Mục lục
a. Phần mở đầu 1
i. Luận giải những vấn đề lý luận về kinh tế tư nhân 1
ii. đánh giá thực trạng của thành phần kinh tế tư nhân 2
iii. đề xuất những giải pháp 2
b. Nội dung 4
i. Những vấn đề lý luận về thành phần kinh tế tư nhân 4
ii. Thực trạng phát triển thành phần kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên cnxh ở việt nam 6
1. Những đóng góp của thành phần kinh tế tư nhân trong thời kì chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xhcn 6
2. Những hạn chế và yếu kém trong phát triển thành phần kinh tế tư nhân 10
iii. Một số đề xuất và giải pháp nhằm phát triển thành phần kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên cnxh ở việt nam 12
c.kết luận 16
danh mục tài liệu tham khảo 18
19 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3377 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng phát triển thành phần kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Kinh tế tư nhân được xác định như một giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Ngày nay, nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường đã đạt được những thành công không thể phủ nhận. Thực tế cho thấy chưa có nước nào thành công trong phát triển nền kinh tế thị trường lại thiếu khu vực kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân như một động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường. Đặc biệt đối với thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam thì thành phần kinh tế tư nhân càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Nó giúp hình thành xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới, giúp đất nước có thể đi tắt đón đầu cùng khoa học công nghệ hiện đại để phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam theo định hướng XHCN.
Vì vậy, việc nghiên cứu sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân là một yêu cầu cấp thiết đối với giới trẻ hiện nay. Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của các doanh nghiệp tư nhân cùng với vị thể chủ đạo của nó trong nền kinh tế Việt Nam.
NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
I. LUẬN GIẢI NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
Thực tế cho thấy, sự tồn tại của kinh tế tư nhân là một yêu cầu khách quan. Nhà nứơc không chỉ thừa nhận mà còn phải biết khai thác những tiềm năng của nó vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Đối với sự phát triển kinh tế tư nhân thì tư duy lý luận của Đảng cũng không ngừng phát triển thể hiện qua các kì Đại hội của Đảng.
Với tư duy đổi mới, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã xác định cải tạo là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kì quá độ với những hình thức và bước đi thích hợp. Do vậy cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân. Cho nên, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách biện pháp để phát triển thành phần kinh tế này. Vì vậy, kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân hoạt động dưới hình thức kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân như công ty TNHH, công ty cổ phần…) đã phát triển rất nhanh, thu hút đông đảo các tầng lớp dân cư tham gia.
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN
Bên cạnh những mặt tích cực của thành phần kinh tế tư nhân như là giải quyết vần đề việc làm, đóng góp 1/3 GDP toàn quốc, buộc các doanh nghiệp nhà nước phải đổi mới cạnh tranh tạo nên động lực mới trong kinh tế thì thành phần kinh tế tư nhân cũng bộc lộ nhiều hạn chế, cụ thể:
Hạn chế về vốn
Hạn chế về mặt bằng sản xuất
Hạn chế về khả năng tài chính và qui mô sản xuất
Hạn chế từ chính bản thân doanh nghiệp
Hạn chế về sự hiểu biết pháp luật
Hạn chế về thị trường tiêu thụ sản phẩm
III. ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP
Phải tạo lập sự bình đẳng thật sự giữa kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác.
Cần tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển
Nâng cấp và mở rộng các trung tâm dạy nghề của tỉnh ….
Cần có chính sách hỗ trợ về cung cấp các thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, đăng kí thương hiệu…..
Cần thay đổi cách nghĩ, cách nhìn, xoá bỏ mặc cảm của xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Cần có nghị định hướng dẫn và qui định cụ thể đối với đất ở, đất chuyên dùng, vấn đề thuế về quyền sử dụng đất….
Ban hành qui định về sở hữu tài sản tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh.
Khuyến khích hình thành các tổ chức khoa học công nghệ để tư vấn, hỗ trợ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về ứng dụng công nghệ và bồi dưỡng kiến thức khoa học.
