Bốn là, nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát việc sử dụng vốn vay, vốn được Chính phủ bảo lãnh. Đây là vấn đề cốt yếu đảm bảo cho khả năng trả nợ và tính bền vững của nợ công. Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng các khoản vốn vay, mà là các chủ dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh nghiệp. ; trong mọi trường hợp, ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro trong toàn bộ quá trình vay nợ. Để bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân thủ 2 nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả nợ; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên quá trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng.
22 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6464 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2007 - 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỰC TRẠNG NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 - 2012
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Nợ công là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính của mỗi quốc gia. Từ những nước nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ phát triển cao như Mĩ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng của chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Nợ công cần phải được sử dụng hợp lý, hiệu quả và quản lí tốt, nếu không thì khủng hoảng nợ công có thể xảy ra với bất cứ quốc gia nào tại bất kì thời điểm nào và để lại những hậu quả nghiêm trọng. Trong bối cảnh nước ta đang tích cực thực hiện kế hoạch tái cấu trúc nền kinh tế quốc dân, vấn đề nợ công cần được đặt ra và giải quyết một cách sáng suốt và thỏa đáng, vì tương lai phát triển của nền kinh tế và của đất nước. Theo thống kê của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia thì tổng nợ công của Việt Nam năm 2007 là 33,8% GDP đến cuối năm 2011 thì tỷ lệ này nâng lên 54.6% GDP. Tốc độ tăng nhanh như vậy là một điều đáng báo động với một nền kinh tế nhỏ, đang phát triển, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu nông sản và sản phẩm ngành công nghiệp nhẹ như nước ta. Từ thực trạng đó đặt ra nhiều câu hỏi: Tình hình nợ công và quản lí nợ công ở Việt Nam trong 5 năm trở lại đây như thế nào? Những điểm đạt được và những mặt hạn chế cần khắc phục ra sao để từ đó đưa ra các giải pháp và đề xuất nhằm quản lí có hiệu quả nợ công ở Việt Nam? Đó cũng là những nội dung chính sẽ được đề cập trong bài thuyết trình của nhóm 4:“Tình hình nợ công tại Việt Nam từ 2007 đến 2012.”
Do sự hiểu biết còn hạn chế về nhiều mặt cũng như chưa có nhiều kinh nghiệm làm bài nên bài làm của nhóm có thể có những sai sót. Mong cô nhận xét, hướng dẫn để nhóm có thể rút kinh nghiệm và đạt kết quả tốt hơn ở những bài làm sau.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khái niệm
Trong quá khứ, khủng hoảng nợ công cũng đã được biết đến vào đầu thập kỷ 80 của Thế kỷ XX. Năm 1982, Mê-hi-cô là quốc gia đầu tiên tuyên bố không trả được nợ vay IMF. Đến tháng 10/1983, 27 quốc gia với tổng số nợ lên tới 240 tỷ USD đã tuyên bố hoặc chuẩn bị tuyên bố hoãn trả nợ. Tuy nhiên, đến nay xung quanh khái niệm và nội hàm của nợ công vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất.
Theo quan điểm của ngân hàng thế giới (WB) nợ công là toàn bộ những khoản nợ của chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh.Trong đó:
- Nợ của chính phủ là toàn bộ các khoản nợ trong nước và nước ngoài của chính phủ và các đại lí của chính phủ;các tỉnh thành phố hoặc các tổ chức chính trị trực thuộc chính phủ và các đại lí của các tổ chức này, các doanh nghiệp nhà nước.
- Nợ của Chính phủ bảo lãnh là những khoản nợ trong nước và nước ngoài của khu vực tư nhân do chính phủ bảo lãnh.
Theo quan điểm của quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) nợ công bao gồm nợ của khu vực tài chính công và nợ khu vực phi tài chính công. Trong đó:
- Khu vực tài chính công gồm: Tổ chức tiền tệ (nhân hàng trung ương, các tổ chức tín dụng nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín dụng không cho vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển).
- Các tổ chức phi tài chính công như: Chính phủ, tỉnh thành phố, các tổ chức chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính nhà nước.
Theo Luật Quản lý nợ công ban hành năm 2009 của Việt Nam quy định nợ công bao gồm:
- Nợ chính phủ: Là các khoản nợ được kí kết, phát hành nhân danh nhà nước hoặc chính phủ, các khoản nợ do Bộ Tài Chính kí kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành; nhưng không bao gồm các khoản nợ do NHNNVN phát hành nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nợ được chính phủ bảo lãnh: Là khoản nợ của DN, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, Chính phủ đứng ra bảo lãnh.
- Nợ của chính quyền địa phương: Là các khoản nợ do UBND cấp tỉnh, TP thuộc trung ương kí kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành
Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ (trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị, hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công.
Phân loại nợ công
Theo Luật Quản Lý nợ công 2009 ở Việt Nam quy định phân ra:
- Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
- Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
* Ngoài ra, còn phân loại dựa vào thời gian trả nợ như :
- Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống)
- Nợ trung hạn (từ 1 năm đến 10 năm)
- Nợ dài hạn (trên 10 năm)
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công
Cân bằng ngân sách cơ bản: Thâm hụt nhỏ thì những khoản vay sẽ giảm đi và ngược lại.
- Lãi suất thực tế: Khi lãi suất tăng lên: các khoản vay của chính phủ sẽ trở nên đắt hơn và khó khăn hơn. Nếu không có kế hoạch vay nợ rõ ràng thì sẽ không đảm bảo vay nợ đúng thời hạn để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư của Chính phủ, làm ảnh hưởng đến sự bền vững của chính sách tài khóa.
