Dân tộc Việt Nam đã kề vai sát cánh cùng nhau trải qua bao thăng trầm cảu lịch sử để giành và giữ chính quyền nhà nước. Đó cũng là vấn đề cơ bản của mọi cuộc Cách mạng. Cũng chính vì vậy, quá trình hình thành và phát triển của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn liền với sự phát triển của Cách mạng Việt Nam. Thấm nhuần quan điểm đó, nhân dân ta đã tiến hành tổng khởi nghĩa vũ trang để giành chính quyền trong toàn quốc. Từ đó đến nay, bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được củng cố và hoàn thiện.
Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm nhiều hệ thống các cơ quan nhà nước có tính chất, vị trí, chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một thể thống nhất vì được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung nhất định. Trong đó, Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất cảu bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội.
Bài viết sau đây, chúng em xin trình bày ý hoạt động của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội – chủ thể quan trọng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. Bên cạnh đó, chúng em đưa ra một số thực trạng và giải pháp cho Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội.
Bài viết bao gồm bốn phần:
1. Hoạt động của Hội đồng dân tộc
2. Hoạt động của Ủy ban thường trực của Quốc hội
3. Thực trạng
4. Giải pháp
Nội dung chính
1. Hoạt động của Hội đồng dân tộc
2. Hoạt động của Ủy ban thường trực của Quốc hội
3. Thực trạng
Mặt tích cực
Hoạt động giám sát
Hoạt động thẩm tra
Mặt hạn chế
Hoạt động giám sát
Hoạt động thẩm tra
4. Giải pháp
Kết luận
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
11 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2820 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và giải pháp cho hội đồng dân tộc và ủy ban thường trực của quốc hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Dân tộc Việt Nam đã kề vai sát cánh cùng nhau trải qua bao thăng trầm cảu lịch sử để giành và giữ chính quyền nhà nước. Đó cũng là vấn đề cơ bản của mọi cuộc Cách mạng. Cũng chính vì vậy, quá trình hình thành và phát triển của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn liền với sự phát triển của Cách mạng Việt Nam. Thấm nhuần quan điểm đó, nhân dân ta đã tiến hành tổng khởi nghĩa vũ trang để giành chính quyền trong toàn quốc. Từ đó đến nay, bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được củng cố và hoàn thiện.
Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm nhiều hệ thống các cơ quan nhà nước có tính chất, vị trí, chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một thể thống nhất vì được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung nhất định. Trong đó, Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất cảu bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội.
Bài viết sau đây, chúng em xin trình bày ý hoạt động của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội – chủ thể quan trọng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. Bên cạnh đó, chúng em đưa ra một số thực trạng và giải pháp cho Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội.
Bài viết bao gồm bốn phần:
Hoạt động của Hội đồng dân tộc
Hoạt động của Ủy ban thường trực của Quốc hội
Thực trạng
Giải pháp
Nội dung chính
Hoạt động của Hội đồng dân tộc
Vấn đề dân tộc có ý nghĩa chiến lược đối với Cách mạng Việt Nam. Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 chưa nói đến việc thành lập Hội đồng dân tộc mà chỉ quy định việc thành lập Quốc hội.
Sau đó, theo Nghị quyết ngày 20 tháng 4 năm 1961, Quốc hội đã thành lập Ủy ban dân tộc của Quốc hội để giúp Quốc hội nghiên cứu, thẩm tra và đề ra các dự án về vấn đề dân tộc.
Hiến pháp 1980, hoạt động của Hội đồng dân tộc được thể hiện qua Hiến pháp:
Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội và Hội đồng nhà nước giám sát việc thi hành chính sách dân tộc (Điều 91).
Hội đồng dân tộc có quyền yêu cầu các thành viên của Hội đồng bộ trưởng và những nhân viên hữu quan khác trình bày hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết (Điều 93).
Vậy Hiến pháp 1980 đã nâng Ủy ban dân tộc của Quốc hội thành Hội đồng dân tộc cho xứng tầm quan trọng của vấn đề dân tộc ở nước ta.
Đến Hiến pháp 1992, vị trí, vai trò của Hội đồng dân tộc được đề cao, nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại Điều 94, Điều 95 và Điều 96 Hiến pháp 1992.
