MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
I.TỔNG QUAN VỀ NGÀNH GỖ VIỆT NAM: 2
1.Giới thiệu sơ lược về lịch sử phát triển của ngành sản xuất và chế biến gỗ: 2
2. Vai trò và những lợi ích kinh tế – xã hội từ việc phát triển ngành sản xuất , chế biến đồ gỗ xuất khẩu: 3
3. Đặc điểm của ngành sản xuất và chế biến gỗ: 4
II.THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ CỦA VIỆT NAM: 6
1.Những thành tựu ngành sản xuất, chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã giành được trong những năm gần đây: 6
2. Những thuận lợi với ngành chế biến, xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam: 8
3. Những khó khăn mà ngành sản xuất, chế biến gỗ của Việt Nam đang phải đối mặt: 10
III. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CÁC SẢN PHẨM ĐỒ GỖ CỦA VIỆT NAM: 16
1. Phát triển nguồn nguyên liệu, khai thác bền vững tài nguyên rừng: 16
2. Nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong công tác xúc tíến thương mại, quảng bá, xây dựng thương hiệu gỗ Việt Nam trên thị trường quốc tế: 17
3. Doanh nghiệp cần tìm cách nắm bắt kịp thời các thông tin cần thiết, tìm hiểu kỹ đặc điểm, nhu cầu, xu hướng của từng thị trường, từ đó mà có các chiến lược phát triển cho phù hợp: 19
4. Mở rộng liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư trong và ngoài nước nhằm xoá bỏ lối làm ăn tiểu nông nhỏ lẻ: 22
5. Tăng cường đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm: 22
6. Đẩy mạnh cải tiến công tác thiết kế sản phẩm, tạo cho sản phẩm sự khác biệt mang lại lợi thế cạnh tranh: 22
KẾT LUẬN 24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 25
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam vốn là đất nước có nhiều làng nghề truyền thống được hình thành và phát triển từ nhiều đồ nay. Trải qua hàng trăm. hàng ngàn năm, có rất nhiều nghề và làng nghề đã tồn tại và phát triển như một phần không thể tách rời lịch sử dân tộc. Như là làng nghề dệt vải, làm gốm sứ, đúc đồng, dệt chiếu, dệt thổ cẩm . Trong đó chúng ta không thể không kể đến nghề làm đồ gỗ truyền thống đã gắn bó với cuộc sống của bao thế hệ người dân Việt Nam từ thuở cha ông ta dựng nước đến nay. Những sản phẩm của nghề này không chỉ đáp ứng nhu cầu hàng ngày mà còn là những sản phẩm văn hóa phục vụ cho đời sống tinh thần của người dân Việt.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngành nghề truyền thống này đã phát triển thành ngành công nghiệp sản xuất và chế biến gỗ. Sản phẩm của ngành là mặt hàng xuất khẩu mang nhiều nét đặc trưng độc đáo của nền văn hóa dân tộc, do vậy nó cũng là thông điệp giới thiệu cho bạn bè quốc tế về đất nước, cảnh quan thiên nhiên và con người Việt Nam. Bên cạnh đó, các sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam còn đem lại giá trị ngoại tệ rất lớn. Chính bởi những lợi ích kinh tế – xã hội lâu dài và tiềm năng phát triển của chúng mà hiện nay nhà nước đang có nhiều biện pháp và chính sách để khuyến khích ngành chế biến sản xuất gỗ xuất khẩu phát triển.
Trong đề án này tôi xin được đề cập đến ba vấn đề lớn là: tổng quan về ngành gỗ Việt Nam, thực trạng của ngành sản xuất chế biến gỗ xuất khẩu và các giải pháp để đẩy mạnh ngành nghề này.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện, do còn nhiều sai sót và kiến thức còn hạn hẹp nên không tránh khỏi những sai sót. Rất mong sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Tôi xin cảm ơn thầy Nguyễn Đình Trung đã trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này.
28 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3931 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t cũng như thông qua việc tích luỹ vốn của các cơ sở đó hoặc qua sự liên kết giữa các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, sự phát triển của ngành hàng này cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế hiện có trong nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng của nông nghiệp trong cơ cấu giá trị sản lượng.
Xét trên góc độ phân công lao động xã hội thì các sản phẩm đồ gỗ đã tác động tích cực tới sản xuất nông nghiệp các làng nghề. Nó có tác dụng trong việc chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp, trong nông nghiệp hình thành những khu vực nông nghiệp chuyên canh hoá, tạo ra năng suất lao động cao và nhiều sản phẩm hàng hoá. Quá trình chuyển dịch này được thực hiện dưới tác động của sản xuất và nhu cầu thị trường.
b) Giúp giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân:
Theo thống kê, nước ta hiện nay có khoảng 170.000 lao động trong ngành xuất khẩu đồ gỗ. Ở rất nhiều làng nghề phát triển, thu nhập từ sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đã chiếm tới 70-80% tổng thu nhập người dân. Tại làng Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Tây tiền công trung bình một tháng của thợ phụ cũng khoảng 700.000 - 800.000 đồng, với những người thợ trình độ tay nghề cao hơn tiền công có thể xấp xỉ 2 triệu đồng một tháng. Thu nhập từ làm đồ gỗ chiếm phần lớn trong tổng thu nhập của cả làng. Hoạt động này không chỉ tạo ra một lượng lớn lao động mà còn giải quyết việc làm cho những lao động nông nghiệp nhàn rỗi sau vụ sản xuất. Ở nhiều làng nghề, những người nông dân, trong những vụ nông nhàn hoặc ngoài giờ ra đồng lại chính là những người thợ thủ công tài hoa.
c) Giúp giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và phát huy nét đẹp truyền thống:
Các sản phẩm đồ gỗ Việt Nam, đặc biệt là đồ gỗ thủ công mỹ nghệ là kết tinh tài năng, óc sáng tạo của người thợ dựa trên bề dày văn hoá bốn nghìn năm của dân tộc. Nhiều sản phẩm đã vượt qua giá trị hàng hoá đơn thuần, trở thành sản phẩm văn hoá, là biểu tượng đẹp đẽ của truyền thống dân tộc Việt Nam. Ngày nay, nền sản xuất công nghiệp hiện đại phát triển mạnh mẽ, các sản phẩm đồ gỗ công nghiệp được sử dụng và tiêu thụ khắp nơi. Tuy nhiên, chúng ta cần tạo cho sản phẩm những nét riêng, độc đáo mang bản sắc văn hoá đặc trưng của dân tộc hay của mỗi vùng miền (như những nét chạm trổ bằng tay), từ đó mà làm nên lợi thế cạnh tranh riêng của sản phẩm “Made in Viet Nam”. Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ thủ công mỹ nghệ nói riêng và các sản phẩm đồ gỗ khác nói chung sẽ góp phần giới thiệu và quảng bá văn hoá Việt Nam với bạn bè Quốc tế.
d) Góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước và mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế:
Sản phẩm đồ gỗ không chỉ là một mặt hàng chủ lực của Việt Nam mà chúng còn có thể mang những yếu tố văn hoá đậm nét. Điển hình là trên những sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ tryền thống thường biểu đạt phong cảnh sinh hoạt, con người, cảnh quan thiên nhiên, lễ hội truyền thống, quan niệm về tự nhiên… Những nét chấm phá nghệ thuật trên các sản phẩm chạm khắc gỗ, khảm trai… vói cánh cò bay, cành trúc uốn cong, mái đình, cây đa, con đò, bến nước, con sông trải dài… đã thể hiện hình ảnh đất nước, con người và tâm hồn tình cảm Việt Nam, làm cho người nước ngoài thêm yêu mến dân tộc và đất nước Việt Nam.