- Tốc độ tăng trưởng thực tế: Nền kinh tế càng phát triển thì khoản vay của Chính phủ sẽ trở nên dễ dàng hơn khi nền kinh tế tăng trưởng chậm. Ngoài ra khi kinh tế tăng trưởng chậm, người dân cũng như Doanh Nghiệp thắt chặt chi tiêu hơn, việc tích lũy ít đi và nguồn vay của Chính Phủ sẽ giảm đáng kể. Còn có thể đi kèm với lạm phát và thất nghiệp,lúc này những khoản trả nợ vay đến hạn còn phải cấp bù lạm phát.
- Lãi suất ngoại tệ: Lãi suất ngoại tệ thực tế tăng lên thì khoản vay của CP sẽ trở nên đắt hơn và ngược lại.
- Tỷ giá thực tế: Ảnh hưởng đến những khoản vay và trả đối với nợ công khi có những khoản vay nợ nước ngoài. Nếu tỷ giá tăng thì khoản trả nợ vay đến hạn sẽ tăng và ngược lại. Còn khi vay nợ thì tỷ giá tăng đối với khoản vay nợ sẽ có lợi hơn khi tỷ giá giảm.
1.4 Các hình thức vay nợ:
- Phát hành trái phiếu chính phủ: Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra còn có rủi ro về tỉ giá hối đoái.
- Vay trực tiếp: Chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế siêu quốc gia (Ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân Hàng Thế Giới (WB),…). Hình thức này thường được Chính phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ không cao.
1.5. Các công cụ vay nợ
Vay nợ là biện pháp để bù đắp thiếu hụt ngân sách ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Hiện nay, về cơ bản thì các nước đều có 2 hình thức vay là vay trong nước và vay nước ngoài với các công cụ vay khác nhau. Cụ thể:
Vay nợ trong nước:
Chủ yếu là tín phiếu kho bạc
* Khái niệm: Tín phiếu là chứng chỉ vay nợ loại trái phiếu chính phủ có kỳ hạn dưới 1 năm (thường là 3,6,9 tháng), dùng để huy động vốn bù đắp thiếu hụt tạm thời ngân sách, được phát hành theo hình thức đấu thầu. Người sở hữu tín phiếu được hưởng lãi khi tín phiếu đáo hạn hoặc có lãi khi bán tín phiếu cao hơn giá mua.
* Đặc điểm của tín phiếu:
- Do kho bạc nhà nước phát hành- Mục đích phát hành:
• Nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN.
• Là công cụ quan trọng để NHTW điều hành chính sách tiền tệ.
- Được bán thấp hơn vs mệnh giá. Thanh toán theo mệnh giá đến cuối kỳ chứ không trả lãi định kỳ.
- Có mệnh giá tối thiểu là 1.000.000 đồng (một triệu đồng ); các mệnh giá cụ thể cao hơn do Liên Bộ Ngân hàng Nhà nước - Tài chính quy định và công bố trong thông báo phát hành.
- Mức độ rủi ro vỡ nợ: thấp nhất trong tất các công cụ trên TTTT. Tín phiếu kho bạc thường được coi là không có rủi ro tín dụng (rủi ro phá sản).- Tính thanh khoản(tính lỏng): là công cụ có tính thanh khoản cao nhất.- Thời hạn của tín phiếu kho bạc: thường là 3 tháng, 6 tháng,9 tháng với một hay nhiều mức mệnh giá- Hình thức phát hành: ghi sổ và chứng chỉ tín phiếu
• Đối với hình thức ghi sổ: Do Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn và quản lý sổ sách. • Đối với hình thức chứng chỉ tín phiếu: Ngân hàng Nhà nước in theo mẫu do Bộ Tài chính quy định .
1.5.2 Vay nợ nước ngoài:
Nợ nước ngoài: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư nước ngoài.
Trong thực tế khi tiến hành thống kê và tính toán giá trị nợ công ở một số nước, trong đó có Việt Nam, người ta thường chỉ quan tâm đến khoản nợ nước ngoài mà mặc nhiên các khoản nợ trong nước
1.6. Quản lý nợ công
Trong thời gian gần đây, công tác quản lý nợ của Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước, cụ thể là:
- Thông qua hoạt động vay nợ, Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp đã huy động được nguồn vốn khá lớn cho đầu tư phát triển, đồng thời vẫn đảm bảo quản lý nợ trong các giới hạn an toàn.
- Hoạt động huy động vốn trong nước của Chính phủ thông qua phát hành tín phiếu, trái phiếu Chính phủ cũng đã giúp hình thành thị trường trái phiếu Chính phủ trong nước, một thành tố khá quan trọng để hình thành thị trường tài chính hoàn chỉnh. Trái phiếu Chính phủ được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán đã góp phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường trái phiếu Chính phủ nói riêng và phát triển thị trường vốn trong nước nói chung.
- Trong công tác quản lý nợ, các văn bản pháp lý ngày càng được hoàn thiện, đồng bộ hơn và tiến gần đến các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, nhất là trong lĩnh vực quản lý nợ nước ngoài. Chính phủ đã thực hiện nguyên tắc thống nhất quản lý nợ Chính phủ, nợ quốc gia trên cơ sở phân công, xác định trách nhiệm rõ ràng hơn giữa các cơ quan quản lý.
- Công tác trả nợ Chính phủ trong và ngoài nước luôn được thực hiện đầy đủ, đúng hạn, không để xảy ra nợ quá hạn như những năm về trước. Việc tích cực đàm phán xử lý các khoản nợ cũ với các chủ nợ nước ngoài (thuộc Câu lạc bộ Pa- ri, Câu lạc bộ Luân Đôn) đã giúp giảm đáng kể nghĩa vụ nợ của Việt Nam.
