Thực trạng và giải pháp để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại thành phố Hồ Chí Minh

MỤC LỤC Chương I : Cơ sở lý luận chung về ĐTTT nước ngoài Chương 2: Thực trạng FDI ở TP.HCM.Thành tựu, hạn chế trong việc thu hút FDI của thành phố Chương 3: Giải pháp để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI tại TP.HCM KẾT LUẬN Phụ lục DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO (Tiểu luận dài 24 trang)

doc24 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2662 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I : Cơ sở lý luận chung về ĐTTT nước ngoài 1.1. Toàn cầu hóa và ĐTTT của nước ngoài: Sau cuộc khủng hoảng nợ xảy ra ở các nước đang phát triển vào đầu những năm 1980, các nước quay sang khuynh hướng cho rằng không nên vay nợ quá nhiều từ các nước ngân hàng và các nước thị trường trái phiếu trên thế giới và nên tập trung thu hút các nguồn vốn không tạo nợ. Các nguồn đó chủ yếu bao gồm ĐTTT của nước ngoài (foreign direct invesment – FDI) và ở một mức độ nào đó, vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp (foreign indirect investment-FII). Ưu điểm về mặt tài chính của FDI nằm ở chỗ các đầu tư này chỉ đến các luồng tiền chuyển ra (chuyển lợi nhuận) khi nền kinh tế tăng trưởng tốt, các dự án FDI có lợi nhuận. các khủng hoảng về cán cân thanh toán do phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính do đó ít xảy ra hơn trong trường hợp vay nợ. Trên phạm vi toàn cầu, quy mô của luồng FDI tăng đáng kể từ khoảng cuối thập niên 80. Cũng sau cuộc khủng hoảng nợ ấy, việc cho vay tư nhân không còn được các nhà đầu tư nước ngoài ưa chuộng nữa. Đầu tư qua cổ phiếu chỉ cho phép kiểm soát được ít, hoặc hoàn toàn không kiểm soát được số tiền đã đầu tư, và độ rủi ro tương đối cao nếu diễn ra ở một nước đang phát triển, còn thiếu kinh nghiệm kinh doanh va kỹ năng quản lý. FDI đã trở thành một công cụ năng động cho các nhà đầu tư nước ngoài. Sự gia tăng của các luồng FDI đầu tư trên thế giới, đặc biệt là giữa các nước giàu, phản ánh sự tái cấu trúc về mặt sản xuất trên phạm vi toàn cầu, là một phần của xu thế “toàn cầu hóa”. Một vài nguyên nhân dẫn đến tiến trình toàn cầu hóa có thể được kể đến như: (1). Thị trường toàn cầu : nhiều hàng hóa ngày nay được bán trên phạm vi toàn cầu để thỏa mãn nhu cầu chung của người tiêu dùng trên tòan thế giới. Mặt khác có nhiều sức ép buộc các nhà sản xuất liên tục đưa ra sản phẩm mới và không ngừng cải tiến chất lượng của sản phẩm hiện có. Điều này đòi hỏi một chi phí nghiên cứu và triển khai rất lớn mà chi phí này chỉ có thể thu hồi được trên một thị trường rộng lớn toàn cầu. (2). Sản xuất trên toàn cầu : cạnh tranh ngày càng tăng buộc các nhà sản xuất phải hợp lý hóa việc sản xuất, tìm kiếm lợi nhuận từ việc mở rộng quy mô sản xuất ra nhiều nước cũng như tận dụng nguồn nguyên liệu đầu vào rẻ tiền của nước sở tại. (3). Chính sách kinh tế hướng ngoại : việc ngày càng có nhiều nước áp dụng chính sách hướng ngoại và hướng vào thị trường làm cho chiến lược toàn cầu hóa trở nên dễ dàng hơn. Quá trình toàn cầu hóa về nhiều mặt diễn ra ngày càng mạnh mẽ và những ưu điểm của chính loại hình ĐTTT so với hình thức vay nợ đã làm cho FDI ngày càng phát triển. ĐTTT của nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư quốc tế mà người chủ sở hữu vốn sẽ trực tiếp quản lý, điều hành,sử dụng vốn đầu tư đã bỏ ra. Các nhà đầu tư sẽ căn cứ vào các tiêu chí sau để quyết định đầu tư vào một nước: Tỷ suất sinh lợi; Sự ổn định chính trị và xã hội của nước chủ (nước nhận đầu tư nước ngoài ); Luật lệ hành chính và thuế khóa của nước chủ; Các phí tổn giao dịch (Transaction costs) trong thương nghiệp; Sự dễ dàng trong việc vận chuyển lợi nhuận ra khỏi nước chủ; Cách giải quyết các tranh chấp giữa nước chủ và các nhà đầu tư nước ngoài. Khác với loại hình đầu tư gián tiếp, các quan điểm truyền thống cho rằng FDI có những đặc trưng sau : FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà bên cạnh đó còn có kỹ thuật, công nghệ, bí quyết công nghệ, năng lực tiếp thị, kinh nghiệm quản lý. Việc tiếp nhận FDI chẳng những không làm gia tăng gánh nặng nợ cho nước chủ mà còn tạo điều kiện để phát huy tiềm năng kinh tế . Chủ thể của FDI chủ yếu là các công ty đa quốc gia (Multinational corporation _MNC), chiếm 90% khối lượng FDI trên toàn thế giới. Phần còn lại của FDI thuộc về các nhà nước và các tổ chức quốc tế khác. FDI được thực hiện với nhiều hình thức : Xây dựng doanh nghiệp hoàn toàn mới ; Mua lại doanh nghiệp đang hoạt động ở nước chủ nhà; Tham gia vào các hợp đồng hợp tác kinh doanh ; Góp vốn với đối tác của nước chủ nhà để thành lập công ty hoặc công ty liên doanh ; Xây dựng – Vận hành _Chuyển giao (BOT) và các hình thức tương tự (BTO,BT,…). 1.2. Vai trò tích cực cũng như mặt hạn chế của FDI: 1.2.1. Vai trò tích cực của FDI : Các công ty nước ngoài tính bình quân thường có lợi khi đầu tư tại các nước nghèo: kiếm được tỉ suất sinh lợi cao vì lương thợ thấp và được một thị trường mới. Từ quan điểm của nước chủ, cũng có nhiều lợi ích từ dòng vốn trực tiếp của nước ngoài : Đầu tư nước ngoài làm tăng việc làm và mức lương tại nước chủ Công ty nước ngoài phải trả thuế cho nước chủ. Chính phủ nước chủ nhờ có thêm tiền thuế ( thuế lợi nhuận và thuế tiền lương) có thể quyết định tăng chi tiêu công. Nếu phần chi tiêu thêm này hướng về sự hình thành tư bản công như đường xá, cầu cống, trường học, … điều đó sẽ mang lại ảnh hưởng tốt và làm tăng tỉ suất sinh lợi của vốn tư. FDI góp phần cung cấp vốn để bổ sung vào nguồn vốn đẩu tư của nước tiếp nhận và cũng tạo ra tác động tích cực đến việc huy động các nguồn vốn khác của nước tiếp nhận. Vốn FDI đặc biệt có ý nghĩa đối với những nước khan hiếm ngoại tệ và có tỉ lệ huy động tiết kiệm nội địa thấp. Cùng với việc cung cấp vốn qua thực hiện FDI của các MNC, các nước tiếp nhận có nhiều cơ hội tiếp thu kĩ thuật tiến tiến, công nghệ mới, kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, năng lực tiếp thị, đội ngũ lao động được đào tạo. , bồi dưỡng về nhiều mặt. Thông qua sự phân công lao động quốc tế, các nước tiếp nhận FDI sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trướng thế giới, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới FDI góp phần làm chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế các nước tiếp nhận hai hình thức : chuyển dịch cơ cấu ngành tức phân công lao động xã hội theo chiều ngang và chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành tức phân công lao động theo chiều dọc, góp phần giải quyết những vấn đề xã hội cấp bách như : thất nghiệp, phát triển lưc lượng sản xuất, nợ nước ngoài, hòa thiện dần hệ thống pháp luật, các thủ tục hành chính và các phương thức mời gọi FDI FDI của các nước MNC góp phần cải thiện