Lời mở đầu:
Dân số là mục tiêu,động lực của sự phát triển xã họi. Nhận thức được vai trò quan trọng đó mà mõi quốc gia trên thế giới đã không ngừng xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch kê hoạch, chương trình quản lý dan số nhằm nâng cao chất lượng dân số, tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển, xã hội ổn định.
Việt Nam là một nước đông dân cư, lực lượng lao động dồi dào, nguồn nhân lực lớn song chất lượng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đát nước hiện nay. Cùng với đó mật độ dân số tăng lên nhanh chóng, sự phân bố dân cư không đồng đều giữa các vùng đã gây ra nhiều khó khăn cho công tác quản lý của các cơ quan nhà nước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực trạng quản lý nhà nước về dân số cho thấy còn nhiều hạn chế đòi hỏi phải có sự quan tâm của các cấp các ngành để giải quyết triệt để những hạn chế này.
Chính vì vậy, chúng em xin chọn đề tài ‘Thực trạng quản lý nhà nước về dân số” để nghiên cứu. Qua quá trình tìm hiểu đề tài nhóm chúng em không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong sự đóng góp ý kiến của cô giáo và toàn thể các bạn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
21 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4000 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng quản lý nhà nước về dân số, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 11-1- 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), đánh dấu thời kì hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Trong thời gian qua, tình hinh quốc tế có những diễn biến hết sức phức tạp. Trên thế giới, giá dầu thô, giá lương thực tăng cao, giá vang, giá vật liệu biến động theo chiều hướng tăng. Cuộc khủng hoảng nhà đất ở Mỹ kéo theo sự suy giảm của nền kinh tế hàng đầu thế giới và tác động tiêu cực đến kinh tế toàn cầu. Do tác động của tình hình kinh tế thế giới, nước ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn: Tình hình lạm pháp tăng cao, nhập siêu ở mức cao; luồng vốn vào tăng mạnh, tuy mang lại cơ hội để Việt Nam tăng dự trữ quốc tế, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời cũng gây sức ép lớn đối với điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá, nhất là trong điều kiện khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế Việt Nam còn hạn chế, đặc biệt chỉ số giá tiêu dùng tăng nhanh (cao hơn cả tăng trưởng GDP) ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Bên cạnh đó, thiên tai, dịch bệnh ở nhiều vùng gây nên thiệt hại cho sản xuất và đời sống. Trong đó vấn đề chống lạm pháp và tăng trưởng kinh tế đang được các cấp, các ngành quan tâm để đạt được kết quả tối ưu mà không gây hậu quả đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Thực hiện điều hành chính sách tiền tệ quốc gia là nhiệm vụ mà ngày nay, ở các quốc gia, nhà nước đều giao cho Ngân hàng trung ương. Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, hội nhập quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội cho sự phát triển theo hướng cạnh tranh hơn, minh bạch hơn, song cũng đặt ra những thách thức cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia nhằm ổn định tiền tệ, kiềm chết lạm pháp, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đi đầu trong việc kiềm chế lạm pháp hiện nay ở Việt Nam vẫn phải là chính sách tiền tệ thận trọng và thắt chặt của Ngân hàng Nhà nước.
NỘI DUNG
I- Vị trí pháp lý, tư cách pháp nhân, chức năng và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
1, Vị trí pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
Ngân hàng quốc gia Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) được thành lập theo sắc lệnh số 15/SL ngày 6/5/1951 do Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí. Khoản 1, Điều 1, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam do Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 quy định: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, theo quy định này, Ngân hàng Nhà nước vừa có vị trí pháp lý của cơ quan thuộc bộ máy hành pháp (của Chính phủ) vừa có vị trí pháp lý của ngân hàng Trung ương.
Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước được quy định ở Điều 1 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997 là nhằm bình ổn giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy kinh tế xã hội. Mục tiêu hoạt động vì lợi ích quốc gia của Ngân hàng Nhà nước là tiêu chí để phân biệt hoạt động của nó với hoạt động ngân hàng của các định chế tài chính- tín dụng khác trong nền kinh tế.
2, Tư cách pháp nhân của Ngân hàng Nhà nước:
Ngân hàng Nhà nước là một pháp nhân, tư cách pháp nhân của Ngân hàng Nhà nước được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước thành lập theo Sắc lệnh số 15/SL ngày 6/5/1951 do Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, được nhà nước giao vốn, tài sản để hoạt động.
Thứ 4, Ngân hàng Nhà nước nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật.
3, Chức năng của Ngân hàng Nhà nước:
a, Chức năng quản lý nhà nước:
Tham gia xây dung chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của Nhà nước.
Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để trình Chính phủ
Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt động ngân hang; ban hành các văn bản quy phạp pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động của ngân hàng, các tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp nhận chia tách, hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tín dụng.
Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng, kiểm soát tín dụng, xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền.
Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ.
b, Chức năng ngân hàng trung ương:
Khoản 2 Điều 5 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định, Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ quyền hạn tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền; thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi, thay thế và tiêu hủy tiền.
Ngoài ra, Nhà nước còn giao cho Ngân hàng Nhà nước những nhiệm vụ, quyền hạn sau: Thực hiện tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế; Điều hành thị trường tiền tệ, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở; Kiểm soát dự trữ quốc tế, quản lý dự trữ ngoại hối của Nhà nước; Tổ chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng, làm dịch vụ thanh toán, quản lý việc cung ứng dịch vụ thanh toán; Làm đại lý và thực hiện dịch vụ ngân hàng cho kho bạc nhà nước; Tổ chức hệ thống thông tin và làm dịch vụ thông tin ngân hàng.
3, Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước:
a, Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia:
Điều 15 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia như sau:
Chủ trì xây dung chính sách tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình Chính phủ.
Điều hành các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, thực hiện việc đưa tiền ra lưu thông, rút tiền từ lưu thông về theo tín hiệu của thị trường trong phạm vi lượng tiền cung ứng được Chính phủ phê duyệt.
b, Phát hành tiền:
Phát hành tiền là cung ứng tiền vào lưu thông làm phương tiện thanh toán
Điều 23 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: Ngân hàng Nhà nước là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm tiền giấy và tiền kim loại.
c, Hoạt động tín dụng:
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn cho hệ thống tín dụng. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nhà nước được thực hiện dưới các hình thức bảo lãnh, tạm ứng cho ngân sách nhà nước, cho vay.
d, Mở tài khoản, hoạt động thanh toán và ngân quỹ:
Ngân hàng Nhà nước được mở tài khoản ở ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ, ngân hàng quốc tế; được mở và quản lý tài khoản, thực hiện các giao dịch cho các tổ chức tín dụng trong nước, kho bạc nhà nước, các ngân hàng nước ngoài và tổ chức tiền tệ, ngân hàng quốc tế.
e, Quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối:
Thẩm quyền quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước được thể hiện trên hai phương diện: quản lý hành chính nhà nước về ngoại hối và quản lý ngoại hối bằng nghiệp vụ ngân hàng trung ương.