Cần thành lập các quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ theo tinh thần nghị định của Chính phủ.
Đảng và Nhà nước tạo điều kiện động viên, khuyến khích mọi công dân tham gia đầu tư phát triển kinh tế tư nhân ( dưới các hình thức thích hợp) theo qui định của pháp luật, để tạo ra nhiều của cải cho xã hội.
B. NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN
Đặc trưng của thời kì quá độ là thời kì cùng tồn tại lâu dài và đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau giữa những yếu tố, thành phần, bộ phận…của nền kinh tế cũ tư hữu, với những yếu tố thành phần, bộ phận… của nền kinh tế mới xây dựng, công hữu. Trong đó, kinh tế tư nhân là thành tố quan trọng không thể thiếu của nền kinh tế thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá cùng với xu thế và dặc điểm của thời đại về mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là môi trường và điều kiện cho kinh tế tư nhân phát huy các ưu thế, hiệu quả của mình cho nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà.
Mặt khác, sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta còn là một đòi hỏi bức thiết của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước, đó là nhằm: huy động rộng rãi tiềm năng, nguồn lực trong toàn xã hội (nhất là về vốn đầu tư, lực lượng lao động, tư liệu sản xuất, các ngành nghề…) cùng với kinh nghiệm quản lý, tính năng động, nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo của kinh tế tư nhân, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế, giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động, đóng góp cho ngân sách nhà nước….thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”.
Trước đây, do nhận thức sai lầm về mô hình CNXH và con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam nên Đảng ta đã từng đề ra đường lối xây dựng CNXH với chủ trương “công hữu hoá, xoá tư hữu”, “coi tư hữu”, kinh tế tư nhân là “phi CNXH” là đối tượng của cách mạng XHCN cần phải cải tạo, loại bỏ.
Từ đường lối đổi mới (Đại hội VI của Đảng, 1986) nhất là đổi mới tư duy lý luận về mô hình CNXH và con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam với tinh thần khoa học và cách mạng. Quan điểm đó còn được thể hiện nhất quán qua các kì Đại hội Đảng cho đến nay và gần đây lại được nhấn mạnh trong Nghị quyết hội nghị BCHTW lần thứ 5, khoá IX (tháng 3 – 2002) của Đảng: “kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Theo tinh thần đó, các ngành, các địa phương thực hiện nhất quán chính sách đối với kinh tế tư nhân, tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi, an toàn, tin cậy hấp dẫn để thu hút các nguồn đầu tư của kinh tế tư nhân (ở cả trong và ngoài nước) để thúc đẩy phát triển sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội theo phương hướng và mục tiêu đã định. Nhờ vậy, trong những năm qua, nhất là từ khi có luật Doanh nghiệp ra đời (tháng 1 – năm 2000), kinh tế tư nhân đã có chuyển biến lớn, số lượng doanh nghiệp tư nhân đăng kí của cả nước tăng nhanh qua các năm: năm 1991là 132 doanh nghiệp, năm 1999: 42393 doanh nghiệp, đến tháng 10 – 2002: 66780 doanh nghiệp và đến cuối năm 2003 là khoảng 120000 doanh nghiệp. Tiềm năng phát triển kinh tế tư nhân hiện còn rất lớn cả về vốn đầu tư, lao động ngành nghề, quan hệ thị trường”.
