Quy định vềmức chiết trừgia cảnh cần
lưu ý đến mặt bằng chi tiêu thực tế của các
địa phương. Hiện nay, rõ ràng có những
chênh lệch về chi phí khá lớn giữa các địa
phương, ví dụ như giữa Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh với những tỉnh thành khác.
Nếu mức thu nhập chịu thuế và mức chiết
trừ gia cảnh giống nhau thì nơi nào có chi
phí bình quân cao hơn thì người nộp thuế sẽ
bị thiệt về thuế. Thiết nghĩ, dự thảo nên quy
định việc tham gia quyết định của chính
quyền cấp tỉnh trong việc xác định mức chiết
trừ gia cảnh. Ví dụ:Nên quy định Hội đồng
nhân dân tỉnh có quyền điều chỉnh trong giới
hạn nhất định theo quy định của Chính phủ
về mức chiết trừ gia cảnh để phù hợp với
tình hình thực tế của địa phương.
9 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3821 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hiện nay và phương hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2007 27
ths. trÇn vò h¶i *
1. Những đặc trưng cơ bản của thuế
thu nhập cá nhân (TNCN) hiện nay
Thuế thu nhập là sắc thuế trực thu được
ban hành nhằm phân phối một phần thu
nhập của các cá nhân, doanh nghiệp cho
nhà nước. Thuế thu nhập thường được phân
chia thành hai loại là thuế thu nhập doanh
nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu
nhập doanh nghiệp có đối tượng chịu thuế
là thu nhập từ hoạt động kinh doanh, chủ
yếu là từ các loại hình doanh nghiệp. Trong
khi đó, thuế TNCN là loại thuế có đối tượng
chịu thuế là thu nhập của các cá nhân. Cá
biệt có một số quốc gia, thuế TNCN được
xác định như là một loại thuế mà chủ thể
nộp thuế là hộ gia đình(1) hoặc nhà nước ban
hành thuế thu nhập áp dụng chung cho cả
doanh nghiệp và cá nhân.(2)
Thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay được
quy định trong Pháp lệnh thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao. Do mục đích
ban hành là chỉ nhằm điều tiết thu nhập đối
với những cá nhân có thu nhập cao nên
phạm vi điều chỉnh của loại thuế này ở Việt
Nam về cơ bản là hẹp hơn thuế TNCN ở
những quốc gia khác. Ngoài những đặc
trưng chung của một sắc thuế, thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao hiện hành có
một số đặc trưng sau đây:
a. Thuế TNCN hiện nay hướng đến
những cá nhân có thu nhập cao, với mục
đích kiến tạo sự công bằng hơn là mục tiêu
tăng thu ngân sách
Ngay trong phần mở đầu của Pháp lệnh
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
năm 1991 đã nêu rõ, việc ban hành sắc thuế
này là để: “góp phần thực hiện công bằng xã
hội, động viên một phần thu nhập của cá
nhân có thu nhập cao cho ngân sách nhà
nước”. Có thể nhận thấy trong suốt thời gian
qua, thuế TNCN mặc dù đã qua nhiều lần
sửa đổi nhưng mục đích chỉ thu thuế đối với
những người có thu nhập vượt hơn hẳn mức
thu nhập bình quân của một cá nhân vẫn
được duy trì.
b. Thuế TNCN hiện nay không áp dụng
đối với thu nhập có nguồn gốc kinh doanh
của cá nhân
Hiện nay, thu nhập từ hoạt động kinh
doanh của cá nhân, hộ gia đình chịu sự điều
chỉnh của pháp luật thuế thu nhập doanh
nghiệp. Mặc dù các chủ thể trên đây không
phải là doanh nghiệp nhưng việc quy định
này có ý nghĩa như là sự khuyến khích đối
với hoạt động kinh doanh của cá nhân vì
thuế thu nhập doanh nghiệp không đánh thuế
theo thuế suất luỹ tiến.
