MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới đất nước thực chất là một quá trình nhận thức đúng đắn hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa, là thực hiện mong muốn “Đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Thực hiện lời di huấn của người: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”. Do vậy, chính sách xã hội giữ vai trò rất quan trọng không thể thiếu trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng các chính sách xã hội vì mục tiêu làm cho “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”, bản thân là một cán bộ đảng viên, một công dân đang sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa, được hưởng thụ những chính sách của Đảng và Nhà nước. Tôi rất vinh dự và tự hào vì Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện xã hội qua các thời kỳ.
Đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đòi hỏi Đảng phải đề ra các chính sách xã hội đúng và phù hợp với thực tế. Bởi vì, thực tiễn cho thấy trong quá trình triển khai thực hiện một số chính sách xã hội như chính sách người có công, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm . còn gặp nhiều khó khăn và bất cập là thực trạng chung đòi hỏi Đảng và Nhà nước cũng như mỗi cán bộ đảng viên cần quan tâm nhiều hơn nữa đến chính sách xã hội.
Xã Long Sơn là một đơn vị xa trung tâm huyện. Việc thực hiện các chính sách xã hội ở xã Long Sơn trong những năm gần đây, tuy có nhiều tiến bộ và kết quả đáng kể song vẫn gặp không ít khó khăn, một số chính sách xã hội trở thành vấn đề bức xúc của địa phương cần phải có những giải pháp thiết thực để giải quyết có hiệu quả cho nhân dân.
Vì vậy, việc nghiên cứu lý giải một cách có hệ thống, đánh giá chung thực trạng việc thực hiện chính sách xã hội, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt chính sách xã hội ở xã Long Sơn vừa có ý nghĩa lý luận và là vấn đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng, phương hướng và giải pháp trong việc thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động giai đoạn hiện nay” với mong muốn được ứng dụng những kiến thức đã học góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp và văn minh.
30 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 33809 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng, phương hướng và giải pháp trong việc thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụ cho mọi công dân, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất với đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội.
Từ phương hướng chung trên Đảng ta đã đề ra một số quan điểm cơ bản trong trong quá trình triển khai thực hiện chính sách xã hội:
Một là; Có chính sách xã hội là hệ thống công cụ tác động một cách toàn diện, bao trùm lên tất cả cac mặt đời sống xã hội. Trong thực tại xã hội, không một lĩnh vực nào mà chính sách xã hội lại không bao quát tới. Từ quan điểm này đòi hỏi việc đề ra chính sách xã hội cũng như thực hiện chính sách xã hội phải gắn bó, thống nhất với các hệ thống chính sách khác như chính sách kinh tế, chính sách văn hóa, chính sách ngoại giao, chính sách dân tộc, tôn giáo, dân số...
Kinh tế và văn hóa là hai lĩnh vực khác nhau, song không tách rời nhau mà gắn bó mật thiết với nhau, đan xen vào nhau, làm điều kiện tồn tại cho nhau, tác động lẫn nhau. Trong mối quan hệ này, những mục tiêu xã hội trở thành mục tiêu động lực của các hoạt động kinh tế. Ngược lại, sự phát triển kinh tế là tiền đề và điều kiện vật chất cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quôc lần thứ VI đã khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”. Trên một tinh thần như thế chính sách xã hộ cần phải được đặt vào vị trí trung tâm trong mọi hoạt động chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta. Điều đáng chú ý là chính sách xã hội không được lạc hậu hơn so với sự phát triển kinh tế. Mặt khác phải khắc phục xu hướng phát triển kinh tế đơn thuần, chỉ thuần túy vì mục tiêu lợi nhuận, bất chấp những nhu cầu đòi hỏi và những mục tiêu xã hội khác.
Văn hóa, khoa học, giáo dục đào tạo là những lĩnh vực cần có chính sách cụ thể riêng, nhưng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với lĩnh vực kinh tế. Trong thời đại khoa học công nghệ và giao lưu văn hóa- xã hội rộng rãi như hiện nay, muốn có nhịp điệu phát triển kinh tế cao cần phải có sự phát triển tương xứng về trình độ văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ. Phát triển khoa học giáo dục và đào tạo chính là phát triển nguồn lực của mọi nguồn lực. Đầu tư vào lĩnh vực này chính là đầu tư cho sự phát triển kinh tế. Đó là đầu tư cơ bản tất yếu “có lãi” một cách lâu bền nhất. Tất nhiên trong khi cần thiết phải phổ cập tiểu học, trung học co sở, trẻ mầm non 5 tuổi cho toàn xã hội, tạo ra mặt bằng dân trí tương đối đồng đều giữa các vùng miền trong nhân dân.
Chính trị xã hội về văn hóa- khoa học- giáo dục đào tạo gắn bó chặt chẽ với tất cả các lĩnh vực kinh tế- xã hội. Tuy nhiên trong khi đưa ra hệ thống chính sách xã hội nhằm tranh thủ thời cơ, đi tắt đón đầu sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới, thì điều quan trọng cũng phải tính đến những đặc trưng, đặc điểm của dân tộc. Cần tranh thủ vận dụng chớp mọi cơ may, mở rộng hợp tác, mạnh dạn trong hội nhập, hòa nhập thích nghi một cách nhạy cảm với thời cuộc song phải quan tâm đến việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Trong việc giải quyết các vấn đề giai cấp dân tộc, tôn giáo... đều có những nội dung kinh tế, văn hóa- xã hội, nên mỗi vấn đề trên cần có chính sách cụ thể riêng. Tuy nhiên, chính sách xã hội sẽ tác động chung vào những lĩnh vực này nhằm góp phần tạo ra sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ cho mọi công dân, tạo ra sự thống nhất, đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo ở các vùng miền; xây dựng và hoàn thiện cơ cấu xã hội mới, tạo ra sự ổn định xã hội cũng như phát huy tối đa tính tích cực và năng động xã hội cho mọi thành viên trong xa hội.
Hai là; Coi việc xây dựng chính sách xã hội và thực hiện chính sách xã hội là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể và của toàn dân. Văn kiện Đại hội X đã khẳng định: “Xây dựng hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, tạo điều kiện cho mọi người dân, kể cả người nghèo được đáp ứng nhu cầu về giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe, văn hóa- thông tin, thể dục thể thao, tạo việc làm... Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh mẽ hệ thống bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, tạo cơ hội cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe...”. Chính sách xã hội bao quát toàn bộ những hoạt động rộng lớn, phong phú, đa dạng của con người nhằm phục vụ cho con người. Vì vậy, trong quá trình xây dựng, hoàn thiện cũng như thực hiện chính sách cần thiết phải thu hút sự đóng góp, tham gia thực hiện của tất cả các thành viên trong xã hội. Nhà nước cần đề ra chính sách cụ thể phù hợp với từng thời kỳ, từng lĩnh vực, từng nhóm xã hội củ thể. Chính quyền các cấp và các tổ chức xã hội cần tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh chính sách xã hội. Mọi cá nhân tích cực tham gia thực thi, chấp hành chính sách, đồng thời đóng góp, đề xuất, kiến nghị lên cơ quan cấp trên nhằm bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện chính sách.