Bên cạnh những thành công đạt được, công tác quản lý nợ công ở Việt Nam trước khi có Luật Quản lý nợ công còn bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là chưa có sự nhất quán các khái niệm về nợ cũng như phạm vi quản lý nợ trong các văn bản pháp quy hiện hành như nợ Chính phủ, nợ khu vực công, nợ quốc gia. Việc phân loại, tổng hợp nợ vì vậy cũng chưa theo các chuẩn mực quốc tế, việc quản lý nợ còn chồng chéo giữa các cơ quan quản lý nhà nước, chưa có kế hoạch cụ thể để xây dựng và sử dụng cơ sở dữ liệu về nợ công.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM TỪ 2007 - 2012
2.1 Thực trạng nợ công tại Việt Nam:
Nợ công của Việt Nam đã và đang được dư luận xã hội hết sức quan tâm bởi nó không chỉ liên quan đến lòng tin của người dân đối với việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư, mà còn có tác động đến cuộc chiến chống tham nhũng, lãng phí, đồng thời ảnh hưởng tới cuộc sống của thế hệ tương lai.
Diễn biến nợ công trong giai đoạn 2007- 2011 (tính theo % GDP) - Nguồn Bộ tài chính.Theo nhiều chuyên gia, sự nhìn nhận nghiêm khắc của giới phân tích tài chính trong vấn đề nợ công Việt Nam là xuất phát từ thực tế. Theo Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, năm 2007, nợ công là 33,8% GDP nhưng từ 2008, tỷ lệ này nâng lên 36,2%; 2009: 41,9%; 2010: 56,7%. Năm 2011, tỷ lệ này giảm xuống còn 54.6%.Như vậy, từ năm 2007 đến hết 2011, nợ công đã tăng khoảng 25%, đạt mức trung bình 5%/năm. Với đà tăng này, chỉ cần 8 năm nữa, nợ công Việt Nam sẽ lên tới 100% GDP.
Nhìn vào các số liệu về nợ công, chi tiêu công và lạm phát từ năm 2001 đến 2011, có thể vẽ ra bức tranh sơ lược về tình hình nợ công liên quan đến chi tiêu công của Việt Nam. Từ năm 2001 đến 2007, tăng trưởng diễn ra thuận chiều với chi tiêu công. Trong giai đoạn này, chi tiêu công có tác động tích cực đến tăng trưởng. Tuy nhiên từ năm 2007 đến 2011, mối quan hệ này đã đảo chiều và chuyển sang ảnh hưởng tiêu cực.
Một điều cần lưu ý, từ năm 2007, trong khi tăng trưởng giảm sút thì chi tiêu công của Việt Nam vẫn tăng lên và hầu như ngay lập tức lạm phát cũng tăng nhanh đáng kể. Nợ công chỉ suy giảm chút ít vào năm 2008 rồi lại tiếp tục tăng vọt từ năm 2009.
Trong bối cảnh này, cách giải thích lôgíc là nguồn chi tiêu công được tài trợ chủ yếu bằng phát hành tiền và lạm phát phản ứng của xã hội về kỳ vọng mất giá đồng nội tệ. Mối quan hệ đó có thể được làm rõ qua số lượng phát hành tiền trong giai đoạn này.
2.1.1 Về quy mô nợ công
Quy mô nợ tăng nhanh
Ông Nguyễn Minh Phong nhận định, có 4 thách thức nợ công của Việt Nam.
Thách thức thứ nhất là quy mô nợ tăng nhanh vượt dự báo. Ông Phong dẫn ra rằng, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ cho biết, tính đến 31/12/2012, tỷ lệ nợ Chính phủ là 45,7% GDP, nợ nước ngoài là 42,2%; nợ công là 57,3%. Trong kế hoạch trình Quốc hội, đến 31/12/2011, nợ công là 54,6%, đến 31/12/2012 là 58,4% GDP. Ngày 8/11/2011, Quốc hội đă thông qua nâng trần nợ công Việt Nam đến 2015 không quá 65% GDP, dư nợ của Chính phủ không quá 50% GDP và dư nợ quốc gia không quá 50% GDP.
Thách thức thứ hai, điều kiện nợ ngày càng ngặt nghèo hơn: trong tổng nợ công của Việt Nam, cuối năm 2009 vay ODA chiếm tỷ trọng 74,67%, vay ưu đãi chiếm 5,41%, vay thương mại 19,92%.... Sang năm 2010, vay nợ với lãi suất thấp 1-2,99%/năm chiếm khoảng 65,5% tổng dư nợ.
Đặc biệt, các khoản vay có lãi suất cao từ 6-10%/năm trong năm 2010 đã lên tới 1,89 tỷ USD, gấp hơn 2 lần năm 2009. Hiện các chủ nợ chính của Việt Nam vẫn là Nhật Bản, Pháp, ADB, WB…
Theo công bố của Tạp chí Kinh tế The Economist, tỷ lệ nợ công năm 2011 của Việt Nam là 50,9% GDP, dự kiến đến năm 2012 tỷ lệ này là 49,9%. Mặc dù tỷ lệ nợ này vẫn nằm trong tầm kiểm soát (dưới 60%GDP theo cách tính chỉ tiêu tỷ lệ nợ công trên GDP của Liên hiệp quốc) nhưng nó quá cao so với mức phổ biến được khuyến cáo ở các nền kinh tế đang phát triển (từ 30-40%) và so với một số nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc (17,4%), Indonesia (25,6%).