3. Đặc điểm của ngành sản xuất và chế biến gỗ:
a) Đã hình thành và phát triển từ lâu đời ở nước ta:
b) Được sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề:
Sự ra đời của mặt hàng đồ gỗ truyền thống lúc đầu là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của từng gia đình, đồng thời giải quyết lao động dư thừa, nhàn rỗi giữa các mùa vụ. Sau xuất hiện những gia đình chuyên làm nghề này để sản xuất sản phẩm phục vụ nhu cầu của người dân trong làng. Song đa phần các gia đình này vẫn tham gia sản xuất nông nghiệp ở một mức độ nào đó. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 200 làng nghề làm đồ gỗ. Do đặc điểm , điều kiện giao thông trước kia nên các làng nghề truyền thống thường gắn với các con sông để thuận tiện cho việc đi lại, vận chuyển nguyên liệu và thành phẩm.
c) Có nhiều nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề:
Ở các làng nghề truyền thống thường có các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, có kỹ thuật tinh xảo làm hạt nhân để phát triển. Mỗi làng thường có một ông tổ nghề là người truyền dạy bí quyết, kỹ thuật nghề. Phương thức dạy nghề chủ yếu là truyền nghề, kèm cặp của người thợ cả đối với những người thợ học việc.
d) Đã thay đổi nhiều về công nghệ sản xuất:
Công nghệ sản xuât trước kia chủ yếu mang tính chất thủ công, nhưng trong những năm gần đây do sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu trong nước , nhu cầu xuất khẩu tăng cao nên các làng nghề, các cơ sở sản xuất đều được trang bị thêm máy móc, thiết bị. Ví dụ như máy phay, máy xẻ, máy bào, mấy bắn đinh, máy phun sơn… Nhờ đó mà tăng năng suất, tăng sản lượng sản phẩm và hạ được giá thành sản xuất so với trước.
e) Sử dụng chủ yếu là nguyên liệu nhập từ nước ngoài:
Ngành sản xuất và chế biến gỗ nước ta mỗi năm phải nhập khẩu trên 80% gỗ nguyên liệu từ nước ngoài, chiếm tới 37% trong giá thành sản phẩm. Nguồn nguyên liệu gỗ ngày càng trở nên khan hiếm và đang tăng giá đang là một khó khăn rất lớn cho các cơ sở sản xuất, chế biến gỗ.
f) Rất độc hại:
Trong quá trình sản xuất các sản phẩm từ gỗ phải tiến hành các công đoạn như xẻ gỗ, phay gỗ, bào gỗ… tạo ra rất nhiều các bụi gỗ mà vẫn được gọi là mùn cưa, chúng rất nhỏ nên dễ dàng phát tán trong không khí. Nếu như hít phải quá nhiều thì rất độc hại cho cơ thể, có thể dẫn đến những bệnh như viêm phổi, suy hô hấp, viêm phế quản…. Hay trong quá trình sơn sản phẩm, người ta thường sử dụng máy phun sơn nên sơn có thể bay vào trong không khí hoặc làm ô nhiễm nguồn nước. Do vậy, nhà nước đang thực hiện bố trí, quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp chế biến gỗ xa khu dân cư. Các cơ sở sản xuất gỗ cần phải quan tâm đến vấn đề bảo hộ an toàn sức khoẻ cho người lao động. Tuy nhiên hầu hết ở các làng nghề người ta chưa hề quan tâm đến vấn đề này.
II.THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ CỦA VIỆT NAM:
1.Những thành tựu ngành sản xuất, chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã giành được trong những năm gần đây:
Theo nhận định của Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam, liên tục trong ngững năm qua, nhóm hàng đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam luôn đứng trong nhóm hàng xuát khẩu có tốc độ tăng trưởng cao nhất,với mức tăng trưởng trung bình trên 30%. Các sản phẩm đồ gỗ đứng thứ 5 trong số các mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất sau dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ sản. Việt Nam đã qua mặt cả Malaisia, Thái Lan và Indonesia để trở thành nước xuất khẩu nhiều nhất về đồ gỗ ở Đông Nam Á trong năm 2007.
Biểu đồ cột thể hiện kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ từ năm 2001 đến nay.
(triệu USD)
Bảng tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ:
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Tốc độ tăng trưởng
74%
100%
37,2%
23,5%
22%
Theo dự kiến, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sẽ đạt 3 tỷ USD năm 2008, tăng 28,2% so với năm 2007. Riêng tỉnh Bình Dương trong năm 2007 kim ngạch xuất khẩu gỗ đã đạt 1,7 tỷ USD. Ngày 2/1/2008 tỉnh Bình Dương nhận được một dự án lớn của tập đoàn DongWha ( Hàn Quốc) trị giá 180 triệu USD về đầu tư xây dựng nhà máy chế biến gỗ tại tỉnh. Sản phẩm đồ gỗ chế biến của tỉnh Bình Dương đang xuất khẩu trực tiếp sang thị trường của tất cả các khu vực trên thế giới, trong đó châu Á chiếm hơn 50% sản lượng, tiếp đó là Bắc Mỹ, châu Âu.
Bộ Công Thương đã đưa ra chiến lược phát triển cho mặt hàng này trong những năm tới, trong đó bao gồm các giải pháp để thực hiện mục tiêu đạt 7 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu gỗ vào năm 2010. Mục tiêu này là hoàn toàn có thể thực hiện được, vì nhu cầu sử dụng đồ gỗ trên thế giới được đánh giá là đang tiếp tục tăng cao, trong khi đồ gỗ Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 0,78% tổng thị phần thế giới, nên cơ hội xuất khẩu là rất lớn.
Sản phẩm gỗ của Việt Nam là một mặt hàng có thị trường xuất khẩu khá đa dạng, nó không bị phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường nhất định, và đang ngày càng khẳng định chỗ đứng của mình tại 120 thị trường trên toàn thế giới. Nhật Bản, EU và Mỹ là những thị trường dẫn đầu mức tiêu thụ sản phẩm gỗ Việt Nam. Ba thị trường này chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam, trong đó EU chiếm xấp xỉ 28%, Nhật Bản chiếm 24%. Thị trường Mỹ tuy chỉ chiếm hơn 20%, nhưng lại giữ ở ngôi vị hàng đầu về mức tăng trưởng nhập khẩu đồ gỗ Việt Nam những năm gần đây.
Với thị trường Mỹ, theo số liệu thống kê của uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ, sản phẩm gỗ và đồ nội thất xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ tăng từ 16 triệu USD năm 2001 lên 902,5 triệu USD năm 2006 ( tăng 56 lần ); 3 tháng đầu năm 2007 đạt 277,7 triệu USD ( 3 tháng đầu năm 2006 đạt 186,9 triệu USD ). Đồ gỗ Việt Nam đfứng thứ 5 trong top 10 các quốc gia xất khẩu đồ gỗ sang Mỹ, sau Trung Quốc ( chiếm 49% thị phần đồ gỗ tại Mỹ), Canada (15%), Mehico (14%), Italia (3%), Việt Nam (2%)… Hiện các nhà nhập khẩu Mỹ không muốn lệ thuộc vào một thị trường cung cấp lớn là Trung Quốc. Họ muốn tìm thêm nguồn hàng từ các nước khác và họ tìm đến Việt Nam như một địa chỉ cung cấp đồ gỗ đáng tin cậy ở Châu Á. Với thị trường Mỹ, đồ gỗ Việt Nam được đánh giá là có chất lượng, kiếu dáng sáng tạo, giá cả khá cạnh tranh, vì thế tạo độ tín nhiệm cao với tiêu dùng. Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu hàng gỗ chế biến của Việt Nam sang mỹ còn chưa cao so với các nước khác nên chưa có nguy cơ bị kiện phá giá. Việc xúc tiến quảng bá các mặt hàng gỗ tại thị trường Mỹ những năm qua cũng đã phát huy tác dụng, nhất là việc tham gia các hội chợ triển lãm hàng gỗ nội thất và đồ gỗ danh tiếng ở Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam, Vì thế làm gia tăng hiểu biết về sản phẩm gỗ đối với các nhà nhập khẩu Mỹ. Uy tín của Việt Nam được nâng cao nhờ tư cách là thành viên WTO và nhà nước Việt Nam đang có các cơ chế ngày càng thông thoáng.
Với thị trường Nhật Bản, Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng đồ gỗ khá đa dạng, phong phú, bao gồm đồ gỗ nội thất, đồ gỗ công nghiệp, ván sàn, khung tranh, hòm, hộp, đồ gỗ trang trí… Việt Nam đứng thứ 2, sau Trung Quốc về xuất khẩu mặt hàng này vào Nhật Bản. Đồ gỗ Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản đạt tốc độ tăng trưởng khá. Năm 2004: đạt 180 triệu USD; năm 2005: 240 triệu USD; năm 2006: 286 triệu USD; 9 tháng đầu năm 2997 đạt 228 triệu USD, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm 2006.