Hoạt động của Hội đồng dân tộc được quy định cụ thể trong Hiến pháp 1992 (Đã sửa đổi bổ sung 2001).
Thứ nhất, nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội những vấn đề dân tộc (Điều 94).
Thứ hai, thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số (Điều 94).
Bên cạnh đó hoạt động của Hội đồng dân tộc cũng được quy định trong luật tổ chức Quốc hội 2001 (Đã sửa đổi bổ sung 2007).
Một là thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và dự án khác liên quan đến vấn đề dân tộc (Điều 26).
Hai là giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực dân tộc; giám sát hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số (Điều 26).
Ba là tham gia ý kiến về dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có liên quan đến vấn đề dân tộc và giám sát việc thực hiện các văn bản đó (Điều 26).
Bốn là kiến nghị với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội các vấn đề về chính sách dân tộc của Nhà nước; các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan; kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác của Nhà nước ở trung ương và địa phương về những vấn đề có liên quan đến dân tộc thiểu số (Điều 26).
Và để nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng dân tộc, Điều 94 – Hiến pháp 1992 quy định Hội đồng dân tộc có một số thành viên - Ủy ban thường vụ Quộc hội quyến định làm việc theo chế độ chuyên trách.
Hoạt động của Ủy ban thường trực của Quốc hội
Những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội có quan hệ đến mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội, nhưng Quốc hội chỉ họp hai kì trong một năm nên không thể nghiên cứu, thảo luận và quyết định tốt các vấn đề nếu không có sự chuẩn bị kĩ càng. Vì vậy các Ủy ban của Quốc hội được thành lập ra để giúp Quốc hội thực hiện được tốt các nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Hiến pháp 1946 chưa đề cập đến việc thành lập ra các Ủy ban của Quốc hội.
Đến Hiến pháp 1959, việc thành lập các Ủy ban của Quốc hội đã được đề cập đến nhưng chưa nêu rõ vị trí, chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, hoạt động. Tại Điều 57 – Hiến pháp 1959 chỉ quy định: “Quốc hội thành lập Ủy ban dự án pháp luật; Ủy ban kế hoạch và ngân sách, và những ủy ban khác mà Quốc hội xét thấy cần thiết để giúp Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội”.Ủy ban thường trực của Quốc hội là những ủy ban hoạt động thường xuyên.
Cho đến Hiến pháp 1980, hoạt động của Ủy ban thường trực Quốc hội mới được ghi nhận một cách cụ thể hơn:
Một, nghiên cứu, thẩm tra những dự án luật, dự án pháp lệnh và dự án khác hoặc những báo cáo mà Quốc hội Nhà nước giao cho (Điều 92).
Hai, kiến nghị với Quốc hội và Hội đồng Nhà nước những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban (Điều 92).
Ba, giúp Quốc hội và Hội đồng Nhà nước thực hiện quyền giám sát (Điều 92).
Bốn, yêu cầu các thành viên của Hội đồng bộ trưởng và những nhân viên hữu quan khác trình bày hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết (Điều 93).
Hoạt động của Ủy ban thường trực của Quốc hội tiếp tục được nâng cao và hoàn thiện hơn tại Hiến pháp 1992:
Thứ nhất, nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp luật và dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao (Điều 95).
Thứ hai, trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (Điều 95).
Thứ ba, thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định (Điều 95).
Thứ tư, kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban (Điều 95).
Thứ năm, yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và viên chức Nhà nước hữu quan khác trình bày, cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết (Điều 96).
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Quốc hội bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/07/2007 thì Quốc hội có 9 Ủy ban thường trực:
Ủy ban pháp luật;
Ủy ban tư pháp;
Ủy ban kinh tế;
Ủy ban tài chính, ngân sách;
Ủy ban quốc phòng và an ninh;
Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;
Ủy ban về các vấn đề xã hội;
Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường;
Ủy ban đối ngoại;
Hoạt động cụ thể của từng Ủy ban thường trực của Quốc hội được quy định cụ thể từ Điều 27 đến Điều 33 Luật tổ chức Quốc hội (Đã sửa đổi bổ sung 2007).