Ngoài ra, cũng theo The Economist, mức nợ công tính trên đầu người của Việt Nam năm 2011 là 638,55 USD, dự kiến 2012 tăng lên 698,71 USD. Nếu so sánh với 817,22 USD (Trung Quốc), 808,52 USD (Indonesia), 4.626,4 USD (Malaysia), 1.195,29 USD (Philippines), 2.261,78 USD (Thái Lan) thì đây là con số không cao.
Tuy nhiên, nếu so mức nợ công bình quân đầu người của Việt Nam vào năm 2001 xấp xỉ 112 USD; thì trong vòng 10 năm, con số này đã tăng gấp 6 lần, cho thấy gánh nặng nợ tương lai đổ lên đầu người dân ngày càng tăng.
Tính ra từ năm 2007 đến cuối năm 2011, nợ công của Việt Nam đã tăng khoảng 25% (trung bình 5%/năm). Với khoản nợ này, căn cứ vào thời điểm đáo hạn thì từ nay đến 2015 mỗi năm Việt Nam phải trả nợ gốc và lãi cho nước ngoài gần 1,5 tỉ USD và mức trả nợ cao nhất sẽ rơi vào năm 2020 với con số lên đến 2,4 tỉ USD.
Ngày 3/5/2011, tại Hội thảo “Tái cấu trúc đầu tư công và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước”, Tiến sĩ Vũ Đình Ánh khẳng định quy mô nợ công Việt Nam ngày càng lớn và tăng nhanh trong những năm gần đây.
Ông Ánh dẫn số liệu từ Bộ Tài chính cho thấy, tổng số nợ công của Việt Nam tính đến cuối năm 2009 là 52,6% GDP (trong đó, nợ Chính phủ là 41,9%GDP, nợ Chính phủ bảo lãnh là 9,8%GDP, nợ của chính quyền địa phương là 0,8%GDP) nhưng đến cuối năm 2010 đã tăng vọt lên đến 56,6%GDP.
Tuy nhiên, theo số liệu công bố mới nhất cũng của Bộ Tài chính thì tính đến cuối năm 2011, nợ công đã giảm nhẹ, chiếm 54,6%GDP, trong đó nợ chính phủ là 43,6%GDP, nợ nước ngoài chiếm 41,5% GDP (tương đương 50 tỷ USD).
Theo số liệu được cung cấp bởi Kiểm toán Nhà nước, tính đến hết năm 2010 nợ phải trả nước ngoài dùng để cho vay lại tương đương 11,2 tỷ USD, tăng hơn so với 9,203 tỷ USD năm 2009. Trong đó, số dư mà Bộ Tài chính cho vay lại tại 11 tổ chức cho vay lại và 7 đơn vị vay lại khoảng 8,4 tỷ USD.
Lũy kế đến hết năm 2011, số tiền Bộ Tài chính ứng trả nợ thay cho các đơn vị được Chính phủ bảo lãnh vay công nước ngoài gần 2.437 tỷ đồng.
Các hệ số an toàn của nợ công Việt Nam tuy vẫn còn trong giới hạn nhưng đã tiệm cận ở mức cao. Dư nợ công tăng lên trong thời gian qua là do các khoản vay nợ trực tiếp trong và ngoài nước của Chính phủ để bù đắp cho bội chi ngân sách nhà nước và do sự gia tăng nghĩa vụ nợ được Chính phủ bảo lãnh của một số tập đoàn và tổng công ty nhà nước.
Ở mỗi nước thì có tỷ lệ nợ công trên GDP là khác nhau nhưng cũng là một chỉ số về quy mô của nợ công chứ không phải là một thước đo tốt về mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công. Bởi vì, nợ công khoảng 100% GDP đủ để Hy Lạp rơi vào tình trạng phá sản, trong khi nợ công lên tới 200% GDP của Nhật Bản vẫn được coi là an toàn. Nếu dùng con số 50% GDP để coi là mức trần ở nước này thì ở nước khác người ta có thể sử dụng con số 80%. Như vậy, mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ nợ trên GDP, mà phụ thuộc vào một số chỉ số khác như xu hướng của tỷ lệ nợ công trên GDP, hiệu quả sử dụng nợ hay rộng hơn là tình trạng sức khỏe của nền kinh tế.
Theo Đồng hồ nợ công toàn cầu (Global debt clock) trên trang The Economist.com, tính đến 13h (giờ Việt Nam) (28/9/2012), nợ công của Việt Nam đang ở mức trên 68,119 tỷ USD; bình quân nợ công theo đầu người là 762,2 USD; nợ công chiếm 49,9% GDP. Cùng thời điểm, nợ công toàn cầu đang ở mức trên 48.947 tỷ USD.
Thông số nợ công trên Global debt clock lúc 13h ngày 28/9/2012
Trước đó, số liệu mà Economist đưa ra, tổng mức nợ công của Việt Nam nằm trong nhóm nước có mức nợ công trung bình của thế giới. Cụ thể, lúc 15h30 ngày 4/9/2012, nợ công của Việt Nam vào khoảng 67,6 tỷ USD, tương đương 50% GDP, tăng 11,2% so với năm 2011. Mức nợ công bình quân đầu người của Việt Nam đang là 756,9 USD. Còn nợ công toàn cầu là 48.771 tỷ USD.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong cũng cho biết, dịch vụ nợ công Việt Nam tăng. Tính đến 31/12/2012 nợ công sẽ là 58,4% GDP (trong khi cuối năm 2011 là 54,6% GDP). Và dự báo năm 2015 mức nợ sẽ lên tới 65% GDP, trong đó nợ nước ngoài và Chính phủ dưới 50%. Dịch vụ nợ nước ngoài năm 2011 là 12,5% và 2012 là 13,5% tổng thu ngân sách Nhà nước.