Hoạt động ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước được thực hiện trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế (Điều 39 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
f, Thanh tra ngân hàng.
II- Thực tiễn điều hành chính sách tiền quốc gia nhằm chống làm pháp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay:
Ngân hàng Nhà nước là nhân tố chủ đạo để kiềm chế lạm pháp, là cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng và chức năng Ngân hàng trung ương, hoạt động của Ngân hàng Nhà nước góp phần quan trọng vào việc ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm pháp, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện Thông báo kết luận số 191 – TB/TW ngày 1/9/2005 của Bộ chính trị về mục tiêu, giải pháp phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 112/2006/QDD-TTg phê duyệt Đề án Phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, trong đó đã xác định mục tiêu là: Tạo nền tảng để đến năm 2010 phát triển Ngân hàng Nhà nước thành Ngân hàng trung ương hiện đại, đạt trình độ tiên tiến của các Ngân hàng trung ương trong khu vực châu Á. Với định hướng trên, trong thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động ngaan hàng theo hướng vừa bảo đảm tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, vừa phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Sau hơn một năm Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), kinh tế- xã hội nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ và đạt được những kết quả khả quan trên nhiều mặt. Tuy nhiên, nên kinh tế cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, trong đó vấn đề lamh pháp, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao nhất trong 12 năm qua đã tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống của người dân. Ngày 09/01/2008, tại Hội nghị toàn ngành Ngân hàng triển khai nhiệm vụ năm 2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đánh giá về những thành tựu chung của nền kinh tế trong năm 2007, trong đó có sự đóng góp quan trọng của ngành Ngân hàng. Thủ tướng đã phân tích: Ngoài những nguyên nhân khách quan (giá cả thế giới biến động, thiên tai, dịch bệnh…), giá tăng cao là do điều hành chính sách tiền tệ chưa khoa học cũng là nguyên nhân góp phần làm giá cả biến động. Cũng tại Hội nghị này, Thủ tướng chỉ đạo: Năm 2008, Ngân hàng Nhà nước cần điều hành chính sách tiền tệ một cách khoa học, đúng quy luật theo nguyên tắc thị trường, đảm bảo chủ động, chặt chẽ, thận trọng để góp phần thực hiện hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 9% và kiềm chế chỉ số giá tiêu dùng dưới mức tăng trưởng kinh tế. Đây là nhiệm vụ chính trị hàng đầu và quan trọng nhất mà toàn ngành Ngân hàng cần phải tập trung sức lực, trí tuệ để phấn đấu đạt được. Thực hiện yêu cầu của Chính phủ đặt ra (một trong bảy giải pháp kiềm chế lạm pháp của Chính phủ): Ngân hàng Nhà nước đảm bảo đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể, tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu.
Trước những biến động của kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là tình hình lạm pháp có xu hướng tăng cao, thực hiện sự điều hành, chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng, góp phần giảm áp lực tăng giá. Năm 2007, nhiều giải pháp đã được triển khai như: Duy trì ổn định các mức lãi suất cơ bản nhằm ổn định mặt bằng lãi suất trong nước; Tăng số phiên và khối lượng giao dịch trên thị trường mở, trong đó chủ yếu chào bán tín phiếu ngân hàng để rút tiền từ lưu thông về; Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hạn chế gia tăng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán… Tuy chưa đạt được mục tiêu kiềm chế lạm pháp thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhưng điều hành tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2007 đã bám sát và tuân thủ nghiêm túc sự chỉ đạo, điều hành, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế ở mức cao (8,48%)
Chính sách tiền tệ là một công cụ quản lý vĩ mô, trong thời gian qua, việc thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước đã đóng góp tích cực cho sự ổn định thị trường tài chính, kiểm soát lạm pháp và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Đồng thời chính sách tiền tệ cũng đã có những bước đổi mới nhất định phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế gần hai năm hội nhập cho thấy, chính sách tiền tệ phải đối mặt với ba vấn đề lớn, đó là: Kiểm soát tổng lượng tiền trong nền kinh tế, lãi suất và tỷ giá trước sức ép lạm pháp gia tăng; Ngăn chặn những bất ổn định về tiền tệ và kinh tế vĩ mô khi thực hiện tự do hóa các giao dịch vốn; ảnh hưởng của xu hướng thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền tệ của các quốc gia trên thế giới.
Những tháng đầu năm 2008, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp. Giá dầu thô, giá vàng tăng mạnh và liên tiếp đạt các kỷ lục mới: giá lương thực thực phẩm cũng t cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ... Tuy nhiên, trong quá trỡnh hội nhập này, nền kinh tế Việt Nam cũng phải đứng trước nhiều thách thức về môi trường pháp luật, công nghệ, năng suất, hiệu quả và khả năng cạnh tranh, quỏ trỡnh hội nhập gắn liền với quỏ trỡnh tự do hoỏ thị trường, đem lại nhiều cơ hội, nhưng cũng không ít thách thức. Ngoài những thách thức mà các tổ chức tín dụng (TCTD) phải khắc phục trong việc cạnh tranh nắmăng vọt chỉ trong vài tháng đầu năm 2008 và thiết lập một mặt bằng giá mới cao hơn nhiều so với cùng kì năm 2007. Trước những biến động bất thường của giá cả, Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai các giải pháp quyết liệt nhằm kiềm chế lạm pháp, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm tăng trưởng bền vững (các văn bản số 75/TTg-KTTH ngày 15/1/2008, số 319/TTg-KTTH ngày 3/3/2008, số 418/TTg-KTTH ngày 31/3/2008, Thông báo số 91/TB-VPCP ngày 7/4/2008, Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008 về các biện pháp kiềm chế lạm pháp, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững).
Bám sát sự chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã tập trung triển khai các giải pháp quyết liệt nhằm tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt:
- Nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 1% (ngoại trừ các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông thôn).
Phát hành 20.300 tỉ đồng tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc để thu hút tiền về áp dụng đối với tổ chức tín dụng, trừ các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông thông và các tổ chức tín dụng có nguồn vốn huy động dưới 1.000 tỉ đồng.
