MỞ ĐẦU.
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp Việt Nam đến năm 2020 đã nêu rõ: Ngành công nghiệp tiếp tục giữ vai trò động lực, quyết định sự phát triển nền kinh tế, đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
Tại diễn đàn hội thảo Quốc tế “Xây dựng và thực hiện chiến lược công nghiệp Việt Nam”, Hà Nội đầu năm 2005, giáo sư Nhật Bản Ohno đã phát biểu: “Việt Nam cần tập trung phát triển mạnh các ngành công nghiệp trọng điểm, có lợi thế cạnh tranh, có thị trường, có khả năng hút vốn lớn, khuyến khích phát triển các ngành và các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, quy trình công nghệ cao, tăng cường năng lực nghiên cứu phát triển công nghệ trong nước, làm chủ công nghệ hiện đại ”
Thật vậy, trong quá trình phát triển đất nước, ở mỗi giai đoạn khác nhau, Đảng và Nhà nước luôn xác định các ngành công nghiệp trọng điểm, để đề ra các cơ chế, chính sách thích hợp, nhằm tạo những đòn bẩy, phát triển kinh tế.
Trong xu thế hội nhập, cả thế giới đang hòa mình vào dòng chảy lớn của nền kinh tế toàn cầu hóa. Những năm đầu của thế kỷ mới, đã ghi dấu những bước phát triển quan trọng của đất nước. Vị thế của Việt Nam đang ngày càng được khẳng định bằng hàng loạt các sự kiện chính trị, kinh tế quan trọng. 17h ngày 07/11/2006 Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO); là thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009
Với ngành dầu khí – một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, sau hơn 30 năm kể từ khi thành lập (năm 1975), mô hình mới - Tập đoàn kinh tế được xem là bước ngoặt quan trọng để ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam tăng tốc, khẳng định vai trò trụ cột của nền kinh tế đất nước.
Năm 2006 cũng là một năm đánh dấu một bước chuyển lớn lao của ngành dầu khí. Bộ chính trị, Chính phủ đã chính thức phê duyệt Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2015 và định hướng phát triển đến 2025. Hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành trong năm 2006 đã tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng cao, với tổng doanh thu đạt 168,7% kế hoạch, tăng 17,5% so với năm 2005; nộp ngân sách tăng 26,7% so với năm trước, chiếm xấp xỉ 28,5% tổng thu ngân sách Nhà nước. Hoạt động hợp tác đầu tư về công nghiệp dầu khí ở trong nước và nước ngoài tiếp tục được đẩy mạnh và thu những kết quả tốt. Không những thế, công tác hoàn thiện bộ máy tổ chức, đưa hoạt động của ngành vận hành theo cơ chế tập đoàn đã được thực hiện, mở ra những yếu tố tích cực để ngành tiếp tục phát triển bền vững, hội nhập có hiệu quả
Có thể nói, vận hội đang “gõ cửa”, thời gian đến năm 2020 không còn nhiều. Những nước được gọi là “con rồng”, “con hổ” trong khu vực đã tìm được cho mình một mô hình phát triển phù hợp với thế mạnh của họ. Trước bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra từng ngày từng giờ, công nghiệp Việt Nam đang tìm cho mình một cách đi riêng. Chúng ta đang học hỏi, tiếp thu tri thức và kinh nghiệm của các nước đi trước, đồng thời đang phát huy thế mạnh từ thực tiễn phát triển đất nước, để xây dựng một mô hình phát triển công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp trọng điểm - có khả năng cạnh tranh, chiếm tỷ trọng đáng kể tại thị trường trong nước và quốc tế; có khả năng tạo hiệu ứng lan toả, dẫn dắt và kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp khác Chỉ có như thế, ngành công nghiệp Việt Nam mới tạo ra những điểm nhấn, những bước tiến mạnh mẽ, rút ngắn nhanh khoảng cách với các nước khác. Mô hình ấy sẽ tạo nên bản sắc công nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ thực tế đó, là giáo viên Địa lý chuyên ngành KT – XH, được sự đồng tình, ủng hộ của GS. TS. Lê Thông, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Thực trạng phát triển và định hướng phát triển của ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam trong xu thế hội nhập" cho luận văn tốt nghiệp của mình, với tham vọng tìm hiểu, nghiên cứu một ngành công nghiệp trọng điểm còn rất mới, rất trẻ, rất thời sự trong xu thế hội nhập và xa hơn nữa mong góp phần như một tài liệu tham khảo.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu.
2.1. Mục đích.
Vận dụng cơ sở lý luận chung về công nghiệp và thông qua sự phát triển của công nghiệp trọng điểm Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hóa đất nước, đề tài làm rõ vai trò, điều kiện, thực trạng phát triển và định hướng phát triển của ngành công nghiệp dầu khí với tư cách là một ngành công nghiệp trọng điểm.
2.2. Nhiệm vụ.
- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn về việc phát triển ngành công nghiệp dầu khí với tư cách là một ngành công nghiệp trọng điểm.
- Tìm hiểu vai trò, tình hình phát triển của ngành công nghiệp dầu khí trong xu thế hội nhập.
- Kiểm kê, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành.
- Kiểm kê, phân tích thực trạng phát triển của ngành.
- Đưa ra một số định hướng và giải pháp phát triển cho ngành công nghiệp
trọng điểm dầu khí.
2.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Đối tượng nghiên cứu: Công nghiệp dầu khí, chủ yếu là khai thác với tư cách là ngành công nghiệp trọng điểm
- Phạm vi nghiên cứu: Trên phạm vi cả nước.
- Thời gian nghiên cứu: Tập trung vào khoảng từ 1995 – 2006.
3. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu.
3.1. Quan điểm.
3.1.1.Quan điểm hệ thống - cấu trúc.
Đây là hệ quan điểm quan trọng nhất trong nghiên cứu địa lý. Quan điểm này đòi hỏi phải phân tích đối tượng như một hệ thống “động” trong các mối liên hệ biện chứng giữa đối tượng với chỉnh thể mà bản thân nó là một bộ phận cấu thành. Dầu khí là lĩnh vực rất rộng, một hệ thống bao gồm nhiều phân hệ phức tạp. Nội dung nghiên cứu về công nghiệp dầu khí vừa đa dạng, vừa liên quan đến nhiều vấn đề có quy mô và bản chất khác nhau. Vì thế trong nghiên cứu này phải được phân tích trong sự phát triển và phân bố của ngành công nghiệp, cũng như trong giai đoạn đầu của hội nhập và phát triển.
3.1.2. Quan điểm lãnh thổ.
Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong một không gian (lãnh thổ) và được xác định trong một thời điểm nhất định. Vì vậy, cần phải gắn đối tượng nghiên cứu với không gian mà nó đang tồn tại cũng như không gian xung quanh.
Công nghiệp dầu khí được đặt trong cơ cấu kinh tế Việt Nam và là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng của lãnh thổ. Sự phát triển và phân bố của ngành dầu khí vừa có tác động và vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc đến các vùng lãnh thổ trên toàn quốc, cũng như khu vực và thế giới.
3.1.3. Quan điểm lịch sử viễn cảnh.
Các quá trình kinh tế xã hội không ngừng vận động theo thời gian và biến đổi trong không gian. Vận dụng quan điểm lịch sử viễn cảnh cho phép cắt nghĩa được sự biến động của đối tượng trong quá khứ, hiện tại cũng như trong tương lai ._____
121 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6931 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng phát triển và định hướng phát triển của ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam trong xu thế hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong tương lai, với sự quan tâm sâu sắc của nhà nước và xã hội cùng sự đầu tư lớn của Tập đoàn, ngành công nghiệp khí tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm nguồn năng lượng cho nhu cầu phát triển kinh tế của quốc gia và chắc chắn sẽ có những đóng góp hơn nữa trong công cuộc phát triển kinh tế, góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Cho đến nay, Việt Nam mới TKTD và khai gần một phần ba diện tích thềm lục địa. Chắc chắn, sẽ còn nhiều mỏ dầu, khí đốt còn ẩn chứa tại những nơi chưa tiến hành thăm dò, thậm chí ngay cả khu vực nhà đầu tư đã tìm kiếm cũng chưa hẳn đã phát hiện hết nguồn tài nguyên quan trọng này.
Hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí trong giai đoạn này đã kế thừa và phát huy những thành quả của giai đoạn trước của ngành, khẳng định vị trí của ngành trong hệ thống các ngành công nghiệp Việt Nam và đưa nền công nghiệp dầu khí Việt Nam sánh ngang với tầm khu vực.
2.3.4. Triển vọng công nghệ lọc, hóa dầu.
Nếu như tìm kiếm, thăm dò và khai thác là khâu thượng nguồn, thì các hoạt động liên quan đến chế biến gồm: tàng trữ, vận chuyển, xử lý, chế biến lọc dầu, hoá dầu, phân phối và kinh doanh sản phẩm dầu khí (hoặc sản phẩm dẫn xuất từ dầu khí), thuộc khâu hạ nguồn trong lĩnh vực dầu khí. Từ việc tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thượng nguồn, sau hơn 10 năm thành lập ngành, Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã mở rộng sang lĩnh vực trung nguồn và hạ nguồn.