2.1.2 Về cơ cấu nợ công
Trong cơ cấu nợ công Việt Nam, nợ nước ngoài có vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng cao nhất. Theo bản tin mới nhất của Cục quản lý nợ và tài chính đối ngoại, năm 2010 tính toán trong tổng nợ công so với GDP có 42,2% GDP là nợ nước ngoài, tăng so với con số 39% của năm 2009 và cao nhất kể từ năm 2006, ước tính năm 2011 là 44,5%. Con số 42,2% GDP cũng cao hơn nhiều so với mức 38,8% mà Chính phủ đã /%2220dự%20kiến"dự kiến vào cuối năm 2010.
Với việc dòng vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ quá lớn trong cơ cấu vốn đầu tư, nền kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ bị tổn thương một khi kinh tế thế giới ngưng trệ, dòng vốn đầu tư nước ngoài bị suy giảm.
Nguồn cung cấp nợ nước ngoài chủ yếu của Việt Nam là các khoản vay ODA. Theo danh mục nợ công năm 2009 của Bộ Tài chính, 60,3% nợ công là ODA và 29,8% được tài trợ từ trái phiếu trong nước. Nhiều khoản vay ODA có thời gian vay rất dài với lãi suất ưu đãi, chẳng hạn vay WB thời hạn là 40 năm, ân hạn 10 năm và lãi suất chỉ có 0,75% hay vay ADB thời hạn là 30 năm, ân hạn 10 năm, lãi suất 1%, vay Nhật Bản thời hạn vay 30 năm, ân hạn 10 năm, lãi suất từ 1% - 2%, thông thường là 1% còn một số khoản cao hơn chỉ 2%. Tuy nhiên, cần hiểu rằng khi Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung bình thì các điều kiện cho vay sẽ trở nên kém ưu đãi hơn và chi phí trả lãi vay hằng năm sẽ ngày càng tăng.
Các điều khoản ưu đãi của ODA đă giúp Việt Nam giảm bớt được áp lực nợ công; tuy nhiên, các khoản vay ưu đãi lại thường đi kèm với các điều khoản có liên quan đến những ràng buộc về chính trị và kinh tế khác. Nợ càng nhiều, ràng buộc về kinh tế, chính trị cũng lớn hơn. Khủng hoảng nợ Argentina (2001) và sự bất ổn của Hy Lạp hiện nay là minh chứng điển hình cho tác động tiêu cực của nguồn nợ công từ nước ngoài.
Nợ của Chính phủ Việt Nam đang chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng mở rộng đáng kể trong những năm gần đây. Năm 2011, dư nợ Chính phủ bằng khoảng 43,6% GDP, giảm so với con số 45,7% của năm 2010 nhưng chủ yếu là do GDP danh nghĩa của năm 2011 tăng cao so với năm 2010 nên các hệ số nợ khi so với GDP danh nghĩa năm 2011 có xu hướng giảm nhẹ. Mặc dù vẫn trong giới hạn cho phép và tỷ trọng của dư nợ chính phủ so với tổng mức nợ công có xu hướng giảm dần, nhưng tỷ trọng của nợ chính phủ so với GDP lại có xu hướng tăng trong suốt thập niên 2000.
Nợ chính quyền địa phương chủ yếu là vay nợ để đầu tư xây dựng cơ bản theo Luật Ngân sách nhà nước 2002. Mức dư nợ phát hành trái phiếu của chính quyền địa phương hiện nay vẫn ở mức thấp, hiện khoảng 0,6% GDP. Mức dư nợ của chính quyền địa phương hiện nằm trong giới hạn quy định của Luật Ngân sách nhà nước, không quá 30% tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản trong nước của các địa phương.
2.1.3 Hệ số an toàn nợ giảm
Thách thức thứ ba là dịch vụ nợ tăng nhanh, hệ số an toàn nợ giảm: dịch vụ nợ nước ngoài của Việt Nam trong năm 2010 là 1,67 tỷ USD, trong đó riêng tiền lãi và chi phí hơn 616 triệu USD, tăng gần 30% so với con số 1,29 tỷ USD của năm 2009.
Nợ nước ngoài của Việt Nam đang lớn gấp 3 lần so với dự trữ ngoại hối (khoảng 14-15 tỷ USD). Năm 2011, dự kiến trả nợ 86.000 tỷ đồng, chiếm 12,5% tổng thu ngân sách nhà nước; năm 2012 sẽ phải trả 100.000 tỷ đồng, chiếm 13,5% tổng thu.
Trong khi đó, ông Phong cho biết, nợ công của Thái Lan chỉ có 44,1% GDP và dự trữ ngoại hối là 176 tỷ USD; Indonesia, Malaysia nợ công chỉ 26,9% GDP, Philippines 47,3%…
Ông Phong cũng dẫn ra rằng, theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ, hiện nay tổng số dịch vụ nợ (trả nợ cả gốc và lãi) của Chính phủ chiếm khoảng 14-16% tổng thu ngân sách nhà nước. Trong khi đó, theo thông lệ quốc tế, mức dịch vụ nợ an toàn là không quá 30% tổng thu ngân sách.
Thách thức thứ tư là đầu tư công chưa hiệu quả là nguồn gốc lớn nhất làm tăng nợ công. Ông Phong lấy ví dụ, Việt Nam hiện có 194 khu công nghiệp, 1643 cụm công nghiệp, 15 dự án khu kinh tế ven biển, ước tính cần hơn 2000 tỷ USD (bằng toàn bộ đầu tư cả nước trong 50 năm nữa) để đầu tư.
Năm 2011, cả nước “lọt lưới” 333 dự án mới sai đối tượng sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ. Nợ của các doanh nghiệp nhà nước đang chiếm tới 70% nợ xấu của các ngân hàng.
