MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
1. Khái niệm và vai trò về tổ chức và quản lý công ty cổ phần.
1.1. Khái niệm.
1.2. Vai trò.
2. Quản lý và tổ chức trong công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp 2005.
2.1. Đại hội đồng cổ đông – cơ quan đại diện cho cổ đông và có quyền quyết định cao nhất trong công ty.
2.1.1. Cổ đông và các quyền của cổ đông.
2.1.2. ĐHĐCĐ và thẩm quyền của ĐHĐCĐ.
2.2. Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) – cơ quan quản lý và điều hành công ty.
2.2.1. Hội đồng quản trị - cơ quan quản lý công ty.
2.2.2. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc – cơ quan điều hành công ty.
2.3. Ban kiểm soát (BKS) – cơ quan giám sát chuyên trách của công ty.
3. Hạn chế trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về quản lý và tổ chức công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay. Hướng hoàn thiện.
3.1. Thực trạng trong quản lý và tổ chức công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay.
3.1.1. Về quyền cơ bản của cổ đông
3.1.2. Về hội đồng quản trị.
3.1.3.Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc.
3.2.Hướng hoàn thiện.
C. KẾT BÀI
16 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 12757 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng trong công ty cổ phần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
1. Khái niệm và vai trò về tổ chức và quản lý công ty cổ phần.
1.1. Khái niệm.
Vai trò.
2. Quản lý và tổ chức trong công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp 2005.
2.1. Đại hội đồng cổ đông – cơ quan đại diện cho cổ đông và có quyền quyết định cao nhất trong công ty.
2.1.1. Cổ đông và các quyền của cổ đông.
2.1.2. ĐHĐCĐ và thẩm quyền của ĐHĐCĐ.
2.2. Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) – cơ quan quản lý và điều hành công ty.
2.2.1. Hội đồng quản trị - cơ quan quản lý công ty.
2.2.2. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc – cơ quan điều hành công ty.
2.3. Ban kiểm soát (BKS) – cơ quan giám sát chuyên trách của công ty.
Hạn chế trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về quản lý và tổ chức công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay. Hướng hoàn thiện.
3.1. Thực trạng trong quản lý và tổ chức công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay.
3.1.1. Về quyền cơ bản của cổ đông
3.1.2. Về hội đồng quản trị.
3.1.3.Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc.
3.2.Hướng hoàn thiện.
C. KẾT BÀI
A. MỞ ĐẦU
Hình thức công ty cổ phần ra đời là một tất yếu trong quá trình vận động của nền kinh tế. Ở Việt Nam, kể từ khi Nhà nước chủ trương tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân phát huy khả năng sản xuất kinh doanh, hình thức công ty cổ phần ngày càng phổ biến và chứng minh được vai trò tích cực của nó trong nền kinh tế. Để phát huy thế mạnh của hình thức công ty này trong nền kinh tế thì trước hết, trong nội tại công ty cổ phần đó phải hoạt động có hiệu quả. Mà vấn đề được quan tâm đầu tiên là quản lý và tổ chức trong chính nội bộ công ty. Nhận thức vai trò của yếu tố này, pháp luật Việt Nam hiện hành có nhiều chế định liên quan, tạo cơ sở pháp lý chung để những nhà quản lý doanh nghiệp áp dụng vào thực tiễn công ty mình nhằm làm cho bộ máy công ty vận hành có hiệu quả. Để tìm hiểu rõ hơn những quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề“Tổ chức và quản lý công ty Cổ phần theo Pháp luật Việt Nam hiện hành” nội dung của bài viết sẽ đề cập đến Khái niệm và vai trò về tổ chức và quản lý công ty cổ phần, quản lý và tổ chức trong công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp 2005, thực trạng trong quản lý và tổ chức công ty cổ phần trong quy định của pháp luật doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay và hướng hoàn thiện
B. NỘI DUNG
1. Khái niệm và vai trò về tổ chức và quản lý công ty cổ phần.
1.1. Khái niệm.
Trước hết, chúng ta cần hiểu công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó có các cổ đông góp vốn và kinh doanh và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Để công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả thì vấn đề quản lý và tổ chức trong công ty cổ phần là yếu tố tiên quyết, được các nhà làm luật chú trọng về mặt pháp lý và các doanh nhân quan tâm trong thực tiễn của doanh nghiệp mình.
Dưới góc độ luật học, có thể đưa ra khái niệm: “Tổ chức và quản lý công ty là hệ thống các thiết chế, theo đó việc tổ chức quản lý công ty được thực hiện trên cơ sở phân định rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các chủ sở hữu, người quản lý, những người có lợi ích liên quan, và các phương pháp áp dụng theo một trình tự thủ tục nhằm đảm bảo tổ chức và hoạt động công ty một cách hiệu quả nhất”.