Với thị trường EU, đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam hiện được hưởng thuế GSP với mức thuế suất chủ yếu là 0% (một số mã hàng chịu thuế 2,1%) đã giúp Việt Nam có một lợi thế nhất định khi chen chân vào thị trường EU so với Trung Quốc, Indonesia, Braxin, Malaisia… do các nước này không được hưởng GSP. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gỗ Việt Nam vào EU trong thời gian qua có mức tăng trưởng trung bình 15%/năm, tập trung vào đỗ gỗ nội thất và đồ dùng ngoài trời. Trong năm 2006 đạt 501,9 triệu USD, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, riêng 3 tháng đầu năm 2007 đạt 200,72 triệu USD. Tuy nhiên so với tổng lượng nhập khẩu của EU thì mức xuất khẩu của Việt Nam còn rất khiêm tốn và chưa phản ánh đúng tiềm năng.
2. Những thuận lợi với ngành chế biến, xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam:
Việt Nam đã gia nhập WTO:
Điều này là một thách thức nhưng cũng là một cơ hội đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Thông qua quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, lĩnh vực xuất khẩu gỗ được đẩy mạnh, các rào cản thuế quan của nước ngoài với sản phẩm cuả Việt Nam được dỡ bỏ dần dần, các doanh nghiệp sản xuất gỗ xuất khẩu được giảm thuế nhập khẩu gỗ nguyên liệu. Thêm vào đó là làn sóng đầu tư mạnh mẽ từ nước ngoài vào lĩnh vực này. Ngành sản xuất, chế biến gỗ của nước ta được đánh giá là đầy tiềm năng. Cùng với đó là những điều kiện thuận lợi về kinh tế, chính trị, xã hội như nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh, bền vững, lao động dồi dào, chăm chỉ cần cù, khéo tay…đã khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài rất yên tâm khi đầu tư vào Việt Nam. Nhờ sự đầu tư của nước ngoài mà hiện nay đang có xu hướng hình thành các doanh nghiệp chế biến gỗ có quy mô trên trung bình với trình độ quản lý tiên tiến, thiết bị máy móc hiện đại, công nhân có tay nghề cao.
Đồng thời các chính sách về đầu tư ngành gỗ của Đảng và nhà nước rất rõ ràng, công minh, phù hợp với nền kinh tế nói chung và với các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến gỗ nói riêng. Nhà nước luôn kêu gọi và luôn khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào ngành này.
Chúng ta có điều kiện chính trị, an ninh quốc phòng rất ổn định:
Đây là một điều kiện rất thuận lợi, khiến cho các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu an tâm khi đầu tư và mở rộng đầu tư tại nước nhà. Một nền chính trị ổn định sẽ tạo tiền đề cho một nền kinh tế phát triển. Vì sự ổn định về chính trị và xã hội của đất nước sẽ tạo thành một môi trường thuận lợi cho thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển công nghiệp, mở rộng giao thương với các nước trong khu vực và trên thế giới, mở rộng quan hệ hợp tác khoa học công nghệ phục vụ phát triển công nghiệp.
c)Sản xuất và chế biến gỗ là một ngành nghề truyền thống đã có từ lâu đời của dân tộc:
Từ xưa, tay nghề của từng nhóm thợ mộc và chạm khắc tự truyền dạy cho nhau đã đạt tới mức rất điêu luyện thể hiện qua những tác phẩm mộc, điêu khắc trong các đình, chùa. Ngày nay, những sản phẩm chế biến gỗ của chúng ta rất tinh xảo, tinh tế. Tâm hồn, bản sắc dân tộc trong các sản phẩm đồ gỗ chất lượng cao sản xuất tại Việt Nam đã tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm, làm nên lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp và đã thuyết phục được cả những thị trường khó tính trên thế giới. Vì vậy, phát triển sản xuất đồ gỗ xuất khẩu cũng chính là giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Nhu cầu sử dụng đồ gỗ trên thế giới ngày càng cao.
Ngày nay những thị trường đồ gỗ chính trên thế giới như châu Âu, Mỹ, Úc có xu hướng chuyển dịch dần đầu tư và mua hàng ở Việt Nam. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng nên hoạt động đầu tư trong lĩnh vực này cũng tăng rất mạnh. Chính tốc độ phát triển ngành chế bién gỗ tăng mạnh, đặc biệt là từ cuối năm 2002 đã nói lên điều đó.
Các sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã tạo được vị thế mới trên thị trường quốc tế. Trước đây, ít ai nghĩ rằng đồ gỗ Việt Nam có thể chen chân vào các siêu thị lớn, thì nay, hầu hết các siêu thị lớn trên thế giới đều có bán đồ gỗ chế biến tại Việt Nam. Việc có nhiều nhà nhập khẩu đồ gỗ quốc tế tới tham dự hội chợ EXPO
đồ gỗ hàng năm vào tháng 10 tại TPHCM trong 4 năm qua, để tìm hiểu và ký kết hợp đồng đã phần nào khẳng định vị thế của công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam trên thị trường thế giới.
Nguồn nhân lực dồi dào, phong phú:
Nước ta có dân số trên 84 triệu người, đa phần là dân số trẻ, do vậy lực lượng lao động rất đông đảo. Người dân Việt Nam từ lâu đã có truyền thống chăm chỉ, cần cù, chịu khó, lại thông minh, tháo vát, nhanh nhẹn. Nguồn tri thức của người lao động Việt Nam đủ sức để tiếp nhận và ứng dụng các công nghệ cao cấp, quy trình kỹ thuật tiên tiến của sự phát triển tri thức toàn cầu. Việc phát triển ngành nghề sản xuất gỗ xuất khẩu vừa phát huy lợi thế về lao động, vừa tạo thêm việc làm, góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế – xã hội bức xúc của đất nước.
Đã thành lập được Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam:
Hiện nay, Hiệp hội này có trên 300 thành viên là các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh gỗ trên toàn quốc. Từ năm 2003 đến nay, hội đã thực hiện hỗ trợ cho các thành viên theo chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Cụ thể như hỗ trợ họ tập huấn, đào tạo nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên về marketing, trình độ quản lý, kỹ năng buôn bán…; hỗ trợ họ áp dụng công nghệ thông tin vào sản xuất kinh doanh (quản trị mạng, xử lý thông tin trên mạng…); chuyển giao công nghệ mới; tổ chức giao lưu học tập, trao đổi kinh nghiệm cũng như hợp tác sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước; quảng bá sản phẩm thông qua website, các phương tiện thông tin đại chúng và qua việc tổ chức các đoàn tham gia triển lãm trong nước và quốc tế. Hiệp hội này cũng đóng góp được một phần vào sự tăng trưởng, phát triển của ngành sản xuất đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam như ngày nay.
3. Những khó khăn mà ngành sản xuất, chế biến gỗ của Việt Nam đang phải đối mặt:
a) Thiếu gỗ nguyên liệu:
Đây chính là khâu yếu nhất của ngành công nghiệp sản xuất và chế biến gỗ Việt Nam. Theo Bộ Công thương, hiện nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ thiếu trầm trọng. Hàng năm, các doanh nghiệp phải nhập khẩu trên 80% nguyên liệu gỗ, chiếm tới 37% giá thành sản phẩm. Năm 2006, chúng ta xuất khẩu khoảng 2 tỷ USD sản phẩm gỗ và nhập khẩu khoảng 716 triệu USD gỗ nguyên liệu. Chỉ trong 8 tháng đầu năm 2007, cả nước đã nhập tới 700 triệu USD gỗ nguyên liệu, chiếm gần một nửa trong 1,5 tỷ USD xuất khẩu đồ gỗ. Ước tính có tới khoảng 2 triệu mét khối gỗ nhập về các cảng Việt Nam mỗi năm. Ông Đoàn Xuân Hoà, Cục phó Cục Chế biến Nông lâm sản, Bộ NN-PTNT, thừa nhận cả nước hiện chỉ có 720.000 ha rừng trồng kinh tế có thể tham gia cung cấp nguyên liệu gỗ cho chế biến nhưng các giống cây rừng trồng đa phần có chất lượng gỗ thấp, chỉ phục vụ được cho nhu cầu ván nhân tạo, gỗ dăm hay nguyên liệu giấy là chính. Nhiều cánh rừng được trồng mới chủ yếu trồng bạch đàn và keo chỉ có giá trị phủ xanh còn già trị thương mại là rất thấp. Đặc biệt, công tác xây dựng mạng lưới chế biến gỗ trên toàn quốc chưa có sự thống nhất để sử dụng nguồn nguyên liệu vốn đang rất khan hiếm. Chính bởi công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, gỗ rừng trồng chưa có nhiều loại gỗ lớn, chủng loại chỉ tập trung vào một số cây ngắn ngày, nên không đáp ứng được yêu cầu chất lượng với sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó, trong nước chưa xây dựng được các khu rừng cấp chứng chỉ, trong khi nhiều thị trường nhập khẩu đã đạt ra yêu cầu gỗ có chứng chỉ được khai thác, nên tình trạng phải nhập khẩu gỗ để đáp ứng là yêu cầu không tránh khỏi.