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
1. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KÌ CHUYỂN SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
Nhìn lại quá trình đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội cho sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những đóng góp của kinh tế tư nhân vào xây dựng và phát triển đất nước được thể hiện qua các mặt sau:
- Thứ nhất, thời gian qua khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam đóng vai trò tích cực và có hiệu quả đối với giải quyết việc làm. “Theo thống kê năm 2000, lĩnh vực phi nông nghiệp cả nước có hơn 4,6 triệu người làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân. Trong đó số người làm việc trong các doanh nghiệp, công ty chiếm khoảng 18%, kinh doanh cá thể tiểu chủ chiếm khoảng 82%. So với tổng lao động toàn xã hội thì khu vực này chiếm 12% và chiếm gần 70% lực lượng lao động xã hội trong khu vực phi nông nghiệp”[tr 435, 2]. Bên cạnh đó, thực hiện luật khuyến khích đầu tư trong nước (KKĐTTN) theo thống kê chưa đầy đủ, sau 9 năm thực hiện (1996 – 2003) cả nước đã có 12.638 dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, với tổng số vốn đầu tư thực hiện trên 192.484 tỷ đồng (tương đương trên 12,8 tỷ USD). Trong đó, giai đoạn 1996 – 1997 là trên 1,2 tỷ USD, năm 2000 là 1,7 tỷ USD, năm 2002 là 2,8 tỷ USD. Các dự án đầu tư theo luật KKĐTTN đã thu hút và tạo việc làm cho 1.516.456 lao động. Tính bình quân mỗi dự án có số vốn đầu tư khoảng 15,2 tỷ đồng và thu hút khoảng 120 lao động.
- Thứ hai, đóng góp vào nguồn thu ngân sách.
Bảng 2: Đóng góp của kinh tế tư nhân (% GDP)
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Khu vực nhà nước
39.9
40.5
40.0
38.7
38.5
38.4
38.3
Khu vực tư nhân
60.1
59.5
60.0
61.3
61.5
691.6
61.7
Nông nghiệp
27.8
25.8
25.8
25.4
24.5
23.2
23.0
Khu vực nhà nước
1.3
1.2
1.1
1.0
1.0
0.9
0.9
Khu vực tư nhân
26.5
24.6
24.7
24.4
23.6
22.3
22.1
Công nghiệp và xây dựng
29.7
32.1
32.5
34.5
36.7
38.1
38.5
Khu vực nhà nước
14.4
15.4
15.4
15.5
16.4
16.8
17.1
Khu vực tư nhân
15.3
16.7
17.1
19.0
20.3
21.3
21.4
Dịch vụ
42.5
42.2
41.7
40.1
38.7
38.6
38.5
Khu vực nhà nước
24.3
33.9
23.5
22.2
21.2
20.7
20.3
Khu vực tư nhân
18.3
18.2
18.2
17.9
17.6
18.0
18.2
Theo số liệu của Tổng cục Thuế, khu vực kinh tế tư nhân đã nộp vào ngân sách nhà nước: năm 2000 là 110.003 tỷ đồng, chiếm 16,1% tổng thu ngân sách, năm 2001 nộp 11.075 tỷ đồng chiếm 14,8% tổng thu ngân sách. Các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp vào ngân sách nhà nước với tỷ lệ ngày một tăng (theo bảng 2 ta có thể thấy rõ).
- Thứ ba, huy động nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển
Kinh tế cá thể, tiểu chủ tuy quy mô nhỏ nhưng với số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh lớn nên đã động viên được nhiều nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh từ 14.000 tỷ đồng năm 1992 đã tăng lên 26.500 tỷ đồng vào năm 1996, chiếm tới 8,5% tổng số vốn đầu tư sản xuất kinh doanh của toàn xã hội. Các doanh nghiệp tư bản tư nhân đã huy động lực lượng vốn vào kinh doanh là 20.665 tỷ đồng (tính đến hết năm 1996). “Mặc dù trong những năm đổi mới vừa qua với chính sách mở cửa kêu gọi đầu tư nước ngoài của Nhà nước đã thu hút thêm nguồn FDI ngày một tăng( từ 13.7% tổng số vốn đầu tư phát triển của cả nước năm 1990 lên đến 25% năm 1998) nhưng khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn đóng góp lượng vốn đầu tư rất đáng kể cho nền kinh tế: 49% tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội năm 1990 và trên 21% năm 1998, tức là chiếm trên 1/5 tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội – là tỷ trọng không nhỏ”[tr134,3].