* Giảng viên Khoa pháp luật kinh tế
Trường Đại học Luật Hà Nội
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2007 28
2. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế
TNCN hiện nay
Trong những năm qua, việc thực thi pháp
luật thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao đã đem lại những kết quả nhất định. Một
là, thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao góp phần tạo nguồn thu ngày càng đáng
kể cho ngân sách nhà nước. Theo số liệu dự
toán ngân sách năm 2007, số thu từ thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao nhiều
gấp 3 lần tổng số thu các loại thuế về đất.(3)
Hai là, thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao góp phần đảm bảo công bằng xã
hội. Quy định về ngưỡng chịu thuế suất
dương (tức là mức thu nhập bắt đầu phải
đóng thuế với mức thuế suất lớn hơn 0%)
được đánh giá là phù hợp với sự gia tăng
mức thu nhập bình quân, nên thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao đã góp phần
làm giảm khoảng cách giàu nghèo đang có
xu hướng gia tăng, nhất là ở khu vực thành
thị. Bên cạnh đó, những khoản thu từ thuế,
trong đó có thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao, sẽ đảm bảo cho Nhà nước có
khả năng cung cấp ngày càng tốt hơn các
khoản chi phúc lợi xã hội, giúp cho những
người nghèo cơ hội có được mức sống cải
thiện hơn. Ba là, thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao là sự chuẩn bị cần thiết
trước khi triển khai thuế TNCN một cách
toàn diện. Việc áp dụng thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao trong nhiều năm
qua đã làm cho người dân “quen” dần với
loại thuế này. Tâm lí quen thuộc cùng với
những hiểu biết ngày càng nhiều hơn về thuế
TNCN cũng như trách nhiệm công dân trong
việc thực thi nghĩa vụ thuế sẽ góp phần đáng
kể cho quá trình triển khai hiệu quả Luật
thuế TNCN trong tương lai không xa. Bên
cạnh đó, những kinh nghiệm quý trong việc
thực thi thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao sẽ giúp cho các cơ quan quản lí nhà
nước trong việc quản lí thu nhập và quản lý
quy trình thu nộp thuế, đảm bảo hạn chế phát
sinh tiêu cực khi Luật thuế TNCN được triển
khai thực hiện (khi đó, sẽ có số lượng chủ
thể nộp thuế đông đảo hơn hiện nay, do vậy
việc quản lý thuế sẽ phức tạp hơn).
Bên cạnh những thành tựu đạt được,
trong thời gian qua việc thực hiện pháp luật
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
còn bộc lộ nhiều bất cập. Trong nội dung bài
viết này, xin được đề cập những hạn chế chủ
yếu sau đây:
- Thứ nhất, những quy định pháp luật
hiện hành về thuế TNCN còn nhiều bất cập.
Những bất cập này sẽ được đề cập trong
phần sau của bài viết này.
- Thứ hai, việc quản lí thu nhập của cá
nhân hiện nay còn nhiều hạn chế, do đó cơ
quan thuế không có khả năng kiểm soát tốt
TNCN, dẫn đến có nhiều trường hợp trốn,
lậu thuế.
Một trong những nguyên nhân cơ bản là
hiện nay nước ta chưa có hệ thống các quy
định pháp lí cần thiết để minh bạch thu nhập.
Với những cố gắng rất lớn của cơ quan lập
pháp, Luật phòng, chống tham nhũng ngày
9/12/2005 đã ra đời và có hiệu lực ngày
01/6/2006, gần đây được cụ thể hoá bằng
Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày
9/3/2007. Những văn bản này đã tạo cơ sở
pháp lí để một số chủ thể phải có nghĩa vụ
kê khai tài sản, góp phần kiểm soát thu nhập.
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2007 29
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, các văn bản
này nhằm kiểm soát và ngăn chặn những thu
nhập không hợp pháp chứ không phải nhằm
quản lí nguồn thu nhập hợp pháp để xác định
nghĩa vụ nộp thuế. Do đó, những chủ thể có
nghĩa vụ kê khai thu nhập rất hẹp, chỉ bao
gồm những chức danh quan trọng trong bộ
máy nhà nước. Từ đó có thể khẳng định, hệ
thống những quy định nhằm quản lí thu nhập
chịu thuế thu nhập hiện còn rất sơ sài.
- Thứ ba, ý thức của nhân dân về thuế
TNCN vẫn còn thấp. Ở những quốc gia phát
triển, thuế TNCN đã có lịch sử hàng trăm
năm và do đó người dân cảm thấy quen với
nghĩa vụ đóng thuế. Ở Việt Nam, mặc dù
thuế lợi tức cá nhân đã từng được chính
quyền Bảo Đại và sau đó là chính quyền
Việt Nam cộng hoà áp dụng (đối với khu
vực phía nam) nhưng sau đó bị bãi bỏ nên
hiện nay người dân chưa quen với tâm lí là
người nộp thuế. Chính vì vậy, trừ những
trường hợp khấu trừ thuế tại nguồn được các
tổ chức chi trả thu nhập thực hiện đối với thu
nhập của những người làm công ăn lương
hoặc người cung cấp dịch vụ, còn lại những
cá nhân hành nghề tự do thường không thực
hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế. Bên cạnh
đó, thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh
toán của người Việt Nam được coi là một trở
ngại đáng kể cho công tác hành thu thuế nói
chung và đối với thuế TNCN nói riêng. Việc
sử dụng tiền mặt phổ biến làm cho công tác
giám sát thu nhập của cơ quan chức năng bị
hạn chế, đồng thời tạo cơ hội cho các chủ thể
che giấu nguồn thu nhập hoặc dịch chuyển
tài sản, từ đó không khai báo để nộp thuế
theo quy định.
