản không?
Có
Không
Câu 12: Theo bạn nên đưa giáo dục giới tính bắt đầu từ khối lớp nào?
Lớp 1
Lớp 2
Lớp 3
Lớp 4
Lớp 5
Lớp6
Lớp 7
Lớp 8
Lớp 9
Lớp 10
Lớp 11
Lớp 12
Câu 13: Bạn hãy đánh dấu vào các ý kiến của mình về các hoạt động giáo dục giới tính sau đây theo các mứa độ quan trọng
STT
Hoạt động
Mứa độ
Rất quan trọng
Quan trọng
Không quan trọng
Có thì tốt
Không nên có
1
Hoạt động tuyên truyền tổ chức ở địa phương
2
Hội thi, sân chơi về GDGT do Hội PN, Đoàn TN ở Phường tổ chức
3
Các chuyên mục
GDGT trên phương tiện thông tin đại chúng: imternet; báo, đài, tivi….
4
Các mục giải đáp thắc mắc về GT trên báo, Internet
5
Các
phòng tư vấn tâm lý
Câu 14: Bạn hãy đánh dấu vào nhu cầu cung cấp kiến thức về sức khỏe sinh sản tại trường của bạn
STT
Nhu cầu học tại trường
Lựa chọn
1
Rất mong muốn
2
Muốn
3
Có/ không cũng được
4
Không muốn
5
Rất không muốn
Câu 15: Bạn muốn tìm hiểu kiến thức về sức khỏe sinh sản vị thành niên nào sau đây:
Kiến thức về tình yêu tình dục
Kiến thức về các biện pháp phòng tránh thai
Cách sử dụng bao cao su
Vệ sinh cơ quan sinh dục
Các bệnh lây qua đường tình dục
Tất cả
Khác
Xin cảm ơn sự hợp tác của các bạn!
PHỤ LỤC 2: BIÊN BẢN THẢO LUẬN NHÓM NỮ
DANH SÁCH CÁC BẠN THAM GIA THẢO LUẬN NHÓM NỮ:
Nguyễn Phương N
Đỗ thu H
Lưu Hạnh H
Nguyễn Phương H
Nguyễn Minh H
Trịnh Thục Khánh L
Nguyễn Thu N
Nguyễn Thị L
Nguyễn Thị T
Phạm Thúy Q
Quan điểm về QHTD ở tuổi vị thành niên
SV: Hiện nay có nhiều bạn đồng ý với việc QHTD ở tuổi vị thành niên, các em nghĩ gì với ý kiến trên?
Phương Nga: Theo em là việc quan hệ tình dục trước hôn nhân sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và học tập vì quan hệ tình dục rất dễ có thai
Hạnh Hương: mình là con gái nên biết giữ gìn, chẳng có gì chắc chắn mình sẽ lấy người ta cả, sợ nhất là có thai ngoài ý muốn rất khó khi còn đi học.
SV: Nhưng hiện nay có rất nhiều bạn có quan hệ tình dục trong độ tuổi vị thành niên, các bạn nhìn nhận về vấn đề này như thế nào?
Tuyến: Bản thân em không đồng tình với việc quan hệ tình dục trong độ tuổi này. Tuy nhiên nếu các bạn đã lỡ có quan hệ thì nên biết cách bảo vệ mình.
Các biện pháp phòng tránh thai
SV: Hiện nay có rất nhiều biện pháp tránh thai, các em biết những kiến thức tránh thai này ở đâu?
Khánh Linh : Em biết đến thuốc tránh thai lâu rồi khi mẹ em và bạn mẹ nói về nó, em nghe được. Về sau lớn lên thì nghe bạn bè và đọc báo em biết.
Hà: Em chỉ biết khi em xem chương trình về sức khỏe sinh sản trên tivi.
SV: Các em có bao giờ chủ động hỏi ai về các biện pháp này không?
Hạnh Hương: Em không hỏi vì hỏi ai đó sẽ nghĩ mình có vấn đề gì mới hỏi về cái này.
Quan tâm đến giáo dục sức khỏe sinh sản
SV: Các em có quan tâm đến việc giáo dục sức khỏe sinh sản không?
Hà: Em rất quan tâm đến những kiến thức về sức khỏe sinh sản, từ khi mà em bắt đầu dậy thì mặt em có rất nhiều mụn, em thấy lo lắng và tự ti lắm.
Thu Ngân : những kiến thức về sức khỏe sinh sản bổ ích lắm ạ, em thấy mình còn thiếu nhiều kiến thức lắm.
Phương Hiền : Em lần đầu tiên có kinh nguyệt khi học lớp 6 em lo lắm, lúc đó em còn tưởng mình bị bệnh hiểm nghèo cơ( cười)
SV: Các em có muốn được trang bị những kiến thức sức khỏe sinh sản tại nhà trường hay không?
Hương : Em muốn học những kiến thức về sức khỏe sinh sản tại nhà trường bởi ở trường việc học tập trung hơn được trao đổi với bạn bè và thầy cô những kiến thức mà mình chưa biết hay còn thắc mắc.
Hà: Em thấy việc học trong nhà trường thì học sinh sẽ có những kiến thức về sức khỏe sinh sản, như thế kiến thức sẽ đồng đều không phải bạn này biết ít bạn kia biết nhiều như bây giờ
PHỤ LỤC 3: BIÊN BẢN THẢO LUẬN NHÓM NAM
DANH SÁCH CÁC BẠN THAM GIA THẢO LUẬN NHÓM NAM:
Phạm Hải N
Nguyễn Tú A
Trịnh Hoàng H
Nguyễn Văn N
Nguyễn Văn Q
Hoàng Văn S
Lê Đức A
Phạm Đình C
Trần Văn H
Đỗ Văn K
Nhu cầu thông tin về BPTT ở thanh thiếu niên.