Ba là; Cần phải tiến hành một cách đồng bộ chính sách xã hội, song không dàn trải mà phải tập trung ưu tiên vào một số những vấn đề xã hội có tính chiến lược cũng như những vấn đề xã hội cấp bách nổi trội lên trong mỗi giai đoạn.
Việc nghiên cứu, khảo sát, xác định và lựa chọn cho trúng các chính sách xã hội cấp bách hàng đầu thích ứng với từng thời kỳ, từng lĩnh vực, từng nhóm xã hội trong sự thống nhất biện chứng với các chính sách cơ bản khác là vấn đề có ý nghĩa chiến lược cho cả một thời kỳ lâu dài, là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải đầu tư và tập trung xây dựng một cách đúng đắn.
Bốn là; Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm giàu hợp pháp, đồng thời quan tâm một cách thích đáng tới người nghèo, rủi ro, người gặp khó khăn. Làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa với người có công với cách mạng cũng như phát huy truyền thống uống nước nhơ nguồn, thủy chung, nhân nghĩa của dân tộc. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho cho phát triển kinh tế- xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bưc xúc...”.
3. Bản chất, nụi dung của chính sách xã hội
3.1. Bản chất của chính sách xã hội
Chính sách xã hội được hình thành từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời và đã được phát triển, biến đổi qua nhiều thời kỳ khác nhau trong lịch sử.
Ở mỗi quốc gia khác nhau, trong mỗi giai đoạn khác nhau, có những hình thức và loại chính xã hội khác nhau, cũng như có những quan niệm và định nghĩa khác nhau về chính sách xã hội. Ở nước ta, chính sách xã hội được hiểu là hệ thống công cụ tác động vào con người, vào các tổ chức đoàn thể xã hội nhằm điều hòa các hành vi, lợi ích của các nhóm xã hội, góp phần thực hiện công bằng, bình đằng, tiến bộ xã hội, phát triển toàn diện con người, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Xuất phát từ quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là trung tâm của mọi sự quan tâm xã hội, vừa là chủ thể sang tạo mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội, chính sách xã hội cần phải tác động một cách toàn diện vào tất cả các mặt của đời sống con người, nhằm phát huy mạnh mẽ nhân tố con người. Theo Mác: “Trong tính hiện thực của mình, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Do đó, chính sách xã hội cần phải tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng, giáo dục nhằm phát triển cân đối, toàn diện cho mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội. Dù biểu hiện dưới nhiều hình thức văn bản, nội dung khác nhau, song về bản chất, chính sách xã hội luôn hướng vào những hoạt động nhằm điều hòa các mâu thuẫn, xung đột, giảm bớt các bất công, căng thẳng xã hội, góp phần cân đối thu nhập, giải quyết việc làm, phân phối lại lợi ích, tạo ra sự công bằng hợp lý giữa cống hiến và hưởng thụ, khuyến khích người có nhiệt tình, tài năng, giúp đỡ người nghèo khó, rủi ro không may trong cuộc sống, đảm bảo an ninh, an toàn xã hội cũng như quyền tự do công dân và sức khỏe, hạnh phúc cho con người.
3.2. Nội dung của chính sách xã hội
Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của chính sách xã hội, song cho đến nay đa số các nhà khoa học đều nhất trí cho rằng, chính sách xã hội không chỉ giới hạn trong một số vấn đề như bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội mà phải có nội dung hết sức rộng lớn. Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX và X đều chỉ rõ: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc...”.
Có rất nhiều loại chính sách xã hội, song có thể khái quát lại một số nhóm chính sách sau đây:
Thứ nhất; Hệ thống chính sách xã hội nhằm tác động điều chỉnh cơ bản xã hội
Theo quan điểm tiếp cận khoa học mới hiện nay, chính sách xã hội cần phải tác động một cách đồng bộ, hài hòa và thích hợp vào tổng thể các phân hệ cơ cấu xã hội bao gồm: cơ cấu xã hội- giai cấp, cơ cấu xã hội- nghề nghiệp, cơ cấu xã hội- dân số, cơ cấu xã hội lãnh thổ, cơ cấu xã hội- dân tộc...
Trong khi tác động vào các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản, hệ thống chính sách xã hội cần tạo ra sự thống nhất giữa tính ổn định và tính năng động xã hội, vừa góp phần giảm bớt những xung đột và sai lệch xã hội, vừa tạo ra tính tích cực xá hội và những yếu tố cần thiết cho sự cân bằng, ổn định và phát triển bền vững trong xã hội. Vạch ra một hệ thống các chính sách xã hội nhằm tác động một cách tích cực, hiệu quả vào các quan hệ gia đình, giai cấp, dân tộc để từ đó góp phần phát huy mạnh mẽ hơn nữa nhân tố con người, đó là một trong các mục tiêu chiến lược của chính sách xã hội hiện nay ở nước ta.
Thứ hai; Hệ thống chính sách xã hội tác động vào quá trình sản xuất
Trong hệ thống chính sách này, trước hết phải kể đến nhóm chính sách nhằm tạo ra nhiều việc làm cũng như những điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất cho con người lao động. Chính sách xã hội về việc làm hướng tới khẳng định quyền có việc làm và những hình thức làm việc phù hợp với trình độ, sức khỏe, năng lực và đặc điểm của từng người lao động. Chính sách xã hội về việc làm không chủ trương cào bằng xóa nhòa mọi sự khác biệt giữa các thành viên lao động mà hướng vào việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra động lực nhằm khuyến khích tính tích cực của người lao động, sắp xếp, phân bố, hỗ trợ hợp lý người lao động.
Nhóm chính sách này cùng hướng vào những mục tiêu như an toàn, an ninh, sức khỏe cho người lao động, giảm bớt những rủi ro, tai nạn trong lao động hay những thiệt hại do những đổ vỡ không tránh khỏi của một số doanh nghiệp do nền kinh tế thị trường gây ra.
Thứ ba; Nhóm chính sách tác động vào quá trình tái sản xuất ra con người (chính sách dân số).
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta ngày càng nhận thức một cách sâu sắc hơn và chú trọng nhiều hơn vào chính sách dân số. Phấn đấu để có một quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân số hợp lý cũng như mức tăng dân số phù hợp với trình độ và nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội nước ta trong những năm tới đây là mục tiêu chiến lược mà nhóm chính sách xã hội về dân số cần thiết phải có những đóng góp thiết thực vào quá trình này. Trong thời kỳ chuyển đổi chiến lược từ giai đoạn dân số - kế hoạch hóa gia đình sang thời kỳ dân số - phát triển; dân số - sức khỏe, sinh sản, từ việc chủ yếu chú trọng vào công tác thông tin – giáo dục – truyền thống sang chiến lược truyền thông thay đổi hành vi và với sự ra đời của một loạt các chiến lược truyền thông thay đổi hành vi và với sự ra đời của một loạt các chiến lược quan trọng như chiến lược dân số Việt Nam (2002-2010); chiến lược chăm sóc sức khỏe sinh sản (2005-2010); Pháp lệnh dân số; mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc đòi hỏi Đảng và nhà nước kịp thời sửa đổi, hoàn thiện sớm các chính sách về dân số. Điều đó nhằm tạo những bước chuyển mới về chất, giải quyết một cách căn bản sức ép dân số, đi trước, đón đầu được những biến động tiếp theo của dân số, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc sống, khai thác hơn nữa tiềm năng con người, trên cơ sở đó thúc đẩy hơn nữa nhịp độ phát triển của đất nước.
