Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam

Chúng ta đã ra nhập WTO, đã tham gia buôn bán với 149 nước, tại sao chúng ta lại không liên kết với nhau?. Vậy ngay từ bây giờ cần phải tổ chức liên kết hợp tác thích hợp, đó là câu lạc bộ trang trại để cùng nhau học tập, trao đổi, giúp đỡ nhau về khoa học, công nghệ, về kinh nghiệm sản xuất, quản lý, thông tin thị trường, giá cả kịp thời, hiệu quả. Phải xây dựng quy trình sản xuất từ khâu giống đến chăm sóc, thu hoạch, chế biến, bảo quản tạo ra nông sản, thực phẩm sạch, an toàn lương thực, thực phẩm đạt tiêu chuẩn VietGAP để sản phẩm của ta có thể cạnh tranh và tiêu thụ cả ở trong nước và nước ngoài, cũng chính là chúng ta chủ động bước vào hội nhập.

doc11 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3366 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀOTẠO PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở VIỆT NAM. GVHD : Nguyễn Bá Trung Lớp : K309TC Nhóm : 7 KON TUM, THÁNG 11 NĂM 2011 I. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền sản xuất hàng hoá. Trong gần hai thế kỷ qua, nền nông nghiệp thế giới đã có nhiều hình thức tổ chức sản xuất khác nhau. Cho đến nay qua thử thách của thực tiễn, một số nơi các hình thức sản xuất theo mô hình tập thể, và quốc doanh, cũng như xí nghiệp tư bản nông nghiệp tập trung quy mô lớn, không tỏ ra hiệu quả. Trong khi đó, hình thức tổ chức sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại phù hợp với đặc thù của nông nghiệp nên đạt hiệu quả cao, và ngày càng phát triển ở hầu hết các nước trên thế giới. So với nền kinh tế tiểu nông thì kinh tế trang trại là một bước phát triển của kinh tế hàng hoá. Việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại là một quá trình chuyển đổi từ kinh tế hộ nông dân chủ yếu, mang tính sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá có quy mô từ nhỏ tới lớn. Trong tiến trình phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay ở nước ta, sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, với quy mô ngày càng lớn và mang tính thâm canh, chuyên canh, phân vùng đang là một yêu cầu tất yếu khách quan. Sự phát triển kinh tế trang trại đã, đang và sẽ đóng góp to lớn khối lượng nông sản được sản xuất, đáp ứng nhu cầu nông sản trong nước, mặt khác nó còn đóng vai trò cơ bản trong tiến trình hội nhập với kinh tế quốc tế, với sản lượng và kim ngạch xuất khẩu hàng năm đều tăng trưởng tích cực và ổn định, thì sự đóng góp của các trang trại là rất lớn, không những đem lại lợi nhuận cho trang trại, mà còn cải thiện đáng kể thu nhập của những người lao động trong các trang trại. Kinh tế trang trại đã đem lại thu nhập cho nhiều gia đình, góp phần xoá đói, giảm nghèo cho nhiều hộ nông dân. Phát triển kinh tế trang trại là hướng đi đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá. Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam”. 2. Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam, tìm ra những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam. II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KTTT Ở VIỆT NAM 1. Kinh tế trang trại - Động lực tăng trưởng nông nghiệp Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), tính đến giữa năm 2009, cả nước có khoảng 150.102 trang trại, bình quân mỗi tỉnh có 2.382 trang trại, chủ yếu tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Hồng. Từ năm 2000 đến 2009, mỗi năm tăng thêm khoảng 8.600 trang trại. Những địa phương có nhiều quỹ đất nông, lâm nghiệp và diện tích  mặt nước chưa sử dụng, hay vùng kinh tế năng động, thì KTTT phát triển nhanh. Hiện nay, có 47,2% trang trại trồng trọt nông nghiệp; 26,1% trang trại nuôi trồng thủy sản; 13,3% trang trại chăn nuôi; 0,7% trang trại lâm nghiệp và 9,7% trang trại sản xuất, kinh doanh tổng hợp. Các loại hình trên có xu hướng chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng và Nam Trung Bộ đã chuyển hàng ngàn ha lúa sang nuôi trồng thủy sản. Ở những vùng sản xuất nguyên liệu gắn với khu công nghiệp chế biến, như mía đường, dứa… thì trang trại trồng trọt nông nghiệp vẫn ổn định và phát triển.   