- Tăng các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước (lãi suất cơ bản từ 8,25% lên 8,75%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 6,5% lên 7,5%/năm, lãi suất chiết khấu từ 4,5% lên 6%/năm).
- Thực hiện các biện pháp kiểm soát tăng trưởng tín dụng không quá 30%/năm. Kiểm soát chặt chẽ các lĩnh vực cho vay có rủi ro cao như kinh doanh chứng khoán, bất động sản, trong đó quy định tổng dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng khoán không được vượt qua 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng (Quyết định 03/2008/QDD-NHNN ngày 1/2/2008).
- Mở rộng biên độ mua, bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng (từ ± 0,75% lên ± 1%) để tỷ giá theo sát hơn với cung cầu ngoại tệ, mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối nhà nước trên cơ sở lượng tiền rút từ lưu thông về.
- Tiến hành thanh tra, giám sát hoạt động cho vay kinh doanh của các ngân hàng thương mại và những biến động trên thị trường tiền tệ để xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh.
Việc triển khai các giải pháp điều hành tiền tệ trên đây đã có tác động tích cực kiềm chế tốc độ tăng giá, góp phần ổn định môi trường vĩ mô. Kết quả 4 tháng đầu năm 2008, tổng phương tiện thanh toán tăng 2,52% so với cuối năm 2007, thấp hơn nhiều so với mức tăng 14,62% của cùng kỳ năm trước, tốc độ tăng trưởng chỉ số giá tiêu dung đã giảm dần, từ 3,56% trong tháng 2/2008 xuống còn 2,99 % trong tháng 3/2008 và 2,2% trong tháng 4/2008.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế- xã hội nước ta trong những tháng đầu năm 2008 còn nhiều khó khăn: tốc độ tăng trưởng kinh tế quý I/2008 đạt 7,4%, thấp hơn cùng kỳ năm trước (7,8%), mặc dù xuất khẩu tăng, nhưng nhập khẩu tăng mạnh, nhập siêu 4 tháng đầu năm ở mức kỷ lục. Chỉ số giá tiêu dùng tuy đã có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao. Lạm pháp và nhập siêu tăng cao cùng với những biến động bất thường của thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản đã ảnh hưởng đến sự ổn định của kinh tế vĩ mô, tác động tiêu cực đến sản xuất và môi trường đầu tư, thu nhập và đời sống của nhân dân, nhất là người có thu nhập thấp.
Trước tình hình đó, Chính phủ đã xác định nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách trong những tháng tiếp theo của năm 2008 là phấn đấu kiềm chế lạm pháp, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Chính phủ cũng xác định 4 nhóm giải pháp chủ yếu cần tập trung sức chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt trong thời gian tới, đó là: (1) Thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ, hiệu quả; (2) Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy mạnh phát triển sản xuất, dịch vụ và thu hút vốn đầu tư; (3) Đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, nhất là các hàng hóa thiết yếu cho sản xuất và đời sống, tăng cường quản lý thị trường, giá cả, chống đầu cơ buôn lậu; (4) Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.
Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, để góp phần kiềm chế lạm pháp và ổn định kinh tế vĩ mô trong những tháng còn lại của năm 2009, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất: Điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường nhằm kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán năm 2008 không vượt quá 30% so với cuối năm 2007, áp dụng các biện pháp thích hợp để định hướng và ổn định lãi suất, từng bước hướng tới thực hiện chính sách lãi suất thực dương.
Theo định hướng trên, thực hiện ý kiến của ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp cuối tháng 4-2008 và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quy định mới về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việ Nam (Quyết định số 16/2008/QDD-NHNN ngày 16/5/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 19/5/2008). Theo đó, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo nguyên tắc lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kì. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng có các quyết định điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 12%/năm, lãi suất chiết khấu lên 11%/năm và lãi suất tái cấp vốn lên 13%/năm/
Thứ hai: Tăng cường giám sát thị trường tiền tệ, thiết lập hệ thống thông tin nhanh, có độ tin cậy cao để kịp thời đánh giá đúng diễn biến thị trường và có biện pháp can thiệt phù hợp.
Thứ ba: Phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, trình Chính phủ cơ chế kiểm soát, hấp thụ hiệu quả luồng vốn đầu tư gián tiếp và vấn đề các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài mua cổ phiếu bằng ngoại tệ.
Thứ tư: Ban hành chế tài xử lý các trường hợp cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng. Nghiên cứu bổ sung, chỉnh sửa các quy định liên quan đến tỷ giá đảm bảo an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng…
Thứ năm: Tăng cường công tác thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước và chấn chỉnh toàn diện hoạt động quản trị, điều hành, kiểm soát, kiểm toán nội bộ của các ngân hàng thương mại, tăng cường tần suất thanh tra, kết hợp với giám sát từ xa để giám sát chặt chẽ thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng, tiếp tục kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán và bất động sản.
Thứ sáu: Các tổ chức tín dụng điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, cơ cấu tín dụng phụ hợp với quy định về bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng.
Thứ bảy: Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động tiền tệ, ngân hàng và công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Ngân hàng Nhà nước, đảm bảo thông tin chính xác, kịp thời.
Trước đây người ta luôn đổ cho các nguyên nhân khách quan gây ra lạm pháp: Giá dầu và giá nguyên liệu thế giới tăng nhanh, thiên tai… Các biện pháp đưa ra mang tính hành chính hô hào, kiểm soát niêm yết giá. Vài biện pháp đúng hướng nhằm tăng cung như giảm thuế nhập khẩu vẫn chưa bắt trúng căn bệnh. Nguyên nhân chính của lạm pháp luôn gắn với tổng lượng cung tiền. Việc yêu cầu Bộ Tài chính phát hành trái phiếu chính phủ để tham gia hút bớt tiền về cho thấy sự hiểu biết non nớt, vì nó không làm giảm cung tiền.