Quản lý và tổ chức trong công ty cổ phần là một bộ phận của quản lý tổ chức của công ty. Từ đó, ta có thể đưa ra định nghĩa: “Quản lý và tổ chức công ty cổ phần là một hệ thống các cơ chế mà các chủ sở hữu đặt ra trên cơ sở các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận trong bộ máy quản lý, nguyên tắc hoạt động và thủ tục thông qua các quyết định”.
Trong đó bao gồm hai công việc là quản lý CTCP và tổ chức CTCP. Nói đến quản lý công ty là hoạt động tổ chức và điều hành công ty, nói đến quản lý công ty là nói đến mối liên hệ giữa các bộ phận trong công ty. Cụ thể hơn, đối với CTCP, đó là mối liên hệ giữa các cổ đông khác nhau trong việc quyết định đường lối và hoạt động của công ty. Tổ chức quản lý CTCP xác định rõ sự phân bổ các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia khác nhau trong công ty.
Nói tóm lại, việc quản lý và tổ chức CTCP bao gồm rất nhiều nội dung, trong đó có thể kể đén các nội dung cơ bản sau:
Cơ cấu bộ máy quản lý nội bộ CTCP.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy quản lý nội bộ CTCP.
Nguyên tắc hoạt động và thủ tục thông qua các quyết định.
Vai trò.
Với quyền và lợi ích của các thành viên trong CTCP.
Thành viên CTCP chính là các cổ đông, người góp vốn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của công ty. Tất nhiên mỗi cổ đông luôn mong muốn có được lợi nhuận khi bỏ vốn đầu tư. Một hệ thống quản lý tốt sẽ tạo ra sự tin tưởng, làm cho cổ đông gắn bó với công ty.
Quản lý và tổ chức trong CTCP không chỉ là sự đảm bảo về mặt kinh tế cho các thành viên của công ty mà còn là yếu tố đảm bảo tiếng nói của các cổ đông trong công ty, đặc biệt là với các cổ đông thiểu số. Một hệ thống quản lý và tổ chức tốt luôn đáp ứng được quyền lợi của mỗi cổ đông trong việc đưa ra những quyết định về hoạt động kinh doanh, nói cách khác đó chính là tạo điều kiện cho cổ đông thực sự được sử dụng vốn góp của mình thông qua điều hành công ty.
Với sự ổn định và phát triển của chính công ty.
Hoạt động của mọi doanh nghiệp nói chung và với CTCP nói riêng đều vì mục tiêu lợi nhuận. Mọi thành viên của công ty luôn muốn phát triển ưu thế, đem lại lợi ích cho họ. Vai trò của quản lý vì thế lại được thể hiện. Quản lý tốt không chỉ là giúp cho công ty hoạt động ổn định với nguồn vốn bỏ ra mà càng làm cho nguồn vốn đó tăng lên, đó mới thực sự là quản lý có hiệu quả.
Với đối tác và khách hàng của công ty.
Khi lựa chọn đối tác, bộ máy quản lý cũng là một yếu tố cần xem xét. Vì vậy, hoàn thiện quản lý cũng là tăng sức hấp dẫn của doanh nghiệp. Có nhiều đối tác cũng có nghĩa là cơ hội phát triển dành cho công ty lớn hơn. Còn với người tiêu dùng, vai trò quản lý công ty mờ nhạt hơn. Trong thương mại hàng hóa, quản lý và tổ chức công ty chủ yếu thể hiện vai trò với khách hàng thông qua phân phối sản phẩm: người tiêu dùng luôn lựa chọn sản phẩm từ điểm mua bán uy tín, muốn vậy cần phải có bộ máy quản lý tốt. Trong thương mại dịch vụ thì quản lý nội bộ của một công ty có ý nghĩa lớn hơn với khách hàng bởi tiêu dùng dịch vụ là một quá trình, muốn chọn được dịch vụ tốt, người tiêu dùng cũng cần xem xét nhà cung cấp có hoạt động ổn định hay không.
- Với nền kinh tế: Doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng là một bộ phận của nền kinh tế. Chính vì vậy sự tăng trưởng của chúng góp phần ổn định và phát triển cho cả nền kinh tế. Số lượng CTCP là ít hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác nhưng đóng góp của chúng không nhỏ, bởi CTCP thường là các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn vốn dồi dào. Một hệ thống quản lý yếu kém sẽ đưa công ty đến suy yếu, hơn thế nữa còn ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng, kết quả tất yếu là sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế.
2. Quản lý và tổ chức trong công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp 2005.
Mô hình công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp 2005:
Giám đốc
Đại hội đồng cổ đông
Hội đồng quản trị
Ban kiểm soát
2.1. Đại hội đồng cổ đông – cơ quan đại diện cho cổ đông và có quyền quyết định cao nhất trong công ty.