2.3.4.1. Lọc dầu.
Dầu mỏ Việt Nam khai thác hiện nay chủ yếu là dầu thô và phục vụ trực tiếp cho việc xuất khẩu. Ngay sau khi Việt Nam khai thác tấn dầu thô đầu tiên năm 1986 từ mỏ Bạch Hổ, thì đồng thời một kế hoạch xây dựng nhà máy lọc dầu công suất khoảng 6,5 triệu tấn/ năm đã được triển khai nghiên cứu. Tuy nhiên, những biến động về tình hình chính trị xã hội ở Liên Xô (năm 1991), nên kế hoạch đã không thực hiện được.
Trong giai đoạn 1992 – 2000, cùng với việc sản lượng khai thác dầu hàng năm và nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trong nước liên tục tăng, việc xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 tại Dung Quất (Huyện Bình Sơn) - Quảng Ngãi với công suất: 6,5 triệu tấn/năm, là một đề án hợp lý có tầm vĩ mô của Chính Phủ xét dưới góc độ kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn này, những nguyên nhân khách quan và chủ quan từ phía nhà thầu và chủ đầu tư, nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất đã không triển khai đúng kế hoạch. Năm 2004, ngành dầu khí đạt kim ngạch xuất khẩu gần 5,7 tỷ USD, tương đương 19,5 triệu tấn dầu thô, vượt 93% kế hoạch năm về doanh thu ngoại tệ, chiếm ngót 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của các ngành kinh tế trong nước. Tuy nhiên, mục tiêu của Tập đoàn dầu khí Việt Nam không chỉ dừng lại ở xuất khẩu dầu thô mà chính là phát triển công nghệ lọc dầu nhằm phục vụ trực tiếp cho nhu cầu trong nước, hạn chế nhập khẩu xăng dầu và đảm bảo an ninh năng lượng. Các công trình trọng điểm dầu khí, đặc biệt nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất đã và đang được triển khai một cách khẩn trương. Với dự án lọc dầu này, đích thân Thủ tướng Chính Phủ Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo. Cứ 10 ngày Tập đoàn dầu khí Việt Nam phải báo cáo tiến độ 1 lần. Động thái này đang chứng tỏ tầm quan trọng và tích cấp bách của công trình. Hiện tại, dự án đã hoàn thành cơ bản công tác chuẩn bị mặt bằng và một số hạng mục đã được đưa vào sử dụng. Tập đoàn dầu khí Việt Nam đang cùng nhà thầu Technip (Pháp), JGC (Nhật), Reunida Technica (Tây Ban Nha), triển khai hợp đồng phát triển, thiết kế tổng thể của gói 1 với việc bổ sung hai phân xưởng xử lý LCO bằng Hydro và đồng phân hoá Naptha nhẹ. Với công suất 6,5 triệu tấn/năm, nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất sẽ áp dụng công nghệ chế biến sâu, hiện đại trên thế giới và cho sản phẩm: LPG, xăng không chì, dầu hoả, nhiên liệu phản lực, diesel (DO), dầu mazut (FO) và Propylene để sản xuất Polypropylene. Dự kiến cuối năm 2008, nhà máy lọc dầu số 1 sẽ vận hành thử và chính thức được đưa vào hoạt động tháng 02/2007.
Mặc dù nhà máy Lọc dầu số 1 Dung Quất phải hơn 1 năm nữa mới được đưa vào vận hành, nhưng Chính phủ đã quyết định triển khai xây dựng nhà máy số 2, với công suất dự kiến 7 – 8,4 triệu tấn/năm. Địa điểm được chọn là Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Nguyên liệu đầu vào được dự tính là dầu thô Việt Nam (Sư Tử Đen), kết hợp với dầu thô nhập khẩu từ Trung Đông (Dubai, Iran, Ả Rập...), hoặc 100% dầu thô Trung Đông nhập khẩu.
Hơn mười năm, sau khi chính thức quyết định chọn Dung Quất để xây nhà máy Lọc dầu số 1, Việt Nam đang hâm nóng lại ý tưởng xây dựng cụm công nghiệp lọc hoá dầu ở Long Sơn (Bà Rịa - Vũng Tàu). Đây chính là địa điểm mà tập đoàn dầu khí Total của Pháp đã khảo sát kỹ, với ý định sẽ đầu tư xây dựng nhà máy lọc dầu số 1. Tuy nhiên, sau đó Việt Nam lại chọn Dung Quất và Total cũng đã dừng lại ý định đầu tư. Với dự án này, Tập đoàn dầu khí Việt Nam muốn khai thác tối đa lợi thế về điều kiện tự nhiên, vị trí kinh tế, giao thương dịch vụ quốc tế, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội khu vực. Chọn Long Sơn làm địa điểm hình thành cụm công nghiệp dầu khí tập trung liên hoàn có tầm cỡ trong khu vực chính là mục tiêu của Tập đoàn dầu khí Việt Nam. Cụm công nghiệp này có chức năng đáp ứng và đẩy mạnh các loại hình dịch vụ chuyên ngành dầu khí trong nước và quốc tế. Nhà máy lọc dầu số 3 sẽ là hạt nhân của các vệ tinh gồm các nhà máy và cơ sở dịch vụ khác: hóa dầu, sản xuất điện cực, luyện thép, chế tạo cơ khí thiết bị dầu khí, đóng tàu; cảng tổng hợp phục vụ cho khu công nghiệp và khu căn cứ dịch vụ tổng hợp. Theo dự kiến, nhà máy lọc dầu số Long Sơn có công suất khoảng 200 ngàn thùng dầu/ngày, tương đương 10 triệu tấn /năm; diện tích xây dựng khoảng 400 ha; tổng vốn đầu tư 6 tỷ USD. Nguồn dầu thô dự kiến sẽ nhập từ Venezuela.
Ngoài ba nhà máy lọc dầu trên, Tập đoàn dầu khí Việt Nam đang nghiên cứu tiếp dự án xây dựng nhà máy lọc dầu số 4. Theo nguồn tin mới nhất ngày 16-11-2007, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý chấp thuận cho UBND tỉnh Phú Yên, cấp giấy chứng nhận đầu tư dự án xây dựng Nhà máy lọc dầu Vũng Rô do Công ty Technostar Management Ltd (vương quốc Anh) và Công ty Dầu khí Telloil (Cộng hòa liên bang Nga), làm chủ đầu tư. Theo cam kết, nhà máy nhà máy lọc dầu số 4 phải được xây dựng với công nghệ tiên tiến, thiết bị mới, bảo đảm về an toàn, môi trường, sản phẩm của nhà máy đạt yêu cầu chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam. UBND tỉnh Phú Yên cho biết, dự án này có vốn đầu tư 500 triệu USD, công suất 3 triệu tấn dầu thô/năm.
Bảng 2.7: Các nhà máy lọc dầu trong tương lai.
Thông tin
Nhà máy
Địa điểm
Công suất
Sản phẩm
Hoàn thành
Dung Quất
Huyện Bình Sơn – Tỉnh Quảng Ngãi
6,5 triệu tấn/năm
LPG, xăng không chì, dầu hoả, nhiên liệu phản lực, diesel (DO), dầu mazut (FO), Propylene để sản xuất Polypropylene.
Tháng 02/2009
Nghi Sơn
Huyện Tĩnh Gia - Tỉnh Thanh Hoá
Dự kiến 7 – 8,4 triệu tấn/năm.
Nhiên liệu và các sản phẩm hoá dầu.
Năm 2013
Long Sơn
Long Sơn - Bà Rịa – Vũng Tầu
Dự kiến công suất 10 triệu tấn/năm.
(LPG); xăng A 92, 95, 98; dầu hỏa và dầu ZA1; dầu diezel; dầu FO.
Năm 2025
Vũng Rô
Phú Yên
Dự kiến công suất 3 triệu tấn/năm.
Nguồn: Tập đoàn dầu khí Việt Nam.
Như vậy, nếu theo kế hoạch trong khoảng 20 năm tới Việt Nam sẽ có ít nhất bốn nhà máy lọc dầu.
2.3.4.2. Hoá dầu.
Công nghiệp hoá dầu là một ngành công nghiệp rất mới mẻ ở Việt Nam. Do điều kiện khách quan và chủ quan Việt Nam chưa có điều kiện xây dựng các khu liên hiệp lọc hoá dầu hoàn chỉnh. Để đáp ứng nhu cầu thị trường và xuất phát từ xây dựng ngành công nghiệp hiện đại, phục vụ công cuộc CNH - HĐH đất nước. Tập đoàn dầu khí đã chủ trương phát triển ngành công nghiệp hoá dầu theo hướng từ nhập mononer từ nước ngoài về chế biến sản xuất các sản phẩm hoá dầu trong giai đoạn đầu, sau đó tiến tới sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước qua việc hình thành và phát triển các tổ hợp hoá dầu trên cơ sở nguồn nhiên liệu từ dầu và khí, tạo thành một chu trình khép kín từ khâu lọc dầu đến khâu hoá dầu.