Một phần lớn thâm hụt ngân sách được tài trợ bởi việc phát hành tiền từ Ngân hàng Nhà nước. Tuy có đi vay nước ngoài để tài trợ thâm hụt ngân sách, nhưng nguồn ngoại tệ này lại được Ngân hàng Nhà nước xử lý một cách sai lầm. Với lượng ngoại tệ lớn chảy vào Việt Nam từ các nguồn FDI, đầu tư gián tiếp, ODA, vay nợ chính phủ và doanh nghiệp, kiều hối… lên tới hàng chục tỷ USD, nhưng Ngân hàng Nhà nước chỉ thực hiện đơn thuần việc mua vào lượng USD này và tưng VND ra để ổn định tỷ giá mà quên mất việc tung tín phiếu Ngân hàng Nhà nước hoặc trái phiếu Chính phủ mà Ngân hàng Nhà nước nắm giữ để hút ngược lượng VND mới tung ra thêm này. Kết cục là cung tiền tăng vọt dẫn đến tăng trưởng tín dụng cho vay trong nền kinh tế cũng tăng vọt (lên tói gần 60% năm 2007). Như vậy, thâm hụt ngân sách không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm pháp. Nguyên nhân sâu xa chính là tiền tệ. Việc thắt chặt chính sách tiền tệ và tăng lãi suất là điều tối cần thiết trong cuộc chiến chống lạm pháp xét trên góc đọ bảo đảm lãi suất thực dương, nhờ đó làm giảm khối lượng lưu thông (vì tăng lãi suất thì tiền sẽ được hút thêm về hệ thông ngân hàng và cuối cùng là một phần số này sẽ trở về Ngân hàng Nhà nước)
Tăng trưởng tín dụng quá nhanh làm tăng đáng kể lượng cung tiền. Tăng lãi suất, tăng dự trữ bắt buộc, bắt buộc mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước (chứ không phải trái phiếu của Bộ tài chính) là các công cụ chính sách tiền tệ hữu hiệu để giảm lượng cung tiền. Chống lạm pháp là một việc trong nhiều việc mà Nhà nước nên làm và có thể làm. Tất nhiên, việc tiếp cận đến vốn sẽ khó khăn hơn, đắt đỏ hơn và các doanh nghiệp phải chú ý hơn đến hiệu quả của việc sử dụng vốn. Hệ số ICOR (mức gia tăng vốn đầu tư để đạt một đơn vị gia tăng tăng trưởng) đo năng suất của đồng vốn. ICOR càng cao hiệu suất sử dụng vốn càng thấp. Hiện tại hệ số ICOR của Việt Nam rất cao và ngày càng tăng chứng tỏ vốn đầu tư chưa được sử dụng tốt.
Chúng ta quá chú trọng tăng trưởng về lượng mà không để ý đúng mức đến hiệu quả và chất lượng. Việc cấp vốn dễ dãi để các tập đoàn kinh tế nhà nước bành trướng không những làm cho hiệu quả sử dụng vốn kém mà cùng là một nguyên nhân quan trọng của lạm pháp. Giám sát chặt chẽ cơn khát đầu tư của các tập đoàn kinh tế nhà nước, không để cho các tập đoàn này liên kết với nhua tham gia quá mức vào các lĩnh vực ngân hàng, vào kinh doanh bất động sản, những lĩnh vực có vẻ dễ ăn xổi nhưng đầy rủi ro, thắt chặt chi tiêu ngân sách, tăng cường hiệu quả đầu tư là cách làm khôn ngoan để chống lạm pháp mà vẫn có thể có tăng trưởng bền vững.
Vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã can thiệp kịp thời công bố dự trữ ngoại tệ giúp ổn định tâm lý nhân dân và ổn định tỷ giá. Theo quy luật về cuối năm nhu cầu nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng cao dẫn đến nhu cầu ngoại tệ tăng. Với các biện pháp hạn chế nhập siêu đồng bộ mà Chính phủ đã chỉ đạo, dự kiến mức nhập siêu năm 2008 sẽ không vượt quá 20 tỷ USD. Với mức này, các nguồn ngoại tệ bù đắp cho nhập siêu là đảm bảo. Mặc dù cuối năm nhu cầu nhập khẩu hàng tiêu dùng có thể tăng cao hơn, nhưng hàng tiêu dùng chỉ chiếm tỷ lên nhỏ trong cơ cấu hàng nhập khẩu. Hơn nữa, nguồn cung ngoại tệ vào thời điểm cuối năm nhiều khả năng sẽ tăng do lượng kiều hối, giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu cũng dự kiến sẽ tăng cao. Do vây, dự báo cung cầu ngoại tệ từ nay đến thời điểm cuối năm là có thặng dư, tỷ giá VND/USD sẽ tương đối ổn định. Trong trường hợp xuất hiện những dấu hiệu mất cân bằng cung cầu ngoại tệ mang tính nhất thời do tác động của những yếu tố tâm lý, đầu cơ, Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn đủ khả năng can thiệp để nhanh chóng bình ổn thị trường.
Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành tỷ giá theo hướng linh hoạt có kiểm soát, dựa trên tín hiệu thị trường trong khi vẫn duy trì sự ổn định tương đối của tỷ giá nhằm thực hiện mục tiêu khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, đảm bảo khả năng trả nợ nước ngoài và sự lành mạnh của cán cân thanh toán, góp phần kiềm chế lạm pháp, hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Bộ giải pháp của Ngân hàng Nhà nước cho thấy chống lạm pháp đang trở thành mục tiêu ưu tiên của chính sách tiền tệ năm 2008, tuy nhiên có thể thấy, mục tiêu của giải pháp cả gói này là nhằm kiềm chế lạm pháp ở mức thấp hơn tăng trưởng kinh tế nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức cao. Bộ giải pháp cả gói này trước mắt đã gây ra những cơn choáng váng cho các ngân hàng thương mại và những nhà doanh nghiệp trong nước.
Đầu tiên, việc tăng tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc và yêu cầu các ngân hàng thương mại phải mua một số lượng lớn tín phiếu của Ngân hàng Nhà nước, một biện pháp nhằm hạn chế khối lượng tín dụng cung ứng từ hệ thống ngân hàng thương mại với mục tiêu làm giảm khối tiền tệ nhằm chống lạm pháp, đang gây ra một cú sốc lớn cho các ngân hàng vì ngay lập tức lâm vào tình trạng cạn kiệt thanh khoản. Trong cả hệ thống ngân hàng, chỉ có một vài ngân hàng chưa gặp hiện tình trạng khan hiếm tiền đồng. Các ngân hàng khác, đã có lúc phải vay trên thị trường liên ngân hàng với một lãi suất cao chưa từng có là 30%/năm.
Đứng trước nguy cơ toàn hệ thống ngân hàng khủng hoảng thanh khoản, theo nguồn tin báo chí, trong ba ngày kể từ 18/2/2008 Ngân hàng Nhà nước đã phải bơm ra cho các ngân hàng thương mại 23 ngàn tỷ đồng và ngày 21/2 đưa ra thêm 10 ngàn tỷ đồng nữa nhằm giải tỏa cơn khát thanh khoản của hệ thống ngân hàng đồng thời làm giảm cơn sốt lãi suất trên thị trường liên ngân hàng mà trên thực tế do chính Ngân hàng Nhà nước gây ra. Với việc bơm tiền khẩn cấp này, một nguồn tin thân cận trong giới ngân hàng cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng hết một nửa hạn mức tiền đồng được phép đưa ra lưu thông trong năm 2008.