2.1.1. Cổ đông và các quyền của cổ đông.
Người mua cổ phàn để góp vốn cào CTCP được gọi là cổ đông. Như vậy, cổ đông chính là người chủ của công ty họ có vai trò to lớn trong việc tồn tại và phát triển của công ty. Cổ đông của CTCP có thể là tổ chức hoặc cá nhân, trừ những trường hợp bị cấm theo quy định tại Điều 13 Luật doanh nghiệp 2005. Cổ đông có thể là các nhà đầu tư là cá nhân hoặc tổ chức ở trong nước hoặc ở nước ngoài. Số lượng cổ đông trong CTCP tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông là chủ sở hữu công ty nhưng không nhất thiết phải tham gia quản lý công ty, họ thực hiện quyền giám sát thông qua cơ chế ủy quyền, đại diện như bỏ phiếu tại ĐHĐCĐ, bầu HĐQT, thông qua định hướng phát triển công ty.
Dưới góc độ pháp lý, Luật doanh nghiệp 2005 quy định có ba loại cổ đông là cổ đông sáng lập, cổ đông phổ thông và cổ đông ưu đãi.
Cổ đông sáng lập là những người khai sinh ra công ty trên cơ sở hợp đồng thành lập công ty. Hợp đồng thành lập công ty là sự thể hiện năng lực, trách nhiệm của cổ đông sáng lập, đồng thời là cơ sở pháp lý nhằm hạn chế sự gia tăng thành lập công ty để chiếm dụng vốn, tài sản của cổ đông khác. Luật Doanh nghiệp 2005 quy định các cổ đông sáng lập phải cùng nhau mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty được cấp giấy đăng ký kinh doanh. Quy định trên nhằm nâng cao trách nhiệm, vị trí, vai trò của các cổ đông sáng lập trong công ty.
Cổ đông ưu đãi là những người sở hữu cổ phần phổ thông. Cổ đông ưu đã bao gồm cổ đông ưu đãi biểu quyết, cổ đông ưu đãi cổ tức, cổ đông ưu đãi hoàn lại và các cổ đông ưu đãi khác do điều lệ công ty quy định. Mức độ đa dạng của các loại cổ đông ưu đãi về hình thức và đối tượng sở hữu trong CTCP đã góp phần tạo nên tính linh hoạt, mềm dẻo của công ty đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư, huy động tố đa được các nguồn vốn.
Cổ đông phổ thông là những người sở hữu cổ phần phổ thông. Cổ đông phổ thông thường chiếm ưu thế về số lượng trong CTCP và cả trong hoạt động quản lý, điều hành công ty, thực hiện các hoạt đông liên quan đến quản lý nhân sự và giám sát hoạt động của công ty theo tỷ lệ và mức độ sở hữu trong công ty.
Quyền của cổ đông trong CTCP hiện nay được quy định tại điều 79, 81, 82, 83 và 84 Luật doanh nghiệp 2005 và có thể quy định về những nhóm cơ bản sau:
Thứ nhất, nhóm quyền liên quan tới hệ thống quản lý điều hành công ty.
Đây là nhóm quyền quan trọng của cổ đông. Nó thể hiện quyền làm chủ sở hữu công ty. Theo luật doanh nghiệp 2005 cổ đông có các quyền như là tham dự ĐHĐCĐ, quyền biểu quyết. Cổ đông tham dự và phát biểu trong các ĐHĐCĐ và thực hiện quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện ủy quyền trừ cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ đông ưu đãi hoàn lại không có những quyền trên. Đối với cổ đông phổ thông thì mỗi một cổ phần có một phiếu biểu quyết còn cổ phần ưu đãi biểu quyết có sổ phiếu biểu quyết cao hơn so với cổ phần phổ thông, số lượng cụ thể do điều lệ công ty quy định. Ngoài rac cổ đông còn có các quyền như là bầu các thành viên hội đồng quản trị, thành viên BLS, thông qua các quyết định,...
Thứ hai, nhóm quyền kinh tế
Đây là nhóm quyền quan trọng nhất của cổ đông. Nó là mục đích, là động lực cho tất cả các cổ đông khi tham gia CTCP. Quyền về kinh tế của các cổ đông trong công ty bao gồm: cổ đông được nhận cổ tức theo quyết định của ĐHĐCĐ, được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong công ty, được tự do chuyển nhượng cổ phần cho cổ đông khác và cho người không phải là cổ đông, quyền được nhận lại tài sản tương ứng với số cổ phần góp vốn vào công ty khi công ty giải thể hoặc phá sản,... Các quy định trên cho thấy pháp luật đã đảm bảo khá tốt những quyền về kinh tế của cổ đông.
Thứ ba, nhóm quyền kiểm tra giám sát hoạt động của công ty.