- Thứ tư, góp phần tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý hiệu quả, hiện đại
- Thứ năm, tạo nên sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất thực hiện dân chủ hoá kinh tế, kích thích và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Khu vực kinh tế tư nhân phát triển đa dạng về hình thức sở hữu, về quản lý, và về phân phối tạo nên sự phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở các ngành, các lĩnh vực sản xuất từ đó tạo khả năng huy động rộng rãi tiềm năng nguồn lực, động lực trong toàn xã hội để đẩy mạnh sản xuất tạo ra nhiều của cải làm giàu cho mình và cho đất nước (khắc phục tình trạng trì trệ trong nền kinh tế tập trung, bao cấp trước đây). Sự chuyển biến trong quan hệ sản xuất nói trên kéo theo sự chuyển biến trong quan hệ quản lý: hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân bên cạnh đội ngũ giám đốc các doanh nghiệp nhà nước, hình thành đội ngũ những người lao động làm thuê trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân bên cạnh những người làm công ăn lương trong các doanh nghiệp nhà nước…xuất hiện các quan hệ chủ thợ, quan hệ thuê mướn lao động thông qua hợp đồng kinh tế, thị trường lao động bước đầu được hình thành và ngày càng phát triển.
Những chuyển biến của quan hệ sản xuất nói trên đã khơi dậy và phát huy được tiềm năng và vốn, tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là nguồn lao động dồi dào và tiềm lực của hàng triệu hộ nông dân, hộ cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Nhờ vậy đã góp phần quan trọng vào xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống dân cư, góp phần đưa đất nứơc vượt qua khủng hoảng và là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhiều năm liền trong khu vực và thế giới.
- Thứ sáu, góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ.
“Trong những năm gần đây, đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp đã có dấu hiệu gia tăng, chủ yếu do sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam mang theo những công nghệ và kĩ năng quản lý mới đồng thời tạo ra sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến để duy trì thị phần của mình trên thị trường. Năm 2002, ứơc tính cả nước có khoảng 200 hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong đó khoang 90% số hợp đồng là của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”.[tr6,4]
- Thứ bảy, góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hiện đại hoá sản xuất.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân tạo ra khối lượng lớn về hàng xuất khẩu, đồng thời mở rộng khả năng và là đối tác thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam.
Thực hiện đường lối và mục tiêu về mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia ngày càng sâu rộng và đầy đủ vào các tổ chức APTA, APEC, WTO…Không thể thiếu sự đóng góp ngày càng to lớn của các doanh nghiệp tư nhân.
2. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ YẾU KÉM TRONG PHÁT TRIỂN THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN
Hạn Chế Về Vốn
Có thể nói khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam còn yếu kém về đầu tư vốn, trình độ công nghệ tay nghề của công nhân, năng lực quản lý và những yếu tố khác, cũng như gặp khó khăn trong việc duy trì lợi nhuận và đảm bảo sức cạnh tranh cần thiết.
Cụ thể: tình trạng thiếu vốn rất phổ biến do bản thân các doanh nghiệp của tư nhân mới được thành lập và phát triển trong những năm gần đây, nên vốn đầu tư và tài sản ít, không đủ thế chấp cho các khoản vay cần thiết, chưa đủ uy tín để vay mà không cần thế chấp. Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh lại ngần ngại cho các doanh nghiệp tư nhân vay vốn. Cùng với việc doanh nghiệp khó tiếp cận được tín dụng ưu đãi đầu tư của nhà nước. Một thực tế diễn ra là thời gian phê duyệt thủ tục vay ưu đãi kéo dài, làm cho các nhà đầu tư mất cơ hội kinh doanh. Tình trạng các dự án đã được cấp ưu đãi đầu tư của năm trước đến năm sau mới được xem xét về tín dụng, ưư đãi còn diễn ra phổ biến trong qui trình xét cấp ưu đãi. Do vậy gây ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch đầu tư của các doanh nghiệp.
Hạn Chế Về Mặt Bằng Sản Xuất
Thiếu mặt bằng sản xuất, cũng như các điều kiện hạ tầng sản xuất cần thiết là tình trạng chung của khu vực kinh tế tư nhân.