Do sự phụ thuộc vào thị trường cung cấp nguyên liệu từ nước ngoài cũng như tình trạng giao động của thị trường này nên khi giá nguyên liệu tăng cao và đang ngày càng trở nên khan hiếm như hiện nay thì hoạt động của các doanh nghiệp đang bị ảnh hưởng rất nhiều. Trong khi thị trường đang ngày càng được mở rộng thì nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực đồ gỗ, nhất là các doanh nghiệp tại TP Hồ Chí Minh, Bình Định, Đồng Nai, Gia Lai, Đăc Lắc cho biết họ đang rất khó khăn trong việc tìm kiếm gỗ nguyên liệu để duy trì sản xuất. Nguồn cung cấp nguyên liệu từ các nước cận kề như Lào và Campuchia đang cạn kiệt, trong khi thị trường nhập khẩu gỗ lớn nhất của Việt Nam là Malaisia thì giá đang tăng mạnh, đây cũng là nước thường xuyên thay đổi về chính sách xuất khẩu gỗ, lúc cho xuất khẩu, lúc lại cấm không cho xuất khẩu. Nhiều nước như LB Nga lại tăng thuế xuất khẩu gỗ nguyên liệu. Đó là chưa tính đến giá xăng dầu trên thế giới tăng kéo theo cước phí vận chuyển tăng… Giá gỗ tăng cao từ 40-100% trong năm qua cũng gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp. Điển hình là gỗ lim nhập khẩu từ Lào tăng giá từ 16 triệu/mét khối vào giữa năm 2007 đến 40 triệu/mét khối cuối năm 2007 do nguồn cung cấp gỗ lim từ nước này giảm mạnh.
Có một nghịch lý nữa là hàng năm chúng ta xuất khẩu tới hàng triệu tấn gỗ dăm khai thác từ rừng trồng trong nước. Đây là nguyên liệu chính để sản xuất ván nhân tạo, tuy nhiên, mỗi năm ta lại phải nhập tới gần 1 triệu mét khối ván nhân tạo. Nguyên nhân chính là do ngành công nghiệp sản xuất ván nhân tạo ở nước ta chưa phát triển, hiện nay cả nước mới chỉ có 4 nhà máy sản xuất ván MDF với công suất chưa tới 100.000 mét khối/năm với chất lượng chưa đáp ứng được tiêu chuẩn sản xuất hàng xuất khẩu. Hiện nước ta rất cần thêm nhà máy sản xuất ván nhân tạo để tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước và cũng là nguồn cung cấp cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu đồ gỗ từ ván nhân tạo. Như vậy, giá thành sản phẩm sẽ giảm đi rất nhiều và có thể cạnh tranh được với các nước.
b) Chưa xây dựng được thương hiệu, chưa hình thành được hệ thống phân phối hàng hoá chuyên nghiệp:
Là một mặt hàng mới phát triển mạnh khoảng nửa thập kỷ gần đây nên việc phát triển thương hiệu đồ gỗ Việt Nam trên thị trường quốc tế còn hạn chế và chưa được chú trọng.. Một thực tế đáng buồn là các doanh nghiệp chủ yếu đang làm hàng gia công và hàng thô. Đối tác nước ngoài đến đặt hàng ở Việt Nam và xuất sản phẩm đi nhưng dưới những nhãn hiệu khác. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam có rất ít cơ hội bán hàng trực tiếp cho các khách hàng Mỹ, mà chủ yếu qua các thương nhân Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc. Hơn nữa, có đến 60% kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ VN vào thị trường Mỹ thuộc về các công ty 100% vốn của Trung Quốc hay Đài Loan đang đầu tư ở TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương. Đối với thị trường Mỹ, để xâm nhập vào thì sản phẩm gỗ Việt Nam có hai phương cách là bán trực tiếp cho các nhà bán lẻ (như Haverygs, Pottery Bản, Crate and Barel…) hoặc qua các nhà nhập khẩu. Bán qua các nhà bán lẻ sẽ không phải qua môi giới nên sẽ được giá cao, nhưng số lượng đặt hàng ít và họ không biết nhiều về công nghệ chế biến nên sẽ không hỗ trợ được gì cho các nhà sản xuất. Còn đối với các nhà nhập khẩu, do hầu hết họ đều có kinh nghiệm trong chế biến gỗ nên hiểu những khó khăn của nhà sản xuất, vì thế họ có thể giúp các nhà sản xuất cải tiến kỹ thuật, chất lượng và do có mạng lưới tiêu thụ rộng nên dễ dàng cung cấp cho nhà sản xuất thông tin thị trường hoăc tiếp thị hiệu quả cho sản phẩm. Tuy nhiên, việc chúng ta chưa có thương hiệu và các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm qua những nhà nhập khẩu trung gian và sử dụng những nhãn hiệu khác nhau đã làm giảm tính cạnh tranh của mặt hàng này, và đây cũng không phải là một bện pháp chiến lược lâu dài. Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải tạo được dấu ấn sâu đậm, tốt đẹp về thương hiệu sản phẩm của mình trong lòng những khách hàng quốc tế.
Có nhiều nguyên nhân để giải thích cho khó khăn trên của ngành chế biến, sản xuất gỗ xuất khẩu nước ta. Thứ nhất, là hầu hết các doanh nghiệp đồ gỗ của chúng ta đều có quy mô nhỏ nên chưa có nhiều kinh phí để thực hiện được việc này hoặc chưa nhận thức được một cách đúng đắn về tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu. Thứ hai, các doanh nghiệp chưa hình thành được một hệ thống phân phối hàng hoá chuyên nghiệp, một doanh nghiệp đảm nhận mọi khâu từ tìm nguyên liệu đến bán sản phẩm. Mô hình này sẽ dần dần không còn phù hợp nữa. Thứ ba, là do thủ tục hành chính còn quá rườm rà. Để xây dựng được thương hiệu, trước khi tung sản phẩm ra thị trường, doanh nghiệp cần đăng ký bản quyền sở hữu mẫu mã lên Cục sở hữu trí tuệ để khẳng định trên cơ sở pháp lý quyền sở hữu của mình và được pháp luật bảo vệ. Nhưng vì thủ tục đăng ký bản quyền phức tạp, rắc rối, có nhiều chồng chéo, mang tính chất hành chính, thời gian hoàn thành khá lâu đã khiến nhiều doanh nghiệp nản mà bỏ cuộc. Nhiều doanh nghiệp không những không đăng ký mà còn ăn cắp bản quyền của nhau dẫn đến tình trạng tranh chấp, kiện tụng tràn lan. Hiện nay, chúng ta vẫn chưa tìm ra lối thoát cho tình trạng vi phạm bản quyền, sao chép mẫu mã giữa các doanh nghiệp dẫn đến hạn chế sự phát triển. Thứ tư, việc nhận gia công và làm theo mẫu đặt sẵn của người mua, hiếm có mẫu sáng tạo của riêng mình đã biến các doanh nhiệp của chúng ta thành người làm thuê cho các doanh nghiệp nước ngoài. Thứ năm, công tác xúc tiến thương mại chưa có sự liên kết tốt, nhất là giữa Cục XTTM với các trung tâm XTTM và các doanh nghiệp gỗ. Tất cả những điều này đang làm ảnh hưởng đến thương hiệu gỗ Việt Nam trên thị trường thế giới.
c) Các doanh nghiệp còn đang rất thiếu thông tin do khả năng tiếp cận thị trường còn hạn chế:
Đối với các doanh nghiệp trong ngành sản xuất chế biến gỗ, họ không có bất kì sự tư vấn, tham mưu nào của các công ty tư vấn, của các hiệp hội ngành gỗ, hoặc các cơ quan hữu quan, dẫn đến việc mất phương hướng mở rộng đầu tư, đi sau các nước bạn về đầu tư công nghệ, máy móc, và hiển nhiên thua kém nước bạn về chiếm thị phần trên thương trường quốc tế. Còn đối với các doanh nghiệp mới muốn xâm nhập, đầu tư vào ngành này, cũng không hề có bất kỳ sự tư vấn hướng dẫn nào về các kế hoạch, dự án đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ của thế giới. Họ bị động và dẫn đến nhiều doanh nghiệp tự đầu tư và đầu tư sai, không mang lại hiệu quả trong sản xuất, vì thực tế do các thiết bị, máy móc, công nghệ đầu tư không phù hợp với sự phát triển ngành chế biến gỗ toàn cầu.