Trong 5 năm qua, tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế trang trại là 13,8%. Năm 2007, tổng vốn sản xuất của hệ thống trang trại đạt 29.320,1 tỉ đồng, vốn sản xuất bình quân của một trang trại là 257,8 triệu đồng. Nhiều trang trại ở các tỉnh phía Nam như: Lâm Đồng, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu có quy mô vốn bình quân hơn 500 triệu đồng. Lợi nhuận bình quân từ KTTT đạt gần 120 triệu đồng/trang trại, cao gấp 15 lần so với lợi nhuận bình quân của nông hộ. Giá trị sản phẩm hàng hóa của các trang trại cao hơn mức bình quân chung của cả nước từ 7-10%. Tỉ lệ hàng hóa của nhiều trang trại đạt hơn 90% như cà phê, cao su… Một số trang trại đã kết hợp sản xuất và chế biến, nên đạt hiệu quả kinh tế cao. 2. Kinh tế trang trại - Khai thác mặt nước và đất trống Theo ông Trương Văn Quy, Phó cục trưởng cục Hợp tác nông thôn Việt Nam (khu vực phía Nam): “KTTT phát triển đã góp phần khai thác diện tích mặt nước, đất hoang hóa, đất ven sông, ven biển… đưa vào sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ, tạo điều kiện cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản phát triển”. Trong kết quả điều tra năm 2002 của Cục Thống kê, các trang trại đã sử dụng 369.600 ha đất và mặt nước, bình quân diện tích sử dụng đất của một trang trại là 6,08ha. Đến năm 2009, diện tích đất và mặt nước mà các trang trại sử dụng đã đạt con số hơn 990.000ha (trong đó 49% trang trại sản xuất và kinh doanh tổng hợp; 29% chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản). Những năm vừa qua, nhiều chủ trang trại ở TP Hồ Chí Minh đã đầu tư mạnh vào các tỉnh như: Bình Dương, Bình Phước, Lâm Đồng, Đắc Nông, Đắc Lắc, Đồng Nai. Hàng trăm ngàn ha đồi trọc, đất trống đã chuyển mình thành rừng cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, keo lai, vườn cây ăn trái, hồ nuôi cá sấu, cá ba sa, tôm… Không chỉ diện tích đất trống, đồi trọc, mặt nước để hoang phí, mà ngay cả diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả ở các địa phương cũng được chuyển đổi cơ cấu cây trồng, trở thành vùng đất sản xuất-kinh doanh hiệu quả. Hiện nay, mặc dù tình hình suy giảm kinh tế đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của mô hình KTTT, song diện tích đất hoang hóa vẫn đang được khai thác ngày càng nhiều hơn. Các địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng, miền Đông Nam bộ vẫn là những nơi tận dụng đất đai, mặt nước để phát triển nhiều hơn cả. Nếu như chính quyền các địa phương, các chủ trang trại đầu tư tốt trong khảo sát, xây dựng kế hoạch phát triển, thì sẽ khai hoang, phục hóa đất đai hiệu quả hơn. 3. Kinh Tế Trang Trại - Thu hút vốn, tạo thêm việc làm Từ khi có chính sách phát triển trang trại của Nhà nước, các chủ trang trại đã đầu tư một lượng vốn lớn để mở rộng, phát triển sản xuất - kinh doanh. Năm 2007, bình quân mỗi trang trại được đầu tư hơn 285 triệu đồng. Bước sang năm 2008 và 2009, mặc dù bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới và suy giảm kinh tế trong nước, các trang trại vẫn tiếp tục được đầu tư đáng kể. Ông Lê Duy Minh, Quyền Chủ tịch Hội doanh nghiệp Trang trại Việt Nam cho biết: “Ở khu vực miền Đông Nam Bộ, có trang trại được đầu tư 1,14 tỉ đồng/năm. Các trang trại ở Tây Nguyên cũng có vốn đầu tư từ 269 đến 300 triệu đồng/năm”. Ngoài nguồn vốn tự có (khoảng 85%), các chủ trang trại còn vay tiền từ ngân hàng, huy động vốn của người thân để mở rộng và phát triển.  