Để đáp ứng dần dần nhu cầu thị trường trong nước, Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã hợp tác với các công ty nước ngoài để triển khai các đề án như: đề án liên doanh sản xuất nhựa PVC với Petronas; đề án liên doanh sản xuất phụ gia hoá dẻo DOP với LG, Vinachem. Các dự án khác còn đang ở giai đoạn đàm phán hoặc chờ đợi một số điều kiện thuận lợi về đầu tư như dự án sản xuất PP, dự án liên doanh sản xuất nhựa PS với Marubeni, dự án Methanol trên bờ với Lurgi, Ancom, dự án Methanol nổi với GCS, Ugland, dự án sản xuất phụ gia tẩy rửa (LAB)…
Tập đoàn dầu khí đã và đang triển khai các dự án hoá dầu sau:
* Các dự án đã đi vào hoạt động:
- Tháng 1/1997, dự án sản xuất DOP (sản xuất phụ gia hoá dẻo), công suất 30.000 tấn/năm, được thực hiện liên doanh giữa PetroVietnam (15%), LG và Tổng công ty Hoá chất Việt Nam đã đi vào sản xuất.
- Dự án sản xuất nhựa PVC công suất 100.000 tấn/năm, Liên doanh giữa PetroVietnam (43%), Petronas (50%) và Tramatsuco (7%), đã chính thức đi vào hoạt động từ tháng 1/2003. Hiện nay, Tập đoàn đang đàm phán bán phần góp vốn cho Công ty Thai Plastics & Chemicals (Thái Lan).
- Dự án nhà máy sản xuất phân đạm Phú Mỹ, công suất 740.000 tấn urê/năm và 1.350 tấn amôniắc/ngày đã chính thức đi vào hoạt động từ tháng 9/2004, đáp ứng hơn 40% nhu cầu trong nước, góp phần bình ổn thị trường, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Nhà máy là một công trình hóa dầu hàng đầu của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, sản xuất urê chất lượng cao đáp ứng phần lớn nhu cầu thị trường, góp phần bình ổn giá cả phân bón trong nước. Sau hơn 2 năm hoạt động, đến nay nhà máy đã đảm nhiệm hoàn toàn việc vận hành, làm chủ được công nghệ, đảm bảo các sản phẩm đều đạt tiêu chuẩn quốc tế.
* Các dự án đang triển khai:
- Dự án Nhà máy sản xuất phân đạm Cà Mau công suất 800.000 tấn/năm, hiện đang trong giai đoạn đấu thầu EPC. Dự kiến đưa vào hoạt động cuối năm 2010.
- Dự án Polypropylene, công suất 150.000 tấn/năm (tại Dung Quất). Dự án đầu tư hiệu chỉnh đã được phê duyệt, hiện đang đấu thầu EPC, với mục tiêu năm 2009 nhà máy sẽ đi vào vận hành.
- Dự án Tổ hợp hoá dầu miền Nam: Tập đoàn dầu khí Việt Nam đang cùng với Tập đoàn Sian Cement, Công ty Thai Plastic và Tổng công ty Hoá chất đang triển khai lập dự án đầu tư và chuẩn bị thành lập Công ty liên doanh.
Một số dự án khác đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư: LAB (nguyên liệu sản xuất chất tẩy rửa tổng hợp); PET (sơ sợi tổng hợp); Nhựa đường, sản xuất dung môi…
Nói chung, các dự án về hoá dầu còn gặp nhiều khó khăn vì chưa khẳng định được dự báo của thị trường hoặc sự thiếu chắc chắn của việc cung cấp nguyên liệu ban đầu từ nhà máy lọc dầu hoặc từ nguồn khí.
Dựa trên nhu cầu thị trường, cân đối với nguồn nguyên liệu và khả năng phát triển của Tập đoàn dầu khí, các hoạt động trong lĩnh vực hoá dầu theo Chiến lược phát triển ngành dầu khí sẽ được phát triển theo 3 giai đoạn như sau:
+ Giai đoạn tới 2010:
Xây dựng Cụm hoá dầu số 1 gắn với nguyên liệu từ NMLD Dung Quất, bao gồm nhà máy sản xuất PP (chất dẻo). Chuẩn bị để đầu tư xây dựng các nhà máy hoá dầu khác (như muội than, LAB,…) trong giai đoạn tiếp theo.
Khai thác Cụm hoá dầu số 2 tại Đông Nam bộ từ các dự án Nhà máy sản xuất phân Đạm, nhà máy sản xuất PVC, nhà máy sản xuất DOP... (đã đi vào hoạt động). Bắt đầu triển khai xây dựng tổ hợp hoá dầu sản xuất etylen từ condensat/naphta trong cụm hoá dầu số 2 để sản xuất olefin làm nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất PE, PP để có thể đưa vào hoạt động vào cuối năm 2011 và xây dựng Nhà máy sản xuất phân Đạm Cà Mau.
+ Giai đoạn 2011-2015:
Tiếp tục phát triển cụm hoá dầu số 2 tại Đông Nam bộ theo hướng: Đa dạng hoá sản phẩm Nhà máy đạm Phú Mỹ, dự án sản xuất xơ sợi tổng hợp (PET). Xây dựng Cụm hoá dầu số 3 với Liên hợp LHD Nghi Sơn - Thanh Hoá, bao gồm các nhà máy sản xuất chất dẻo (PP), xơ sợi tổng hợp (PET) và một số sản phẩm hoá dầu khác.
+ Giai đoạn 2016 - 2025:
Tiếp tục phát triển các cụm lọc hoá dầu số 2 và 3. Nghiên cứu khả năng mở rộng tổ hợp hoá dầu miền Nam hoặc xây dựng tổ hợp hoá dầu mới từ khí nếu có đủ nguồn nguyên liệu. Trong thời gian tới, theo Chiến lược phát triển, Tập đoàn dầu khí Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động trong lĩnh vực hoá dầu với tư cách là người cung cấp nguyên liệu và chủ đầu tư chính.
2.3.4.3. Phân phối và kinh doanh sản phẩm dầu khí.
Phân phối và kinh doanh là một phần quan trọng trong hoạt động của Tập đoàn dầu khí. Đây là lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, cơ sở hạ tầng đồng bộ, đội ngũ cán bộ có trình độ cao về quản lý và kinh doanh để phát triển kinh doanh xăng dầu. Lĩnh vực này đảm bảo cho việc kinh doanh - phân phối sản phẩm từ nhà máy lọc dầu số 1 và số 2, số 3 và xây dựng Tập đoàn dầu khí Việt Nam thành một tổ hợp sản xuất khép kín.
Khai thác dầu thô và chưa có nhà máy lọc dầu, vậy nên toàn bộ dầu thô Việt Nam đã khai thác, đều được tàng trữ trong trạm rót dầu không bến với công suất 100.000 - 150.000 tấn và được tàu chở dầu nước ngoài đến tiếp nhận để xuất khẩu. Trong tương lai, ngành dầu khí sẽ tổ chức một đội tàu chở dầu thô phục vụ xuất khẩu, chuyên chở dầu cho nhà máy lọc dầu và vận tải sản phẩm dầu khí đến các hộ tiêu thụ. Hiện nay, Tập đoàn dầu khí Việt Nam đang hướng dẫn các công ty Petechim (thuộc Tập đoàn dầu khí Việt Nam), Falcon (thuộc Cục hàng hải) và NTT (Nhật Bản), đàm phán, hoàn thiện hồ sơ dự án để trình Bộ Kế hoạch và Đầu tư duyệt và cấp giấy phép thành lập một công ty liên doanh chuyên về vận tải dầu thô xuất khẩu.
Tính đến thời điểm này, chính phủ Việt Nam chưa cho phép các công ty nước ngoài tham gia đơn thuần hoạt động phân phối sản phẩm xăng dầu nên trong hoạt động này chưa có dự án có vốn đầu tư nước ngoài nào được ký kết ngoại trừ việc phân phối sản phẩm của dự án chế biến dầu khí và hoá dầu. Thời gian qua, Petrovietnam rất tích cực tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài qua các đề án phân phối sản phẩm dầu khí được phép khác như: liên doanh Vinagas đóng bình và phân phối khí hoá lỏng với PTT (Thái Lan) và Total (Pháp), liên doanh Thăng Long đóng bình và phân phối hoá lỏng với Petronas (Malaysia).
Hiện nay, Tập đoàn dầu khí đã lập quy hoạch tổng thể về phát triển hệ thống cơ sở, cũng như mạng lưới phân phối và kinh doanh sản phẩm dầu khí. Đây là cơ sở để phục vụ công tác bán buôn và bán lẻ bao gồm hệ thống tổng kho dầu mới từ Bắc - Trung – Nam, phía Nam Cần Thơ và Nhà Bè với tổng công suất 65.000m3 đảm bảo sức chứa để kinh doanh tại khu vực Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Khu vực miền Trung sử dụng hệ thống kho sản phẩm 247.000m3 của nhá máy lọc dầu Dung Quất. Miền Bắc tổng kho xăng dầu Đình Vũ (Hải Phòng) với công suất 45.000m3 đã bắt đầu xây dựng 3 - 2001.
Ngoài ra còn có các hệ thống cây xăng bán lẻ, phương tiện vận tải ô tô, tàu biển nhằm phục vụ cho việc tiêu thụ sản phẩm của nhà máy lọc dầu sẽ được hoàn thành. Trong tương lai, sản phẩm dầu khí từ các nhà máy lọc dầu được phân phối theo hình thức sau:
Hình 2.1. Hình thức phân phối.