3. Những hạn chế của pháp luật thuế
TNCN hiện hành
- Thứ nhất, pháp luật thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao hiện nay có phạm
vi điều chỉnh tương đối hẹp.
Phạm vi điều chỉnh của thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao là áp dụng cho
những thu nhập phi kinh doanh của những
người có thu nhập cao, do vậy số chủ thể
thuộc diện chịu thuế không nhiều. Điều này
không những ảnh hưởng đến hiệu quả thu
ngân sách mà còn làm cho thuế TNCN mất
cơ hội phổ biến rộng rãi đến nhân dân, tạo
tiền đề cần thiết cho việc áp dụng Luật thuế
thu nhập cá nhân sau này.
Qua nhiều lần sửa đổi, quy định về
ngưỡng chịu thuế suất dương, người viết
nhận thấy tốc độ gia tăng mức khởi điểm
chịu thuế suất dương trong những lần sửa
đổi gần đây còn nhanh hơn mức độ gia tăng
bình quân của thu nhập quốc dân.(4) Chính vì
vậy, số lượng cá nhân đóng thuế thu nhập có
xu hướng giảm và tỉ trọng thuế thu nhập trên
tổng thu ngân sách hầu như không tăng trong
suốt những năm qua. Đây là một thực tế cần
suy ngẫm bởi lẽ trong giai đoạn hiện nay, có
nhiều lí do để ngân sách nhà nước phải kì
vọng vào thuế TNCN hơn trước đây.
- Thứ hai, thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao hiện hành chưa thật sự
công bằng.
Công bằng là tiêu chuẩn, đồng thời là
mục tiêu mà một hệ thống thuế phải đạt tới.
Hiện nay, nhiều quy định của Pháp lệnh thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao chưa
thực sự công bằng, làm ảnh hưởng đến hiệu
quả thu thuế và dễ tạo ra tâm lí “phản
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2007 30
kháng” của chủ thể nộp thuế. Cụ thể là:
+ Còn phân biệt biểu thuế áp dụng đối
với công dân Việt Nam và người nước ngoài.
Hiện nay, biểu thuế luỹ tiến từng phần áp
dụng cho công dân Việt Nam có mức khởi
điểm chịu thuế suất dương thấp hơn, đồng
thời độ dốc luỹ tiến lại cao hơn so với người
nước ngoài. Điều đó có nghĩa, với cùng một
mức độ thu nhập, công dân Việt Nam phải
nộp thuế nhiều hơn người nước ngoài. Quy
định này đã từng được giải thích là nhằm
khuyến khích người nước ngoài đến làm việc
tại Việt Nam để mang theo kinh nghiệm
quản lí, kĩ thuật tiên tiến, v.v.. Tuy nhiên,
những lí do này không đủ thuyết phục vì nó
làm mất đi sự công bằng đối với công dân
Việt Nam, đồng thời cho thấy Nhà nước đã
“làm thay” doanh nghiệp trong việc thu hút
nguồn lực từ bên ngoài. Nhà nước đã chính
thức xoá bỏ những quy định “hai giá” để
phân biệt mức giá chi tiêu giữa người Việt
Nam và người nước ngoài thì cũng đã đến
lúc phải xoá bỏ sự phân biệt thuế suất giữa
hai nhóm chủ thể này.
+ Không khấu trừ chi phí sinh hoạt, các
chi phí khác để tạo ra thu nhập.
Việc không khấu trừ chi phí tạo ra thu
nhập là đặc điểm khác biệt rất quan trọng
giữa việc xác định thu nhập chịu thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao với thu
nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặc
dù việc khấu trừ thu nhập đối với cá nhân là
việc làm không đơn giản(5), nhưng rõ ràng,
nếu không khấu trừ chi phí thì sẽ làm ảnh
hưởng đến tính công bằng của thuế. Ví dụ:
Hai người có mức thu nhập bình quân tháng
bằng nhau nhưng một người phải nuôi người
phụ thuộc sẽ có mức chi phí cao hơn trong
khi vẫn phải nộp thuế giống như người sống
độc thân. Mặc dù pháp luật hiện hành đã
khấu trừ chi phí cho một số đối tượng nhưng
như thế lại làm cho sự công bằng càng bị
ảnh hưởng vì những chủ thể khác không
được hưởng ưu đãi này.(6)
+ Nhiều khoản thu nhập bị “bỏ qua”,
không bị đánh thuế.