Trang trại phát triển, đã thu hút một lượng lao động đáng kể vào làm việc, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi. Nếu như năm 2001, các trang trại đã thu hút được 374.701 lao động vào làm việc, thì đến năm 2007 số lượng này tăng lên là 488.277; và đầu năm 2009 đạt con số trên 510.000 lao động, trong đó lao động của chủ trang trại chiếm khoảng 40%, còn lại là lao động thuê ngoài. Với nhiều địa phương khi đất sản xuất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng, thì các trang trại đã góp phần tạo thêm nhiều công ăn, việc làm cho người dân, đặc biệt là ở khu vực Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải Nam Trung Bộ, Bắc Trung Bộ. Lao động làm thuê được trả công trung bình là 50.000 đồng/ngày. Ở những trang trại cao su, hồ tiêu, cà phê hay nuôi trồng thủy sản còn được trả cao hơn và được thưởng thêm. Kinh tế trang trại những năm qua đã có bước phát triển tốt,đây là một bước phát triển mới của kinh tế hộ gắn với mục tiêu sản xuất hàng hoá qui mô lớn, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng sản xuất hàng hoá, tạo ra các vùng sản xuất tập trung làm tiền đề cho công nghiệp chế biến nông lâm sản, đưa công nghiệp và các ngành nghề dịch vụ vào nông thôn, tăng tốc độ phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, cải thiện môi trường sinh thái. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, kinh tế trang trại cũng đang gặp những khó khăn. Đó là vấn đề ruộng đất, mở rộng quy mô canh tác. Hiện nay, giá đất, nguyên vật liệu xây dựng cơ sở hạ tầng cao, nhiều nông dân không có vốn để đầu tư. Thị trường tiêu thụ sản phẩm bấp bênh. Nhất là vào vụ thu hoạch rộ, người nông dân thường bị tư thương ép giá, có lúc giá bán không đủ chi phí sản xuất. Tình hình dịch bệnh liên tiếp xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm, một số loại bệnh chưa có vắc-xin phòng trị đặc hiệu; thiên tai ảnh hưởng đến cây trồng, vật nuôi, thủy sản, ảnh hưởng đến tâm lý người dân. Tình trạng ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí ngày càng gia tăng, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh dịch bệnh và ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi, dẫn đến chất lượng sản phẩm hàng hóa chưa cao, hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ.  Sự liên kết giữa các trang trại lỏng lẻo, vẫn còn tư tưởng "mạnh ai người đó làm", khiến nhiều sản phẩm làm ra bị tư thương ép giá. Vấn đề tiếp cận vốn còn gặp nhiều khó khăn. Một số trang trại do thuê đất công điền, chưa được cấp giấy chứng nhận trang trại nên không có tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng. Đa số các chủ trang trại và lao động làm thuê đều là nông dân, chưa qua các lớp đào tạo dài hạn, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, chưa đáp ứng được nhu cầu. Cơ sở vật chất của các trang trại vẫn còn nghèo nàn, hạn chế đến việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh. III. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN KTTT Ở VIỆT NAM Để thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển, những cơ chế, chính sách hỗ trợ trước đây tiếp tục được thực hiện. Bên cạnh đó, cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến, tổng kết, nhân rộng những mô hình kinh tế tiêu biểu, làm ăn hiệu quả để người dân học hỏi và áp dụng. Cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ vay vốn với lãi suất ưu đãi,  hỗ trợ khi thiên tai, dịch bệnh xảy ra. Quy hoạch vùng, khu vực xây dựng trang trại, trong đó các hộ dân được mua hoặc thuê đất với giá ưu đãi. Xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản như đường giao thông, điện, hệ thống mương máng tạo thuận lợi cho người dân làm kinh tế trang trại. Thường xuyên mở các lớp tập huấn, nâng cao trình độ kỹ thuật