Các nhà máy lọc Dầu
Doanh nghiệp
kinh doanh
Hộ tiêu thụ lớn
Cửa hàng Xăng Dầu
Người tiêu dùng
Nguồn: Tập đoàn dầu khí Việt Nam – 30 năm dầu khí
Việt Nam – cơ hội và thách thức.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DẦU KHÍ VIỆT NAM ĐẾN 2010 VÀ TẦM NHÌN 2020.
3.1. Quan điểm, mục tiêu, địnnh hướng, quy hoạch phát triển ngành dầu khí.
3.1.1. Quan điểm.
Hơn 30 năm xây dựng và phát triển, đến nay Tập đoàn dầu khí đã đạt được những thành tựu vô cùng quan trọng. Từ khi có chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và nhà nước, đặc biệt từ sau khi có nghị quyết 15 của Bộ Chính trị, luật đầu tư nước ngoài… ngành dầu khí đã bước vào giai đoạn phát triển mới. Bước đầu ngành đã thiết lập được nền tảng quan trọng cần thiết về cơ sở vật chất, tài chính và nhân lực. Đây là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của toàn ngành trong giai đoạn tới, trên tất cả các khâu thăm dò, khai thác, chế biến, lọc dầu, hoá dầu, kinh doanh các sản phẩm dầu khí, thương mại, dịch vụ dầu khí…
Trên cơ sở đó, quan điểm chỉ đạo được cụ thể như sau:
* Phát huy nội lực và mở rộng hợp tác quốc tế.
* Hòa nhập môi trường cạnh tranh khu vực và quốc tế.
* Mở rộng đầu tư ra nước ngoài.
* Phát triển vai trò chủ đạo của Doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực dầu khí.
* Bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái cho sự phát triển bền vững của đất nước.
3.1.2. Mục tiêu chiến lược.
Xuất phát từ những định hướng lớn về phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước đã đặt ra, mục tiêu phát triển chiến lược của ngành dầu khí Việt Nam từ nay đến năm 2020 là: “Phấn đấu xây dựng ngành dầu khí Việt Nam phát triển toàn diện, đưa Tập đoàn dầu khí Việt Nam trở thành một Tập đoàn dầu khí kinh tế mạnh, hoạt động, đa ngành, tham gia tích cực và bình đẳng vào quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, đảm bảo an ninh nhiên liệu, nguyên liệu, cung cấp phần lớn các sản phẩm hoạt động cho đất nước, đồng thời tích cực góp phần vào việc bảo vệ chủ quyền của quốc gia, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trương sinh thái”. (Nguồn: “Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến 2015 và định hướng đến 2025”).
Các mục tiêu cụ thể như sau:
Đẩy mạnh đầu tư công tác tìm kiếm thăm dò, gia tăng trữ lượng có thể khai thác một cách hợp lý, ưu tiên các vùng khó khăn. Phấn đấu gia tăng trữ lượng dầu khí hàng năm đạt 35 - 40 triệu tấn dầu quy đổi.
Khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm nguồn tài nguyên dầu khí trong nước để sử dụng lâu dài; đồng thời tích cực mở rộng hoạt động khai thác dầu khí ở nước ngoài. Phấn đấu khai thác 25-38 triệu tấn quy dầu/năm trong đó khai thác dầu thô giữ ổn định ở mức 18-20 triệu tấn/năm và khai thác khí 6-17 tỷ m3/năm.
Tích cực phát triển thị trường tiêu thụ khí trong nước, sử dụng khí tiết kiệm, hiệu quả kinh tế cao. Xây dựng và vận hành an toàn hệ thống đường ống dẫn khí quốc gia; sẵn sàng kết nối với đường ống dẫn khí khu vực Đông Nam Á phục vụ cho nhu cầu xuất nhập khẩu khí. Sản xuất 10-15% tổng sản lượng điện của cả nước.
Tích cực thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là đầu tư từ nước ngoài để phát triển nhanh công nghiệp chế biến dầu khí. Kết hợp có hiệu quả giữa các công trình lọc, hoá dầu, chế biến khí để tạo ra được các sản phẩm cần thiết phục vụ nhu cầu của thị trường ở trong nước và làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp khác.
Tích cực thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế, tăng nhanh tỷ trọng doanh thu từ dịch vụ.
Tăng cường phát triển tiềm lực khoa học công nghệ, đầu tư trang thiết bị hiện đại để hiện đại hoá nhanh ngành dầu khí; xây dựng lực lượng quản lý cán bộ, công nhân dầu khí mạnh cả về chất và lượng để điều hành các hoạt động dầu khí cả ở trong nước và ở nước ngoài.
3.1.3. Định hướng phát triển.
Để đạt được các mục tiêu đó, Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã đưa ra các định hướng lớn đến năm 2020 là:
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí nhằm sớm xác định rõ chính xác tiềm năng của đất nước, từ đó làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược phát triển ngành dầu khí.
- Tích cực gia tăng sản lượng khai thác dầu khí, góp phần đảm bảo cân đối ngân sách quốc gia, đồng thời tạo tiền đề phát triển toàn diện ngành công nghiệp dầu khí của đất nước.
- Đẩy mạnh khâu chế biến dầu khí nhằm từng bước đảm bảo nhiên liệu cho phát triển đất nước, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp hoá dầu, đặc biệt là nguyên liệu sản xuất sợi tổng hợp cho các ngành công nghiệp dệt và may mặc, sản xuất phân đạm, chất nổ, chất dẻo, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp như dầu nhờn, nhựa đường, chất tổng hợp....
- Phát triển công tác dịch vụ dầu khí, nhằm đảm bảo cung cấp 60% - 70% dịch vụ nhu cầu công nghiệp dầu khí. Song song với phát triển dịch vụ kỹ thuật trong ngành, Tập đoàn dầu khí Việt Nam tích cực hỗ trợ các bộ, ngành địa phương tham gia ngày càng nhiều vào việc cung cấp dầu khí từ khâu tìm kiếm, thăm dò, đến khâu chế biến, vận chuyển dầu khí.
- Phát triển thương mại dầu khí, tham gia vào tiến trình kinh doanh dầu thô quốc tế và xuất nhập khẩu các sản phẩm khí.
- Từng bước phát triển hoạt động ra nước ngoài cả về thăm dò và khai thác, dịch vụ và thương mại nhằm đảm bảo nguồn cung cấp dầu khí lâu dài của đất nước.
- Phát huy nội lực, kết hợp khéo léo và hợp tác đầu tư nước ngoài, hội nhập bình đẳng các cộng đồng, tổ chức dầu khí ở khu vực và trên thế giới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước các Bộ ngành, địa phương có liên quan và sự nỗ lực phấn đấu của các thành viên trong Tập đoàn dầu khí, ngành dầu khí sẽ chắc chắn đóng góp ngày càng nhiều trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
* Định hướng theo ngành.
Trong thời gian tới ngành dầu khí phải đạt được một số yêu cầu cơ bản sau:
- Xác định yêu cầu và khả năng đáp ứng các nhu cầu về năng lượng dầu khí và các sản phẩm khác về dầu khí cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch phát triển các nghành kinh tế của đất nước.
- Xây dựng hoàn chỉnh chiến lược phát triển ngành, quy hoạch và nội dung kế hoạch dài hạn để từng bước xây dựng ngành dầu khí thành ngành công nghiệp hoàn chỉnh từ các khâu tìm kiếm thăm dò, khai thác tàng trữ vận chuyển phân phối và tiêu thụ sản phẩm sử dụng có kết quả nguồn tài nguyên dầu khí của đất nước.
- Thực hiện đa phương hoá quan hệ hợp tác trên nguyên tắc tôn trọng quyền lợi của mỗi bên, đồng thời với việc coi trọng hình thức tự lực như một yếu tố chiến lược trong tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí. Đa dạng hoá hình thức triển khai như hợp đồng phân chia sản phẩm, hợp đồng liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Theo tính toán sơ bộ, để đầu tư phát triển các dự án dầu khí đã và sẽ được Nhà nước phê duyệt từ nay đến năm 2010, ngành dầu khí cần có số vốn đầu tư khoảng 20,4 tỷ USD. Trong đó vốn tự huy động để đầu tư mở rộng của Tập đoàn dầu khí Việt Nam là 8,4 tỷ USD, phần còn lại tiếp tục thu hút vốn đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân trong và ngoài nước. Tính riêng cho nhu cầu vốn đầu tư cho công tác tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí giai đoạn 2000 - 2010 đã là 1,62 tỷ USD. Vì vậy việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dầu khí Việt Nam là rất cần thiết.