Thứ tư; Nhóm chính sách xã hội tác động vào quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập.
Nhóm chính sách này bao gồm một tập hợp các chính sách về tiền lương, về tiền thưởng, phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội nhằm tạo ra động lực tích cực cho mọi người lao động, tạo ra sự công bằng tương đối, thực hiện chủ nghĩa nhân đạo cho toàn xã hội. Là một đất nước phải trải qua hai cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ, phải chịu những tổn thất lớn về người, về của, do đó, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến chính sách đền ơn, đáp nghĩa cho những người đã hy sinh, đóng góp nhiều cho đất nước. Cần củng cố, hoàn thiện chế độ, chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng. Mặt khác, cũng cần có một hệ thống chính sách khuyến khích, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận kợi cho những người có tài năng, các nhà khoa học, các nhà quản lý, kinh doanh giỏi để họ có thể phát huy tối đa năng lực sáng tạo và khả năng cống hiến của mình cho đất nước. Sau cùng là những chính sách hướng vào các lĩnh vực bảo hiểm lao động, bảo hiểm nghề nghiệp, bảo hiểm kinh doanh, bảo hiểm tài sản, phương tiện vật chất...
Trong điều kiện hiện nay, đặc biệt là trong thời kỳ mở cửa, hội nhập khu vực và quốc tế, rất nhiều vấn đề nảy sinh như bảo hiểm tự nguyện, bảo hiểm cho người Việt Nam lao động ở nước ngoài, bảo hiểm trong quân đội, mở rộng bảo hiểm sang học sinh, tuổi trẻ học đường... Đó là vấn đề bức xúc mà Đảng, Nhà nước Việt Nam cần sớm nghiên cứu, tổng kết và ban hành các chính sách mới nhằm đáp ứng những yêu cầu mà cuộc sống đang đặt ra.
Thứ năm; Nhóm chính sách xã hội về cư trú và nhà ở.
Thực hiện tốt vấn đề tự do cư trú và nhà ở cho nhân dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng, phản ánh một phần bộ mặt nhân đạo của xã hội ta. Là một quốc gia còn nghèo, đất đai hạn hẹp, lại đang trong thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nhu cầu tự do cư trú và nhà ở (kể cả ở đô thị và nông thôn) đang là một nhu cầu bức xúc của đông đảo quần chúng nhân dân. Chính trong bối cảnh này, Đảng và Nhà nước ta cần hết sức thận trọng, chu đáo và cần có cái nhìn chiến lược, tổng thể, lâu dài trong quy hoạch xây dựng và phân phối quĩ đất đai, nhà ở. Xây dựng một cách đồng bộ nhóm chính sách xã hội nhằm giải quyết hợp lý và khoa học vấn đề cư trú, nhà ở là một trong những nhiệm vụ bức xúc trước mắt cũng như lâu dài ở nước ta.
Thứ sáu; Nhóm chính sách xã hội tác động đến lĩnh vực văn hóa tinh thần của xã hội.
Con người không chỉ cần được bảo đảm về những điều kiện vật chất, việc làm... mà còn bảo đảm về những nhu cầu văn hóa tinh thần... Nhóm chính sách xã hội bao gồm những chính sách về giáo dục, đào tạo, đào tạo lại; các chính sách nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi về hoạt động văn hóa, văn nghệ, tự do trao đổi và tiếp nhận, hưởng thụ thông tin, những nhu cầu về sinh hoạt, nghi ngơi, vui chơi, giải trí...
Nhóm chính sách này có vị trí và vai trò hết sức quan trong, góp phần tạo ra một xã hội hoàn chỉnh, cân bằng, vận hành một cách hài hòa đồng bộ và ăn nhịp với nền văn minh nhân loại.
Hiện tại cần chú ý đặc biệt đến chính sách giáo dục. Trong đó chính sách cho giáo viên, học sinh, nhất là học sinh nghèo, học sinh khó khăn. Đồng thời chú ý đầu tư cho việc phát triển triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho nhà trường, điều kiện giảng dạy cho giáo viên. Đây là nhiệm vụ hết sức cấp thiết hiện nay mà Đảng và Nhà nước cần quan tâm.
II. THỰC TRẠNG VIỆC CHẤP HÀNH VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở XÃ LONG SƠN HUYỆN SƠN ĐỘNG TỈNH BẮC GIANG
Vài nét khái quát về địa lí, tình hình kinh tế, chính trị xã hội ở xã Long Sơn huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang.
Xã Long Sơn huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang trước và trong kháng chiến chống thực dân pháp thuộc huyện Hải Chi đặc khu Hồng Quảng (Quảng Ninh), sau hòa bình lập lại được sát nhập về huyện Sơn Đông tỉnh Bắc Giang. Long Sơn là vùng quê có truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới Đảng bộ và nhân dân xã Long Sơn quyết tâm phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xã Long Sơn là một xã vùng sâu, vùng xa của huyện Sơn Động, phía đông giáp với xã Dương Hưu, phía nam giáp với huyện Hoành Bồ - Quảng Ninh, Phía tây giáp với xã Thanh Luận, Bồng Am, phía bắc giáp với xã An Lạc.
Long Sơn là một xã vùng cao có đồi núi đan xen với những cánh đồng và các khu dân cư; có diện tích đất 6489,14 ha; Trong đó đất ở 52,48 ha, đất nông nghiệp 438,33 ha, đất lâm nghiệp 5771,43 ha còn lại là hồ ao, song suối và núi cao; hệ thống giao thông duy nhất có đường quốc lộ 279 chạy từ trung tâm huyện qua Long Sơn đến Quảng Ninh, Hải Phòng. Năm 1983 chợ Long Sơn được thành lập, chợ họp theo phiên hàng hóa phong phú đa dạng, các mặt hàng chủ yếu vận chuyển từ nơi khác đến. Long Sơn là trung tâm kinh tế văn hóa chính trị lớn thứ ba sau hai thị trấn của huyện; đồng thời Long Sơn là vùng đất anh hùng giàu truyền thống cách mạng.
Hiện nay xã Long Sơn có 1176 hộ, 5344 nhân khẩu, mật độ dân cư thưa thớt sống rải rác thành 7 thôn bản và 1 khu phố chủ yếu ven dọc theo hai bên đường quốc lộ 279, cáo 8 dan tộc anh em. dân tộc kinh là chủ yếu. Nhân dân địa phương làm nghề nông nghiệp là chính, kết hợp với chăn nuôi gia xúc gia cầm và phát triển vườn rừng, có một bộ phận vừa làm ruộng kết hợp với buôn bán nhỏ chiếm 10%, là đơn vị không có nghề truyền thống. Một bộ phận thanh niên trong độ tuổi 18 đến 30 vào làm công nhân khai thác than cho công ty than Đông Bắc. Tổng thu nhập hằng năm 17,2 tỉ đồng bình quân 3,2 triệu đồng/ người/ năm; đời sống của nhân dân tương đối ổn định, kinh tế từng bước có sự gia tăng.