Nhìn chung chất lượng qui hoạch của nhiều địa phương còn kém. Do vậy chính sách hỗ trợ tạo điều kiện cho doanh nghệp có mặt bằng sản xuất kinh doanh vẫn là vấn đề bức xúc. Cụ thể các địa phương còn chậm qui hoạch mặt bằng dành cho các hoạt động sản xuất công nghiệp, nên các doanh nghiệp tư nhân thường không có cơ hội thuê đất ở địa phương để xây dựng nhà xưởng sản xuất. Các khu công nghiệp lớn, cơ sở hạ tầng hiện đại giá thuê cao. Nhiều doanh nghiệp tư nhân phải thuê lại đất của các doanh nghiệp nhà nước và giá cao để sản xuất.
Hạn Chế Về Khả Năng Tài Chính Và Qui Mô Sản Xuất
Nhìn chung, tuy các doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế song qui mô còn quá nhỏ bé cộng thêm khả năng tài chính hạn chế dẫn đến không đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Hạn Chế Từ Công Tác Quản Lý Và Cơ Chế Chính Sách Của Nhà Nước
Tồn tại nhiều thủ tục hành chính rườm rà không cần thiết hoặc bất cập với yêu cầu thực tiễn, dẫn đến không những tạo cơ hội phát triển tệ sách nhiễu, tham nhũng của các cơ quan và công chức hành chính, mà còn có thể khiến doanh nghiệp mất những cơ hội kinh doanh tốt, hoặc phải trả giá đắt hơn cho các giao dịch làm ăn của mình.
Hiện nay có hiện tượng là văn bản pháp qui do bộ, ngành nào dự thảo thì thường nghiêng về quyền lực và lợi ích của bộ, ngành đó, không đứng về phía người thi hành là doanh nghiệp thậm chí không đứng về lợi ích của toàn xã hội, ngược lại, gò bó trói buộc người dân và doanh nghiệp.
Hạn Chế Về Trình Độ Và Kỹ Năng Quản Lý
Trình độ quản lý kinh doanh còn yếu do không được đào tạo cơ bản, chủ yếu vừa học vừa làm, khó ứng phó được trước những tác động bên ngoài, hạn chế về khả năng ngoại ngữ, thiếu thông tin thị trường. Theo thông tin của hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Hà Nội, khoảng một nửa chủ doanh nghiệp( trong số 12000 doanh nghiệp vừa và nhỏ Hà nội) chưa qua đào tạo chính thức. Trong điều kiện như vậy, nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chỉ có thể kinh doanh nhỏ, không thể mở rộng phạm vi hoạt động hoặc khó thiết lập quan hệ với các đối tác làm ăn bài bản.
Ngoài Ra Còn Một Số Hạn Chế Khác Như:
Hạn chế từ chính bản thân doanh nghiệp, hạn chế về sự phân biệt đối xử đối với khu vực tư bản tư nhân, hạn chế về sự hiểu biết pháp luật và hạn chế về thị trường tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu.
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
Phải tạo lập sự bình đẳng thật sự giữa kinh tế tư nhan với các thành phần kinh tế khác để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có môi trường cạnh tranh lành mạnh. Từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực ban hành thì doanh nghiệp tư nhân đã có được một bước phát triển vượt bậc, song hiện nay vẫn còn không ít những cản trở trong chỉ đạo điều hành, nhất là một số địa phương, ngành còn để tồn tại các loại giấy phép còn trái với Luật Doanh nghiệp. Nhiều biểu hiện khác, về thực chất đang làm sống lại một phần cái gọi là cơ chế “xin – cho” đã từng tồn tại trong cơ chế bao cấp trước đây. Môi trường cạnh tranh chưa được lành mạnh còn do có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau. Bởi vậy, trong thời gian tới cần nghiên cứu để có giới hạn hợp lý đối với các lĩnh vực Nhà nước trực tiếp bảo hộ hoặc lĩnh vực cần thiết phải duy trì độc quyền Nhà nước để sửa đổi, bổ sung cả Luật Doanh nghiệp Nhà nước và Luật Doanh nghiệp sao cho môi trường kinh doanh được bình đẳng hơn trên cơ sở tất cả các doanh nghiệp tham gia sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều chịu sự điều chỉnh của một luật chung.