Cổ đông có thể trực tiếp hoặc thông qua hoạt động của BKS để thực hiện việc giám sát toàn bộ hoạt động của công ty nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Các cổ đông có quyền xem xét, tra cứu, sao chép các thông tin trong danh sách cổ đông, trích lục hoặc hoặc sao chụp điều lệ công ty, sổ biên bản họp ĐHĐCĐ và các nghị quyết của ĐHĐCĐ. Có quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác. Với những quyền mà pháp luật đã trao cho cổ đông như trên thì họ có thể nắm bắt đầy đủ các thông tin thiếu sót hoặc sai lệch thì họ có quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi thông tin đó.
Thứ tư, quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh.
Các cổ đông có quyền yêu cầu các cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp xảy ra theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty.
Bên cạnh các quyền và lợi ích được hưởng các cổ đông cũng phải thực hiện các nghĩa vụ của mình như là chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi cổ phần sở hữu theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Cổ đông phải tuân thủ điều lệ và quy chế quản lý nội bộ công ty, chấp hành các quyết định của ĐHĐQT, HĐQT và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.
2.1.2. ĐHĐCĐ và thẩm quyền của ĐHĐCĐ.
Tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, khi họp lại trở thành một cơ quan quyết nghị, có quyền quyết định cao nhất trong công ty được gọi là ĐHĐCĐ. Có thể hiểu ĐHĐCĐ dựa trên sơ đồ sau:
Triệu tập theo yêu cầu của HĐQT hoặc cổ đông theo thể thức do pháp luật quy định.
Họp hàng năm. Chậm nhất 4 tháng (có thể được gia hạn 6 tháng) kể từ ngày kết thúc năm tài chính
Nhóm họp khi thông qua điều lệ và ủy quyền người tiến hành thành lập công ty.
ĐHĐCĐ bất thường
K3, Điều 97
Đại hội đồng cổ đông
ĐHĐCĐ thành lập
ĐHĐCĐ thường niên
K2, Điều 97
2.2. Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) – cơ quan quản lý và điều hành công ty.
2.2.1. Hội đồng quản trị - cơ quan quản lý công ty.
- Chức năng và thẩm quyền của HĐQT
HĐQT là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. HĐQT không có ít hơn ba thành viên, không quá 11 thành viên, nếu Điều lệ công ty không có quy định khác. Thành viên HĐQT do ĐHĐCĐ bầu ra. Số thành viên HĐQT phải thường trú ở Việt Nam do Điều lệ công ty quy định. Nhiệm kỳ của HĐQT là năm năm. Nhiệm kỳ của thành viên HĐQT có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. HĐQT của nhiệm kỳ vừa kết thúc tiếp tục hoạt động cho đến khi HĐQT mới được bầu và tiếp quản công việc. Trường hợp có thành viên được bầu bổ sung hoặc thay thế thành viên bị miễn nhiệm, bãi nhiệm trong thời hạn nhiệm kỳ thì nhiệm kỳ của thành viên đó là thời hạn còn lại của nhiệm kỳ HĐQT. Thành viên HĐQT không nhất thiết phải là cổ đông công ty.
HĐQT có các quyền và nhiệm vụ sau:
+ Quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty;
+ Kiến nghị lọa cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại;
+ Quyết định chào bán cổ phần mới trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; quyết định huy động thêm vốn theo hình thức khác;
+ Quyết định giá chào bán cổ phần và trái phiếu của công ty;
+ Quyết định phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới hạn theo quy định của Luật này hoặc Điều lệ công ty;
+ Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông qua hợp đồng mua bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, trừ hợp đồng và giao dịch quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 120 của Luật doanh nghiệp 2005;
+ Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý quan trọng khác do Điều lệ công ty quy định; quyết định mức lương và lợi ích khác của những người quản lý đó; cử người đại diện theo ủy quyền thực hiện quyền sở hữu cổ phần hoặc phần vốn góp ở công ty khác, quyết định mức thù lao và lợi ích khác của những người đó;
+ Giám sát, chỉ đạo Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty;
+ quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ của công ty, quyết định thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua lại cổ phần của doanh nghiệp khác;
+ Duyệt chương trình, nội dung tài liệu phục vụ cho họp ĐHĐCĐ, triệu tập họp ĐHĐCĐ hoặc lấy ý kiến để ĐHĐCĐ thông qua quyết định;
+ Trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên ĐHĐCĐ;
+ Trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên ĐHĐCĐ;
+ Kiến nghị mức cổ tức được trả; quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử lý lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh;
+ Kiến nghị việc tổ chức lại, giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty;
+ Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty quy định.
Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Chủ tịch HĐQT do HĐQT hoặc ĐHĐCĐ bầu theo quy định của điều lệ công ty. Trường hợp HĐQT bầu Chủ tịch HĐQT thì Chủ tịch được bầu trong số thành viên HĐQT. Chủ tịch HĐQT có thểm kiêm Giám đốc hoặc tổng giám đốc công ty nếu điều lệ công ty không quy định khác. Như vậy, Chủ tịch HĐQT cũng là một thành viên của HĐQT cũng phải có đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện như các thành viên khác của HĐQT.