Hiện nay, thị trường đầu ra lớn nhất cho các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ xuất khẩu là Mỹ, Nhật và EU. Tuy nhiên, do khả năng tiếp cận thị trường quốc tế còn hạn chế, thiếu thông tin hỗ trợ thị trường mà các doanh nghiệp Việt Nam không am hiểu về văn hoá của họ, chỉ đưa ra các sản phẩm mang bản sắc văn hoá Việt Nam mà quên mất rằng người tiêu dùng cần có những sản phẩm mang dấu ấn văn hoá quê hương họ. Vì thế nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng xuất khẩu các mặt hàng “lệch pha” so với nhu cầu thị trường và “chậm tiến” so với các đối thủ cạnh tranh. Việc thiếu thông tin còn dẫn đến không nắm bắt được giá cả, nhu cầu, xu thế của thị trường, chưa am hiểu văn hoá, thị hiếu của người tiêu dùng nước ngoài… trong khi các thông tin này lại vô cùng cần thiết đối với những người làm kinh doanh, đăc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay, đang có một xu hướng thay đổi nhanh về thị hiếu tiêu dùng các sản phẩm đồ gỗ.
d) Lối làm ăn tiểu nông, nhỏ lẻ, chưa phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ:
Ngành chế biến gỗ nước ta còn mang tính đầu tư và sản xuất nhỏ, sản xuất mang tính thủ công, theo kiểu hộ gia đình, việc tích luỹ vốn để đầu tư các thiết bị máy móc hiện đại của các nước tiên tiến không được chú trọng. Các nhà sản xuất nhỏ lại là tác nhân gây nên sự mất cân đối về giá cả xuất khẩu. Do sản xuất nhỏ, chi phí sản xuất chủ yếu là chi phí công lao động thấp, không phải chịu những khoản thuế, các chi phi phí đóng BHXH, BHYT và các chế độ khác cho người lao động, giá thành cấu thành sản phẩm xuất khẩu thấp, tạo nên sự mất cân đối về hệ thống giá cả xuất khẩu trong nước và từ giá cả này mà khách hàng đặt giá và gây áp lực đối với các doanh nghiệp đầu tư sản xuất lớn. Và để có thể nhận được đơn đặt hàng từ khách hàng, các doanh nghiệp buộc phải chấp nhận sản xuất với giá thấp, ít lợi nhuận và có lúc không có lợi nhuận, điều này có thể khiến các doanh nghiệp lớn phải phá sản, đóng cửa. Chuyện cay đắng cũng xảy ra đối với các nhà sản xuất vừa và nhỏ. Để lo được việc làm cho công nhân, doanh nghiệp kỳ công làm hàng mẫu, chi phí tốn kém để tiếp thị và tham gia hội chợ quốc tế. Nhưng khi nhận được hợp đồng lớn thì lại không đủ năng lực sản xuất, chia cơ sở khác cùng làm thì không đúng tiến độ, cuối cùng đành bỏ. Những doanh nghiệp cỡ nhỏ ở địa phương thiếu sự phối hợp, rất khó có thể cung ứng nổi khi nhận được những khối lượng hàng đặt mua thật lớn.
Quy mô các doanh nghiệp trong ngành chủ yếu vẫn ở mức vừa và nhỏ, sản xuất kết hợp giữa thủ công và cơ khí. Số lượng các doanh nghiệp đầu tư mới về thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ sản xuất còn thấp, mức độ đầu tư chưa cao. Đại bộ phận các doanh nghiệp sản xuất gỗ, đặc biệt là đồ gỗ mỹ nghệ có hệ thống thiết bị lạc hậu. Trong khi đó, yêu cầu của thị trường ngày càng cao. Hiện chỉ có 10% trong tổng số hơn 1.800 cơ sở chế biến gỗ tại Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Các doanh nghiệp đồ gỗ hiện nay vừa nhỏ lại vừa phân tán, phát triển tự phát thiếu sự liên kết nên dù các doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế là có nguồn nhân công giá rẻ, tay nghề khéo léo, kỹ thuật tinh xảo và sản phẩm đạt chất lượng tương đương hàng nước ngoài, giá bán lại thấp hơn 20% so với hàng hóa cùng loại của nước ngoài vẫn khó cạnh tranh. Khách hàng quốc tế thường đặt yêu cầu cao về sự “an toàn” của hợp đồng trong khi các doanh nghiệp Việt Nam chưa biết liên kết với nhau trong sản xuất.
Ngành chế biến gỗ của nước ta phát triển mạnh trong những năm gần đây, nhưng vẫn mang tính chất đơn lẻ, không có sự kết hợp, phát triển đồng bộ của các ngành cơ khí, chế tạo vật tư, Hardware đi kèm với sản phẩm gỗ, thường chỉ chiếm 5-10% giá trị sản phẩm. Các Hardware, vật tư lại không được đảm bảo, giá thành cao, phần nào làm chậm bước tiến phát triển của ngành này. Ngoài ra, còn các lĩnh vực, ngành nghề khác hỗ trợ cho ngành gỗ, nhưng cho đến nay vẫn hoàn toàn bế tắc, như ngành chế biến và sản xuất hoá chất chẳng hạn. Việt Nam không có bất kỳ nhà máy chế biến, sản xuất hoá chất tầm cỡ, đảm bảo chất lượng và giá cả hợp lý nào cả, giá thành cung cấp quá cao trong khi chất lượng quá yếu kém, không cung cấp kịp thời cho doanh nghiệp.
e) Những quy định khắt khe từ những thị trường lớn (Mỹ, Nhật, EU…):
Ngày nay, khi các hàng rào thuế quan ngày càng được giảm dần theo xu hướng toàn cầu hoá của thế giới thì các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ lại đang vấp phải những khó khăn từ hàng rào phi thuế quan của những thị trường lớn. Đó là những quy định khắt khe từ những nước nhập khẩu mà các doanh nghiệp phải đáp ứng. Như việc các khách hàng ngày càng đòi hỏi các sản phẩm được làm từ nguồn gỗ nguyên liệu có chứng chỉ của một tổ chức như Hội đồng các nhà quản lý rừng (FSC). Hiện ở nước ta chưa nơi nào có chứng chỉ như vậy. Hệ quả là, các nhà sản xuất phải nhập khẩu gỗ có chứng chỉ đó nên giá thành sản phẩm không cạnh tranh được và giá trị gia tăng của ngành gỗ bị giảm xuống khá nhiều so với những quốc gia có hệ thống chứng chỉ cho gỗ nguyên liệu.
Với thị trường Nhật Bản, đồ gỗ nhập khẩu vào bắt buộc phải kiểm tra chất chlorpyrifos và formaldehyde. Với thị trường EU, sản phẩm gỗ phải đáp ứng một số quy định như: phải có đền bù thiệt hại cho cá nhân hoặc tập thể khi sản phẩm không an toàn, gây thiệt hại cho người sử dụng. Kế đến, quy định kiểm soát các chất nguy hiểm có thể có trong sản phẩm, như: cadmium, PCP bị hạn chế dư lượng, các chất amiăng, PCB, PCT bị cấm, hoá chất gây thủng tầng ozôn (bị cấm từ 2015) và cho kiểm soát theo chế độ đặc biệt khắt khe làm từ gỗ gụ, thông Chilê, gỗ hồng sắc của Brazin. Song song đó là các yêu cầu chặt chẽ về bao bì, nhãn mác sản phẩm. Ngoài ra, EU cũng đang có nhiều yêu cầu để bảo vệ người lao động, bảo vệ an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp, các yêu cầu về điều kiện môi trường, như: sản xuất thân thiện với môi trường, nhãn sinh thái và đặc biệt là chương trình phát triển bền vững diện tích rừng.
III. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CÁC SẢN PHẨM ĐỒ GỖ CỦA VIỆT NAM:
1. Phát triển nguồn nguyên liệu, khai thác bền vững tài nguyên rừng:
Tập trung trồng rừng theo phương thức thâm canh để tự túc nguồn nguyên liệu gỗ vào năm 2020.
Giải quyết vấn đề nguyên liệu đầu vào không thể chỉ trong một sớm, một chiều mà cần phải có quy hoạch vùng nguyên liệu ngay từ bây giờ. Do vậy, Bộ NN-PTNT đã đề ra mục tiêu phát triển lâm nghiệp, trồng rừng là hình thành vùng nguyên liệu gỗ từ rừng trồng ổn định với diện tích 825.000 ha từ nay tới năm 2020. Để có thể thực hiện được mục tiêu này thì Chính phủ đã chỉ thị các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố tập trung làm tốt một số việc sau đây:
Khẩn trương rà soát, hoàn chỉnh và phê duyệt quy hoạch trồng rừng nguyên liệu, trong đó đảm bảo cung cấp ổn định cho nhu cầu của công nghiệp chế biến, sản xuất sản phẩm gỗ; quy hoạch diện tích thích hợp để trồng loại rừng cây gỗ lớn, các loại cây bản địa quý hiếm, tạo nguồn gỗ ổn định dể duy trì và phát triển sản xuất hàng gỗ thủ công mỹ nghệ.
Chỉ đạo lựa chọn cơ cấu cây rừng phù hợp với điều kiện của từng vùng, có hiệu quả kinh tế, đảm bảo tiêu chuẩn nguyên liệu cho chế biến, sản xuất sản phẩm gỗ; đồng thời có biện pháp đảm bảo đủ giống cây lâm nghiệp (bao gồm cả nghiên cứu, sản xuất trong nước và nhập khẩu) để cung cấp cho trồng rừng nguyên liệu; làm tốt công tác khuyến lâm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về sản xuất cây giống, kỹ thuật trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng.
Trên cơ sở quy hoạch trồng rừng nguyên liệu, rà soát bổ sung những chính sách để khuyến khích hơn nữa các thành phần kinh tế đầu tư trồng rừng, hưởng lợi từ rừng, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, sản xuất sản phẩm gỗ, nhất là các chính sách về đất đai, đầu tư, tín dụng, hỗ trợ về giống cây, xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng nguyên liệu, khuyến lâm, tiêu thụ sản phẩm.
Khuyến khích, đẩy mạnh hơn nữa việc đầu tư công nghệ sản xuất ván nhân tạo trong nước. Đánh giá đầy đủ về hiệu quả đầu tư và thị trường tiêu thụ để có hướng phát triển trong những năm tới.
Bộ Thương mại cần chủ trì phối hợp với Bộ, ngành liên quan, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, trên cơ sở nhu cầu nhập khẩu gỗ nguyên liệu, hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm, lựa chọn thị trường nhập khẩu; rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách và tổ chức, tạo đều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu cung cấp đủ gỗ nguyên liệu, nhất là gỗ rừng tự nhiên cho sản xuất sản phẩm gỗ. Nghiêm cấm các hoạt động đầu cơ, độc quyền, sách nhiễu, gây khó khăn trong việc nhập khẩu gỗ nguyên liệu
Tạo điều kiện thuận lợi nhất để nhập khẩu và cung ứng nguyên liệu gỗ cho ngành công nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu đáp ứng đúng về số lượng, chất lượng, với thời gian và giá cả cạnh tranh:
Chính phủ cần xúc tiến thoả thuận cấp cao giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới có nguồn nguyên liệu gỗ dồi dào về việc cung cấp gỗ dài hạn cho Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp chế biến gỗ thực hiện. Bên cạnh đó, chúng ta cũng nên thành lập các chợ nguyên liệu cung cấp gỗ đạt chuẩn, khiến cho việc mua bán gỗ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, giá cả thống nhất. Hiện nay, đã có 3 trung tâm giao dịch gỗ ở cả 3 miền đang được xây dựng để giúp các doanh nghiêp nhập khẩu gỗ dễ dàng hơn, giá rẻ hơn. Nhà nước cũng đã có chính sách miễn thuế nhập nguyên liệu gỗ và miễn thuế xuất khẩu để khuyến khích nghề gỗ phát triển.
c) Nhà nước nên khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào trồng rừng, thậm chí là đầu tư nuôi dưỡng rừng tự nhiên.
Hiện nay có một số doanh nghiệp ở nước ta đầu tư trồng rừng ở Nam Phi, Nga… Nhà nước nên có các chính sách khuyến khích và táo điều kiện thuận lợi cho hướng phát triển này. Tuy nhiên về lâu dài vẫn cần đẩy mạnh trồng rừng trong nước. Trong những năm tới, vùng duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ cần có quy hoạch phát triển các dự án trồng rừng nguyên liệu phục vụ chế biến gỗ xuất khẩu.
2. Nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong công tác xúc tíến thương mại, quảng bá, xây dựng thương hiệu gỗ Việt Nam trên thị trường quốc tế:
Các giải pháp để xúc tiến thương mại tầm vĩ mô:
Tăng cường mối liên kết giữa xúc tiến thương mại với xúc tiến đầu tư.
Gắn công tác xúc tiến thương mại với yêu cầu tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm gỗ, đẩy mạnh công tác xây dựng thương hiệu đi đôi với việc đề cao chữ “tín” trong thương mại quốc tế.
Nâng cao năng lực tổ chức thị trường nước ngoài của các Thương vụ Việt Nam.
Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao để thúc đẩy hợp tác, đầu tư và buôn bán giữaViệt Nam với các nước, thu hút các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu.
Đổi mới công tác tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại theo hướng chú trọng vào khâu tổ chức và cung cấp thông tin thị trường, giảm bớt các cuộc khảo sát thị trường mang tính nhỏ lẻ.
Tập trung xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm có kim ngạch nhập khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Canada…
Các biện pháp cụ thể để thực hiện việc xúc tiến thương mại thành công:
Trên thế giới có rất nhiều các hoạt động xúc tiến thương mại cũng khá tương tự nhau. Tuy nhiên, vấn đề chính là làm thế nào để các hoạt động này mang lại hiệu quả. Hoạt động tổ chức các đoàn doanh nghiệp sản xuất, chế biến gỗ tham gia các kỳ triển lãm hội chợ quốc tế sẽ có quy mô ngày càng lớn hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cộng đồng các doanh nghiệp, bởi số lượng doanh nghiệp tham gia vàp hoạt động xuất nhập khẩu ngày một tăng.
Để phát triển về chiều rộng thì ở từng nước cụ thể, ngoài những hội chợ mà các doanh nghiệp đã từng tham dự, chúng ta sẽ đăng ký tham gia thêm một số kỳ hội chợ khác nữa. Còn để phát triển về chiều sâu thì đối với những kỳ hội chợ đã thấy rõ những kết quả thiết thực, chúng ta sẽ tổ chức tham gia với quy mô lớn và số lượng lớn hơn.
Để nâng cao chất lượng, không chỉ riêng Cục xúc tiến thương mại, mà những đơn vị khác cũng thực hiện chức năng xúc tiến thương mại như các hiệp hội ngành hàng, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh hợp tác xã… sẽ phải chuẩn bị chu đáo hơn nữa cho các doanh nghiệp trước khi tham gia hội chợ, từ khâu lựa chọn sản phẩm, in ấn catalogue… cần tiến hành ngày càng tiên tiến và chuẩn mực hơn.