Những yếu tố tự nhiên, tình tình chính trị xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho xã Long Sơn phát triển kinh tế mạnh mẽ. Giá tri sản xuất nông nghiệp chăn nuôi được tiếp tục duy trì ổn định, diện tích lúa đạt năng xuất cao,đàn gia cần phát triển, công tác khuyến nông đầu tư ngân sách cho phát triển sản xuất hằng năm luôn vượt kế hoạch, giá trị thu nhập bình quân trên 1 ha đất gieo trồng đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch.
Khu vực phát triển công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ trên địa bàn từng bước được phát triển, tạo việc làm cho lao động tại chỗ, thu nhập của người dân tăng lên. phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sốn văn hóa luôn được cấp ủy chính quyền, MTTQ quan tâm chỉ đạo, ngày hội đoàn kiết toàn dân 18 tháng 11 hằng năm đi vào nền nếp được đông đảo nhân dân tham gia, tăng thêm đoàn kết, tình cảm gắn bó trong cộng đồng dân cư.
Công tác xã hội hòa giáo dục luôn được duy trì tốt, chương trình phát triển giáo dục được triển khai thường xuyên và kịp thời, chất lượng giáo dục ở cả ba cấp học được nâng lên (năm sau cao hơn năm trước) tỉ lệ giáo viên giỏi, học sinh giỏi, học sinh tốt nghiệp THCS, thi đỗ vào trường THPT đạt tỉ lệ cao nhất nhì trong huyện, năm học 2010 – 2011 trường THCS xã đạt danh hiệu tiên tiến xuất sắc cấp tỉnh, trường Tiểu học và Mầm non đạt tiên tiến xuất sắc cấp huyện, cơ sở vật chất luôn được đầu tư tu bổ, trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia năm 2007, dự kiến trường THCS đạt chuẩn quốc gia năm 2011, trường mầm non vào năm học tiếp theo.
Công tác an ninh và trật tự an toàn xã hội luôn được duy trì tốt, điều kiện kinh tế, chính trị xã hội ổn định đã góp phần vào việc chấp hành và thực hiện tốt chính sách xã hội ở địa phương Long Sơn.
2. Thực trạng việc chấp hành và thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
2.1Những kết quả đạt được trên các lĩnh vực
Thứ nhất: Lĩnh vực dân số và việc làm:
Thực hiện chính sách dân số gắn với mục tiêu phát triển kinh tế, ổn định dân số là mục tiêu phấn đấu, là biện pháp nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân được các cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương đặc biệt quan tâm.
Trong những năm qua, xã Long Sơn đã chấp hành nghiêm túc và triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách dân số và coi đây là nội dung trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế văn hoá xã hội của địa phương. Từ trước năm 2000 với sự bùng nổ dân số nói chung và ở Long Sơn nói riêng đã ảnh hưởng không nhỏ đến lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến tình trạng dư thừa lao động và gia tăng các tệ nạn xã hội nhưng trong những năm gần đây tỉ lệ tăng dân số giảm đi rõ rệt; năm 2008 là 1,5%, năm 2009 là 1,46%, năm 2010 là 1,38%.
Để có được kết quả trên Đảng ủy, chính quyền, MTTQ, các ngành đoàn thể đã cùng với cán bộ làm công tác dân số tuyên truyền vận động thực hiện chính sách dân số bằng nhiều hình thức như: Thông tin trên hệ thống truyền thanh của xã và các thôn bản về dân số và kế hoạch hóa gia đình, vận động chị em trong độ tuổi sinh đẻ không vi phạm sinh con thứ ba, thực hiện nuôi con khỏe dạy con ngoan.
Tổ chức thành lập được 8/8 thôn bản và khu phố có câu lạc bộ không sinh con thứ ba, hằng tháng tổ chức sinh hoạt tuyên truyền về sức khỏe sinh sản, sức khỏe vị thành niên và tác hại của việc dẻ dày, đẻ nhiều; chính sách dân số luôn được thông tin kịp thời đến người dân để triển khai thực hiện, do vậy trong ba năm gần đây trên địa bàn xã không có người vi phạm chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình.
Vấn đề lao động và việc làm hiện nay là yêu cầu bức xúc của nhân dân địa phương. Hằng năm sau khi nhận được kế hoạch về công tác lao động và việc làm của UBND huyện xây dưng, UBND xã Long Sơn tổ chức triển khai kế hoạch công tác lao động, việc làm tới toàn thể nhân dân trong xã. Năm 2008 tổ chức được hai hội nghị tư vấn xuất khẩu lao động, dạy nghề có 240 người tham gia; giải quyết việc làm cho 150 người làm công nhân khai thác than, 50 lao động tại chỗ, 15 người đi xuất khẩu lao động. Năm 2009 giải quyết được 80 lao động vào làm tại xí nghiệp than Đông Bắc, 20 lao động vào làm việc tại xí nghiệp may Sơn Động và hơn 50 lao động tại chỗ. Năm 2010 mở 2 lớp dạy nghề chăn nuôi thú y có 100 người tham gia đã giả quyết việc làm tại chỗ cho số lao động này.
Thứ hai: Vấn đề xóa đói giảm nghèo.
Tỷ lệ hộ đói nghèo trên địa bàn xã Long Sơn còn cao chiếm đến 46,9 % số hộ trong toàn xã so với chuẩn nghèo của chính phủ tại quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8/72005. Đây là vấn đề thách thức không nhỏ đối với sự phát triển của xã Long Sơn. Vì vậy địa phương đã xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm cần quan tâm thực hiện.
Hằng năm Xã Long Sơn xây dựng kế hoách chỉ đạo rà soát thống kê hộ nghèo đúng qui trình, đúng mức thu nhập nhà nước qui định, để triển khai các chính sách hỗ trợ tới người nghèo; đồng thời giao chỉ tiêu giảm nghèo tới 8 thôn bản của địa phương.
Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo của xã triển khai kế hoạch điều tra, rà soát, thống kê hộ nghèo theo đúng qui trình, giải quyết đầy đủ chế độ chính sách cho người nghèo đảm bảo đúng nguyên tắccông khai dân chủ. Hằng năm xây dựng phương án giao cho các đoàn thể, thôn bản phụ trách theo dõi định hướng cho các gia đình triển khai thực hiện các phương án khả thi để phát triển kinh tế gia đình nhằm vươn lên thoát nghèo.
Thực hiện tốt việc quản lí các đối tượng của chương trình và các dự án, chính sách giảm nghèo từ năm 2008 đến nay tổng số hộ được vay vốn là 930 hộ trong đó hộ nghèo là 493 hộ, số học sinh, sinh viên được vay vốn là 290 em, tổng dư nợ ngân hàng đến tháng 6 năm 2011 là 21,4 tỉ đồng. Số người nghèo được cấp thẻ BHYT là 493 hộ với tổng số thẻ 2465 thẻ; số hộ cận nghèo được hỗ trợ 50% tổng số tiền mua thẻ BHYT là 135 hộ.
100 % học sinh Phổ thông và học sinh Mầm non được miễn học phí, 560 học sinh các cấp con người nghèo được hỗ trợ kinh phí học tập với tổng số tiền 682 200 000 đồng / năm học. toàn bộ là vốn là nguồn vốn từ trung ương cấp.