Theo Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tính đến hết tháng 8/2011, nợ xấu toàn ngành ngân hàng ở mức trên 76.000 tỷ đồng và đang có xu hướng tăng. Trong đó, các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất trắng khoảng 37.000 tỷ đồng (thuộc nợ nhóm 5). Nợ xấu của một số ngân hàng cao hơn mức bình quân của toàn ngành là 3,21%/tổng dư nợ.
2.1.4 Về tính thanh khoản của các khoản nợ
Các món vay nợ nước ngoài của Việt Nam phần lớn là vay nợ dài hạn và tính thanh khoản nợ công hiện vẫn khá tốt, các khoản vay dài hạn với lãi suất thấp chiếm tới 80% (nghĩa vụ trả nợ đến năm 2013 chiếm khoảng 10% dự trữ ngoại hối quốc gia và nợ nước ngoài chiếm 20% dự trữ ngoại hối hiện nay). Mặc dù vậy, nợ công của Việt Nam vẫn có thể xảy ra những rủi ro về tính thanh khoản, khi thời hạn trả nợ bị xáo trộn (khoản nợ từ trung hạn và dài hạn có thể chuyển thành ngắn hạn – trong trường hợp các chủ nợ gặp khó khăn hay khủng hoảng kinh tế trong nước). Đặc biệt, tính thanh khoản của những khoản nợ nước ngoài trong ngắn hạn cũng tiềm ẩn những rủi ro khi tỷ lệ dự trữ ngoại hối của Việt Nam/tổng dư nợ ngắn hạn đã và đang sụt giảm với tốc độ rất nhanh, từ mức 100 lần năm 2007 xuống còn 28 lần vào năm 2008, còn 3 lần vào năm 2009 và chỉ còn gấp khoảng 2 lần trong năm 2010.
Bên cạnh đó, nghĩa vụ trả nợ nội địa trong ba năm tới được ước tính trên số lượng trái phiếu Chính phủ đã phát hành và sẽ đáo hạn trong vòng 3 năm tới, ước khoảng 215.000 tỷ đồng,tương đương 20% dự toán thu NSNN của thời điểm đó (2014). Con số này khá lớn và ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách tài khóa, lạm phát và các chính sách liên quan của Việt Nam trong giai đoạn tới.
2.1.5 Về chi phí vay nợ
Các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số đều có lãi suất thấp, trong đó chủ yếu là ở mức 1% - 2,99%. Tuy nhiên so với các năm trước, năm 2010, các khoản vay của Việt Nam có lãi suất cao hơn và khoản vay với lãi suất thả nổi đang ngày càng tăng lên, gây thêm áp lực nợ cho Chính phủ. Trong 25,097 tỷ USD tổng nợ nước ngoài của Chính phủ, có 19,313 tỷ USD có lãi suất từ 1 - 2,99%; trên 1,678 tỷ USD chịu lãi suất từ 3 - 5,99% (tăng 176 triệu USD so với 2009) và có tới 1,888 tỷ USD ở mức lãi suất 6- 10%, tăng hơn gấp đôi so với 2009. Ngoài ra, các khoản vay với lãi suất thả nổi cũng tăng 6,66 triệu USD so với 2009.
Theo Cục Quản lư nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngoài của Chính phủ đă tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và năm 2010 đạt tới 2,1%/năm. Hơn nữa cần lưu ý là các khoản vay ưu đãi lãi suất thấp cũng sẽ giảm đi khi Việt Nam gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình, thay vào đó là vay thương mại có lãi suất cao hơn nhiều. Với thực trạng này, rõ ràng chi phí trả lãi đang trở thành gánh nặng ngày càng gia tăng của Chính phủ.
2.1.6 Về tiền vay nợ
Nợ nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Trên lý thuyết, điều này được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế cơ cấu này cũng tiềm ẩn những rủi ro khi có biến động trên thị trường tài chính thế giới. Tỷ trọng cao của các khoản vay bằng USD (22,16%) và JPY (38,83%)gây nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và lãi khi tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng; và JPY đang lên giá so với USD (Năm 2006: 1USD=116,3 Yên, năm 2010: 1USD=84,11979 Yên). Như vậy khi đến kỳ trả nợ, Việt Nam sẽ phải dành một lượng USD lớn hơn nhiều để mua đồng Yên trả nợ. Và chỉ riêng biến động này này đă làm gia tăng tổng số nợ nước ngoài và nợ công của chúng ta.
Như vậy, mặc dù mức nợ công so với GDP của Việt Nam vẫn được đánh giá là an toàn nhưng nợ công đang ẩn chứa nhiều rủi ro. Khi nợ công quá cao, bên cạnh những hậu quả về mặt kinh tế, quốc gia còn phải đối mặt với nguy cơ suy giảm chủ quyền, khi phải chịu những áp lực to lớn từ phía các chủ nợ và các tổ chức tài chính quốc tế, nguy cơ bất ổn về xã hội khi Nhà nước không đảm bảo được những vấn đề về an sinh xã hội cho người dân. Thông thường, đó là những sức ép về việc thắt chặt chi tiêu, tăng thuế, giảm trợ cấp xã hội, khó khăn trong giải quyết thất nghiệp..và xa hơn nữa là những yêu cầu về cải cách thể chế, thay đổi bộ máy quản lý, thay đổi các định hướng kinh tế theo hướng tự do hoá nhiều hơn. Ngoài ra, việc lệ thuộc quá nhiều vào các khoản vay nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế của quốc gia trong các mối quan hệ song phương cũng như đa phương với các đối tác là các nước chủ nợ.