Thời gian gần đây, bên cạnh việc tổ chức các cuộc hội thảo về xúc tiến xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào một số thị trường tiềm năng lớn, Cục xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại) cũng tổ chức rất nhiều các cuộc hội thảo chuyên đề như xuất khẩu đồ gỗ nội thất vào Nhật Bản… Các cuộc hội thảo có ý nghĩa cung cấp thông tin, kiến thức về sản phẩm, thị trường để doanh nghiệp chuyển hoá vào thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng đòi hỏi phải có thời gian mới mang lại những kết quả cụ thể. Đó có thể coi là sự “chậm trễ” nhất định giữa tác động của những hoạt động xúc tiến thương mại với những kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, các hoạt động xúc tiến thương mại hầu hết không mang lại hiệu quả tức thì cho doanh nghiệp. Xúc tiến thương mại bao gồm nhiều hoạt động cụ thể và mỗi hoạt động có những tác dụng nhất định. Nếu tổ chức cho các doanh nghiệp đi tham dự hội chợ triển lãm thì hoạt động này có thể đem lại kết quả ngay. Nhưng nếu là hoạt động cung cấp thông tin, quy định về mặt pháp lý cho doanh nghiệp thì không thể vì hoạt động này chưa cho ra giá trị kim ngạch cụ thể mà chúng ta cho rằng nó không quan trọng.
Chúng ta cũng cần đề cao vai trò của Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam. Hiệp hội này cần tập trung hỗ trợ nâng cao năng lực và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp hội viên trên cơ sở các thị trường mục tiêu được định hướng rõ ràng, đồng thời phối hợp với các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý nhà nước, các tổ chức quốc tế để tạo ra một môi trường tốt nhất cho các doanh nghiệp thành viên, từ việc đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào có chất lượng tốt, giá cả hợp lý và hỗ trợ kỹ thuật sản xuất, quản lý đến xúc tiến thương mại trên cơ sở các thị trường mục tiêu. Bên cạnh đó, Hiệp hội cần tích cực xây dựng các mối quan hệ mang tầm khu vực và thế giới nhằm nâng cao hình ảnh và tính cạnh tranh của ngành sản xuất đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam. Hiệp hội cũng phải làm tốt chức năng là một kênh cung cấp thông tin hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình tìm hiểu và đẩy mạnh phát triển thị trường, giúp các doanh nghiệp giữ gìn, bảo hộ bản quyền, xây dựng và quảng bá thương hiệu cho các sản phẩm gỗ Việt Nam.
3. Doanh nghiệp cần tìm cách nắm bắt kịp thời các thông tin cần thiết, tìm hiểu kỹ đặc điểm, nhu cầu, xu hướng của từng thị trường, từ đó mà có các chiến lược phát triển cho phù hợp:
Trong những thị trường chính đầy tiềm năng của sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam như: Mỹ, Nhật, EU… thì mỗi thị trường đều có những nét đặc trưng riêng, rất khác biệt về nhu cầu, thị hiếu, tập quán văn hoá, thói quen tiêu dùng hay môi trường pháp lý… Các doanh nghiệp trước khi xâm nhập vào một thị trường nào đó thì đều cần phải tìm hiểu kỹ những thông tin cụ thể về thị trường đó có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Với 3 thị trường mục tiêu lớn của ngành công nghiệp sản xuất gỗ xuất khẩu của Việt Nam thì các doanh nghiệp cần chú ý những nét sau:
Với thị trường Mỹ:
Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh hoạt động khuyếch trương, quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi… để tìm kiếm khách hàng. Vì làm ăn với Mỹ không có chuyện “hữu xạ tự nhiên hương” mà các doanh nghiệp Việt Nam phải tự đẩy mạnh hoạt động quảng cáo. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam vẫn hạn chế việc quảng bá hình ảnh của mình do sợ tốn kém và có đặc điểm thiếu tính tiên liệu khi làm ăn với Mỹ, còn tuỳ cơ ứng biến. Trong khi đó, đối với người Mỹ, mọi thứ đều phải theo nguyên tắc và luật lệ.
Doanh nghiệp Mỹ luôn đòi hỏi cao với đối tác. Ngay cả khi đã chấp nhận làm ăn, họ còn thường xuyên kiểm tra và theo dõi cả những vấn đề không liên quan gì đến hợp đồng như những chính sách đối xử với người lao động. Do vậy, khi có đơn hàng từ đối tác Mỹ, doanh nghiệp cần có nguồn gỗ tốt, hợp lệ, ổn định đáp ứng đòi hỏi của khách hàng để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Hình ảnh nhà xưởng ngăn nắp, gọn gàng, đời sống công nhân tốt, thiết bị máy móc đồng bộ… cũng là hình ảnh tốt, nói lên với đối tác sự ổn định sản xuất, đảm bảo tiến độ giao hàng. Nhà nhập khẩu Mỹ cũng lo sợ rủi ro của đối tác, vì rủi ro của đối tác cũng sẽ là rủi ro của họ. Khi giới thiệu hay trưng bày sản phẩm ở các hội chợ triển lãm không nên đưa sản phẩm có khuyết tật dù là nhỏ, nên chọn trưng bày những sản phẩm hoàn hảo 100% để khẳng định chất lượng, tạo ấn tượng tốt ngay từ ban đầu.
Có 5 yếu tố vàng mà các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện khi làm ăn với khách hàng Mỹ:
Nên nhờ các nhà tư vấn hoặc tổ chức trung gian của Mỹ vì họ am hiểu thị trường và thói quen của người Mỹ hơn ai hết.
Doanh nghiệp phải hiểu khách hàng của mình là ai khi làm ăn ở Mỹ, cần phân biệt đó là nhà nhập khẩu, nhà bán lẻ hay người tiêu dùng cuối cùng. Vì với mỗi đối tượng sẽ phải có những cách đáp ứng khác nhau.
Phải biết phát triển hệ thống phân phối. Đây không phải là một thế mạnh của Việt Nam. Mặc dù nhiều doanh nghiệp Việt Nam có mặt tại Mỹ nhưng hệ thống phân phối còn rất hạn chế.
Nhân viên nên là người bản địa. Vì như vậy họ sẽ làm tốt hơn vai trò đại diện cho doanh nghiệp tiếp xúc và thu hút khách hàng.
Doanh nghiệp nên liên kết để tạo đồng minh, không phân biệt đó là đồng minh Việt Nam hay Mỹ.
Với thị trường Nhật Bản doanh nghiệp cần lưu ý những đặc trưng sau:
Đòi hỏi cao về chất lượng: Nhật Bản được coi là một trong những thị trường đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm. Thị hiếu tiêu dùng của người Nhật bắt nguồn từ truyền thống văn hoá và điều kiện kinh tế. Nhìn chung họ có óc thẩm mỹ cao, tinh tế do có cơ hội tiếp xúc với nhiều loại hàng hoá dịch vụ trong và ngoài nước. Để có thể chiếm lĩnh thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp Việt Nam cần tập trung sản xuất những sản phẩm đảm bảo chất lượng, đúng với sở thích của người Nhật và có giá trị sử dụng cao trong cuộc sống hàng ngày.
Nhạy cảm với giá cả tiêu dùng hàng ngày: doanh nghiệp cần đảm bảo sự cân bằng giữa chất lượng và giá thành sản phẩm. Bởi người Nhật bây giờ luôn quan niệm “hàng rẻ là hàng kém chất lượng”, họ sẵn sàng trả giá cao cho những sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng, có chất lượng tốt và thể hiện địa vị.
Thời trang và thị hiếu về màu sắc: xu hướng của người Nhật bây giờ là mua những mặt hàng khác nhau nhưng có chung công dụng. Doanh nghiệp nên đa dạng hoá chủng loại sản phẩm, giảm về số lượng thành phẩm để đáp ứng nhu cầu của đông đảo người tiêu dùng.
Nhạy cảm với những thay đổi theo mùa: Nhật Bản có 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông, mùa hè nóng và ẩm ướt, mùa đông lạnh và khô. Đặc điểm khí hậu ảnh hưởng đến khuynh hướng tiêu dùng. Khi xây dựng kế hoạch bán hàng, các doanh nghiệp phải tính đến cả sự khác biệt về thời tiết.
Người Nhật ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm: hàng hoá có mẫu mã đa dạng phong phú thu hút được người tiêu dùng Nhật Bản. Tuy vậy, họ thưòng chỉ mua sản phẩm với số lượng ít vì không gian chỗ ở của họ tương đối nhỏ và còn để tiện thay đổi cho phù hợp với mẫu mã mới. Do vậy, các doanh nghiệp không nên nản lòng khi khách hàng Nhật chỉ mua một lượng hàng rất nhỏ, vì nhiều khi chỉ từ một lượng hàng rất nhỏ cũng có thể hình thành nên cả một trào lưu tiêu thụ thông qua sự giới thiệu của người đó với người thân, bạn bè.