Đứng về mặt điều hành vĩ mô, việc tăng dự trữ bắt buộc để thu một lượng tiền lớn từ các ngân hàng thương mại là một trong những biện pháp chống lạp pháp, nhưng sau đó Ngân hàng Nhà nước bơm tiền ra thông qua thị trường mở là việc làm có vẻ rất khó hiểu. Nếu chỉ là kinh doanh tiền tệ thuần túy, Ngân hàng Nhà nước có vẻ được lợi lớn qua các nghiệp vụ này vì lãi suất tín phiếu chỉ bằng một nửa so với lãi suất trên thị trường mở, nhưng điều này sẽ khó được thông cảm về mặt quản lý vì nguồn tiền được bơm ra hình như cũng là nguồn vốn được thu vào trước đó từ một quyết định hành chính.
Đứng về mặt kĩ thuật, việc rút tiền và bơm tiền trong một thời gian ngắn ngủi xem ra không tác động lớn đối với mục tiêu giảm khối tiền tệ. Tuy nhiên, hệ quả của nó đối với các ngân hàng thương mại lại thấy rất rõ. Chi phí của các ngân hàng sẽ tăng lên qua việc phải vay Ngân hàng Nhà nước với lãi suất cao - trong khi phải cho Ngân hàng Nhà nước vay với lãi suất thấp (lãi suất tín phiếu Ngân hàng Nhà nước dưới 8%). Nhiều ngân hàng thương mại cổ phần phải miễn cưỡng lao vào cuộc canh tranh nâng cao lãi suất tiền gửi tiết kiệm đầy rủi ro nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản trước mắt, nhất là các ngân hàng nhỏ vì không thể trúng thầu trên thị trường mở.
Lãi suất tiết kiệm tăng có nghĩa là lãi suất cho vay sẽ tăng. Các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với chi phí tài chính tăng lên và điều này làm giảm hưng phấn của họ trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh. Phí tổn cao cũng sẽ làm năng lực cạnh tranh của họ giảm đi trên đấu trường thương mại quốc tế.
Giải pháp tiếp tục mua vào ngoại tệ để dự trữ trên cơ sở nguồn tiền cung ứng đã được duyệt, đồng thời hút tiền về bằng nhiều công cụ phù hợp với từng thời điểm, xem ra chưa rõ ràng về mặt quản lý vĩ mô, tuy rằng cũng thể hiện chống lạm pháp, không để việc mua ngoại tệ làm tăng lượng tiền cung ứng vào nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này có nghĩa là Ngân hàng Nhà nước sẽ chỉ mua vào một số lượng ngoại tệ tương ứng với khối lượng tiền đồng được phép cung ứng theo kế hoạch đã được Chính phủ duyệt trước. Nếu như thế, người ta có thể hiểu rằng việc mua ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước đang được quan niệm là một quyền muốn mua thì mua chứ không phải là một nghĩa vụ của một ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào nhằm đảm bảo chủ quyền tiền tệ quốc gia, đồng thời khắc phục tình trạng đôla hóa nền kinh tế. Hậu quả là các ngân hàng thương mại vẫn phải luôn đối mặt với nguy cơ là sẽ có thời điểm – khi áp lực lạm pháp tăng cao - Ngân hàng Nhà nước có thể từ chối việc mua ngoại tệ vào, điều đã từng xảy ra trước đây.
Mặt khác, việc mua ngoại tệ dự trữ của Ngân hàng Nhà nước lại còn có một điều kiện kèm theo là phải được thực hiện đồng thời với viêc hút tiền về bằng nhiều công cụ phù hợp với từng thời điểm. Điều này có thể hiểu là: Việc đáp ứng tiền đồng cho các dòng vốn từ nước ngoài (FDI, FII), một hành động được xem là tạo ra nguy cơ lạm pháp, sẽ được bù đắp bằng việc rút vốn tiền đồng từ các khoản đầu tư hay tín dụng trong nước và nếu không thể hút tiền về bằng các công cụ khác, Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ không tiếp tục mua ngoại tệ nữa. Đây chính là lý do khiến nhiều chuyên gia dự đoán là tỷ giá đồng bạc Việt Nam sẽ lên cao so với đồng USD, thêm vào đó, nguy cơ sụt giảm các khoản tín dụng và đầu tư của khu vực kinh tế tư doanh rất dễ trở thành hiện thực trong một tương lai gần.
Trong khi chúng ta chưa thể xác định tỷ lệ lạm pháp trong tương lai là bao nhiêu (chỉ có thể mong muốn là nó sẽ thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế) thì việc duy trì một chính sách lãi suất cao kéo dài sẽ làm cho mọi phí tổn của doanh nghiệp gia tăng, đồng thời làm cho các doanh nghiệp giảm bớt các khoản vay để phát triển sản xuất kinh doanh và thực hiện các dự án đầu tư mới. Điều này sẽ làm giảm năng lực cạnh tranh và thị phần của họ trên thị trường quốc tế. Một mức lãi suất cao sẽ làm tăng tiết kiềm và giảm tiêu dùng, những tác động làm giảm tốc độ lạm pháp nhưng đồng thời cũng sẽ làm mất đi công ăn việc làm đang có và làm mất đi cơ hội tạo ra công ăn việc làm mới do các doanh nghiệp sẽ thu hẹp các hoạt động kinh doanh. Một chính sách lãi suất đúng đắn cần có định hướng (loại tín dụng nào nên khuyến khích, loại nào không nên) mới có thể xác định được liều lượng (áp dụng mức lãi suất nào cho loại tín dụng nào) để tránh hệ quả đáng tiếc là chống lạm pháp thành công nhưng lại tạo ra suy thoái.