Theo quy định của pháp luật hiện hành,
rất nhiều khoản thu nhập của cá nhân đã bị
bỏ qua, không đưa vào diện thu nhập chịu
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
như: Các khoản thu nhập từ đầu tư vốn,
chuyển nhượng tài sản, quà biếu, quà tặng,
thừa kế… Về mặt lí luận, thuế TNCN phải
được đánh trên toàn bộ thu nhập của cá nhân
mới đảm bảo tính công bằng của thuế. Về
thực tiễn, hiện nay có rất nhiều cá nhân có
thu nhập cao từ những hoạt động kể trên mà
không bị đánh thuế nên gây lãng phí nguồn
thu cho ngân sách.
- Thứ ba, việc quy định thu thuế tại
nguồn đã gây ra những khó khăn trong việc
xác định chính xác số thuế phải nộp.
Để đảm bảo khả năng điều tiết thu nhập,
thuế TNCN thường quy định thuế suất lũy
tiến áp dụng cho tổng thu nhập chịu thuế.
Bên cạnh đó, để đảm bảo việc thu thuế, pháp
luật quy định tổ chức, cá nhân chi trả thu
nhập có trách nhiệm khấu trừ thuế thu nhập
đối với khoản thu nhập được chi trả để nộp
cho cơ quan thuế. Riêng đối với những
khoản chi phí mua ngoài như thù lao tư vấn,
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2007 31
tiền công sửa chữa v.v., việc khấu trừ được
xác định là 10% trên khoản thu nhập từ 500
ngàn đồng trở lên. Quy định như vậy có ưu
điểm là đảm bảo thu được thuế, tránh việc
trốn thuế, lậu thuế. Tuy nhiên, hiện nay việc
thực hiện đăng kí, kê khai nộp thuế thu nhập
đối với từng cá nhân chưa được áp dụng
rộng rãi và triệt để, thì cách thu thuế như vậy
sẽ không chính xác.(7)
4. Phương hướng hoàn thiện pháp luật
thuế TNCN ở Việt Nam
a. Những yêu cầu có tính nguyên tắc trong
việc xây dựng Luật thuế TNCN ở Việt Nam
- Thuế TNCN phải được quy định phù
hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác
định: "Áp dụng thuế TNCN thống nhất và
thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo
đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát
triển" và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về
thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất
và đồng bộ... Điều chỉnh chính sách thuế theo
hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng
đối tượng thu, điều tiết hợp lí thu nhập”.
Như vậy, Luật thuế TNCN cần xác định
phạm vi điều chỉnh rộng hơn nhằm đảm bảo
thực hiện nguyên tắc công bằng, bình đẳng
trong đánh thuế thu nhập theo hướng mọi cá
nhân có thu nhập đều phải chịu thuế. Việc đánh
thuế TNCN sẽ không phân biệt cá nhân kinh
doanh hay không kinh doanh, cá nhân là người
nước ngoài hay công dân Việt Nam.
- Luật thuế TNCN phải là công cụ hữu
hiệu để Nhà nước tăng thu ngân sách, đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể
hoá Nghị quyết Đại hội Đảng, Bộ Chính trị
đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến
năm 2010, trong đó đặt ra yêu cầu: “Cần
sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng
tỉ trọng các nguồn thu trong nuớc cho phù
hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện
thuế trực thu và tăng tỉ lệ thu từ thuế trực
thu”. Ở các quốc gia phát triển, tỉ trọng thuế
TNCN trên tổng thu ngân sách là khá cao,
trong khi đó tại Việt Nam số thu này là
không đáng kể. So với các sắc thuế gián thu
như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì thuế
TNCN đảm bảo công bằng tốt hơn, vì vậy,
việc tăng nguồn thu từ thuế trực thu là yêu
cầu hợp lí và cần thiết. Bên cạnh việc mở
rộng đối tượng điều chỉnh, Luật thuế TNCN
cần bao quát được các nguồn thu của cá
nhân, đồng thời hạn chế hiện tượng tránh
thuế, lậu thuế. Bên cạnh đó, cần xác định
một mức thuế suất hợp lí để vừa đảm bảo
nguồn thu cho ngân sách nhưng đồng thời
cũng không gây áp lực lên chủ thể nộp thuế.