Môi trường sinh thái: đây là thị trường có yêu cầu rất cao về những vấn đề liên quan đến bảo vệ tài nguyên, môi trường. Do vậy, các sản phẩm gỗ nhập khẩu vào thị trường này bắt buộc phải có nhãn sinh thái (nguyên liệu được khai thác ở khu vực cho phép) và yêu cầu kiểm tra dư lượng một số chất hoá học.
Với thị trường EU:
Tại thị trường này thì yếu tố quan trọng nhất không phải là những sản phẩm khác biệt mà chính là những dịch vụ của các doanh nghiệp cung cấp. Chẳng hạn như đơn hàng có được sản xuất đúng thời hạn hay không, tính linh hoạt, các vấn đề hậu cần cũng như các tiêu chuẩn về trách nhiệm của nhà xuất khẩu có tốt hay không. Ngoài ra, EU cũng đang có những yêu cầu để bảo vệ người lao động, bảo đảm an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp, các yêu cầu về điều kiện môi trường, như: sản xuất thân thiện với môi trường, nhãn sinh thái và đặc biệt là chương trình phát triển bền vững rừng. Nếu nhà xuất khẩu đảm bảo được các yếu tố này thì nhà nhập khẩu sẽ đồng ý nhập hàng.
4. Mở rộng liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư trong và ngoài nước nhằm xoá bỏ lối làm ăn tiểu nông nhỏ lẻ:
Các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đều đầu tư từ A-Z để hoàn thiện nhiều sản phẩm, vì vậy vốn đầu tư rất lớn mà sản phẩm làm ra không nhiều, giá lại cao, giảm tính cạnh tranh. Do vậy, cần phải làm sao để có được hiệp hội hoặc liên kết để tổ chức mỗi người một công đoạn sản xuất nhằm giảm vốn đầu tư, làm được nhiều sản phẩm, hạ giá thành. Việc nâng cao mối liên kết giữa các doanh nghiệp sẽ từng bước thực hiện được sự phân công hợp tác lao động giữa các doanh nghiệp theo phương thức chuỗi giá trị gia tăng.
Hiện nay, ngày càng có nhiều các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ lớn có vốn FDI được thành lập tại Việt Nam, sự canh tranh trở nên khốc liệt không chỉ với các doanh nghiệp nước ngoài mà còn giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau. Để có thể tồn tại và phát triển lâu dài, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần thiết phải tìm kiếm những đồi tác phù hợp để cộng tác làm ăn với nhau, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, cải tiến kỹ thuật cũng như công tác quản lý nhằm tăng năng lực cạnh tranh.
5. Tăng cường đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm:
Nhà nước nên xây dựng nguồn vốn tín dụng để các doanh nghiệp gỗ vay đầu tư vào công nghệ. Cần tăng cường đầu tư phát triển khoa học công nghệ theo hướng phát triển sản phẩm mới, sử dụng nguyên vật liệu mới, ứng dụng công nghệ mới, thay thế công nghệ lạc hậu, xử lý ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, cũng cần có các tổ chức tiến hành hoạt động tư vấn cho các doanh nghiệp về phương hướng, kế hoạch, dự án đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ mới của thế giới, để tránh sự đầu tư không phù hợp với sự phát triển của ngành chế biến gỗ toàn cầu.
6. Đẩy mạnh cải tiến công tác thiết kế sản phẩm, tạo cho sản phẩm sự khác biệt mang lại lợi thế cạnh tranh:
Đã đến lúc các doanh nghiệp cần thực sự quan tâm đến khâu thiết kế mẫu mã nếu muốn tồn tại được vững chắc trên thị trường quốc tế. Trong mỗi doanh nghiệp nên phát triển một bộ phận thiết kế mẫu mã riêng, và đăng ký quyền Sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm của mình. Doanh nghiệp có thể tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm của mình theo nhiều cách, như là:
Đưa vào sản phẩm những nét đẹp thủ công ( như chạm trổ tỉ mỉ bằng tay) khiến cho sản phẩm có nét đặc sắc riêng, toát lên vẻ đẹp của những giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam. Cách này sẽ làm tăng giá trị xuất khẩu của sản phẩm.
Kết hợp nguyên liệu gỗ với các nguyên liệu khác, tạo nên dòng sản phẩm độc đáo và có giá trị cao. Chẳng hạn đồ gỗ ngoài trời (outdoor) thường kết hợp với nhôm, inox, vải nhựa. Đồ gỗ trong nhà (indoor) thường kết hợp với sắt, inox, mây, tre, bèo, cói, kính, vải. Dòng sản phẩm này được nhiều thị trường nhập khẩu quan tâm như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và giá bán lại cao hơn đồ gỗ thuần tuý. Đây là những sản phẩm vừa tiết kiệm nguyên liệu gỗ, vừa tận dụng những vật liệu rẻ tiền có sẵn trong nước làm giảm chi phí sản xuất và tạo điều kiện cho các ngành phụ trợ khác phát triển như các ngành nghề thủ công truyền thống, giải quyết thêm việc làm cho nhiều lao động.
Còn có nhiều cách khác để tạo thêm nét độc đáo cho sản phẩm. Nhưng điều quan trọng hơn cả là mẫu mã sản phẩm cần mang những đặc trưng riêng, làm nên ấn tượng riêng biệt cho mỗi thương hiệu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần lưu ý nắm bát kịp thời những thay đổi của nhu cầu thị trường, không để các sản phẩm của mình trở nên cũ kỹ, lạc hậu. Còn về phía các cơ quan chức năng như Bộ Thương mại, có thể thành lập Trung tâm Thiết kế và Phát triển sản phẩm đảm bảo cung cấp hoạt động đào tạo thường xuyên cho các nhà thiết kế ngành sản xuất, chế biến đồ gỗ xuất khẩu.
KẾT LUẬN
Mục tiêu đạt 7 tỷ USD tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ năm 2010 được Bộ Công Thương đề ra là một mục tiêu đầy tham vọng nhưng là hoàn toàn có thể thục hiện được. Để có thể thực hiện được mục tiêu này các doanh nghiệp sẽ gặp không ít khó khăn, đặc biệt là về hai vấn đề: gỗ nguyên liệu và thương hiệu. Muốn giúp cho các doanh nghiệp vượt qua những khó khăn đó thì về phía nhà nước cần phải có những biện pháp cụ thể và mạnh mẽ. Thứ nhất là đề ra chiến lược phát triển toàn diện cho ngành công nghiệp này. Thứ hai là thực hiện triệt để cải cách hành chính trong việc nhập khẩu gỗ nguyên liệu và xuất khẩu sản phẩm gỗ. Thứ ba là tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp sản xuất chế biến gỗ xuất khẩu, như chính sách ưu đãi tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu; chính sách hỗ trợ cước vận tải nội địa và quốc tế… Về phía các Hiệp hội ngành gỗ cần trở thành một chỗ dựa vững chắc cho các doanh nghiệp hội viên trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu bằng các biện pháp kiện toàn cơ cấu tổ chức của Hiệp hội; thành lập bộ phận chuyên trách quản lý thực hiện, cung cấp thông tin cần thiết một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác; tư vấn cho doanh nghiệp trong đầu tư, đổi mới công nghệ tiên tiến phù hợp và đồng bộ. Các doanh nghiệp cần phải đẩy mạnh mở rộng liên kết, xóa bỏ tư duy tiều nông, lối làm ăn nhỏ lẻ; tự nâng cao trình độ, kiến thức về chuyên môn và thương mại quốc tế cho các cán bộ quản lý, đào tạo tay nghề kỹ thuật cho công nhân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế và quản lý công nghiệp.
Sách Thương hiệu của các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ Việt Nam.
Trang web http:\www.vneconomic.com.vn
Trang web http:\www.hawa.com.vn
Trang web http:\www.vinanet.com.vn
Trang web http:\www.vietrade.com.vn
Trang web http:\www.mov.gov.vn
Trang web http:\www.dddn.com.vn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam.DOC