Hiến pháp 1992 còn quy định mỗi Ủy ban phải có một số thành viên làm việc theo chế độ chyên trách.
Thực trạng
Mặt tích cực
Hoạt động giám sát
Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại Kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn Đại biểu của Quốc hội và Đại biểu Quốc hội. Trong đó, Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội là chủ thể quan trọng, có ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội; là nhân tố cơ sở của hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội.
Đến nay, sau nhiều năm triển khai thực hiện Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, nhìn chung, công tác giám sát của của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội đã được chú trọng, đẩy mạnh và có nhiều chuyển biến tích cực. Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội đã tiến hành giám sát toàn diện các lĩnh vực được phân công phụ trách, từng bước đổi mới về nội dung và hình thức giám sát. Thông qua hoạt động thẩm tra các bảo cáo hàng năm, hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; giám sát chuyên đề. Hoạt động giám sát đã ngày một nâng cao về chất lượng và hiệu quả.
Hoạt động thẩm tra
Từ sau Hiến pháp 1992, đặc biệt là trong những năm gần đây, công tác thẩm tra của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội ngày càng đi vào chiều sâu, chất lượng và hiệu quả thiết thực. Về cơ bản, nhiều báo cáo thẩm tra đã xem xét đánh giá các dự án có tính khoa học, phù hợp với thực tiễn, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đánh gia tính hợp Hiến, hợp pháp, tính đồng bộ thống nhất của dự án cả về nội dung và hình thức thể hiện. Nhiều đánh giá, nhận xét, kiến nghị trong các báo cáo thẩm tra được Đại biểu Quốc hội đồng tình và những ý kiến này đã trở thành cơ sở cho việc tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh.
Mặt hạn chế
Hoạt động giám sát
Hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động của giám sát của Quốc hội nói chung. Tuy nhiên hoạt động giám sát này vẫn còn một số hạn chế:
Đầu tiên là năng lực giám sát còn hạn chế.
Thứ hai là phạm vi đối tượng giám sát quá rộng.
Thứ ba là chất lượng, hiệu quả giám sát trọng một số trường hợp chưa bảo đảm yêu cầu đặt ra.
Thứ tư là các Đoàn giám sát tổ chức về địa phương còn quá nhiều, lại tập trung vào một số địa phương trong cùng một khoảng thời gian.
Thứ năm là trong một số hoạt động giám sát chuyên đề còn chưa nhận được sự phối hợp chặt chẽ, nghiêm túc của đối tượng giám sát.
Cuối cùng, việc tập hợp, theo dõi, đôn đốc giải quyết các kiến nghị sau giám sát của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội đối với các cơ quan chức năng sau giám sát vẫn còn là khâu yếu, gây ảnh hưởng đến hiệu quả, hiệu lực của hoạt động giám sát.
Hoạt động thẩm tra
Hiện nay, số lượng dự án cần xem xét thông qua mỗi kỳ họp là rất lớn, với những dự án có tính chuyên ngành cao, trong khi:
Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực Quốc hội còn thiếu nhiều kinh nghiệm xử lý đối với những dự án phức tạp, việc phân công thẩm tra các dự án không phải mọi trường hợp đều đã khoa học, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi Ủy ban.
Đa số các thành viên trong Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội là Đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm và không phải Đại biểu nào cũng dành thời gian thỏa đáng cho nhiệm vụ của mình. Do đó, đôi khi hoạt động thẩm tra còn mang tính hình thức, cơ chế tham gia thẩm tra còn chưa được cụ thể.
Phương thức hoạt động thẩm tra còn chưa thực sự linh hoạt, phù hợp với cơ cấu tổ chức và hoạt động của Ủy ban thường trực của Quốc hội, chưa quan tâm đến việc huy động sự tham gia khai thác trí tuệ của các chuyên gia, các nhà khoa học trong việc thẩm tra dự án.