Mặt khác, mối quan ngại về sự già hóa dân số sẽ làm cho nợ công tăng vọt trong những thập kỷ tới. Nguyên nhân là do lực lượng lao động bị thu hẹp sẽ làm cho nguồn thu thuế của chính phủ bị sụt giảm, trong khi đó số người nghỉ hưu tăng lên sẽ gây áp lực cho việc tăng chi tiêu chính phủ trong các khoản lương hưu và chăm sóc sức khỏe…do vậy, quản lư nợ công thế nào cho hiệu quả là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu tại Việt Nam hiện nay.
2.2 Những tác động tiềm tàng
Vấn đề nợ công của Việt Nam rõ ràng đang gây ra hàng loạt các mối lo ngại từ quy mô, đến tính an toàn và khả năng tài trợ nợ công.
Khả năng tăng trưởng kinh tế có thể sẽ bị giảm xuống nếu các biện pháp can thiệp quá nhanh và quá mạnh, có thể làm vô hiệu những chính sách kinh tế vĩ mô.
Rõ ràng, nợ công ở Việt Nam đang tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách đã trở thành căn bệnh kinh niên, đầu tư không ngừng mở rộng kéo theo lạm phát và lãi suất tăng cao khiến cho việc tài trợ nợ công ngày càng trở nên đắt đỏ và tạo áp lực tín dụng dài hạn. Nếu Chính phủ phải in thêm tiền để mua trái phiếu sẽ có thể khiến lãi suất các loại trái phiếu dài hạn tăng cao thay vì hạ thấp đi và tất nhiên, tiếp tục gây áp lực lạm phát. Nếu Chính phủ đột ngột thắt chặt ngân sách thì sẽ là một sai lầm bởi nền kinh tế vẫn ở trạng thái yếu mặc dù tốc độ tăng trưởng hiện nay không phải là thấp. Việc vội vã thắt chặt ngân sách và tăng thuế đã đẩy nền kinh tế Nhật Bản vào suy thoái trở lại là kinh nghiệm đáng để Việt Nam học tập trong công tác điều hành, quản lý vĩ mô
2.3 Nguyên nhân
Nợ công - truớc hết là vấn đề mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Việc chi nhiều quá, trong khi thu không đáp ứng nổi, chính phủ phải đi vay tiền dưới nhiều hình thức khác nhau như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,… để chi, từ đó dẫn đến tình trạng nợ. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm, để lâu thành "lãi mẹ đẻ lãi con" và càng ngày càng nhiều thêm.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới nợ công.Tuy nhiên, tùy thuộc vào mỗi quốc gia và mỗi thời kỳ mà nợ công có những nguyên nhân khác nhau nhưng hiện nay, nợ công của các quốc gia thì xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Việc gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước, lương và chi phí hoạt động của bộ máy nhà nước ở các cấp có xu hướng ngày càng lớn, các chương trình kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, đầu tư phát triển có sở hạ tầng không ngừng tăng, đặc biệt, hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu vừa qua đã buộc nhiều nước phải chi rất nhiều để khắc phục.
Sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước kém, không chặt chẽ, thậm chí bị buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, cộng với tệ nạn tham nhũng phát triển ở nhiều nước cũng trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới nợ công.
Các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm chí một số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt như thuế quan và phí hải quan của hầu hết các nước phải cắt giảm hoặc loại bỏ phù hợp với các quy định của WTO và các thoả thuận thương mại khác mà họ tham gia. Mặt khác, vấn đề quản lý các nguồn thu, nhất là từ thuế, gặp không ít khó khăn ở nhiều nước do tình trạng trốn thuế, tệ nạn tham nhũng, hối lộ, kiểm soát không chặt và xử lý không nghiêm của các cơ quan chức năng
Thông qua các chương trình đầu tư công, nợ công của Việt Nam được chuyển tải vào các dự án đấu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam không đạt hiệu quả cao, thể hiện ở hai khía cạnh sau:
Thứ nhất, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn
Tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ diễn ra khá thường xuyên. Theo báo cáo của Kho bạc Nhà nước, hết tháng 10/2009, mới giải ngân được 26.586 trong số 64.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ, bằng 47,5% kế hoạch năm. Tình trạng dự án, công trình thi công dở dang, chuyển tiếp, kéo dai, chậm tiến độ vẫn chậm được khắc phục. Điều này cùng với sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như các tập đoàn lớn, dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp
Năm 2009, trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 42,2% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 5,2%. Chỉ số ICOR năm 2009 đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Điều này có nghĩa là, nếu năm 2001 Việt Nam cần 5.24 đồng vốn để tạo ra được 1 đồng sản lượng , thì giờ đây cần phải đầu tư thêm gần 3 đồng vốn nữa.
Các hệ số an toàn của nợ công Việt Nam tuy vẫn còn trong giới hạn nhưng đã tiệm cận ở mức cao. Dư nợ công tăng lên trong thời gian qua là do các khoản vay nợ trực tiếp trong và ngoài nước của Chính phủ để bù đắp cho bội chi ngân sách nhà nước và do sự gia tăng nghĩa vụ nợ được Chính phủ bảo lãnh của một số tập đoàn và tổng công ty nhà nước.
Việc duy trì chi đầu tư từ ngân sách nhà nước ở mức cao trong giai đoạn vừa qua đã làm gia tăng bội chi ngân sách. Bội chi ngân sách ở Việt Nam tăng ở mức trung bình 4,0% GDP giai đoạn 1996 - 2000 lên 4,9% giai đoạn 2001 - 2005 và 5,5% giai đoạn 2006 - 2011. Năm 2011, bội chi đã giảm xuống mức thấp nhất trong 3 năm qua là nhờ kết quả của việc thực hiện Nghị quyết 11 về những giải pháp chủ yếu ổn định kinh tế vĩ mô.