- Luật thuế TNCN phải là công cụ để
đảm bảo công bằng xã hội.
Thực hiện công bằng xã hội là nhiệm vụ
của bộ máy nhà nước nói chung và pháp luật
luôn được coi là công cụ hữu hiệu. Luật thuế
TNCN cần phải đảm bảo khả năng điều tiết
thu nhập hợp lí đối với cá nhân có thu nhập.
Về lí thuyết, pháp luật càng cá thể hoá nghĩa
vụ nộp thuế bao nhiêu thì càng có thể đảm
bảo công bằng bấy nhiêu. Tuy nhiên, vấn đề
này cũng có tính hai mặt, bên cạnh việc đảm
bảo công bằng tốt hơn, việc cá thể hoá nghĩa
vụ nộp thuế cũng có thể làm sai lệch bản
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2007 32
chất công bằng.
Luật thuế TNCN còn phải đảm bảo việc
khấu trừ những chi phí một cách hợp lí để
duy trì cuộc sống có chất lượng của cá nhân
nộp thuế và tiếp tục tạo ra thu nhập. Để
thuận tiện cho việc áp dụng, những chi phí
này khó có thể cá thể hoá đến từng cá nhân
nộp thuế nên việc khấu trừ khống là cần thiết
cho công tác hành thu thuế. Tuy nhiên, khấu
trừ những khoản chi phí nào, mức khấu trừ
bao nhiêu, phương thức khấu trừ như thế nào
là những vấn đề lớn cần được cân nhắc, tính
toán kĩ trên cơ sở những số liệu điều tra cụ
thể, chính xác, không nên thiết kế một cách
áp đặt hoặc chung chung khó áp dụng. Về
nguyên tắc, những khoản chi phí sau đây cần
được khấu trừ:
+ Chi phí sinh hoạt bình quân của người
nộp thuế;
+ Chi phí nuôi dưỡng người phụ thuộc;
+ Chi phí tạo ra thu nhập: Tiền đầu tư
vốn, chi phí kinh doanh, v.v..
+ Chi phí phục hồi sức lao động hoặc bồi
thường: Tiền khám chữa bệnh không do bảo
hiểm chi trả, tiền bồi thường thiệt hại…
Để đảm bảo việc áp dụng được chính xác
và thuận tiện, việc quy định các khoản chi
phí được khấu trừ phải hết sức cụ thể, chính
xác và minh bạch.
- Luật thuế TNCN cần quy định phù hợp
với thực tiễn nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay, mức thu nhập bình quân trên
đầu người của Việt Nam còn thấp nên việc
quy định mức thuế suất cần dựa trên nguyên
tắc đảm bảo khuyến khích lao động sản xuất,
tạo thu nhập ổn định và làm giàu chính đáng.
Do đó, mức thuế suất phải được quy định
dựa trên các nguyên tắc sau đây:
+ Mức thuế suất phải đảm bảo, sau khi
nộp thuế, người nộp thuế vẫn phải có được
mức thu nhập không thấp hơn mức thu nhập
bình quân chung.
+ Khoảng cách giữa các mức thuế suất
và khoảng cách về mức thu nhập chịu thuế
của hai mức thuế suất cần xác định hợp lí,
không quá xa nhằm đảm bảo công bằng và
không gây xáo trộn về nghĩa vụ thuế.(8)
- Luật thuế TNCN phải đảm bảo nguyên
tắc hội nhập quốc tế.
Luật thuế TNCN phải thể hiện được tinh
thần của các hiệp định tránh đánh thuế hai
lần hoặc chí ít cũng cần quy định các nguyên
tắc áp dụng những hiệp định này trong việc
xác định nghĩa vụ thuế của người nước ngoài
có thu nhập tại Việt Nam hoặc thu nhập của
công dân Việt Nam ở nước ngoài. Nguyên tắc
này cũng cho phép áp dụng biểu thuế thống
nhất đối với tất cả các cá nhân, không kể đó
là công dân Việt Nam hay người nước ngoài.
b. Một số kiến nghị cụ thể đóng góp cho
việc xây dựng dự thảo Luật thuế TNCN
Hiện nay, dự thảo Luật thuế TNCN đang
trong giai đoạn lấy ý kiến nhân dân lần cuối
để chuẩn bị trình Quốc hội thông qua.