Một trong những yếu tố làm cho lạm pháp của Việt Nam cao hơn của các nước, ngoài yếu tố liên quan đến tiền tệ trong các năm trước, liên quan đến hiệu quả đầu tư, còn có yếu tố tỷ giá. Đối với những nước lấy xuất khẩu làm định hướng như Việt Nam thì việc điều hành tỷ giá lâu nay đều theo hướng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, đặc biệt trong điều kiện nhập siêu cao trong năm 2007 (14,12 tỷ USD) và cao lên trong những tháng đầu năm 2008 (8 tháng là 15,965 tỷ USD). Theo đó, giá USD đã giảm trong quý I và đây là đợt giảm tương đối mạnh và kéo dài nhất trong nhiều tháng qua, nhằm hạn chế nhập khẩu lạm pháp, hỗ trợ cho việc thực hiện mục tiêu số một la kiềm chế lạm pháp. Giá USD đã tăng lên trong quý II, nhất là tháng 6 (thị trường tự do) đã tác động xấu đến lạm pháp, đến lòng tin vào đồng nội tệ, tuy có tác dụng kiềm chế nhập siêu. Nhờ các biệ pháp tích cực trong việc điều hành của Ngân hàng Nhà nước nên tỷ giá đã ổn định trở lại vào tháng 7, giảm xuống vào tháng 8. Tuy nhiên, tính chung sau 8 tháng vẫn còn tăng 3,78% (so với tháng 12/2007).
Thực tế điều hành chính sách tiền tệ hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho thấy năng lực điều hành chính sách tiền tệ và lãi suất của Ngân hàng Nhà nước còn hạn chế, quy mô và hiệu quả của các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ còn hạn chế (tổng giao dịch của các công cụ tái cấp vốn gián tiếp còn thấp xa so với tổng khối lượng tiền tệ, hoạt động của thị trường liên ngân hàng chưa phát triển, chưa thực sự trở thành công cụ hữu hiệu trong việc trao đổi, hỗ trợ lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng…) Chính sách tiền tệ hiện nay của Ngân hàng Nhà nước còn phải theo đuổi nhiều mục tiêu, không chỉ theo đuổi mục tiêu ổn định tiền tệ, kiềm chế sự gia tăng giá cả và lạm pháp mà con phục vụ và theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế ngắn hạn của Chính phủ. Cơ chế lãi suất của Ngân hàng Nhà nước tuy đã ngày càng được hoàn thiện, chuyển dần sang cơ chế lãi suất cơ bản nhưng chưa thực sự theo sát và phản ánh cung cầu thị trường, chưa hình thành lãi suất chủ đạo để thông qua đó, Ngân hàng Nhà nước có khả năng tác động và định hướng lãi suất thị trường.
Mặc dù vậy, có thể thấy các biện pháp điều hành của Ngân hàng Nhà nước đã góp phần làm giảm lạm pháp ở những tháng cuối năm 2008. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 năm 2008 không những không tăng mà lần đầu tiên giảm so với tháng trước. Đây là tín hiệu vui đối với nền kinh tế vĩ mô của chúng ta cũng như đối với các doanh nghiệp đang chịu sức ép khủng khiếp từ lạm pháp tăng mạnh trong những tháng đầu năm. Theo số liệu được Tổng cục Thống kê công bố chiều ngày 25/20/2008, giá tiêu dùng cả nước trong tháng 10 giảm 0,19% so với tháng 9, vượt ra ngoài mức dự báo tăng 0,2% của Cục quản lý giá, Bộ tài chính. Sự giảm giá này đã giúp cho giá tiêu dùng cả 10 tháng qua so với cuối năm 2007 chỉ còn tăng 21,64%, thấp hơn mức 21,87% của 9 tháng đầu năm. Mặc dù mức giảm không nhiều nhưng đây là dấu hiệu tích cực cho thấy giải pháp kiềm chế của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã phát huy hiệu quả, bên cạnh những diễn biến thuận lợi từ sự suy giảm của giá nguyên, nhiên vật liệu trên thị trường thế giới.
III- Giải pháp điều hành chính sách tiền tệ nhằm chống lạm pháp dành cho Ngân hàng nhà nước
Trong những năm gần đây, Đảng và Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp đề phòng và chống tham nhũng, lãng phí, giảm thiểu lạm pháp; cải cách thủ tục hành chính để đơn giản hoá thủ tục, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước. Kiểm soát lạm pháp hoặc lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tham nhũng lãng phí đã và đang được bàn luận rất nhiều, đã có nhiều tham luận hay, nhiều giải pháp đúng được đưa ra. Một vấn đề liên quan trực tiếp đến kiểm soát lạm pháp và hạn chế làng phí cho ngân sách nhà nước là: Tiền gửi của Kho bạc Nhà nước phải được gửi tại Ngân hàng Nhà nước.
Trong một nền kinh tế, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, hệ thống thanh toán qua Ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng đối với các chủ thể tham gia thanh toán, các trung gian thanh toán nói riêng và nền kinh tế nói chung. Hệ thống thanh toán qua Ngân hàng không chỉ là cách thức để các chủ thể tham gia thanh toán thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho nhau, mà trên phạm vi rộng nó được coi như một hệ thống “mạch máu” để chuyển tải các luồng vốn từ khu vực này sang khu vực khác.
Việc tổ chức tốt hệ thống thanh toán qua Ngân hàng sẽ tác động có lợi trên nhiều mặt cho phát triển kinh tế- xã hội, xét cả về những lợi ích vĩ mô đối với nền kinh tế hay xét ở lợi ích vi mô đối với từng doanh nghiệp, cá nhân tham gia thanh toán. Một tác động quan trọng của hệ thống thanh toán qua Ngân hàng tốt là góp phần nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Vai trò này được thể hiện trên các khía cạnh sau: (1) Góp phần vào việc ổn định các nhu cầu dự trữ của Ngân hàng thương mại; (2) Cho phép có thể xác định một cách chính xác các thay đổi cung, cầu về dự trữ khi có sự thay đổi về hoạt động thu, chi của Chính phủ hoặc có sự can thiệp trên thị trường tiền tệ hoặc thị trường ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước; (3) Trực tiếp hỗ trợ cho sự phát triển thị trường liên Ngân hàng và thị trường tài chính.
Hệ thống thanh toán tự động sẽ thực hiện được việc quyết toán tức thời các khoản thanh toán giá trị cao, khẩn hoặc quyết toán ngay trong ngày các kết quả thanh toán bù trừ… giúp Ngân hàng Nhà nước thực thi chính sách tiền tệ trên toàn quốc một cách hữu hiệu vì nó cung cấp hệ thống chuyển tải nhanh, chính xác các luồng vốn, làm cân bằng tỷ lệ lãi suet trên mọi khu vực hoặc thị trường quốc gia ngay trong ngày. Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước theo dõi, đánh giá, giám sát được khả năng vốn khả dụng của từng định chế tài chính. Ngược lai, hệ thống thanh toán qua Ngân hàng phát triển còn tác động lên khả năng quản lý thanh toán và dự trữ thanh khoản của các định chế tài chính, Kho bạc Nhà nước nếu xét ở khía cạnh nguồn vốn trong thanh toán. Nếu hệ thống thanh toán yếu kém, nguồn vốn trong thanh toán sẽ không được sử dụng hiệu quả vì các chế định tài chính, Kho bạc Nhà nước thường phải duy trì một lượng dự trữ lớn để đảm bảo khả năng thanh toán.