Thứ ba; Vấn đề bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
Có thể nói bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là một loại chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước mang tính nhân đạo, tính cộng đồng cao cả. Trong những năm qua, cán bộ và nhân dân địa phương đã quan tâm, tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; triển khai cho 100% các chức danh cán bộ địa phương mua bảo hiểm xã hội; tích cực tham gia các loại hình bảo hiểm như bảo hiểm an sinh giáo dục có 1050 lượt tham gia, bảo hiểm xã hội có 19 lượt. Nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động tham gia bảo hiểm, cán bộ làm công tác lao động thương binh ở địa phương đã thường xuyên tuyên truyền về chính sách bảo hiểm hiện hành và giúp đỡ hướng dẫn các đối tượng tham gia bảo hiểm khi đến thời hạn thanh toán hưởng chế độ nghỉ hưu hoặc tai nạn rủi ro được chi trả thuận lợi và nhanh gọn.
Thứ tư; Vấn đề ưu đãi xã hội (các đối tượng chính sách)
Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” Đảng bộ và nhân dân xã Long Sơn có trách nhiệm to lớn trong việc thực hiện mục tiêu về công tác LĐTB&XH mà nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định: “Chăm lo tốt hơn đối với cá gia đình chính sách và những người có công với cách mạng, bảo đảm tất cả các gia đình chính sách có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình của người dân địa phương trên cơ sở ba nguồn lực: nhà nước, cộng đồng và bản thân đối tượng chính sách tự vươn lên”.
Việc tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ đối với người có công với cách mạng, vừa là trách triệm, vừa là thể hiện tinh thần đền ơn đáp nghĩa, do đó các văn bản hướng dẫn về chính sách người có công đều được tổ chức triển khai đến đúng đối tượng. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng tới toàn thể nhân dân; giải thích cho mọi người dân hiểu rõ nội dung chính sách như: Điều kiện xác nhận người có công, các khoản phụ cấp, trợ cấp được hưởng đảm bảo nhu cầu về đời sống, phương tiện chuyên dùng đảm bảo y tế, giáo dục và đào tạo nghề, tạo việc làm. Quy trình tiếp nhận, xét duyệt hồ sơ, niêm yết hồ sơ giải quyết chế độ cho các đối tượng theo đúng quy định không bỏ sót đối tượng, chi trả trợ cấp cho các loại đối tượng luôn kịp thời.
Năm 2008, địa phương chi trả 151 đối tượng là thương binh, bệnh binh, nhiễm chất độc hóa học, với tổng số tiền là 1.123.026.000 đồng; chi trả trợ cấp tết cho 104 hộ nghèo với tổng số tiền là 65.400.000 đồng.
Năm 2009, thực hiện chi trả 137 đối tượng là thương binh, bệnh binh, nhiễm chất độc hóa học, với tổng số tiền là 870.195.000 đồng; trợ cấp tết cho hộ nghèo số tiền là 65.400.000 đồng. Ngoài ra, địa phương còn giải quyết tốt chế độ chính sách cho các gia đình và người có công với cách mạng.
Thực hiện giải quyết chế độ cho các đối tượng tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước dưới 20 năm công tác trong quân đội chưa được hưởng chế độ chính sách theo quyết định 142/2008/QĐ-TT ngày 27/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ với tổng số 98 đối tượng. Khảo sát các đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở biên giới phía bắc, biên giới tây nam giúp bạn Lào và Campuchia với tổng số 198 đối tượng. Xác nhận và đề nghị giám định thương binh cho 11 đối tượng theo quy định hiện hành. Đã tổ chức tốt việc đón nhận 1 bộ hài cốt liệt sỹ an táng về địa phương đảm bảo trang trọng đúng nghi thức; thăm hỏi tặng quà cho các đối tượng thương, bệnh binh, gia đình chính sách trong 3 năm là 524 lượt với tổng số tiền 16.267.000 đồng; đã huy động nhân dân đóng góp được 67.000.000 đồng xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”; đóng góp 55 số tình nghĩa trị giá mỗi sổ 200.000 đồng tặng cho các gia đình liệt sỹ. Tuyên truyền, vận động các đoàn thể như Hội phụ nữ, Thanh niên, học sinh, Công đoàn các trường lao động giúp đõ 1534 ngày công cho các gia đình thương binh liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng...
Những kết quả nêu trên có ý nghĩa thiết thực trong việc thực hiện và giải quyết tốt chế độ chính sách hậu phương quân đội, đem lại lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Thứ năm; Vấn đề cứu trợ xã hội.
Căn cứ Quyết định số 96/QĐ-UBND ngày 17/12/2007 của UBND tỉnh Bắc Giang về việc quy định mức trợ cấp, trợ giúp các đối tượng bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, ủy ban nhân dân xã Long Sơn xây dựng kế hoạch tổ chức hội nghị triển khai hướng dẫn và thông báo đến các đối tượng làm hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp hàng tháng, nộp hồ sơ về ủy ban nhân dân.
Quy trình tiếp nhận, xét duyệt hồ sơ, niêm yết công khai hồ sơ giải quyết chế độ cho các đối tượng theo đúng quy định không bỏ sót đối tượng. Công tác chi trả trợ cấp luôn kịp thời và đúng đối tượng; kết quả chi trả cho các đối tượng trong 3 năm qua như sau:
Năm
Ngân sách chi trả
Tổng số người được hưởng ưu đãi
Trẻ mồ côi
Người tàn tật
Người tâm thần
Người cao tuổi
Người đơn thân nuôi con nhỏ
Người già cô đơn
2008
98.550.000
7
16
9
25
13
5
2009
124.368.000
9
16
9
27
13
6
2010
118.642.000
8
16
9
26
14
6
Thứ sáu; Vấn đề tệ nạn xã hội
Trên thực tế hiện nay những tệ nạn xã hội như: mại dâm, ma túy, trộm cắp, rượu chè, cờ bạc, thoái hóa đạo đức... đang gia tăng đến mức đáng lo ngại. Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể địa phương luôn thực hiện duy trì chế độ giao ban, tăng cường tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho quần chúng nhân dân nhằm hiểu rõ hơn những ảnh hưởng của tệ nạn xã hội đang lấn át nếp sống, thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa địa phương.
Đẩy mạnh phong trào quần chúng Bảo vệ an ninh tổ quốc từ xã xuống thôn bản đảm bảo số lượng, chất lượng, nâng cao hiệu quả hoạt động. Trong năm qua, địa phương đã phối hợp với Công an huyện bắt 05 tụ điểm cờ bạc trên địa bàn, lập hồ sơ đối tượng cờ bạc; phối hợp mở đợt cao điểm về đấu tranh với các loại tội phạm trên địa bàn, tiếp tục xây dựng mô hình xã không có tệ nạn xã hội; tham mưu kiện toàn ban chỉ đạo phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm.
Thứ bảy; Vấn đề y tế, văn hóa, giáo dục
Từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới, cả nước chuyển sang cơ chế thị trường, kinh phí đầu tư cho giáo dục của Nhà nước có phần giảm. Để duy trì và củng cố chất lượng hệ thống giáo dục, Đảng bộ, chính quyền xã Long Sơn luôn chăm lo đến công tác xây dựng hệ thống trường, lớp, đầu tư cơ sở vật chất đảm bảo cho việc dạy và học, tạo dựng chế độ phúc lợi xã hội thích hợp, chăm lo đến việc ăn ở, nghỉ ngơi, giải trí cho đội ngũ giáo viên để họ có đủ điều kiện chăm lo đến sự nghiệp “trồng người” chú trọng đào tạo đội ngũ giáo viên sơ tại. Đối với học sinh địa phương thực hiện chính sách hỗ trợ học tập cho các em thuộc đối tượng chính sách, các em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và đối tượng là học sinh nghèo.