Nghiên cứu dự thảo này, chúng tôi xin có
một số đánh giá và kiến nghị như sau:
- Nếu quy định đánh thuế đối với thu
nhập từ thừa kế và quà tặng thì phải đánh
vào tất cả các tài sản chứ không nên chỉ áp
dụng đối với tài sản là cổ phiếu, trái phiếu,
quyền sở hữu doanh nghiệp, bất động sản
như theo quy định của dự thảo. Nếu không,
việc chuyển đổi tài sản hoặc chuyển dịch tài
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2007 33
sản ảo sẽ xảy ra nhằm tránh thuế. Việc đánh
thuế thừa kế đối với bất động sản là tài sản
thừa kế khi người được thừa kế đã có nhà ở
sẽ gây nhiều tranh cãi, vì không có chuẩn
mực thế nào là “nhà ở”.(9) Mặt khác, có thể
trước khi nhận thừa kế, người được thừa kế
sẽ chuyển nhượng nhà ở của mình cho người
khác. Do vậy, cần xác định việc đánh thuế
đối với bất động sản thừa kế cũng giống như
các tài sản thừa kế khác. Nếu đánh thuế vào
tất cả các loại quà tặng thì thu nhập từ kiều
hối cũng nên thuộc diện chịu thuế. Hiện nay,
pháp luật chưa hề có định nghĩa nào về kiều
hối, ngay cả trong Pháp lệnh ngoại hối 2005.
Về bản chất, kiều hối là ngoại hối do người
Việt Nam định cư, sinh sống ở nước ngoài
gửi về cho thân nhân trong nước nên nó là
một dạng quà tặng. Mặc dù chính sách của
Nhà nước là khuyến khích người Việt Nam ở
nước ngoài góp phần xây dựng quê hương
nhưng sự bình đẳng trong nghĩa vụ thuế
cũng rất cần được tôn trọng.
- Việc dự thảo Luật thuế TNCN quy định
đánh thuế vào lãi góp vốn, cổ tức được chia
là không hợp lí. Những khoản thu nhập này
là phần còn lại được chia sau khi doanh
nghiệp đã chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.
Về bản chất, khoản thu nhập từ lãi góp vốn,
cổ tức được chia khác với lãi gửi ngân hàng,
vì lãi gửi ngân hàng là khoản chi phí được
khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của
tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, nếu nhà làm
luật muốn điều tiết thu nhập, thì cần xác định
những khoản thu nhập này vào thu nhập
thường xuyên, chứ không phải thu nhập
không thường xuyên như dự thảo quy định
vì đây là khoản thu nhập có được theo định
kì (thường là một năm).
- Không nên quy định thu nhập từ lãi
mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc
nhà nước vì như vậy sẽ không công bằng với
những hình thức đầu tư khác như mua trái
phiếu công ti, kì phiếu ngân hàng… Bởi lẽ,
Nhà nước trong mối quan hệ với những
người nắm giữ trái phiếu cũng giống như
những tổ chức phát hành khác, đây là quan
hệ dân sự nên không thể có đặc quyền dành
riêng cho Nhà nước. Thiết nghĩ, Nhà nước
cần thu hút nguồn vốn thông qua uy tín và
niềm tin từ nhà đầu tư, chứ không phải là tạo
ra vị thế cao hơn so với những tổ chức khác
trong việc phát hành các công cụ vay nợ.
- Việc đánh thuế vào lãi cho vay nhưng
không đánh thuế đối với lãi tiền gửi tiết kiệm
là không hợp lí, bởi lẽ lãi tiền gửi tiết kiệm
về bản chất cũng là lãi cho vay. Tuy tiền gửi
tiết kiệm tại ngân hàng có quy chế pháp lí
riêng(10) nhưng không có khác biệt gì lớn so
với các loại tiền gửi khác của cá nhân. Nếu
quy định như vậy, chắc chắn việc đánh thuế
với lãi tiền gửi ngân hàng đối với cá nhân sẽ
không có hiệu quả, vì người dân sẽ chỉ sử
dụng hình thức gửi tiền tiết kiệm. Không
những thế, đây là sự không bình đẳng trong
quy định về quyền huy động vốn của tổ chức
tín dụng so với các loại hình doanh nghiệp
khác. Chúng tôi ủng hộ việc không đánh
thuế với lãi bảo hiểm nhân thọ nhằm khuyến
khích người dân tham gia loại hình dịch vụ
rất hữu ích này. Mặt khác, trong nhiều
trường hợp, lãi bảo hiểm nhân thọ cũng
tương tự như cổ tức, nghĩa là phần lợi nhuận
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2007 34
được chia sau khi doanh nghiệp bảo hiểm đã
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Trong trường hợp nộp thuế TNCN của
cá nhân kinh doanh chưa đủ điều kiện áp
dụng chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ (mà
hiện nay nhóm chủ thể này rất phổ biến),
theo chúng tôi, việc nộp thuế khoán là giải
pháp hợp lí. Tuy nhiên, không nên giao
quyền cho cơ quan thuế ấn định cả hai căn
cứ tính thuế là doanh thu, chi phí và thuế
suất mà chỉ nên ấn định doanh thu, chi phí
để đảm bảo cho việc áp dụng biểu thuế luỹ
tiến từng phần đối với nhóm chủ thể này.