Chủ tịch HĐQT có những quyền và nhiệm vụ sau:
+ Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của HĐQT;
+ Chuẩn bị hoặc tổ chức chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu phục vụ cuộc họp; triệu tập và chủ tọa cuộc họp HĐQT;
+ Tổ chức việc thông qua quyết định của HĐQT;
+ Giám sát quá trình tổ chức thực hiện quyết định của HĐQT;
+ Chủ tọa họp ĐHĐCĐ
+ Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty.
Nếu chủ tịch HĐQT bắng mặt thì ủy quyền bằng văn bản cho một thành viên khác để thực hiện quyền và nhiệm vụ của mình theo nguyên tắc quy định tại điều lệ công ty. Trường hợp không có người được ủy quyền hoặc chủ tịch HĐQT không làm việc thì các thành viên còn lại bầu một người trong số các thành viên tạm thời giữ chức chủ tịch HĐQT theo nguyên tắc đa số quá bán.
2.2.2. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc – cơ quan điều hành công ty.
HĐQT bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người khác làm giám đốc. GĐ là người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước pháp luật về hoạt động của mình. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định Chủ tịch HĐQT là người đại diện theo pháp luật thì giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty. Nhiệm kỳ của giám đốc không quá 5 năm, có thể bổ nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.
Vị trí rất quan trọng của GĐ trong công ty nên đòi hỏi phải lựa chọn được người có đủ tư chất để nắm giữ trọng trách này. Về cơ bản tiêu chuẩn của giám đốc giống với tiêu chuẩn của các thành viên HĐQT chỉ khác ở điểm cá nhân là giám đốc thì phải sở hữu ít nhất 10% tổng số cổ phần phổ thông và GĐ công ty không được đồng thời làm GĐ hoặc Tổng giám đóc của doanh nghiệp khác.
Giám đốc công ty thực hiện chức năng điều hành các hoạt động của công ty trong phạm vi thẩm quyền được không trái với pháp luật và điều lệ công ty. Giám đốc phải điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty, hợp đồng lao động ký với công ty và quyết định của HĐLĐ. Nếu điều hành trái với quy định này mà gây thiệt hại cho công ty thì Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty.
Giám đốc có các quyền và nghĩa vụ sau:
+ Quyết định các vấn đề liên quan đến công việc hàng ngày của công ty mà không cần phải có quyết định của HĐQT ;
+ Tổ chức thực hiện các quyết định của HĐQT;
+ Tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty.
+ Kiến nghị phương án tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty;
+ Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của HĐQT;
+ Quyết định lương và phụ cấp nếu có, đối với người lao động trong công ty kẻ cả người quản lý thuộc thẩm quyền bổi nhiệm của giám đốc;
+ Tuyển dụng lao động;
+ Kiến nghị phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh;
+ các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật, điều lệ công ty và quyết định của HĐQT.
2.3. Ban kiểm soát (BKS) – cơ quan giám sát chuyên trách của công ty.
Để thực hiện tốt công tác giám sát chuyên trách trong hoạt động của công ty, Luật doanh nghiệp 2005 quy định tương đối đầy đủ các vấn đề về BKS.
Đối với CTCP có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần của công ty bắt buộc phải lập BKS. Còn những CTCP không thuộc trường hợp bắt buộc phải thành lập BKS thì vẫn có quyền lập BKS nếu điều lệ công ty quy định.
BKS do ĐHĐCĐ bầu ra, có từ ba đến năm thành viên, nhiệm kỳ của BKS không quá năm năm. Thành viên BKS có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Các thành viên BKS bầu một người trong số họ làm trưởng BKS. Quyền và nghĩa vụ của trưởng BKS do Điều lệ công ty quy định. BKS phải có hơn một nửa số thành viên thường trú tại Việt Nam và ít nhất phải có một thành viên làm kế toán hoặc kiểm toán. Đây là một cơ chế thiết lập nhằm thay mặt các cổ đông trong CTCP giám sát mọi hoạt động trong công ty nhất là hoạt động kinh doanh và tài chính.
BKS có thể tham khảo ý kiến của HĐQT trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên ĐHĐCĐ. BKS có những thẩm quyền sau:
+ Thực hiện giám sát HĐQT, GĐ trong việc quản lý và điều hành công ty; chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao;
+ Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động trong kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính;
+ Thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hàng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT;
+ Trình báo cáo thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo tình hình kinh doanh hằng năm của công ty và báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT lên ĐHĐCĐ tại cuộc họp thường niên;
+ Xem xét sổ kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý, điều hành hoạt động của công ty bất cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết hoặc theo quyết định của ĐHĐCĐ hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 79 của Luật doanh nghiệp;
+ Khi có yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 79 của Luật doanh nghiệp, BKS thực hiện kiểm tra trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm tra, BKS phải báo cáo giải trình về những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến HĐQT và cổ đông hoặc nhóm cổ đông có yêu cầu. Việc kiểm tra của BKS không được cản trở hoạt động bình thường của HĐCĐ, không gây gián đoạn điều hành hoạt động kinh doanh của công ty.