Thực hiện chương trình xã hội hóa giáo dục, xã đã thành lập Họi đồng giáo dục nhằm tăng cường quản lý công tác giáo dục, động viên toàn dân chăm lo đến sự nghiệp giáo dục, thành lập hội khuyến học đi vào hoạt động có hiệu quả khuyến khích các tổ chức xã hội, cá nhân giúp đỡ những tài năng trẻ, những học sinh xuất sắc để các cháu yên tâm học tập. Thực hiện phổ cập trẻ 5 tuổi, 100% trẻ 6 tuổi được vào lớp 1, tiếp tục phổ cập giáo dục tiểu học 100% học sinh tốt nghiệp lớp 5 chuyển lên trung cơ sở, ổn định phổ cập trung học cơ sơ, 98 trở lên học sinh lớp 9 thi đỗ vào trường phổ thông trung học. Các em thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ học sinh giỏi các cấp luôn xếp thứ nhất nhì huyện; xếp thứ thứ hạng cao trong tỉnh. Trong 3 năm địa phương đã đầu tư ngân sách để xây dựng và tu sửa cho 3 cấp học trên 10 tỷ đồng. Hiện nay, cả 3 trường đều có cơ sở vật chất khang trang, xanh – sạch – đẹp thực sự là trường học thân thiện, trường chuẩn, cận chuẩn quốc gia đáp ứng với yêu cầu giáo dục trong tình hình mới. Xã Long Sơn luôn xứng đáng là dơn vị lá cờ đầu huyện Sơn Động về giáo dục.
Đối với hệ thống y tế củng cố và nâng cao khả năng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, thực hiện tốt chế độ bảo hiểm y tế, có chính sách chăm lo đời sống cho cán bộ y, bác sỹ, những người phục vụ trong ngành y tế các chương trình y tế quốc gia được quan tâm chỉ đạo thực hiện, đã ngăn được bệnh dịch góp phần bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Các thiết chế văn hóa được đầu tư xây dựng, 5/8 thôn bản có nhà văn hóa và sân thể thao quy mô nhỏ đáp ứng được nhu cầu tập luyện thể thao của nhân dân. Công tác quản lý Nhà nước được tăng cường. Các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa trên địa bàn luôn diễn ra lành mạnh, không xẩy ra tình trạng vi phạm pháp luật trên lĩnh vực văn hóa. Phong trào văn hóa văn nghệ hội thi, hội diễn đã trở thành phong trào mạnh mẽ. Duy trì và bảo tồn khu di tích lịch sử đền bà Chúa Liễu, hàng năm, tổ chức lễ hội nghiêm trang về phần lễ kết hợp với phần hội với nhiều hình thức vui chơi lành mạnh và phù hợp với phong tục tập quán của địa phương, tham gia và hoàn thành tốt một số hoạt động tại lễ Hội Đình Hạ. Đầu tư 250 triệu đồng xây dựng hệ thống đài truyền thanh của xã, mua sắm tăng âm, loa đài trang bị cho 8 thôn bản phục vụ cho công tác tuyên truyền góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi của nhiệm vụ chính trị địa phương.
*. Nguyên nhân đạt được nhưng kết quả trên:
- Nguyên nhân chủ quan
+. Đảng bộ chính quyền và các đoàn thể nhân dân địa phương luôn có sự quan tâm sát sao tới công tác xã hội. Triển khai nghiêm túc, kịp thời các chế độ chính sách của nhà nước đến các đối tượng được hưởng.
+. Chính quyền dịa phương vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và tình hình thực tiến của địa phương, tranh thủ sự ủng hộ của các ngành, các cấp, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, để tổ chức thực hiện các hoạt động chính sách xã hội. Các hoạt động này đã mạng lại hiệu quả thiết thực đến từng tổ chức cá nhân góp phần vào việc ổn định xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia.
+. Đội ngũ làm công tác chính sách xã hội được tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ nên đã phát huy được vai trò trách nhiệm trong việc triển khai các chính sách xã hội đề xuất tham mưu kịp thời với các cấp ủy đảng, chính quyền triển khai, thực hiện chính sách xã hội.
- Nguyên nhân khách quan:
+. Được sự quan tâm sâu sát chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước, các cơ quan chuyên môn cấp trên đối với địa phương, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách xã hội của cơ sở đạt kết quả cao.
+. Do điều kiện kinh tế ngày càng tăng trưởng và điều kiện quan trọng cho việc thực hiện chính sách xã hội.
+. Một số chính sách xã hội của nhà nước trong những năm qua đã được thực hiện có hiệu quả tại Địa phương như: Giáo dục, y tế, xóa đói, giảm nghèo.... tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, là điều kiện thuận lợi đề thực hiện chính sách xã hội ngày càng tốt hơn.
2.2. Những hạn chế tồn tại trong việc thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn huyện Sơn Động.
+ Nhân dân sống rải rác cách xa trung tâm, xa trạm y tế nên còn nhiều bất cập cho việc khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ.
+ Việc thực hiện chuyển đổi cơ cấu, kinh tế đa dạng hóa ngành nghề còn chậm, số người chưa có việc làm còn ở mức cao, tiềm năng thế mạnh đất đai, lao động khai thác sử dụng chưa hợp lý. Thời gian lao động ở nông thôn mới được sử dụng ở mức thấp, chưa có nhiều mô hình sản suất nông nghiệp hiệu quả, một bộ phận nhân dân còn trông trờ, ỷ lại các chính sách của Nhà nước. Trình độ dân trí ở mức hưởng thụ văn hóa nhân dân chưa cao.
+ Mức độ ô nhiễm và hủy hoại môi trường sinh thái đáng lo ngại, hiện tượng quan liêu, cửa quyền trong một số bộ phận cán bộ thực hiện chính sách xã hội vẫn chưa dược giải quyết triệt để, ảnh hưởng phàn nào đến niềm tin của nhân dân đối với chính quyền.
+. Trình độ năng lực của một số cán bộ nhất là trong lĩnh vực quản lý nhà nước còn hạn chế, do vậy triển khai thực hiện nhiệm vụ có lúc không đồng bộ, thống nhất hiệu quả công việc chưa cao.
+. Việc thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở có lúc, có nơi vi phạm không phát huy quyền làm chủ cua nhân dân.
Công tác tuyên truyền chính sách xã hội cuả chính quyền các ban, ngành đoàn thể ở địa phương đôi lúc chưa kịp thời; có những chính sách của nhà nước được phổ biến nhưng nhân dân không được tiếp cận hoặc tiếp cận chậm dẫn đến những chế độ chính sách đối tượng không được hưởng kịp thời.
*. Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại.
- Nguyên nhân chủ quan:
Do nhận thức của một số cán bộ, đảng viên còn hạn chế nên chính sách xã hội chậm được tuyên truyền đến nhân dân.