Bên cạnh đó, việc dự thảo chỉ đánh thuế vào
chủ hộ kinh doanh mà không đánh thuế theo
mức bình quân của từng cá nhân trong hộ sẽ
dẫn đến tình trạng các thành viên khác
(thường là người thân trong gia đình) sẽ
được hưởng mức lương cao để làm giảm thu
nhập nhằm tránh thuế.
- Đối với những khoản thu nhập từ bản
quyền, nhượng quyền thương mại, chuyển
giao công nghệ, quà tặng, khuyến mại, trúng
thưởng xổ số và các trò chơi có thưởng,
không nên quy định mức khởi điểm là 10
triệu đồng mới đánh thuế nhằm hạn chế tình
trạng tránh thuế, do việc đánh thuế trong
những trường hợp này là đánh thuế từng lần.
Ví dụ: Chia nhỏ giá trị chuyển giao công
nghệ, nhượng quyền thương mại, quà tặng
thành nhiều phần, mỗi phần là một hợp đồng
có giá trị thấp hơn 10 triệu đồng thì sẽ không
bị đánh thuế.
- Việc phân biệt đối tượng cư trú và
không cư trú chỉ nên giới hạn trong việc xác
định các thủ tục hành chính thuế, không nên
phân biệt về nghĩa vụ thuế, vì sẽ không đảm
bảo sự bình đẳng giữa đối tượng cư trú và
không cư trú đối với cùng một loại thu nhập
(ví dụ: Thu nhập từ hoạt động kinh doanh
phải cùng xác định trên thu nhập bằng doanh
thu trừ chi phí, không thể áp dụng trên doanh
thu đối với riêng đối tượng không cư trú).
Do đó, trừ những quy định nhằm đảm bảo
tránh đánh thuế hai lần thì việc xác định
nghĩa vụ thuế đối với những khoản thu nhập
phát sinh ở Việt Nam của người không cư trú
cần phải quy định bình đẳng với người cư trú.
Bên cạnh đó, về kĩ thuật lập pháp, nếu việc
đánh thuế đối với người cư trú và không cư
trú là như nhau thì không cần phải quy định
nhắc lại làm cho văn bản luật dài dòng, chỉ
cần dẫn chiếu trong một điều luật là được.
- Cần quy định việc áp dụng các hiệp định
tránh đánh thuế hai lần làm cơ sở đảm bảo
quyền lợi đối với các đối tượng có thu nhập
từ nhiều quốc gia khác nhau, không nên quy
định chung chung về việc áp dụng điều ước
quốc tế như trong Điều 10 của dự thảo.
- Không nên quy định giá chuyển
nhượng quyền sử dụng đất xác định theo
nguyên tắc: theo giá hợp đồng, nếu giá hợp
đồng thấp hơn giá đất do UBND tỉnh quy
định thì xác định theo giá đất của UBND
tỉnh. Quy định như vậy tất yếu dẫn đến các
bên tham gia hợp đồng chỉ ghi mức giá bằng
với giá đất của UBND tỉnh đã công bố trong
các lần chuyển nhượng và kết quả là Nhà
nước không thu được thuế. Theo chúng tôi,
việc xác định giá quyền sử dụng đất cũng
cần phải dựa vào nguyên tắc thị trường như
đối với các bất động sản khác và Chính phủ
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 10/2007 35
cần có những quy định cụ thể hướng dẫn
việc xác định giá chuyển nhượng trong
trường hợp giá chuyển nhượng ghi trong hợp
đồng thấp hơn giá phổ biến trên thị trường.
- Quy định về mức chiết trừ gia cảnh cần
lưu ý đến mặt bằng chi tiêu thực tế của các
địa phương. Hiện nay, rõ ràng có những
chênh lệch về chi phí khá lớn giữa các địa
phương, ví dụ như giữa Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh với những tỉnh thành khác.