Việc cung cấp thông tin trong nước, kinh nghiệm nước ngoài và các điều kiện khác phục vụ thẩm tra còn hạn chế. Bộ máy giúp việc chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Giải pháp
Một số đề xuất nhằm cải thiện chất lượng hoạt động của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội
Cách thức, thẩm quyền thu thập và xử lý thong tin của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội
Cách thức, thẩm quyền thu thập thông tin ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực. Các Ủy ban thường trực có thể tự khảo sát, thống kê hoặc dựa vào kết quả khảo sát thống kê của các cơ quan, tổ chức trong nước và nước ngoài để xây dựng những báo cáo của mình. Nguồn thông tin phải đa dạng và có tính cạnh tranh, phản biện để kiểm chứng.
Cách xử lý thông tin của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội cũng cần được cải thiện theo những hướng chính như sau:
Một, tăng cường hội thảo, trao đổi để làm rõ nội dung vấn đề và tìm kiếm sự đồng thuận về lợi ích chung cũng như đồng thuận trong việc giải quyết những bất đồng.
Hai, trao đổi trên phương tiện thông tin đại chúng một cách rộng rãi với tất cả các tầng lớp dân cư để tìm ra cách xử lý vấn đề một cách có hiệu quả và đồng thuận nhất.
Ba, việc thu thập thông tin, lấy ý kiến đảm bảo sự đa dạng, chuyên môn hẹp nhằm đảm bảo tính kỹ thuật của vấn đề.
Tăng số lượng và thẩm quyền của Ủy ban thường trực của Quốc hội
Sự đảm bảo tính liên tục, kế thừa của các Ủy ban thường trực của Quốc hội khi hết nhiệm kỳ của Quốc hội là một yêu cầu quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban thường trực của Quốc hội.
Cần tăng cường tính chuyên nghiệp của các thành viên Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực. Hoạt động của Quốc hội là một hoạt động rất quan trọng nên nó càng phải có tính chuyên môn cao hơn. Trong điều kiện các cơ quan của hệ thống hành pháp phát triển nhanh chóng, tính chuyên môn của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực phải có sự phát triển đồng bộ và tương thích thì mới có thể thực hiện vai trò giám sát, thẩm tra của mình.
Mở rộng hình thức và cơ chế tham gia vào Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội của các Đại biểu Quốc hội
Mở rộng sự tham gia của các Đại biểu Quốc hội vào hoạt động của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực là một hướng rất quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực. Sự tham gia của các Đại biểu Quốc hội trong hoạt động của Quốc hội trong hoạt động của Quốc hội nói chung, Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực nói riêng càng mở rộng bao nhiêu thì ý chí và quyền của Quốc hội với tư cách là một thể thống các ý chí của các Đại biểu lớn bấy nhiêu.
Cải thiện điều kiện hoạt động cho Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội
Hiệu quả hoạt động của Hội đồng và Ủy ban thường trực chính là hiệu quả bên trong của hoạt động của Quốc hội và hiệu quả này lại chịu ảnh hưởng khi Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực với các cơ quan, tổ chức bên ngoài.
Do vây, cải thiện điều kiện hoạt động của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực phải được thực hiện song song với việc nâng cao vai trò của Quốc hội đối với các cơ quan, tổ chức khác về cơ sở pháp lý và thực tế.
Kết luận
Tóm lại, chúng ta không thể phủ nhận vị trí cũng như vai trò quan trọng của Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội trong hệ thống cơ quan nhà nước. Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội là nhân tố cơ sở của hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Điều này đòi hỏi phải hoàn thiện hơn nữa, khắc phục những thiếu sót để hoạt động của hai chủ thể này đạt hiệu quả cao hơn.
Qua đó cũng có thể thấy rằng: quá trình hình thành và phát triển của Quốc hội là một quá trình liên tục, gắn liền với từng giai đoạn lịch sử của dân tộc. Bên cạnh những kinh nghiệm tích lũy được từ thực tế hoạt động của Quốc hội, nhà nước ta cũng học hỏi những kinh nghiệm của các nước, phải từng bước hoàn thiện các cơ quan nhà nước về chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ cũng như cơ cấu tổ chức để bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả và ngày càng thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam - NXB Công an nhân dân
2. Luật Tổ chức quốc hội 2001 sửa đổi bổ sung 2007
3. Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 đã sửa đổi bổ sung 2001.
4.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập nhóm hiến pháp- thực trạng và giải pháp cho Hội đồng dân tộc và Ủy ban thường trực của Quốc hội.doc