Cần tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi quan điểm đường lối chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân. Ngoài ra, cũng cần xây dựng và hoàn thiện đồng bộ luật pháp chính sách đảm bảo tính nhất quán và ổn định. Khi có thay đổi nhất là các hạn chế hoặc cấm sản xuất kinh doanh cần có thời gian chuyển tiếp cần thiết để giảm thiểu những rủi ro, thiệt hại của nhà đầu tư. Nên có chính sách giúp doanh nghiệp tư nhân được dùng giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc góp vốn cổ phần liên doanh với các doanh nghiệp khác trong cả nước.
“Nâng cấp và mở rộng các trung tâm dạy nghề của tỉnh, khuyến khích hỗ trợ các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước mở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân và dạy nghề cho người lao động”[tr12,4].
Cần có chính sách hỗ trợ về cung cấp các thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, đăng ký thương hiệu hàng hoá đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp tư nhân để đội ngũ doanh nhân của đất nước càng lớn mạnh cả về kiến thức pháp luật lẫn kỹ năng quản lý để đáp ứng được các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Bởi vì số lượng các doanh nghiệp tư nhân ngày một đông, nhưng trên thực tế trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý và hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế.
Cần thay đổi cách nghĩ, cách nhìn, xoá bỏ mặc cảm của xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân, trước hết là trong nhận thức của chính đội ngũ công chức nhà nước. “ Thời gian qua đã có nhiều cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng và Chính phủ với các doanh nhân, các cấp, các ngành đã dành nhiều phần thưởng để tôn vinh vị trí của doanh nhân trong khu vực kinh tế tư nhân, song những mặc cảm mức độ này, mức độ khác vẫn còn nặng nề …làm cho các chủ doanh nghiệp tư nhân và kể cả những người lao động trong khu vực này vẫn chưa thật sự yên tâm, chưa mạnh dạn đầu tư làm ăn lâu dài”[tr598,2].
Cần có các nghị định hướng dẫn và qui định cụ thể đối với đất ở, đất chuyên dùng, đất nhận chuyển nhượng hợp pháp, vấn đề thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế chuyển mục đích sử dụng, tiền thuê đất, quy hoạch đất, tái định cư. Sửa đổi quy định để đất ở đã được cấp quyền sử dụng đất đang dùng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh do doanh nghiệp mua lại quyền sử dụng, hoặc đã được giao đất có thu tiền sử dụng đất đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài thay vì thuê đất.
Ban hành qui định về sở hữu tài sản tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp khu vực tư nhân được dùng tài sản hình thành từ nguồn vốn vay để thế chấp vay vốn ngân hàng. Đơn giản hoá các thủ tục cho vay đi liền với tăng cường các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn cho kinh tế tư nhân.
Khuyến khích hình thành các tổ chức khoa học công nghệ để tư vấn hỗ trợ, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về ứng dụng công nghệ và bồi dưỡng kiến thức khoa học. Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ cho kinh tế tư nhân. Các địa phương cần có những chính sách hỗ trợ như: mở các lớp ngắn hạn miễn phí bồi dưỡng kiến thức khoa học công nghệ cho hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân; hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin thuê, mua trả góp thiết bị để đổi mới công nghệ, thực hiện tốt việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Cần sớm thành lập các quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ theo tinh thần Nghị định của Chính phủ. Cơ chế hoạt động, đối tượng được vay vốn từ Quỹ Hỗ trợ đầu tư phát triển đã được Chính phủ sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 106/2004/NĐ-CP, tuy nhiên vẫn tồn tại một số vấn đề: đối tượng được vay bị thu hẹp, mức áp dụng lãi suất chưa được phù hợp.