Cụ thể:
- Sản lượng khai thác dầu khí
+ Giai đoạn 2006 - 2010: 25~ 30 triệu TOE/năm; trong đó dầu thô khai thác
trong nước: 18 ~ 19 triệu tấn; Khí đốt: 8 ~ 10 tỷ m3; dầu thô khai thác ở
nước ngoài: 0,2 ~ 1 triệu tấn
+ Giai đoạn 2011 - 2015: 31~ 34 triệu TOE/năm; trong đó dầu thô khai thác
trong nước: 16 ~ 18 triệu tấn; Khí đốt: 11 ~ 15 tỷ m3; dầu thô khai thác ở nước ngoài: 1,2 ~ 3 triệu tấn
+ Giai đoạn 2016 - 2025: 34~ 35 triệu TOE/năm; trong đó dầu thô khai thác trong nước: 13 ~ 15 triệu tấn; Khí đốt: 15 ~ 16 tỷ m3; dầu thô khai thác ở nước ngoài: 3,5 ~ 5,5 triệu tấn
- Đầu tư phát triển bổ sung các mỏ dầu khí hiện đang khai thác và mở thêm các mỏ dầu khí mới.
- Đầu tư phát triển các công trình đường ống dẫn khí để cấp khí cho các nhà máy điện và hộ công nghiệp và xây dựng quy hoạch tổng thể hệ thống sử dụng khí tại Nam Bộ và Đồng bằng Bắc Bộ.
- Phát triển công nghệ chế biến dầu khí nhằm đảm bảo an ninh nhiên liệu. Hoàn thành đúng kế hoạch việc xây dựng các trung tâm lọc hoá dầu.
3.1.4. Quy hoạch phát triển.
Bảng 3.1. Quy hoạch phát triển dầu khí đến năm 2010 và dự báo đến 2020.
(Phương án cơ sở)
Năm
Sản lượng dầu khí trong nước
Sản lượng dầu khí ngoài nước 106T.
Tổng cộng sản lượng dầu trong & ngoài nước.
Dầu 106T
Khí 109m3
2000
16,5
1,5
-
2001
17,0
1,72
-
2002
17,09
2,0
-
2003
17,0
3,7
-
2004
17,0
5,5
-
2005
17,0
6,66
0,15
17,16
2006
17,01
7,11
0,49
17,05
2007
17,51
10,04
1,15
18,66
2008
17,83
11,62
1,60
19,43
2009
18,04
11,77
2,30
20,34
2010
17,58
12,00
3,0
20,58
2011
17,49
12,57
3,0
20,49
2012
16,79
13,38
3,0
19,79
2013
15,08
13,21
2,9
17,98
2014
13,72
15,02
3,25
16,97
2015
12,34
12,92
3,75
16,09
2016
9,62
13,71
4,50
14,12
2017
8,60
14.03
5,2
13,80
2018
6,46
14,03
5,70
12,16
2019
5,61
14,03
6,0
11,61
2020
4,72
14,03
6,0
10,72
Cộng
300
208,55
51,99
351,99
Nguồn: Tập đoàn dầu khí Việt Nam – Chiến lược ngành dầu khí.
Bảng 3.2. Quy hoạch phát triển dầu khí đến năm 2010 và dự báo đến 2020.
(Phương án cao)
Năm
Sản lượng dầu khí trong nước
Sản lượng dầu khí ngoài nước 106T.
Tổng cộng sản lượng dầu trong & ngoài nước.
Dầu 106T
Khí 109m3
2000
16,5
1,5
-
2001
17,0
1,72
-
2002
17,09
2,0
-
2003
17,0
3,7
-
2004
17,0
5,5
-
2005
17,0
6,66
0,8
17,81
2006
17,01
7,11
1,2
18,21
2007
17,51
10,04
1,55
19,06
2008
17,83
11,62
2,10
19,33
2009
18,04
11,77
3,0
21,04
2010
17,58
14,0
4,0
21,58
2011
17,49
14,07
5,5
22,99
2012
17,24
14,88
5,5
22,74
2013
16,28
15,31
5,35
21,63
2014
15,87
16,15
5,25
21,12
2015
15,54
17,02
6,3
21,84
2016
13,62
17,81
7,0
20,62
2017
13,60
18,13
7,5
21,1
2018
12,12
18,13
8,2
20,32
2019
11,27
18,13
8,2
19,47
2020
10,15
18,13
7,8
17,95
Cộng
332,57
244,38
79,25
4121,0
Nguồn: Tập đoàn dầu khí Việt Nam – Chiến lược ngành dầu khí.
3.2. Một số giải pháp.
3.2.1. Nghiên cứu mở rộng thị trường và khách hàng.
Nghiên cứu thị trường là một công việc cần thiết đầu tiên, đòi hỏi bất kỳ một công ty nào tham gia vào thị trường thế giới.
Hiện nay, tuy sản lượng dầu xuất khẩu của Tập đoàn dầu khí Việt Nam ngày càng tăng nhanh, nhưng công tác nghiên cứu thị trường, thu nhập thông tin về thị trường, khách hàng, nhu cầu, khả năng cung ứng trên thị trường thế giới thì còn rất yếu kém. Tập đoàn dầu khí vẫn chưa có phòng Marketing để đảm công tác nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường nhằm định hướng cho việc sản xuất được tốt hơn, cho biết sản phẩm nên được bán ở đâu để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Vì thế, Tập đoàn dầu khí nên thành lập riêng ra một phòng ngiên cứu thị trường và khách hàng tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất khẩu dầu thô nói riêng và kinh doanh trong các lĩnh vực khác của Tập đoàn dầu khí nói chung.
Từ năm 1999 đến nay, cơ cấu thị trường dầu thô của Tập đoàn dầu khí đã thay đổi từ 5 lên đến 9 thị trường chủ yếu là các thị trường châu Á như Nhật Bản chiếm từ 30 – 40% thị trường dầu thô của Tập đoàn dầu khí. Bên cạnh đó thì một số thị trường như Mỹ, cũng đang tăng nhanh. Do vậy, để đảm bảo cho quá trình sản xuất khai thác dầu được thường xuyên liên tục cần phải có sự duy trì tốt với các khách hàng truyền thống như Nhật Bản, Singapo, hơn nữa đó phải luôn tìm kiếm, mở rộng thêm các thị trường mới và chú trọng hơn trong công tác phát triển các thị trường đang lên như thị trường Mỹ và Trung Quốc.
3.2.2. Tìm vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
Để đạt được mục tiêu phát triển đạt ra, vấn đề quan trọng có tính chất quyết định chính là khả năng tài chính. Trong giai đoạn 2001-2005, do phải tập trung xây dựng mới hệ thống phân phối, cũng như các dự án về chế biến, nên nhu cầu đầu tư của giai đoạn này rất lớn. Tổng nhu cầu cho giai đoạn 2001 - 2005 là 3170,4 triệu USD trong đó nhu cầu đầu tư cho:
Tìm kiếm thăm dò : 55 triệu USD.
Phát triển mỏ : 428,6 triệu USD.
Chế biến và hoá dầu : 1456 triệu USD.
Phân phối sản phẩm dầu khí : 799,3 triệu USD.
Dịch vụ dầu khí : 178,7 triệu USD.
Đầu tư khác : 55 triệu USD.
Trong tổng nhu cầu thì nhu cầu vốn đầu tư cho nhà máy lọc dầu Dung Quất và đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn cần nhiều vốn đầu tư nhất. Các dự án mà Tập đoàn dầu khí đầu tư chủ yếu là đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho nên phải có lượng vốn lớn.
Trước nhu cầu về vốn lớn như vậy, Tập đoàn dầu khí phải có những giải pháp để huy động và sử dụng một cách có hiệu quả. Tập đoàn dầu khí Việt Nam là Tập đoàn dầu khí nhà nước cho nên phần lớn vốn được nhà nước cấp từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó Tập đoàn dầu khí cũng bổ sung thêm vốn từ lợi nhuận kinh doanh, từ các hoạt động liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài, từ nguồn vốn vay, từ nguồn vốn nội bộ ngành, từ các nguồn vốn được huy động qua các tổ chức tín dụng khác…
Tiến sỹ Trần Ngọc Cảnh – Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí Việt Nam cho biết: "Để tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển, Tập đoàn chủ trương đa dạng hoá nguồn vốn và đa sở hữu các lĩnh vực hoạt động như "mở cửa" mời các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia tìm kiếm, thăm dò các mỏ dầu khí ngoài thềm lục địa và có các ưu đãi cho những khu vực nước sâu, xa bờ. Đối với lĩnh vực lọc hoá dầu, do vốn đầu tư rất lớn, Tập đoàn chủ trương có thể kêu gọi hợp tác liên doanh hoặc tới 100% vốn nước ngoài đầu tư như Khu liên hợp lọc hoá dầu Nghi Sơn (Thanh Hoá) hoặc nhà lọc dầu số 3 và số 4 ở phía nam”.
Trước xu thế mới, Tập đoàn dầu khí cần phải khai thác lợi thế về vốn kinh doanh của mình. Hiện nay, Tập đoàn dầu khí có tổng vốn lưu động hơn 520 triệu USD và tổng vốn cố định là 1,5 tỷ USD. Đây là lượng vốn lớn mà các doanh nghiệp ở Việt Nam không dễ có được. Tuy nhiên lượng vốn này của Tập đoàn dầu khí phải phân phối dàn trải trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của ngành dầu khí. Do đó nguồn vốn dành cho khai thác, thăm dò, kinh doanh dầu thô cũng rất hạn chế. Để tăng cường vốn cho khâu tìm kiếm - thăm dò – khai thác và kinh doanh dầu thô, Tập đoàn dầu khí có thể thực hiện các giải pháp sau:
- Trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò và khai thác cần phải mở rộng hợp tác đầu tư quốc tế vì lĩnh vực này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, rủi ro cao đòi hỏi phải có công nghệ hiện đại mà một mình Tập đoàn dầu khí thực hiện không nổi.
- Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ các quỹ tài chính tập trung của các đơn vị thành viên trong ngành được phép giữ lại. Nguồn vốn này được sử dụng cho tất cả các hoạt động của Tập đoàn dầu khí. Huy động vốn qua kênh thị trường chứng khoán bằng việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu (dài hạn hay ngắn hạn). Năm 2001, Tập đoàn dầu khí Việt Nam là công ty Việt Nam đầu tiên tham gia thị trường vốn quốc tế bằng việc ký kết thoả thuận nghiên cứu và phát triển đề án phát hành trái phiếu quốc tế với Tập đoàn dầu khí ngân hàng đầu tư Mỹ Morgan Stanley Dean Witer. Tập đoàn dầu khí này sẽ giữ vai trò là nhà tư vấn tài chính và là nhà bảo lãnh phát hành trái phiếu quốc tế của Tập đoàn dầu khí Việt Nam ra thị trường quốc tế. Trái phiếu dự kiến từ 300 – 500 triệu USD, phát hành chủ yếu ở thị trường Mỹ. Số vốn đầu tư thu được từ việc phát hành trái phiếu quốc tế sẽ được sử dụng để đầu tư các công trình trọng điểm của ngành dầu khí như: Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất, dự án khí Nam Côn Sơn, Điện đạm Phú Mỹ, thăm dò khai thác phát triển mỏ...
- Cần có sự tăng cường hoàn thiện trong công tác quản lý của công ty tài chính dầu khí mới được thành lập để đảm đương với nhiệm vụ tìm nguồn vốn huy động cho các dự án đầu tư của toàn Tập đoàn dầu khí.
- Quán triệt chủ trương tăng cường sử dụng các dịch vụ và hàng hoá thiết bị máy móc trong nước có thể sản xuất được, để từng bước tiết kiệm nguồn ngoại tệ và giành cho các dự án trọng điểm khác.
- Cần có sự quản lý, kiểm tra tài chính trong nội bộ các thành viên của Tập đoàn dầu khí trong việc đầu tư các dự án để đảm bảo các dự án đó đem lại hiệu quả kinh tế cao và phù hợp với chiến lược phát triển chung của toàn công ty.
Để đạt được các mục tiêu đề ra Tập đoàn dầu khí cần phải có cơ chế linh hoạt hơn trong việc quản lý, sử dụng, tiết kiệm, huy động vốn giữa Tập đoàn dầu khí với các đơn vị thành viên. Nguồn vốn lớn cùng với cơ chế quản lý có hiệu quả sẽ đảm bảo cho Tập đoàn dầu khí thành công trong việc thực hiện các mục tiêu đề ra.
3.2.3. Đào tạo chính quy nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là tài nguyên vô hạn, cực kì quan trọng đối với mỗi một quốc gia nói chung và mỗi một doanh nghiệp nói riêng trong quá trình phát triển.
Tập đoàn dầu khí Việt Nam từ khi mới thành lập chỉ có 2.001 cán bộ công nhân viên, đến nay đã có hơn 22.000 cán bộ, công nhân viên, tăng gấp 10 lần so với lúc đầu. Trong số đó, 80% là cán bộ công nhân viên kỹ thuật, còn lại đội ngũ nhân lực làm công tác quản lý kinh doanh rất mỏng và yếu kém trong nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, nhiều khi còn tỏ ra rất thụ động trước những biến động của thị trường.
Cùng với quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, ngành dầu khí cần xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học công nghệ và công nhân kỹ thuật với hàm lượng tri thức cao, dần dần thay thế nhiều chức danh trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài. Để triển khai mọi mặt hoạt động của một ngành kinh tế có yêu cầu công nghệ cao, đầu tư lớn, kèm theo rủi ro cao, con người là yếu tố quyết định. Tập đoàn dầu khí Việt Nam cần đầu tư, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đặt biệt là những cán bộ khoa học có trình độ kỹ thuật cao. Hàng năm, Tập đoàn dầu khí Việt Nam cần cử cán bộ, công nhân kỹ thuật đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước có nền công nghiệp dầu khí phát triển. Mặt khác, tuyển chọn những sinh viên học giỏi ở các trường đại học trong nước gửi đi đào tạo đại học và trên đại học tại các cơ sở đào tạo có chuyên môn có kinh nghiệm về lĩnh vực dầu khí ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, Tập đoàn dầu khí cũng còn phải có sự đầu tư thích đáng cho trung tâm đào tạo – cung ứng nhân lực của Tập đoàn dầu khí về các nguồn kinh phí, cũng như về các phương tiện cơ sở vật chất khác để trung tâm thực hiện tốt công tác quản lý đào tạo huấn luyện. Việc thành lập trường Đại học dầu khí vào năm 2008 được Tập đoàn dầu khí Việt Nam ký thỏa thuận hợp tác với Bộ Giáo dục và Đào tạo là một trong những sự đầu tư hợp lý cho vấn đề nhân lực của ngành.
Vấn đề cuối cùng quan trọng nhất là việc sử dụng các cán bộ công nhân viên sau khi được cử đi đào tạo huấn luyện, phải hợp lý, phải khai thác sử dụng kiến thức của người lao động một cách có hiệu quả nhất.
3.2.4. Tăng cường công tác thăm dò khai thác.
Cho đến nay, Tập đoàn dầu khí đã thực hiện được 236.423 km địa chấn 2D và 10.776 km địa chấn 3D và khoan 192 giếng thăm dò, thực hiện 623.290 mũi khoan. Kết quả xác định được 6 bể trầm tích có chứa dầu khí (Bể Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Mã Lay - Thổ Chu, Vũng Mây – Tư Chính).
Hiện nay, trong tổng số 21 mỏ đã được phát hiện có dầu và cả dầu lẫn khí, chỉ có 9 mỏ đang được khai thác, số còn lại do điều kiện về địa hình, cũng như về mặt kinh tế chưa được đi vào khai thác hoạt động. Trong giai đoạn đến năm 2010 cần phải đưa hết các mỏ còn lại vào khai thác để không những cung cấp cho nhà máy lọc dầu trong nước mà còn đảm bảo cho xuất khẩu nhằm thu thêm ngoại tệ về cho đất nước.
Bên cạnh đó, Tập đoàn tích cực cùng các công ty, các tổ chức trong, ngoài nước đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò, nhất là những khu vực xa thềm lục địa, đòi hỏi phải có thiết bị máy móc hiện đại mới có thể tiến hành được. Hiện tại, Tập đoàn đã và đang hợp tác với Arco, Mobil, Shell, BP… trong việc khảo sát thăm dò khu vực của các bể trầm tích, để đánh giá tiềm năng dầu khí đất nước; cùng với Đan Mạch nghiên cứu bể Sông Hồng; hợp tác đề án liên kết trong việc nghiên cứu các bể trầm tích khu vực Đông Nam Á giữa Việt Nam – Malaysia – Indonesia và đặc biệt thông qua các hợp đồng PSC hoặc liên doanh với các công ty dầu khí quốc tế.
Đẩy mạnh hoạt động tham gia vào tìm kiếm, thăm dò, khai thác ở nước ngoài là một trong những chiến lược rất quan trọng để Tập đoàn dầu khí Việt Nam nhanh chóng trở thành một Tập đoàn dầu khí lớn mạnh không chỉ ở trong khu vực mà còn trên thế giới. Công tác triển khai tìm kiếm, thăm dò không những tận dụng được lợi thế nhờ quy mô của ngành dầu khí Việt Nam, mà còn cung cấp nguyên liệu dầu thô từ nước ngoài về phục vụ trong nước. Hiện nay, Tập đoàn dầu khí đã cùng với các công ty dầu khí các nước ký một số thoả thuận chuyển nhượng nhưng mức độ còn hạn chế như: trong các hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC) ở Indonesia, Malaysia, đề án mỏ TamTsaq – Mông Cổ, trong các đề án đang phát triển mỏ Amara – Iraq, dự án lô 5 – Tây Iraq, trong chương trình hợp tác liên chính phủ về việc tìm kiếm thăm dò dầu khí ở Lào.
3.2.5. Tăng cường công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ.
Ngành dầu khí với đặc thù là ngành công nghiệp kỹ thuật hiện đại. Việc đổi mới và chuyển giao công nghệ là một nội dung quan trọng, là nhu cầu tất yếu khách quan không chỉ ở từng doanh nghiệp mà còn ở từng quốc gia.
Trong quá trình phát triển để trở thành một Tập đoàn dầu khí mạnh, hoạt động đa ngành thì điều quan trọng là Tập đoàn dầu khí phải không ngừng tăng cường máy móc, công nghệ hiện đại.
Thứ nhất: Tập đoàn dầu khí cần phải đầu tư tăng cường cho công tác nghiên cứu khoa học cũng như trang thiết bị công nghệ trong khâu tìm kiếm thăm dò khai thác nhằm xác định chính xác trữ lượng dầu khí xác minh. Tiếp tục tìm kiếm phát hiện thêm các mỏ dầu khí mới.