cho các chủ trang trại trong việc lựa chọn và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Chủ trang trại cũng cần có ý thức học hỏi, vươn lên, tiếp thu cái mới, chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Để xây dựng và phát triển nền nông nghiệp theo hướng hình thành hệ thống các trang trại cần thực hiện một số giải pháp sau: 1. Quy hoạch vùng phát triển trang trại. Để trang trại phát triển tạo ra khối lượng hàng hoá lớn, hình thành các vùng sản xuất tập trung, tạo ra khả năng cạnh tranh mới, khắc phục tình trạng trang trại phát triển tự phát. Các tỉnh thành phố cần rà soát lại quy hoạch phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, xác định các vùng phát triển trang trại; công bố quỹ đất có thể giao hoặc cho thuê để phát triển trang trại, chủ yếu là các vùng đất trống, đồi núi trọc, đất còn hoang hoá, ao hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển…Hướng trong 5-10 năm tới, khai thác đưa vào sử dụng trong nông nghiệp khoảng 1 triệu ha, trồng và khoanh nuôi tái sinh 2 triệu ha rừng sản xuất. Xác định phương hướng phát triển các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp với lợi thế đất đai, khí hậu của mỗi vùng và có tính đến khả năng tiêu thụ sản phẩm. Quy hoạch kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống thuỷ lợi, giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước, cơ sở công nghiệp chế biến, cơ sở sản xuất, cung ứng giống cây, con, vv…đảm bảo đáp ứng tốt các yêu cầu phát triển sản xuất của trang trại. 2. Tiến hành giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho diện tích đất chưa được cấp. Các địa phương rà soát lại các trang trại hiện có, xúc tiến nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ trang trại chưa được cấp giấy chứng nhận theo chính sách đất đai nêu trong Nghị quyết của Chính phủ và hướng dẫn của Tổng cục Địa chính. 3. Nâng cao trình độ ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN) ở các trang trại. Trang trại là nơi sản xuất nông sản hàng hoá nên phải có khả năng cạnh tranh cao. Muốn thực hiện được mục tiêu đó, phải nâng cao trình độ ứng dụng KH&CN. Đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi đầu mối kênh trục chính kết hợp với vốn của trang trại đào ao, đắp đập, xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ, ứng dụng các phương pháp tưới tiêu khoa học, tiết kiệm nước.  Đầu tư xây dựng các cơ sở ươm, nhân giống cây trồng, vật nuôi, cây giống lâm nghiệp. Hỗ trợ các trang trại áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về bảo quản sản phẩm: áp dụng công nghệ chế biến tiên tiến có quy mô vừa và nhỏ; sử dụng máy móc phù hợp để làm đất, vận chuyển, bơm nước…Tổ chức tốt công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư để hỗ trợ các trang trại áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học vào sản xuất. Đồng thời khuyến khích các chủ trang trại tham gia chuyển giao tiến bộ kỹ thuật tới hộ nông dân trong vùng. Các viện và trung tâm nghiên cứu khoa học theo dõi sát nhu cầu của trang trại, liên kết với các trang trại để xác định các mô hình chuyển giao kỹ thuật mới cho nông dân. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp, xử lý kịp thời những trường hợp buôn bán hàng giả, hàng chất lượng xấu, để giúp nông dân và các chủ trang trại phát triển sản xuất có hiệu quả, hạn chế rủi ro. 4. Hỗ trợ trang trại tiếp cận thị trường, tiêu thụ nông lâm sản hàng hoá.  Hướng dẫn các cơ sở công nghiệp chế biến hợp đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ nông, lâm sản hàng hoá với các chủ trang trại và hộ nông dân. Tuyên truyền, hướng dẫn và giúp đỡ các trang trại, thực hiện liên kết giữa các trang trại với các doanh nghiệp Nhà nước để phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ trang trại có khả năng tham gia xuất khẩu sản phẩm trực tiếp. Quy hoạch và đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn ở các địa bàn tập trung phát triển kinh tế trang trại. Tổ chức tốt việc cung cấp thông tin thị trường, hướng dẫn các trang trại sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. 