+ Kiến nghị HĐQT hoặc ĐHĐCĐ các biện pháp sưa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty;
+ Khi phát hiện có thành viên HĐQT, GĐ vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty quy định tại Điều 119 của Luật doanh nghiệp 2005 thì phải thông báo ngay bằng văn bản với HĐQT, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả;
+ Thực hiện các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật doanh nghiệp, Điều lệ công ty và quyết định của ĐHĐCĐ.
Hạn chế trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về quản lý và tổ chức công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay. Hướng hoàn thiện.
3.1. Thực trạng trong quản lý và tổ chức công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay.
3.1.1. Về quyền cơ bản của cổ đông
- Quyền tham gia cuộc họp ĐHĐCĐ: Một số công ty không niêm yết, vì một số lý do thực tiễn, có xu hướng hạn chế việc các cổ đông nắm giữa một lượng nhỏ cổ phiếu tham gia vào ĐHĐCĐ thường niên, thông qua việc quy định số lượng cổ phiếu tối thiểu. Việc cổ đông không tiếp cận được với thông tin của công ty hoặc không tiếp nhận được thông tin đầy đủ, chính xác và trung thực là hiện tượng phổ biến. Cổ đông thiểu số hầu như không nhận được thông báo về các quyết định của ĐHĐCĐ , không nhận được bản tóm tắt báo cáo tài chính hàng năm, không nhận được cả thông báo về trả cổ tức,...
Bên cạnh các quyền cơ bản của cổ đông đang bị xâm phạm, thì còn hiện tượng lạm dụng quyền cổ đông. Có hai hiện tượng lạm dụng quyền cổ đông khá phổ biến. Một là, khi diễn biến đại hội cổ đông không tiến triển như ý muốn, một số cổ đông thiểu số đã quấy rối, cản trở tiến trình đại hội. Hiện tượng thứ hai, liên quan đến cổ đông là Nhà nước, khi một số cán bộ, cơ quan nhà nước có liên quan không phân biệt rạch ròi quyền cỏ đông, quyền quản lý hành chính đã can thiệp trực tiếp vào các công việc quản trị nội bộ của công ty như không cho phép triệu tập ĐHĐCĐ, hoặc chỉ đạo triệu tập ĐHĐCĐ, chỉ định bổ nhiệm, thay thế thành viên HĐCĐ,...
- Về chuyển nhượng cổ phần, có một số vấn đề đặt ra mà luật chưa dự liệu:
Một là, trong quan hệ thừa kế, khi cổ đông qua đời thì cổ phần của họ có thể được chuyển nhượng cho người thừa kế hợp pháp hay không? Trường hợp người thừa kế không phải là cổ đông của công ty thì có cần ý kiến của ĐHĐCĐ?
Hai là, trong quan hệ ly hôn, khi phân chia tài sản chung là cổ phần thì người vợ (chồng) không phải là cổ đông của công ty nhận có cần ĐHĐCĐ chấp thuận hay không?
Trong hai trường hợp trên đã có những nguyên tắc luật định về quyền thừa kế và các nguyên tắc phân chia tài sản khi ly hôn, rõ ràng sự chấp thuận của ĐHĐCĐ là không hợp lý. Do đó, những hạn chể về chuyển nhượng trên của Luật không thể áp dụng ở đây.
- Nghĩa vụ thanh toán số cổ phần đã cam kết: Luật doanh nghiệp còn có một số thiếu sót vê nghĩa vụ này, cụ thể:
Một là, theo Khoản 1, Điều 80 quy định quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông là “Thanh toán đủ số cổ phần đã cam kết mua trong thời hạn 90 ngày,… trong phạm vi vốn đã góp của công ty”. Có sự trùng lặp ở đây vì nghĩa vụ này là quy định dành cho cổ đông sáng lập (Điều 84), còn với các cổ đông khác về nguyên tắc phải thanh toán đủ một lần sau khi đăng ký mua chứ không nhất thiết phải trong thời hạn như trên.
Hai là, Khoản 1, Điều 80 cũng quy định “Không được rút vốn đã góp bằng cổ phần phổ thông ra khỏi công ty dưới mọi hình thức, trừ trường hợp được công ty hoặc người khác mua lại cổ phần,…”. Rõ ràng cổ đông phổ thông chỉ có thể rút vốn bằng cách chuyển nhượng cổ phần, đây là một quyền cơ bản của cổ đông, vì vậy quy định này là dài dòng, không cần thiết.