Thứ hai: Đầu tư tăng cường cho nghiên cứu ứng dụng khoa học vào thực tiễn, cũng như trang bị thêm máy móc hiện đại trong khâu khai thác nhằm từng bước nâng cao hệ số thu hồi dầu lên mức 40 – 50% hoặc cao hơn như các nước khác. Điều này lại càng đặc biệt có ý nghĩa đối với lượng dầu lớn còn nằm trong các móng nứt nẻ, các mỏ nhỏ mỏ khác. Tập đoàn dầu khí cũng cần phải có kế hoạch đầu tư máy móc công nghệ hiện đại như giàn khoan, hệ thống thiết bị nổi... cho việc triển khai, khai thác dầu khí ở những mỏ xa thềm lục địa, có độ sâu lớn, nhằm gia tăng thêm sản lượng cho đất nước.
Thứ ba: Tập đoàn dầu khí Việt Nam cần phải có kế hoạch biện pháp đầu tư cho khoa học công nghệ thiết bị máy móc nhằm thực hiện công tác đảm bảo an toàn, vệ sinh chống ô nhiễm môi trường có thể xảy ra trên biển hay trên đất liền, chống lại sự cố dò rỉ dầu, tràn dầu, chống lại sự tắc nghẽn dầu trong ống dẫn dầu… Trang bị thêm thiết bị máy móc nhằm bảo dưỡng chống lại sự ăn mòn đảm bảo sự an toàn trong sản xuất của các giàn khoan, các nhà máy lọc dầu, hoá dầu...
Khi thực hiện đổi mới công nghệ Tập đoàn dầu khí cần phải nghiên cứu, đánh giá phân tích kỹ nên lựa chọn phương án nào? Nhập khẩu hay tự lực để đem lại hiệu quả lớn nhất. Nếu thiết bị máy móc nhập khẩu luôn cần có sự tư vấn của các chuyên gia nước ngoài, nghiên cứu kỹ về các tính năng, công dụng để đảm bảo sự phù hợp cũng như khả năng đem lại hiệu quả của máy móc thiết bị đó, tránh nhập khẩu các thiết bị lạc hậu không tương thích.
3.2.6. Hoàn thiện công tác cơ cấu tổ chức, quản lý kinh doanh thương mại quốc tế.
Những mục tiêu đúng đắn có thể thực hiện được hay không là nhờ một phần ở bộ máy tổ chức kinh doanh có đủ mạnh hay không. Thực tế cho thấy các công ty, tập đoàn có sức cạnh tranh cao thường tập trung khai thác tốt khía cạnh của công tác tổ chức quản lý con người nhằm thực hiện tốt các mục tiêu đề ra. Tổ chức được bộ máy kinh doanh có hiệu quả sẽ làm nâng cao năng suất lao động, tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa các bộ phận trong tổ chức nội bộ nhằm thực hiện tốt các mục tiêu nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Tập đoàn dầu khí cần phải có sự điều chỉnh lại cơ chế quản lý giữa Tập đoàn dầu khí và công ty thương mại dầu khí (Petechim) trong việc mua bán dầu thô, cũng như trong mối quan hệ giữa các đơn vị thành viên. Tập đoàn dầu khí chỉ nên đưa ra những định hướng cho các công ty dựa trên những phân tích, đánh giá của bộ phận chuyên môn về giá dầu hàng ngày từ 2 đến 3 hệ thống thông tin về diễn biến cập nhật của giá dầu và đưa ra giá sàn, giá trần của dầu thô. Từ đó, giao cho công ty thương mại dầu khí đảm nhận công tác mua bán dầu thô một cách độc lập hơn thay vì chế độ quản lý như hiện nay (là giao cho công ty đàm phán sau đó mới trình kết quả lên Tập đoàn dầu khí để Tập đoàn dầu khí phê duyệt thì mới được thực hiện công tác mua bán dầu thô), bằng cách cho phép công ty Petechim được chủ động giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng dựa trên các định hướng, giá trần, giá sàn của Tập đoàn dầu khí đưa ra. Do đặc điểm của thị trường dầu thô luôn biến động, đòi hỏi phải có sự linh hoạt phản ứng nhanh. Vì vậy, giải pháp để cho công ty Petechim được phép tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng mua bán dầu thô một cách độc lập là một giải pháp đúng đắn.
Bên cạnh đó, trong công tác nghiệp vụ kinh doanh mua bán dầu thô hiện nay Tập đoàn dầu khí cần phải được tích cực tổ chức bán dầu theo điều kiện CFR, CIF, CPT, tổ chức việc thuê tàu vận chuyển dầu thô để thu thêm ngoại tệ. Tích cực tổ chức bán dầu theo từng chuyến SPOT để tranh thủ những điều kiện và giá cả thị trường thuận lợi nhất.
Giải pháp này xuất phát từ đặc điểm của tình hình dự trữ dầu thô là rất hạn chế. Vì thế, tăng cường hợp đồng bán dài hạn theo điều kiện CFR, CIF, CPT không những thu thêm ngoại tệ cho đất nước mà còn đảm bảo cho việc khai thác dầu được liên tục. Tích cực tổ chức các hợp đồng bán dầu theo từng chuyến SPOT, nhằm tránh tình trạng dự trữ dầu đầy kho gây ra tác nghẽn và đình trệ sản xuất.
3.2.7. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật.
Tập đoàn dầu khí Việt Nam có quy mô về cơ sở vật chất rất lớn nhưng cơ sở vật chất để phục vụ kinh doanh dầu thô rất hạn chế. Hiện nay, dung tích của các kho dự trữ dầu thô ở các mỏ là rất nhỏ và thường ảnh hưởng đến tình hình khai thác.
Tập đoàn dầu khí cần phải bổ sung, tăng cường thêm các tàu dự trữ dầu thô nhằm mục đích gia tăng khối lượng dự trữ để đảm bảo cho các mỏ hoạt động tốt và tạo lợi thế cho Tập đoàn dầu khí trong điều kiện thị trường có sự biến động.
Tập đoàn dầu khí cần phải tăng cường đầu tư các tổng kho xăng dầu đầu mối, kho trung chuyển, nhằm đảm bảo an ninh năng lượng cho quốc gia. Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh mua bán dầu thô được thực hiện tốt hơn, Tập đoàn dầu khí cần phải xây dựng cho mình một đội tàu gồm nhiều chủng loại để tham gia vào quá trình vận tải quốc tế. Trước tiên nhằm để vận chuyển khối lượng dầu thô xuất khẩu và vận chuyển dầu thô từ Trung Đông về Việt Nam, sau đó tham gia thực hiện các dịch vụ vận chuyển dầu thô trong khu vực và trên thế giới.
Tập đoàn dầu khí cũng cần phải có sự đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất để tập trung xây dựng các loại hình dịch vụ chủ yếu như là:
+ Dịch vụ khảo sát địa chấn công trình, thi công xây lắp và sửa chữa các công trình dầu khí.
+ Dịch vụ thi công khoan.
+ Dịch vụ phân tích xử lý tổng hợp các tài liệu địa chất, địa lý.
+ Dịch vụ cung ứng lao động và sinh hoạt đời sống.
+ Dịch vụ cung cấp các loại vật tư hoá phẩm cho khoan, khai thác dầu khí.
Thật vậy, nếu ngành thực hiện tốt trong công tác dịch vụ dầu khí sẽ gián tiếp nâng cao hiệu quả trong khai thác sản xuất, kinh doanh dầu thô của Tập đoàn dầu khí Việt Nam.
3.2.8. Thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu dầu thô của Tập đoàn dầu khí bắt đầu vào năm 1986, từ một lượng dầu thô xuất khẩu rất khiêm tốn. Hiện nay, Tập đoàn dầu khí đã xuất khẩu ra thị trường từ 14 – 15 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, Tập đoàn dầu khí mới chỉ thực hiện bán nguyên liệu và mua lại sản phẩm, giá trị đem lại từ việc bán nguyên liệu thường không cao. Trong những biến động của cuộc khủng hoảng giá dầu tăng cao thì người bị thiệt hại nhiều nhất là những nước phải nhập khẩu nhiên liệu: Xăng, dầu... để phục vụ cho nền kinh tế (chủ yếu là những nước nghèo, đang phát triển), nó gây ra sự suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước đó. Trong khi đó, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến các nước phát triển không quá lớn, nhiều khi họ còn có lợi. Bởi lẽ, các nước phát triển và các công ty xuyên quốc gia thường là những nhà đầu tư, nhà thầu chiếm giữ phần lớn các mỏ dầu trên thế giới. Năm 2001, những biến động giá dầu cao, đã đem lại lợi nhuận gấp đôi cho 10 Tập đoàn dầu khí hàng đầu thế giới. Chỉ riêng BP, trong 9 tháng đầu năm 2001 đã thu lãi 8,6 tỷ USD. Tháng 10/2007 - giá dầu liên tục leo thang, có nhiều thời điểm vượt ngưỡng 90 USD/thùng. Chắc chắn việc tăng giá dầu thô quá mức này sẽ gây không ít những hiệu ứng tiêu cực cho những nước nhập khẩu sản phẩm dầu mỏ.