Đảng và Nhà nước tạo điều kiện, động viên, khuyến khích mọi công dân tham gia đầu tư phát triển kinh tế tư nhân (dưới các hình thức thích hợp) theo qui định của pháp luật, để tạo ra nhiều của cải cho xã hội
Theo đó, đảng viên, nếu không đang là cán bộ, công chức nhà nước thì được phát triển kinh tế tư nhân, là chủ doanh nghiệp tư nhân, là chủ doanh nghiệp tư nhân, không giới hạn về qui mô, trình độ. Thực hiện chủ trương phát huy nội lực, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đảng viên phải gương mẫu đi đầu, phải biết lam giàu cho mình và cho đất nước, để lôi kéo, giúp đỡ quần chúng noi theo, không nên viện lý do “trở thành nhà tư bản bóc lột” để ngăn cấm.
C. KẾT LUẬN
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang trong thời kì quá độ sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, ở đó tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều trình độ phát triển thuộc nhiều phương thức sản xuất khác đan xen nhau, tạo nên sự đa dạng trong cơ cấu các hình thức kinh tế thời kì quá độ. Trong đó hình thức kinh tế tư nhân đã và sẽ giữ vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Lịch sử phát triển hàng trăm năm của nền kinh tế TBCN cũng như hơn 70 năm của nền kinh tế XHCN đã chứng minh điều đó. Sau mấy trăm năm phát triển, nền kinh tế các nước TBCN phát triển vẫn chủ yếu là nền kinh tế tư nhân, còn sau hơn 70 năm thử xây dựng một nền kinh tế gồm hai thành phần chi phối là nhà nước và tập thể, phần lớn các nước XHCN trước đây phải trở lại với kinh tế tư nhân. Trong công cuộc đổi mới kinh tế vừa qua ở Việt Nam, trong khi chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã coi trọng sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và điều đó đã đem lại những thành công ngoạn mục. Xin nêu một sự kiện: Chỉ với Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong chính sách đổi mới quản lý sản xuất nông nghiệp, trao lại quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho kinh tế hộ nông dân đã đủ sức gây nên một sự đột biến kỳ diệu mà ít người hình dung nổi là Việt Nam từ một nước thiếu lương thực luôn phải nhập khẩu chỉ sau hơn một năm đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân dựa trên cơ sở, động lực cá nhân, lợi ích cá nhân và sở hữu tư nhân. Thế mạnh đó sẽ tồn tại lâu dài. Việc sử dụng động lực đó vào mục tiêu phục vụ cho lợi ích chung của xã hội là rất cần thiết.
Vì lẽ đó, cần quán triệt quan điểm phát triển khu vực kinh tế tư nhân là tất yếu khách quan, và lâu dài trong suốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, kinh tế tư nhân cần được khuyến khích, phát triển không hạn chế về qui mô và lĩnh vực hoạt động (miễn là pháp luật không cấm) có lợi cho quốc kế dân sinh. Thêm nữa, cần thiết phải đặt kinh tế tư nhân ở vị trí bình đẳng với khu vực kinh tế nhà nước cũng như khu vực kinh tế hỗn hợp trên mọi phương diện (luật pháp, hỗ trợ vay vốn, đào tạo nhân lực …) để khu vực kinh tế tư nhân xứng đáng là một động lực mạnh của sự phát triển kinh tế đất nước trong tương lai vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trên đây mới chỉ là một số nhận định và tóm tắt của tôi về những vấn đề liên quan đến sự phát triển thành phần kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Chắc chắn rằng bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý và bổ sung của bạn đọc.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS ĐÀO PHƯƠNG LIÊN đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Hoàng Kim – Các thành phần kinh tế Việt Nam. Thực trạng, xu thế và giải pháp – Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội – năm 1993
2. Lê Hữu Nghĩa, Đinh Văn Ân – Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Lý luận và thực tiễn – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – năm 2004
3. Hà Huy Thành – Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Lý luận và chính sách – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – năm 2002
4. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 12(319) tháng 12/2004
5. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 11(318) tháng 11/2004
6. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số4(311) tháng 4/2004.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng phát triển thành phần kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN.DOC