Nếu mức thu nhập chịu thuế và mức chiết
trừ gia cảnh giống nhau thì nơi nào có chi
phí bình quân cao hơn thì người nộp thuế sẽ
bị thiệt về thuế. Thiết nghĩ, dự thảo nên quy
định việc tham gia quyết định của chính
quyền cấp tỉnh trong việc xác định mức chiết
trừ gia cảnh. Ví dụ: Nên quy định Hội đồng
nhân dân tỉnh có quyền điều chỉnh trong giới
hạn nhất định theo quy định của Chính phủ
về mức chiết trừ gia cảnh để phù hợp với
tình hình thực tế của địa phương./.
(1). Ví dụ: Cộng hoà Pháp là quốc gia đánh thuế TNCN
vào hộ gia đình. Theo đó, thu nhập của các cá nhân
trong hộ, sau khi trừ đi các khoản chi phí sẽ chia đều cho
số thành viên của hộ gia đình. Số thuế phải nộp sẽ được
tính bằng cách áp dụng biểu thuế luỹ tiến cho một
thành viên và nhân với tổng số thành viên của hộ. Với
cách tính thuế này, nếu số thành viên của hộ nhiều thì
sẽ nộp thuế ít hơn. (Xem thêm: Michel Bouvier, “Tài
chính công”, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2003).
(2).Ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975, chính
quyền Việt Nam cộng hoà ban hành Luật thuế lợi tức
đánh vào thu nhập của cả doanh nghiệp và cá nhân
nhưng căn cứ tính thuế và thuế suất có khác nhau.
(3).Xem: Quyết định số 3855/2006/QĐ-BTC ngày
24/11/2006 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc công
khai số liệu dự toán NSNN năm 2007.
(4).Trong 4 lần ban hành (1991, 1994, 1997, 2001),
mức khởi điểm chịu thuế suất dương thường xấp xỉ
bằng 5,8 lần mức thu nhập bình quân nhưng đến lần
sửa đổi năm 2004, mức này là 6,9 lần. Xem: Tổng cục
thống kê, www.gso.gov.vn
(5). Thật khó có thể xác định mức chi phí thực tế để
khấu trừ một cách công bằng vì sự lựa chọn sinh hoạt
của từng cá nhân là khác nhau. Do vậy, pháp luật các
quốc gia đều lựa chọn một giải pháp là xác định một
số khoản chi phí khống. Chẳng hạn, nuôi một con nhỏ
sẽ được khấu trừ 300.000 đồng/tháng.
(6). Không thể có lí do thuyết phục để giải thích: Một
ca sĩ hoặc vận động viên, sẽ có mức chi phí vượt trội
hơn hẳn một kĩ sư trong việc tạo ra thu nhập, nếu xem
xét việc tạo ra thu nhập là một quá trình. Tuy nhiên,
theo quy định hiện hành, ca sĩ sẽ được khấu trừ 25%
thu nhập trước khi tính thuế, còn kĩ sư thì không.
(7). Ví dụ: Một người có 2 khoản thu nhập do 2 công ti
chi trả trong vòng 1 tháng, mỗi công ti là 2.500.000
đồng/tháng. Với quy định hiện nay, anh ta sẽ bị khấu
trừ 10%, mỗi công ti sẽ giữ lại 250.000 đồng tiền thuế.
Trong khi đó, thực chất tổng thu nhập của anh ta chỉ là
5.000.000 đồng, tức số thuế phải nộp bằng 0 đồng. Về
lí thuyết, anh ta có quyền yêu cầu cơ quan thuế tiến
hành quyết toán thuế và hoàn thuế. Tuy nhiên trên thực
tế, việc này rất khó khăn và thường bị bỏ qua.
Nếu một người càng có nhiều khoản thu nhập ở
nhiều nguồn khác nhau thì việc đánh thuế theo biểu
thuế luỹ tiến từng phần càng không chính xác.
(8). Theo pháp luật Trung Quốc hiện hành thì có 22
mức thuế suất, trong khi đó Pháp lệnh thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao hiện nay chỉ có 5 mức
thuế suất. Theo dự thảo Luật thuế TNCN gần đây
nhất có quy định 7 mức thuế suất từ 5% đến 35% (các
mức thuế suất cách nhau 5%)
(9). Luật nhà ở năm 2005 có quy định: Nhà ở là công
trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu
cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân (Điều 1). Rõ
ràng là vẫn không có tiêu chuẩn cụ thể nào về tiêu
chuẩn kĩ thuật để xác định một công trình là nhà ở
hay không.
(10).Xem: Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày
13/9/2004 ban hành Quy chế về tiền gửi tiết kiệm và
Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN ngày 25/9/2006 sửa
đổi, bổ sung Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luat_2007_10_5__5441.pdf