Ba là, khoản 5, Điều 80 quy định: “Cổ đông phổ thông phải chịu trách nhiệm cá nhân khi nhân danh công ty dưới mọi hình thức để thực hiện một trong các hành vi… Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn trước nguy cơ tài chính có thể xảy ra đối với công ty”. Khi không phải là người quản lý công ty, cổ đông không đủ quyền hạn để nhân danh công ty thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn. Quy định này nên đưa vào trách nhiệm của những người quản lý thì chính xác hơn.
3.1.2. Về hội đồng quản trị.
- Thành viên HĐQT:
Theo điều 110 LDN 2005 quy định thành viên HĐQT là cổ đông cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ thông hoặc người khác có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh hoặc trong ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công ty hoặc theo quydidnhj của Điều lệ công ty. Ở đây Luật chỉ quy định thành viên HĐQT là cổ đông cá nhân, vậy vấn đề đặt ra là cổ đông tổ chức có ít nhất 5% tổng số cổ phần hay đáp ứng được các điều kiện nói trên thì có được cử một người đại diện theo ủy quyền trong HĐQT hay không?
Khoản 1 điều 115 LDN 2005 quy định thành viên HĐQT bị bãi nhiệm, miễn nhiệm khi không tham gia các hoạt động của HĐQT trong sáu tháng liên tục, trừ trường hợp bất khả kháng. Quy định này có hạn chế như sau: hạn 6 tháng liên tục khó xác định do thực tế HĐQT hoạt động thông qua các cuộc họp định kỳ hay các cuộc họp bất thường chứ không phải là cơ quan hoạt động thường xuyên.
Về thành viên HĐQT, còn có một số vấn đề quan trọng đặt ra, đó là thành viên HĐQT có được ký hợp đồng lao động với công ty hay không? Trên thực tế ở các công ty nhỏ, thành viên của HĐQT thường kiêm nhiệm một số vị trí chuyên môn và được công ty trả lương. Tình trạng này có thể gây ảnh hưởng tới quản lý công ty. Đầu tiên là nguy cơ tư lợi của thành viên HĐQT do có quyền hạn trong nhiều vị trí. Bên cạnh đó, với những thành viên HĐQT không xứng đáng với công ty bị bãi nhiệm nhương vẫn ràng buộc với công ty theo hợp đồng lao động, đây là trở ngại không nhỏ với tổ chức quản lý công ty, bởi khó có thể vừa bãi nhiệm tư cách thành viên HĐQT, vửa chấm dứt hợp đồng lao động với họ.
- Hoạt động của HĐQT:
Theo điều 112 LDN 2005 thì chủ tịch HĐQT phải triệu tập họp HĐQT khi có một trong các trường hợp có đề nghị của Giám đốc (Tổng giám đốc) hoặc ít nhất 5 người quản lý khác. Trong khi đó điều 4 LDN lại quy định trong CTCP những người quản lý bao gồm: thành viên HĐQT, Giám đốc (Tổng giám đốc) và các chức danh khác theo quy định của Điều lệ công ty. Như vậy quy định “5 người quản lý khác” ở đây chưa rõ, liệu các trưởng phòng ban, kế toán trưởng, giám đốc bộ phận có quyền yêu cầu hay không?
Vấn đề xác định những “người quản lý khác” còn cần thiết khi thực hiện quy định tại Điều 118 về kê khai lợi ích liên quan. Luật quy định “Giám đốc hoặc tổng giám đốc và người quản lý khác của công ty phải kê khai các lợi ích liên quan của họ với công ty”.
Một quy định nữa chưa thật cụ thể đó là khoản 9 Điều 112. Ở đây Luật quy định thành viên HĐQT có thể ủy quyền cho người khác dự cuộc họp HĐQT với điều kiện người này được đa số thành viên HĐQT chấp thuận. Vấn đề đặt ra là: người được ủy quyền nằm trong phạm vi nào, có là cổ đông của công ty hau người ngoài, là người có bằng cấp, kinh nghiệm…? Nhưng quan trọng người đó phải là người quan tâm đến hoạt động của công ty, có khả năng thì HĐQT mới có thể đưa ra nhận xét chính xác.
- Về chủ tịch HĐQT
Theo điều 111 LDN 2005, ĐHĐCĐ hoặc HĐQT bầu ra chủ tịch HĐQT. Quy định này chưa thực sự chính xác. Bởi theo khoàn 2 Điều 96 LDN về quyền hạn nhiệm vụ của ĐHĐCĐ không quy định về thẩm quyền bầu chủ tịch HĐQT. ĐHĐCĐ chỉ bầu ra các thành viên HĐQT. Vì vậy, sẽ hợp lý hơn nếu các thành viên HĐQT bầu chủ tịch HĐQT sau đó.
Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc.
Việc kiêm nhiệm vai trò Tổng giám đốc công ty của Chủ tịch HĐQT thể hiện những hạn chế sau:
người kiêm nhiệm có nhiều quyền lực trong tay sẽ làm vô hiệu hóa các quy định về kiểm soát lẫn nhau giữa hai vị trí này, dễ dẫn đến lạm dụng địa vị quyền hạn để thực hiện những hành vi trái pháp luật và Điều lệ công ty.