Cán bộ làm công tác chính sách xã hội trình độ chuyên môn còn hạn chế, chế độ đãi ngộ thấp nên không phát huy hết khả năng, năng lực trong chỉ đạo công tác; đôi khi còn buông lỏng quản lý, chưa giải quyết được triệt để việc làm đối với lao động dư thừa hoặc thời điểm nông nhàn, nhiều lao động phải đi làm ăn xa cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện và chấp hành chính sách xã hội mà đảng và nhà nước đã đề ra.
- Nguyên nhân khách quan
+ Trong công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, nhu cầu đòi hỏi của dân ngày càng cao về đời sống xã hội. Các chính sách xã hội tác động rất lớn đến toàn bộ đời sống xã hội.
+ Một số vấn đề tiêu cực xã hội hiện nay như tham nhũng, lãng phí của công chưa được ngăn chặn; vấn đề thiếu việc làm , phân hóa giầu nghèo, điều kiện học tập, tệ nạn xã hội, trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện chính sách xã hội địa phương trong những năm vừa qua.
III. PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM GÓP PHẦN THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở XÃ LONG SƠN HUYỆN SƠN ĐỘNG TỈNH BẮC GIANG
1. Phương hướng chung
Tiếp tục quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các nghị quyết, quan điểm, chủ trương đường lối chính sách của đảng và nhà nước về vấn đề chính sách xã hội. Văn kiện Đại hội X của đảng khẳng định: “ kết hợp chặt chẽ và hợp lý các mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; thực hiện chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế xã hội”.
Quán triệt sâu sắc nghị quyết đại hội đảng toàn quốc lần thứ X, nghị quyết đại hội xã nhiệm kỳ 2011- 2016 khẳng định: thực hiện chính sách xã hội là nhiệm vụ quan trọng cần được quan tâm, đẩy mạnh. Đây là trách nhiệm của đảng bộ, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong toàn xã. Thực hiện tốt chính sách xã hội đối với lĩnh vực dân số, việc làm, lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo, lĩnh vực ưu đãi xã hội, lĩnh vưch văn hóa giáo dục và y tế... Tất cả các lĩnh vực trên phải được triển khai thường xuyên và có chính sách thích hợp để tạo công bằng về cơ hội và bình đẳng trước phap luật cho từng công dân.
2. Mục tiêu cụ thể
Đảng ủy, hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể địa phương tiếp tục quán tiệt và thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội mà đảng và nhà nước đã đề ra, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của toàn xã hội, của mọi ngành, mọi người. Vì vậy, để triền khai và thực hiện tốt các chính sách xã hội , địa phương cần tập trung vào một số lĩnh vực và đề ra mục tiêu phấn đâu cụ thể đến năm 2015.
- Thực hiện tốt chính sách xã hội về lĩnh vực dân số và việc làm, xác định công tác dân số và giải quyết việc làm là mục tiêu quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế của địa phương, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội. Bằng cách vận động, tuyên truyền và giáo dục gắn liền với dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến mọi người dân. Thực hiện gia đình ít con để nuôi con khỏe dậy con ngoan, xây dựng cuộc sống gia đình ấm lo, hạnh phúc, bình đẳng và tiến bộ. Ban dân số kết hợp với hội phụ nữ các ban ngành đoàn thể tổ chức hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chính sách, luật pháp nhà nước, tổ chức và quản lý hoạt động của các cộng tác viên để cung cấp và thu thập thông tin về dân số kế hoạch hóa gia đình cho tất cả các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ. Đến năm 2015 không còn trường hợp nào sinh con thứ 3.
- Chú trọng việc thực hiện giải quyết việc làm tại chỗ bằng các biện pháp thiết thực như: Khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều thành phẩn ưu tiên cho phát triển các doanh nghiệp và các dịch vụ kinh doanh, trồng các loaị rau quả xuất khẩu cho thu nhập cao. Phấn đấu giải quyết việc làm tại chỗ cho 80 - 100 lao động / năm.
- Thường xuyên tuyên truyền các chủ trương , đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, các chính sách xã hội đến từng người dân. Hằng năm có từ 7/8 thôn bản trở lên đạt thôn bản văn hóa: 85% gia đình đạt gia đình văn hóa. Quản lý tốt khu di tích lịch sử đền Lục Liều và Đình Làng Hạ.
- Phấn đấu tỷ lệ trẻ mẫu giáo 3-6 tuổi ra lớp đạt 100%; học sinh lớp 5 vào lớp 6 đạt 100%; học sinhnlớp 9 thi đỗ vào phổ thông trung học đạt 98%; 3 trường học giữ vững danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc cấp tỉnh, cấp huyện là đơn vị dẫn đầu huyện về chất lượng giáo dục; tiếp tục giữ vững an ninh chính trị.
- Phấn đấu năm 2013 giảm còn 20% hộ nghèo, quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe, đơì sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Phấn đấu hàng năm 100% trẻ dưới 6 tuổi được cấp thẻ khám chữa bệnh; thực hiện đầy đủ chế độ bảo hiểm cho người nghèo, Tuyên truyền tốt để nhân dân tham gia đóng bảo hiểm dưới mọi hình thức....giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng đến năm 2013 còn dưới 10%. Xây dựng trạm y tế đảm bảo các tiêu chuẩn để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân địa phương.
- Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các hộ gia đình chính sách, đẩy mạnh phong trào đền ơn đáp nghiã.
3. các giải pháp cơ bản góp phần làm tốt việc châp hành và thực hiện tốt chính sách xã hội ở xã Long Sơn
Giải pháp và thực hiện tốt các chính sách xã hội, chăm lo đời sông đối với nhân dân các gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng và các đối tượng chính sách xã hội khác. Tạo điều kiện để nhân dân học tập, tiếp tục liên hệ với các trung tâm dạy nghề, trường dạy nghề đào tạo nghề ngắn hạn cho nhân dân tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Một là: Tăng cường lãnh, chỉ đạo các tổ chức chính trị, xã hội và các ban ngành đoàn thể trong xã tích cực tham gia tuyên truyền chính sách của Nhà nước tới người dân, chuyển nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Hai là: cần phát huy sức mạnh tổng hợp, tính chủ động sáng tạo và quyền làm chủ của nhân dân. Trong việc thực hiện chính sách xã hội, các cấp ủy Đảng các ban nghành đoàn thể đi sâu đi sát cơ sở. lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân để kịp thời đề ra các chủ trương biện pháp nhằm giải quyết nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân đóng góp ý kiến, xây dựng chính sách xã hội phù hợp với tình hình đại phương.
Ba là: Cấp ủy Đảng, chính quyền cụ thể hóa một cách nghiêm túc các chính sách xã hội của đảng Nhà nước ta, cho phù hợp với đặc điểm tình hình của xã Long Sơn. Trước khi xây dựng các chương trình Kế hoạch cần được khảo sát Đánh giá cụ thể nhiệm vụ chương trình Kế hoạch gắn liền với chương trình công tác. Phân công rõ trách nhiệm từng cán bộ ổn định thời gian hoàn thành, quy trách nhiệm, nhiệm vụ trọng tâm trọng điểm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo rứt điểm đồng thời chú trọng khâu đôn đốc kiểm tra, sơ kết tổng kết thực hiện chính sách ở địa phương.