SV : Ở độ tuổi các em khi chưa lập gia đình các em có cần biết về các BPTT hay ko?
Hải N: Theo em dù chưa có gia đình nhưng cũng cần biết về BPTT để chủ động hơn trong những lúc cần thiết.
SV: các em nghĩ sao nếu chúng ta biết và biết cách sử dụng chúng?
Đình C: Em nghĩ nó chuẩn bị cho giai đoạn sau và còn có thể tuyên truyền cho mọi người. Em nghĩ ở tuổi vị thành niên việc QHTD đến bất chợt nên cần được biết.
Nên giáo dục giới tính khi nào?
SV: theo các em chúng ta nên giáo dục giới tính khi nào là phù hợp?
K: Em thấy giáo dục giới tính rất quan trọng lắm dậy càng sớm càng tốt và các em sẽ có những kiến thức từ cơ bản đến hiểu biết sâu rộng hơn khi trưởng thành.
Hoàng H: Em bắt đầu thắc mắc về giới tính nhiều khi em đến tuổi dậy thì, những lúc đó thấy cái gì cũng thay đổi và có lúc em có cảm giác sợ, hoang mang. Em nghĩ dậy thì là lứa tuổi cần giáo dục sức khỏe sinh sản nhất.
Nhu cầu tư vấn sức khỏe sinh sản
SV: Các em muốn ai là người sẽ tư vấn cho các em những kiến thức hay những lo lắng thắc mắc liên quan đến sức khỏe sinh sản
H: em nghĩ là thầy cô giáo
SV: Điều gì khiến em lựa chọn thầy cô?
H : nói chuyện với thầy cô dễ dàng hơn cha mẹ bởi thầy cô có nhiều kiến thức hơn và thầy cô hiểu tâm lý học sinh hơn
N: Em muốn được nhận được sự tư vấn của các nhà tư vấn bởi họ am hiểu vấn đề của chúng em nhất, ngoài ra mình có thể giải quyết vấn đề nhanh và hiệu quả hơn, nói cho cha mẹ có khi còn bị mắng
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU VỚI THẦY CÔ GIÁO
Người được phỏng vấn: Cô Nguyễn Thị Thu Hà
Giáo viên, cố vấn đoàn trường THPT Trương Định- Hoàng Mai- Hà Nội.
Địa điểm: Đoàn trường THPT Trương Định
Thời gian phỏng vấn: 24/5/2011
SV : Cô có thể cho em biết hiện nay nhu cầu học tập và nâng cao kiến thức về sức khỏe sinh sản tại trường THPT Trương Định như thế nào?
Cô cho biết là: Bản thân học sinh thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản là rất lớn và các em cũng có mong muốn được học tập và giáo dục sức khỏe sinh sản là rất cao.
Hiện nay nhà trường cũng có nhiều hoạt động nhằm tuyên truyền sức khỏe sinh sản nhưng chỉ tập trung vào các hoạt động như ngày phòng chống HIV/AIDS lồng ghép để tuyên truyền về sức khỏe sinh sản thôi, còn tùy thuộc nhiều vấn đề để tổ chức lắm như là tài trợ hay kinh phí chẳng hạn.
SV: Theo cô những nôi dung giáo dục sức khỏe sinh sản nào nhà trường cần chú trọng và tuyên truyền giáo dục nhiều hơn.
Cô cho biết: các em học sinh hiện nay quan tâm nhiều đến vấn đề sức khỏe sinh sản nói chung, các vấn đề mà các em quan tâm luôn toàn diện chứ không phải chỉ ở mảng nào, chỉ khi có kiến thức đầy đủ các em mới sống khỏe mạnh và an toàn. Điều này có nghĩa nhà trường cũng nên giáo dục và nâng cao những kiến thức về sức khỏe sinh sản một cách toàn diện.
SV: Với những hoạt động đoàn mà nhà trường đã thực hiện thì những nội dung sức khỏe sinh sản được lồng ghép vào có đáp ứng nhu cầu của học sinh hay không?
Cô Thu Hà: Với những hoạt động mà nhà trường có triển khai trong thời gian qua như tuyên truyên phòng chống HIV trong học đường. Những hoạt động trên chưa thực sự đáp ứng các nhu cầu tìm hiểu kiến thức cho học sinh. Tuy nhiên việc thực hiện chuyên sâu giáo dục giới tính trong nhà trường còn gặp nhiều trở ngại đặc biệt là vấn đề kinh phí và nội dung đào tạo.
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
Họ và tên người hướng dẫn khoa học:………………………………………
Chức vụ: …………………………….
Nhận xét khóa luận tốt nghiệp của:
Sinh viên:……………………………………………………………………
Lớp:……………………..
Khóa:…………………...
Đề tài: “Thực trạng nhu cầu giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản của học sinh THPT tại trường THPT Trương Định- Hoàng Mai- Hà Nội”
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Hà Nội, ngày…..tháng…..năm 2011
Người nhận xét
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI PHẢN BIỆN
Họ và tên người phản biện khóa luận:………………………………………
Chức vụ: …………………………….
Nhận xét khóa luận tốt nghiệp của:
Sinh viên:……………………………………………………………………
Lớp:……………………..Khóa:…………………...
Đề tài: ““Thực trạng nhu cầu giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản của học sinh THPT tại trường THPT Trương Định- Hoàng Mai- Hà Nội”
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Hà Nội, ngày…..tháng…..năm 2011
Người nhận xét
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng nhu cầu chăm sóc giáo dục SKSS của học sinh THPT tại trường THPT Trương Định - Hoàng Mai - Hà Nội.doc