5. Nâng cao năng lực quản lý của chủ trang trại và nâng cao tay nghề của người lao động. Số chủ trang trại có trình độ chuyên môn mới chiếm khoảng 32%, do đó việc đào tạo, nâng cao năng lực quản lý cho các chủ trang trại đặt ra rất cấp bách. Trước mắt, thông qua tổng kết, tổ chức tham quan các trang trại quản lý kinh doanh giỏi để học tập lẫn nhau và tổ chức bồi dưỡng những kiến thức về khoa học và quản lý. Về lâu dài, tổ chức các khoá đào tạo chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý cho các chủ trang trại. 6. Thực hiện các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với phát triển kinh tế trang trại. Các địa phương có kế hoạch bố trí vốn để hỗ trợ các trang trại đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở chế biến, cung cấp thông tin. Trang trại được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nườc. Thực hiện miễn thuế thu nhập với thời gian tối đa nếu chủ trang trại đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ở những địa bàn đất trống, đồi núi trọc, bãi bồi, đầm phá ven biển. Thực hiện miễn giảm thuế đất cho chủ trang trại khi thuê đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng sản xuất, trồng cây lâu năm, thuê diện tích đất ở các vùng nước tự nhiên chưa có đầu tư, cải tạo để sản xuất kinh doanh. Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra đối với kinh tế trang trại, đảm bảo các chủ trang trại thực hiện đầy đủ quy trình kỹ thuật canh tác bảo vệ và làm giàu đất, bảo vệ môi trường; thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước theo pháp luật. Đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ trang trại về tài sản và các lợi ích khác. 7. Tạo ra những sản phẩm nông nghiệp sạch, an toàn lương thực, thực phẩm đạt tiêu chuẩn VietGAP để chủ động hội nhập.  Chúng ta đã ra nhập WTO, đã tham gia buôn bán với 149 nước, tại sao chúng ta lại không liên kết với nhau?. Vậy ngay từ bây giờ cần phải tổ chức liên kết hợp tác thích hợp, đó là câu lạc bộ trang trại để cùng nhau học tập, trao đổi, giúp đỡ nhau về khoa học, công nghệ, về kinh nghiệm sản xuất, quản lý, thông tin thị trường, giá cả…kịp thời, hiệu quả. Phải xây dựng quy trình sản xuất từ khâu giống đến chăm sóc, thu hoạch, chế biến, bảo quản tạo ra nông sản, thực phẩm sạch, an toàn lương thực, thực phẩm đạt tiêu chuẩn VietGAP để sản phẩm của ta có thể cạnh tranh và tiêu thụ cả ở trong nước và nước ngoài, cũng chính là chúng ta chủ động bước vào hội nhập. MỤC LỤC BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC NHÓM 7 Họ và Tên Công việc Tự đánh giá Lê Thị Thương Tìm tài liệu, trao đổi, thảo luận, tổng hợp đưa ra ý kiến thống nhất. Trình bày bài tiểu luận. 90% Công viêc Trần Thị Huê Tìm tài liệu, trao đổi, thảo luận, tổng hợp đưa ra ý kiến thống nhất. 80% Công viêc Đặng Thị Vân Huyền Tìm tài liệu, trao đổi, thảo luận, tổng hợp đưa ra ý kiến thống nhất.Trình bày bài tiểu luận. 90% Công viêc Đặng Thị Hương Thảo Tìm tài liệu, trao đổi, thảo luận, tổng hợp đưa ra ý kiến thống nhất. 80% Công viêc Lê Thị Thanh Thúy Tìm tài liệu, trao đổi, thảo luận, tổng hợp đưa ra ý kiến thống nhất. 80% Công viêc Lê Thị Phước Trang Tìm tài liệu, trao đổi, thảo luận, tổng hợp đưa ra ý kiến thống nhất. 80% Công viêc Thái Thị Thanh Hương Tìm tài liệu, trao đổi, thảo luận, tổng hợp đưa ra ý kiến thống nhất.Trình bày bài tiểu luận. 90% Công viêc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_kttt_nhom_7_7492.doc
Luận văn liên quan