Hệ thống thanh toán qua Ngân hàng là gì? Một cách khái quát, có thể hiểu: Hệ thống thanh toán qua Ngân hàng trong nền kinh tế là tổng thể các yếu tố, bao gồm: Cơ sở pháp lý và các điều kiện tổ chức thanh toán, các chủ thể tham gia thanh toán, các dịch vụ thanh toán, các phương tiện và các thanh toán của ngân hàng; cách thức tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, trong đó, các yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau.
Là một chủ thể tham gia vào hệ thống thanh toán nhưng Ngân hàng Nhà nước là một chủ thế đặc biệt xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của nó trong nên kinh tế. Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò quản lý nhà nước toàn bộ hoạt động thanh toán trong nền kinh tế, trực tiếp tổ chức, sở hữu mạng thanh toán liên ngân hàng quan trọng, chủ đạo để cung cấp các dịch vụ thanh toán cho Kho bạc Nhà nước, các Ngân hàng thương mại, các định chế tài chính phi ngân hàng, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Trong nền kinh tế có nhiều hệ thống thanh toán con, nhiều mạng thanh toán khác nhau, xong, Ngân hàng Nhà nước phải là đơn vị thiết lập, sở hữu và trực tiếp vận hành hệ thống, mạng thanh toán chủ đạo, quan trọng nhất. Những mạng thanh toán gắn liền với thị trường tiền tệ liên ngân hàng, gắn liền với hệ thống quyết toán, thanh toán vốn cuối cùng giữa các định chết tài chính, công ty chứng khoán, Kho bạc Nhà nước… Thông qua việc vận hành hệ thống thanh toán chủ đạo, Ngân hàng Nhà nước có điều kiện thực hiện tốt vai trò “Ngân hàng của các ngân hàng”, vai trò chỉ đạo và điều hành chính sách tiền tệ thông qua các nghiệp vụ như cho vay qua đêm, cho vay thanh toán bù trừ, nghiệp vụ thị trường mở, mua bán ngoại tệ… đối với các ngân hàng, tổ chức tín dụng, định chế tài chính phi ngân hàng…
Hiện nay, một khối lượng lớ vốn tiền gửi thanh toán của hệ thống Kho bạc Nhà nước được gửi tại các Ngân hàng thương mại nhà nước. Số liệu sau đây nêu rõ thực trạng này:
Đơn vị tính: Triệu đồng
Thời điểm
31/12/2006
31/12/2007
Số dư tiền gửi của KBNN tại 5 Ngân hàng TM nhà nước
43.548.443
52.777.829
Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của Kho bạc Nhà nước nên được quản lý như thế nào để phối hợp tố với việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, để tăng thu, giảm chi phí.
Với hàng ngàn tỷ đồng tiền nhàn rỗi của Kho bạc Nhà nước gửi tại các Ngân hàng thương mại nhà nước và các đơn vị này sử dụng để cho vay các Doanh nghiệp, cá nhân… Những người điều hành chính sách tiền tệ không nắm được thông tin đầy đủ kịp thời? Đó là chưa tính đến một thực trạng của nước ta hiện nay là tố độ giải ngân của các dự án sử dụng nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước đã bố trí quá thấp, có sự chênh lệch lớn giữa kế hoạch và thực tế. Ví dụ, từ năm 2003 đến năm 2007, Bộ GTVT mới chỉ giải ngân được 45,89% số vốn dự kiến bố trí, Bộ Nông nghiệp và PTNT giải ngân được 33,5% và chỉ có 3/72 dự án công trình được hoàn thành (Tác giả Nguyên Linh, thời báo Kinh tế Việt Nam số 51 ngày 28/12/2008). Đây cũng là nguyên nhân làm cho việc điều hành chính sách tiền tệ thiếu chủ động, không kiểm soát được khả năng tạo tiền và khống chế tố tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng năm 2007. Năm 2007 để hạn chế tổng phương tiện thanh toán, Ngân hàng Nhà nước sử dụng nhiều biện pháp, trong đó đã phải sử dụng mạnh biện pháp tăng dự trữ bắt buộc: “Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 1,5 -2 lần” (Tạp chí Ngân hàng số 2 +3/2008). Tuy nhiên trong cuộc chiến kiềm chế, kiểm soat chống lạm pháp, chỉ những biện pháp của Ngân hàng Nhà nước sẽ không thể có hiệu quả cao hoặc không thể có hiệu quả, cần phải có sự phối hợp đồng bộ các giải pháp vĩ mô khác, trong đó đặc biệt những chính sách về quản lý, chi tiêu tài chính công.
Như vậy đã đến lúc có thể thực hiện và cần phải sớm thực hiện giải pháp: Tiền gửi của Kho bạc Nhà nước gửi tại Ngân hàng Nhà nước - Giải pháp thiết thực góp phần kiểm soát lạm pháp và chống lãng phí cho ngân sách Nhà nước.
Việc củng cố, lành mạnh hóa hệ thống tổ chức tín dụng và các định chế tài chính là biện pháp cần thiết, lâu dài nhưng cần phải được triển khai càng sớm càng tốt. Điều này tùy thuộc rất nhiều vào vai trò của một Ngân hàng Nhà nước mạnh, có trách nhiệm trong việc xây dung và triển khai chính sách tiền tệ. Nhưng một hệ thống ngân hàng thương mại mạnh không chỉ là một hệ thống tín dụng mạnh mà nhất thiết phải là một hệ thống thanh toán mạnh. Nền kinh tế không thể thực hiện được phần lớn các giao dịch thanh toán của nó qua hệ thông ngân hàng, các giải pháp thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước sẽ không thể triển khai hiệu quả để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô, đặc biệt với mục tiêu ổn định giá cả và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước cần xác định rõ các mục tiêu và khuôn khổ điều hành chính sách tiền tệ cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Với thực trạng hiện nay, thị trường tiền tệ hiện nay đang trong quá trình phát triển, một số hoạt động tiền tệ còn ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường hơn nữa năng lực kiểm soát tiền tệ theo thông lệ quốc tế và vẫn thực hiện khuôn khổ điều hành chính sách tiền tệ là đa mục tiêu, tập trung kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế, tập trung các nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, thực hiện khuôn khổ chính sách tiền tệ kiểm soát khối lượng.
Nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, đòi hỏi những nhà hoạch định cần phải có kiến thức và kĩ năng nhất định. Vì vậy cần phải tăng cường đào tạo cán bộ có kiến thức kinh tế vĩ mô cơ bản của nền kinh tế thị trường, xây dựng chính sách thu hút nhân tài… Ngân hàng Nhà nước phải chốt được kỳ vọng lạm pháp của thị trường trên cơ sở tăng cường tính minh bạch về cơ chế chính sách, thông tin rõ ràng về các định hướng chính sách đối với thị trường. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng quy định về trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ, đảm bảo công khai, minh bạch về các thông tin.
Xây dựng cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua các kênh, xác định mức độ tác động của chính sách tiền tệ qua các kênh và lựa chọn kênh có tác động nhạy cảm nhất để điều hành theo khuôn khổ phù hợp.
Hoàn thiện hệ thống thông tin nhằm hỗ trợ cho công tác phân tích dự báo theo mô hình kinh tế lượng và phân tích định lượng. Hiện nay vấn đề nắm bắt thông tin thị trường còn rất nhiều bất cập, nhiều chỉ tiêu chưa có để phục vụ cho việc điều hành các chính sách tiền tệ, chẳng hạn chưa có chỉ số về lạm pháp cơ bản, chỉ số giá loại bỏ tác động của thuế, giá dầu…
Kinh nghiệm của một số nước cho thấy để đạt được một chính sách tiền tệ hiệu quả trong điều kiện hội nhập, cần phải lựa chọn thực thi một khuôn khổ chính sách tiền tệ dựa trên cơ sở thị trường, theo đó Ngân hàng Nhà nước cần: (1) Phải từng bước thiết lập những điều kiện cần thiết để chuyển điều hành chính sách tiền tệ đa mục tiêu thành chính sách tiền tệ theo đuổi một mục tiêu duy nhất là ổn định giá cả, xác định rõ cơ chế truyền tài chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn phát triển.
(2) Chuyển điều tiết khối lượng sang điều tiết giá cả, đồng thời xây dựng những điều kiện cần thiết để thực thi khuôn khổ chính sách tiền tệ “lạm phát mục tiêu” và tiến tới thực hiện khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm pháp mục tiêu khi các điều kiện cho phép.
(3) Từng bước thực hiện tự do hóa tỷ giá với những lộ trình phù hợp với mức độ phát triển của thị trường ngoại hối, mức độ tự do hóa thị trường tài chính và khuôn khổ chính sách tiền tệ lựa chọn. Tự do hóa tỷ giá là một trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu thực thi có hiệu quả.
(4) Nâng cao tính minh bạch, phát triển hệ thống thanh toán, thúc đẩy việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và các quy định về an toàn.
KẾT LUẬN
Bước vào năm 2008, tình hình kinh tế – xã hội nước ta tiếp tục có một số mặt thuận lợi. Tình hình chính trị – xã hội ổn định, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu phát triển, hội nhập; sau một năm gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta tăng manh, kinh tế đang trên đà tăng trưởng với tốc độ cao. Tuy nhiên, sự duy giảm của nền kinh tế Mỹ, đồng USD giảm giá, kéo theo sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu, giá cả nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng cao, thiên tại, dịch bệnh xảy ra liên tiếp ở một số địa phương đã tác động bất lợi, làm xuất hiện những khó khăn và biểu hiện xấu trong nền kinh tế nước ta. Đặc biệt là tình hình lạm pháp ngày càng gia tăng và có xu hướng tăng cao hơn cả mức tăng trưởng kinh tế, điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế của đất nước, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, đời sống của quần chúng nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Chính phủ và Ngân hàng nhà nước đã nắm chắc thông tin, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán, dư nợ tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế, việc cho vay bất động sản, kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh doanh tiền tệ khác. Điều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ, có nhiều biện pháp kịp thời, thích hợp điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, đảm bảo tốc độ tăng trưởng hợp lý dư nợ tín dụng, khả năng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng và kiềm chế lạm pháp. Điều này đã góp phần làm cho tình hình lạm pháp đã chững lại và dần dần có xu hướng giảm về cuối năm. Tuy nhiên với tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp nên việc điều chỉnh đôi lúc còn chưa theo kịp với tình hình. Quá trình hội nhập gắn liền với quá trình tự do hóa thị trường tài chính, đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức cho Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát luồng vốn, điều tiết tiền tệ, lãi suất, tỷ giá… trước những tác động nhạy cảm của thị trường tài chính thế giới cũng như sự vận hành của cầu tiền ngày càng phức tạp hơn do tính ngày càng đa dạng trong hoạt động của thị trường tài chính trong nước. Việc thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng và thắt chặt của Ngân hàng nhà nước bài bản và đúng đắn, đi đôi với độc lập tương đối của Ngân hàng nhà nước (để thoát khỏi sức ép của Chính phủ phải thực thi những chính sách đi ngược lại sứ mạng quan trọng nhất của một ngân hàng trung ương là ổn định giá cả) và các biện pháp hỗ trợ khác (giảm đầu tư/ chi tiêu của Chính phủ, cải thiện năng suất và chất lượng đầu tư…) thì chắc chắn lạm pháp sẽ được chặn đứng một cách có hiệu quả với cái giá tối thiểu.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, Nxb. CAND, 2008
- Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, Khoa luật, Đại học quốc gia, 2007
- Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997 đã được sửa đổi, bổ sung.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 112/2006/QDD-TTg ngày 24/5/2006 về việc phê duyệt đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
- Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 4(240)/ 2008
Một số website:
www.sbv.gov.vn
www.luatvietnam.com.vn
www.nguoidaibieu.com.vn
Vnexpress.net
www.tapchicongsan.org.vn
www.tapchiketoan.com
www.taichinhvietnam.com
Và một số tài liệu khác có liên quan.
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
Nội dung 2
I- Vị trí pháp lý, tư cách pháp nhân, chức năng
và hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2
II- Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ quốc
gia nhằm chống lạm pháp của Ngân hàng nhà 4
nước Việt Nam
III- Giải pháp điều hành chính sách tiền tệ nhằm 13
chống lạm pháp dành cho Ngân hàng Nhà nước
Kết luận 18
Danh mục tài liệu tham khảo 19
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng quản lý nhà nước về dân số.doc