Trong giai đoạn tới, Tập đoàn dầu khí Việt Nam nên thực hiện chiến lược xuất khẩu “tinh” thay vì xuất khẩu “thô” như trước đây để ngày càng thu về giá trị cao hơn. Sự kiện nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất sẽ đi vào hoạt động năm tháng 02/2009, (kế hoạch trong tương lai sẽ triển khai xây dựng thêm 3 nhà máy lọc dầu), cho các sản phẩm như: xăng, Diezel, mazut... để phục vụ cho nhu cầu trong nước, không chỉ là niềm vui riêng của ngành dầu khí. Toàn bộ sản phẩm của nhà máy lọc dầu sẽ được cung cấp cho thị trường nội địa. Hơn nữa, Tập đoàn dầu khí Việt Nam không chỉ thực hiện kinh doanh các sản phẩm ở thị trường nội địa mà nên mở rộng kinh doanh ra cả thị trường nước ngoài. Chiến lược này không những vừa đảm bảo thực hiện đúng nhiệm vụ của Đảng và nhà nước đặt ra là: ổn định nguồn nhiên liệu cho đất nước lại vừa đem về nguồn ngoại tệ lớn cho quốc gia. Chiến lược này sẽ tạo đà thúc đẩy việc mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng suất lao động của Tập đoàn dầu khí, tạo ra sự linh hoạt trong sản xuất kinh doanh, tránh ỷ lại thụ động trong sản xuất – kinh doanh do sự bảo hộ độc quyền của nhà nước đem lại cho ngành dầu khí.
3.2.9. Chính sách và quản lý điều hành.
Tập đoàn dầu khí dầu Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và nhà nước. Nghị quyết trung ương 15/NQ-TW-7/1998 khẳng định: “Dầu mỏ và khí thiên nhiên là nguồn năng lượng và nhiên liệu quan trọng của đất nước... phải tập trung những cố gắng đến mức cao nhất để biến tiềm năng đó thành hiện thực, từng bước đưa dầu khí trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng nhất trong chiến lược phát triển kinh tế trong những thập kỷ tới”.
Để thực hiện được mục tiêu như trên Tập đoàn dầu khí Việt Nam cần có sự hỗ trợ tích cực từ phía chính phủ và các cơ quan nhà nước. Hiện nay các quy phạm pháp luật đang trong giai đoạn hoàn chỉnh, bổ sung sửa đổi nên chưa ổn định. Hơn nữa, hiện Việt Nam là thành viên của WTO, mọi văn bản pháp luật được sửa đổi nhằm tạo điều kiện “giúp cho chúng ta không bị lép vế ngay trên sân nhà” (Luật đầu tư năm 1978; Luật Dầu khí năm 1993; Luật Dầu khí sửa đổi 2000 và dự trù Luật Dầu khí sửa đổi năm 2007 – Theo Viện Dầu khí). Ngành dầu khí đã trở thành một ngành kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế quốc dân, do vậy cần phải nhanh chóng có một cơ chế hợp lý rõ ràng nhằm thúc đẩy tạo điều kiện cho ngành dầu khí phát triển.
Chính phủ và nhà nước cần phải sớm có các chính sách, luật pháp trong việc thu hút khuyến khích vốn đầu tư của nước ngoài tham gia vào việc tìm kiếm, thăm dò ở Việt Nam nhằm nhanh chóng đánh giá xác định đúng mức tiềm năng dầu khí của đất nước.
Xu hướng chung trong cơ cấu tổ chức của ngành dầu mỏ các nước đi trước là thực hiện toàn bộ các khâu từ thăm dò, khai thác đến lọc dầu, hoá dầu và tổ chức phân phối kinh doanh sản phẩm dầu. Trong đó lọc dầu và tổ chức phân phối sỉ là khâu trọng yếu nhất. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy bộ phận từ khâu khai thác lọc dầu đến phân phối sản phẩm dầu khí đều trực thuộc một công ty đảm nhiệm. Ví dụ như: Indonesia lúc đầu tổ chức ngành dầu khí được chia thành hai công ty PN Permina và PN Pertamin, nhưng về sau lại phải sáp nhập lại thành một công ty Pertamina. Hay Trung Quốc phải sắp xếp khu vực hoạt động và chuyển giao tài sản giữa hai Tập đoàn dầu khí CNPC và Sinopec thành một Tập đoàn dầu khí hoạt động xuyên suốt toàn ngành.
Từ sau tháng 2/2009, Tập đoàn dầu khí Việt Nam bắt đầu có sản phẩm dầu khí để cung ứng phục vụ cho nhu cầu nền kinh tế quốc dân. Do yêu cầu mang tính cấp bách xuất phát từ chủ quan lẫn khách quan đem lại thì chính phủ và nhà nước nên có chính sách sát nhập hai Tập đoàn dầu khí PetroViệt Nam và Petrolimex thành một công ty để thực hiện hoạt động xuyên suốt toàn ngành dầu khí như các nước trong khu vực và trên thế giới đã thực hiện. Nếu còn để tồn tại hai Tập đoàn dầu khí này hoạt động song song với nhau thì sẽ tạo nên một cuộc cạnh tranh lớn giữa hai Tập đoàn dầu khí và có thể gây ra sự mất ổn định trong việc cung cấp nhiên liệu năng lượng cho nền kinh tế quốc dân.
Trong cơ chế chính sách quản lý về giá tiền lương thuế, chính phủ nên có những giải pháp đồng bộ và phù hợp nhằm đảm bảo cơ chế ưu đãi, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để Tập đoàn dầu khí Việt Nam phát triển hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả trên thị trường thế giới.
Tóm lại, để hoàn thành tốt các nhiệm vụ đề ra là xây dựng Tập đoàn dầu khí Việt Nam thành một ngành kinh tế kỹ thuật trọng điểm của đất nước, bên cạnh sự nỗ lực phấn đấu của ngành thì Tập đoàn dầu khí luôn cần đến sự quản lý, điều tiết, hỗ trợ cũng như các chính sách hợp lý của Chính phủ và của các bộ ngành có liên quan khác.
KẾT LUẬN.
Sau hơn 30 năm phát triển, nhìn lại chặng đường đã qua, ngành dầu khí Việt Nam từng bước khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân. Đến nay bức tranh tổng thể về ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam đã cơ bản hình thành.
Là một tập đoàn dầu khí quốc gia, dầu khí Việt Nam ưu tiên hàng đầu vấn đề nghiên cứu, xác định tiềm năng dầu khí của thềm lục địa và toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, nhằm đảm bảo cơ sở khoa học cho chiến lược phát triển ngành dầu khí. Thực hiện Nghị quyết 15/TƯ của Bộ Chính trị, với mọi cố gắng chúng ta đã có những số liệu ở các cấp khác nhau về trữ lượng dầu khí. Tiềm năng dầu khí Việt Nam ngày càng được sáng tỏ. Những mỏ dầu khí đang được khai thác và sẽ đưa vào khai thác đảm bảo cho sự vận hành liên tục của ngành dầu khí Việt Nam.
Tháng 2/2009, nhà máy lọc dầu Dung Quất chắc chắn sẽ cho những vòi dầu đầu tiên được lọc chính thức trên lãnh thổ Việt Nam. Đây sẽ là hạt nhân của sự phát triển khu công nghiệp Dung Quất và là tiền đề để các nhà máy lọc dầu tiếp theo ra đời. Hơn nữa, những cơ sở hóa dầu cũng sẽ được hình thành, thỏa mãn phần lớn nhu cầu dầu khí, trong bối cảnh giá các sản phẩm dầu khí tăng lên từng ngày. Theo dự kiến, 20 năm nữa Việt Nam sẽ có ít nhất là bốn nhà máy lọc dầu.
Với cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực được tích lũy trong hơn 30 năm qua, cho phép ngành dầu khí Việt Nam tiến hành tìm kiếm thăm dò, khai thác chẳng những ở mọi miền tổ quốc, mà còn có khả năng mở rộng ra ở trong khu vực và các quốc gia khác trên thế giới.
Bên cạnh những thành tựu đáng kể đó, ngành dầu khí ở Việt Nam vẫn còn một số tồn tại cần được khắc phục như: Công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí chủ yếu được các công ty dầu khí quốc tế tiến hành ở những vùng có triển vọng cao, ít rủi ro. Những vùng nước sâu xa bờ, chống lấn, tranh chấp mức độ tìm kiếm thăm dò còn thấp. Hơn nữa, sự hấp dẫn đối với các công ty dầu khí quốc tế bị giảm, một số nhà thầu chờ đợi hoặc đàm phán để phát triển mỏ nhưng chưa có tiến triển đáng kể. Còn một số nhà thầu khác xin kéo dài thời hạn giai đoạn tìm kiếm thăm dò, để nghiên cứu hoặc chờ đợi…
Có thể nói, thế kỷ 21 đang chờ đón ngành dầu khí Việt Nam với những công trình và những thành tựu mới hơn, có tính đột phá hơn… xứng đáng là một ngành công nghiệp trọng điểm, đi đầu, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tiến trình hội nhập./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cong nghiep Dau khi.doc