Bốn là; Quán triệt sâu sắc quan điểm chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước theo tinh thần Nghị định Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI và Nghị quyết đại hội đảng bộ xã Long Sơn lần thứ 23. Triển khai các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước đến mọi người dân thực hiện nghiêm túc có hiệu quả.
Trong triển khai thường xuyên đôn đốc kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách xã hội ở dịa phương.
Năm là: Cán bộ làm công tác xã hội phải nắm vững chuyên môn nghiệp vụ có khả năng chuyển tải các chính sách xã hội đến mọi người dân , có tính thuyết phục để mọi người dân hiểu, thực hiện nghiêm túc và chấp hành đầy đủ các chính sách xã hội của nhà nước đề ra.
Sáu là: Tăng cường nguồn lực, phương tiện hoạt động chính sách xã hội hiệu quả.
Bẩy là: Nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền trong việc thực hiện các chính sách xã hội ở địa phương.
Tám là: Phải thường xuyên củng cố, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách có đủ khả năng và trình độ,
4. Đề xuất và kiến nghị
4.1. Đối với cấp cơ sở:
Cần tuyên truyền sâu rộng đến tất cả các cấp các ngành, cán bộ, Đảng viên và mọi tâng lớp nhân dân về chủ trương đường lối chính sách của Đảng pháp luạt của Nhà nước.
Cần tranh thủ sự hỗ trợ của các cấp đến giải quyết tốt kịp thời nhưng kiến nghị của nhân dân về chế độ chính sách chế độ đãi nghộ, ưu đãi đối với người có công với cách mạng , người già cô đơn trẻ em mồ côi không nơi nương tựa ,Nhất là chính sách tạo công ăn việc làm cho người lao động trên địa bàn quan tâm việc dạy nghề, tạo việc làm cho những lao động dư thừa.
Nghiên cứu thể chế hóa các chính sách của Đảng và Nhà nước cho phù hợp với thực tiến của xã Long Sơn.
- Cần nâng cao hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện chính sách xã hội chặt chẽ hơn.
4.2. Đối với cấp trên;
- Đảng, Nhà nước cần đề ra sửa đổi các chính sách xã hội cho phù hợp và kịp thời với tiến trình phát triển của đát nước.
- Xử lý nghiêm những cấn bộ tập thể thực hiện sai và vi phạm chính sách xã hội của Đảng và nhà nước.
- Giải quyết dứt điểm những tồn tại trong việc thực hiện chính sách có kế hoạch cụ thể trong chính sách ưu đãi người có công với cách mạng và người bị di chứng do chiến tranh để lại.
- Quan tâm hơn nữa đến việc dạy nghề, tạo công ăn việc làm cho số lao động dư thừa ở nông thôn.
- Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác chính sách ở cơ sở. Tạo điều kiện thuận lợi để cơ sở vật chất điều kiện làm việc cho đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách ở địa phương.
C. KẾT LUẬN
Xuất phát từ quan điểm con người vừa là mục tiêu vừa là động lực, vừa là trung tâm của sự quan tâm xã hội, vừa là chủ thể sáng tạo ra mọi vật chất tinh thần cho xã hội, chính sách xã hội cần tác động một cách toàn diện vào tất cả các mặt của đời sống con người, nhằm phát huy mạnh mẽ nhân tố con người.
Chính sách xã hội hướng vào hoạt động nhằm điều hòa các mâu thuẫn xung đột, giảm bớt bất công, căng thẳng xã hội, góp phần cân đối thu thập giải quyết việc làm, phân phối lợi ích tạo ra sự công bằng hợp lý giữa cống hiến và hưởng thụ , khuyến khích người nhiệt tình năng động, tài năng giúp kẻ nghèo khó rủi ro không may trong cuộc sống.... đảm bảo an ninh, an tòa xã hội cũng như quyền tự do công dân và sức khỏe, hạnh phúc cho con người.
Văn kiện đại hội X khẳng định: “Xây dựng hệ thống chính sách đảm bảo cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, tạo điều kiện cho mọi người dân, kể cả người nghèo được đáp ứng nhu cầu về giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khẻo văn hóa thông tin, thể dục thể thao, tạo việc làm..... xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh mẽ đảm bảo y tế tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đổi mới và hòan thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng hiệu quả phát triển, tạo cơ hội cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe; xây dựng chiến dịch quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện giống nòi”
Những chủ trương quan điểm đường lối của Đảng đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết và được cụ thể hóa trong các mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương đã nhanh chóng tiếp thu và triển khai thực hiện chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và đưa chính sách vào cuộc sống. Bằng những cố gắng lỗ lực của cán bộ Đảng viên và toàn thể nhân dân, sự tác động có hiệu quả của các Nghị quyết và các quan điểm đường lối chính sách pháp luật của Nhà nước nên trong những năm qua đời sống xã hội của nhân dân xã Long Sơn có nhiều khởi sắc và đạt được nhiều thành tích đáng kể về thực hiện các mục tiêu kinh tế, văn hóa xã hội. Đó là những kết quả đáng trân trọng vừa là động lực, vừa là đòn bẩy để cán bộ nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà đai hội Đảng bộ xã Long Sơn đề ra trong nhiệm kỳ vừa qua.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, khi nền kinh tế thị trường đang diễn ra sôi động, thì trong lĩnh vực chính sách xã hội không thể tránh khỏi những nàn gió cản trở đó là khuyết tật của nền kinh tế. Nhiệm vụ của Đảng nhà nước ta trong việc đề ra các chủ trương chính sách xã hội với lòng dân đặt ra lúc này là hết sức quan trọng vì chính sách xã hội cần được đề cao tập trung chỉ đạo thực hiện hiệu quả. Muốn điều đó trở thành hiện thực thì mỗi cấp, mỗi ngành mỗi cán bộ Đảng viên cần phải phát huy vai trò, nêu cao ý thức trách nhiệm tạo nên nguồn sức mạnh mỗi khi tổ chức triển khai thực hiện chính sách xã hội trong mọi lĩnh vực. Với những nhận thức đúng đắn về chính sách xã hội, kết hợp với sự đoàn kết cố gắng của cán bộ và nhân dân, trông những năm tiếp theo của sự đổi mới xã Long Sơn sẽ có thêm nhiều khởi sắc mới góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng phát triển với mục tiêu : “ Dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ công bằng văn minh”
Để hoàn thành đề tài này tôi xin trân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường chính trị tỉnh Bắc Giang đã trang bị cho tôi những kiến thức bổ ích. Đặc biệt xin cảm ơn Thạc sĩ Trần Thị Minh Phương đã tận tình hướng dẫn, tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành đề tài. Cảm ơn Đảng ủy; Hội đồng nhân dân; ủy ban nhân dân UBMT tổ quốc xã Long Sơn đã cung cấp các tư liệu giúp tôi hoàn thành đề tài.
Với thời gian nguyên cứu không dài, năng lực của bản thân tôi còn hạn chế nên tiểu luận không tránh khỏi những hạn chế, kính mong các thầy cô giáo cùng bạn đọc đóng góp đẻ tài liệu được hoàn thiện hơn.
Long Sơn, ngày 2 tháng 8 năm 2011
XÁC NHẬN CỦA ĐỊA PHƯƠNG NGƯỜI VIẾT TIỂU LUẬN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng, phương hướng và giải pháp trong việc thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động giai đoạn hiện nay.doc