Bội chi ngân sách kéo theo hệ quả trực tiếp là dư nợ công tăng và làm tăng chi phí vay nợ của Chính phủ. Thêm vào đó, nguồn trái phiếu chính phủ huy động để đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng và dự án phát triển cũng đã góp phần làm tăng nợ công. Do nằm ngoài dự toán, nên số nợ chính phủ thực tế gia tăng trong thời gian qua luôn lớn hơn số cần có để bù đắp cho thâm hụt ngân sách. Đây cũng là lý do về việc số bội chi ngân sách của Việt Nam khác so với tính toán của các tổ chức tài chính quốc tế.
Nợ của Chính phủ bảo lãnh cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong việc thực hiện các dự án phát triển (đầu tư công) chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước vừa qua và có xu hướng tăng lên, từ 4% tổng dư nợ công năm 2001 lên 10% năm 2005 và đến nay là 18,6% năm, tương đương 11,6% GDP(2).
Như vậy, nhìn chung nợ công của Việt Nam đang tăng nhanh trong bối cảnh thâm hụt ngân sách. Về nguyên tắc, nợ công của ngày hôm nay phải được trả bằng thặng dư ngân sách của ngày mai. Do đó, dường như Việt Nam đang vi phạm nguyên tắc quản lý nợ công bền vững.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM
Để nợ công được quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng, giữ vững uy tín quốc gia, đảm bảo an ninh tài chính, hạn chế rủi ro, một số nội dung sau cần được nghiên cứu thực hiện:
- Một là, Chính phủ cần xây dựng kế hoạch vay nợ công phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch thu, chi ngân sách nhà nước trong từng giai đoạn, thời kỳ. Cần xác định rõ mục đích vay (để tài trợ thâm hụt ngân sách, tái cơ cấu nợ và cho vay lại, tài trợ cho các chương trình, dự án đầu tư quan trọng, hay nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia), mức huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo từng đối tượng vay với hình thức huy động vốn và lãi suất thích hợp. Kế hoạch về vay nợ công cũng cần quy định rõ đối tượng sử dụng các khoản vay, hiệu quả dự kiến; xác định thời điểm vay, số vốn vay từng giai đoạn, tránh tình trạng tiền vay không được sử dụng trong thời gian dài hoặc chưa thực sự có nhu cầu sử dụng.
- Hai là, đảm bảo tính bền vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ công, có khả năng thanh toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, chi phí. Muốn vậy, cần thiết lập ngưỡng an toàn nợ công; đồng thời thường xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản vay nợ Chính phủ trong mối liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu, cán cân thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ…
- Ba là, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay để cho vay lại và các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh. Chính phủ vay để cho vay lại và bảo lãnh vay thường phát sinh khi doanh nghiệp cần huy động một lượng vốn lớn trên thị trường vốn quốc tế, nhưng không đủ uy tín để tự mình đứng ra vay nợ. Khi đó, Chính phủ có thể giúp doanh nghiệp tiếp cận được với các nguồn vốn quốc tế với quy mô lớn, lãi suất thấp. Các khoản vay và bảo lãnh này thực chất là nghĩa vụ ngân sách dự phòng, làm nảy sinh nguy cơ ngân sách nhà nước phải trang trải các khoản nợ khi doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc mất khả năng thanh toán. Do đó, việc vay về cho vay lại và bảo lãnh vay cần hết sức thận trọng, chỉ nên ưu tiên cho các chương trình, dự án trọng điểm của Nhà nước hoặc thuộc các lĩnh vực ưu tiên cao của quốc gia. Kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh và việc cấp bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay nợ trong nước; khuyến khích phát triển mô hình hợp tác công - tư (PPP).
- Bốn là, nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát việc sử dụng vốn vay, vốn được Chính phủ bảo lãnh. Đây là vấn đề cốt yếu đảm bảo cho khả năng trả nợ và tính bền vững của nợ công. Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng các khoản vốn vay, mà là các chủ dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh nghiệp... ; trong mọi trường hợp, ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro trong toàn bộ quá trình vay nợ. Để bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân thủ 2 nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả nợ; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên quá trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng.
- Năm là, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ công. Việc công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng các khoản nợ công và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ công. Để thực hiện tốt nguyên tắc quan trọng đó, nợ công cần phải được tính toán, xác định đầy đủ trong quyết toán ngân sách nhà nước và phải được cơ quan chuyên môn xác nhận.
- Sáu là, Kiểm toán Nhà nước với tư cách là cơ quan độc lập về kiểm tra tài chính nhà nước cần được quy định rõ nhiệm vụ kiểm toán nợ công trong Luật Quản lý nợ công và Luật Kiểm toán nhà nước. Kiểm toán Nhà nước kiểm tra, xác nhận số liệu nợ, đánh giá tính bền vững của nợ Chính phủ so với GDP, trong mối quan hệ với bảo đảm an ninh tài chính quốc gia; cơ cấu nợ, tỷ lệ vay nợ nước ngoài trong tổng số nợ; cơ chế quản lý nợ, mục đích sử dụng các khoản vay nợ (nhất là nợ nước ngoài); tính minh bạch và đầy đủ trong các khoản nợ… giúp Chính phủ có số liệu xác thực và thực trạng trung thực để đề ra các giải pháp tổng thể bảo đảm bền vững của ngân sách trong tương lai. Kiểm toán nợ công cần được tiến hành thường xuyên để có thể kiểm soát kịp thời các rủi ro trong quản lý.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tim_hieu_ve_no_cong_o_vn_331.docx