Sự kiêm nhiệm khiến nhà lãnh đạo không thể thực hiện tốt công việc của mình trên mỗi cương vị.
Kiêm nhiệm có thể gây thiệt hại cho cổ đông nói riêng và công ty nói chung, đặc biệt là những trở ngại cho quản lý nội bộ CTCP. Tạo ra sự tách bạch giữa chức danh Chủ tịch HĐQT và Giám đốc (Tổng giám đốc) là cần thiết để đảm bảo cân bằng quyền lực trong công ty.
Hướng hoàn thiện.
Thứ nhất, hoàn thiện quy định về mở rộng công khai thông tin về CTCP. Thông tin đầy đủ, minh bạch là một yếu tố đánh giá sức mạnh quản lý của CTCP. Đây là nền tảng quan trọng để các nhà quản lý đề ra kế hoạch hoạt động cho công ty, đồng thời cũng là cơ sở để các nhà đầu tư và đối tác có quyết định đúng đắn.
Thứ hai, về vấn đề Chủ tịch HĐQT có thể kiêm nhiệm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty, như đã nói ở trên. Quy định này là không hợp lý, gây cản trở cho tổ chức quản lý công ty. Vì vậy, để tăng cường chức năng giám sát của HĐQT, đảm bảo sự cân bằng về quyền lực, nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cá nhân trong quản lý, điều hành công ty, cần phải quy định phân tách rõ ràng vai trò của Chủ tịch HĐQT và Giám đốc (Tồng giám đốc).
Thứ ba, GĐ và TGĐ theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 thì vị trí này trong CTCP có thể được thuê nhưng quy định về vấn đề này chưa cụ thể, vì vậy, cần bổ sung các quy định của pháp luật. Ví dụ như, hợp đồng, các nội dung chủ yếu của hợp đồng thuê GĐ (TGĐ), điều kiện với GĐ (TGĐ) được thuê. Bên cạnh đó, thực tế cũng cho thấy, hoạt động của GĐ (TGĐ) được thuê còn phụ thuộc nhiều vào các cơ quan quản lý khác của công ty, do đó không đảm bảo được vai trò điều hành thống nhất của GĐ (TGĐ), đặc biệt là trong các CTCP có vốn nhà nước trên 51%. Do đó, quy định thêm về quyền hạn trách nhiệm của GĐ (TGĐ) nhằm nâng cao tính độc lập của họ trong điều hành quản lý CTCP, tránh sự phụ thuộc là điều khá cần thiết.
Thứ tư, về chuyển cổ phần cho người thừa kế và trong trường hợp chia tài sản ly hôn. Đây cũng là vấn đề mà luật cần bổ sung. Bởi Bộ luật dân sự 2005 và LDN 2005 đều là những đạo luật quan trọng. quy định cụ thể vấn đề này là rất cần thiết để tránh xung đột trong hệ thống pháp luật, đồng thời tạo điều kiện để giải quyết các vụ việc trên thực tế.
Thứ năm, cần quy định cụ thể về “những người quản lý khác” được đề cập trong Điều 112 và Điều 118 LDN 2005. Đây là yêu cầu cần thiết trong xây dựng bộ máy quản lý hiện nay. Sự phát triển quy mô của doanh nghiệp luôn đi đôi với yêu cầu quản lý, nhất là trong xu thế phát triển hiện nay: đa ngành, liên doanh, liên kết,… Ngoài những bộ phận quản lý lớn như ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ (TGĐ), BKS thì các bộ phận quản lý khác cũng rất quan trọng. Ở đây, không cần quy định cụ thể, mà nên bổ sung một cách khái quát về vị trí của các bộ phận này. Như vậy mới đáp ứng được nhu cầu trong quản lý CTCP.
C. KẾT BÀI
Tóm lại, với những quy định của pháp luật hiện hành trong quản lý và tổ chức, về cơ bản đã tạo điều kiện, khung pháp lý để các doanh nghiệp áp dụng hình thức công ty cổ phần có thể hoạt động theo một hệ thống nhất định. Tuy nhiên, pháp luật luôn phát triển theo hướng hoàn thiện, khắc phục những thiếu sót. Do đó, phát hiện những điểm hạn chế trong những quy định về vấn đề này là điều cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của tất cả các bên trong nền kinh tế thị trường, cũng như làm động lực chung cho nền kinh tế phát triển. Mặt khác, trong quá trình áp dụng luật, cũng đòi hỏi nhà quản lý doanh nghiệp linh hoạt, sáng tạo hợp pháp nhằm quản lý nội bộ công ty mình một cách hiệu quả nhất.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật doanh nghiệp 2005.
truongchinhtrina.gov.vn
Nghị định 102/2010/NĐ-CP
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng trong công ty cổ phần.doc