cán cân thanh toán và các nước tiếp nhận đầu tư : MNC với ưu thế là có mạng lưới tiếu thụ ở nhiều nước góp phần làm gia tăng xuất khẩu của các nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời FDI trong các ngành công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu cũng tiết kiệm được một khối lượng ngoại tệ dùng để nhập khẩu các mặt hàng này FDI của các nước MNC đã đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong việc đầu tư kết cấu hạ tầng làm cơ sở cho công cuộc đổi mới tại các nước tiếp nhận đầu tư. 1.2.2. Mặt trái của FDI : Tuy nhiên, bất cứ cái gì cũng có cái bất hại của nó và FDI cũng có thế gây một số mặt hạn chế như sau : Tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế các nước tiếp nhận vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa. Các MNC thông qua FDI, với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đã thực hiện nhiều hành động tiêu cực, đặc biệt là hoạt động “chuyển giá”, đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nước tiếp nhận FDI. Các nước MNC có thể định giá các yếu tố đầu vào thấp hơn giá thị trường và định giá các yếu tố đầu ra thấp hơn thị trường tối thiểu hóa số thuế phải nộp ghi trên hóa đơn của các nước đó. Điều này dẫn đến một hệ quả chắc chắn là các nước tiếp nhận đầu tư sẽ bị thất thu. Tạo ra tình trạng phân phối thu nhập không đều ở các nước tiếp nhận Các nước MNC trong một số trường hợp cũng thông qua FDI để xuất khẩu ô nhiễm môi trường sang các nước tiếp nhận những nơi mà pháp luật và những biện pháp bảo vệ môi trường còn lỏng lẽo và ít hữu hiệu. Những cái mà FDI mang lại cho các quốc gia không hoàn toàn đồng nhất trong mọi không gian và thời gian mà tùy thuộc một phần rất lớn vào tính năng động chủ quan của các nước này. Nếu các nước tiếp nhận đầu tư có đầu óc chiến lược, sách lược kinh tế, đúng đắn thì vẫn có thể hạn chế những mặt tiêu cực, tranh thủ được những mặt tích cực của FDI. 1.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc thu hút FDI từ Trung Quốc: Chính sách mạnh dạn của Trung Quốc trong việc cải cách thị trường, bắt đầu từ năm 1979, đã đưa nước này đứng vào trong số những quốc gia hàng đầu trên thế giới về thương mại. Trong hai thập niên qua, Trung Quốc đã đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn bất kỳ quốc gia nào, trung bình 10% một năm. Nếu tốc độ tăng trưởng cứ tiếp diễn thì rất có khả năng, Trung Quốc có thể sẽ trở thành một nền kinh tế lớn nhất thế giới trong. Dưới đây có thể khái quát một số vấn đề đáng tham khảo. 1. 3.1.Đóng góp của FDI: Nguồn FDI vào Trung Quốc tăng, từ hơn 3 tỷ USD (năm 1990) lên 40 tỷ USD (năm 2000) và 53 tỷ USD (năm 2005). - FDI có mặt ở nhiều ngành Công nghiệp của Trung Quốc, đóng góp vào việc chuyển đổi cơ cấu công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI trong giá trị sản xuất công nghiệp của Trung Quốc đã tăng từ 7% năm 1990 lên 28% năm 2000. Các doanh nghiệp FDI là những doanh nghiệp có năng suất cao nhất (gấp đôi so với doanh nghiệp nhà nước). - Năm 1995, các doanh nghiệp FDI của Trung Quốc chiếm tới 61% sản lượng quần áo và giày dép xuất khẩu của Trung Quốc, tạo nhiều việc làm, chiếm 3% lao động thành thị và đóng vai trò quan trọng trong quá trình tư nhân hóa. - Giúp cán cân thanh toán của Trung Quốc mạnh lên trong những năm qua và sau đó lại làm tăng mạnh dự trữ ngoại tệ (năm 2001 tăng thêm khoảng 50 tỷ USD). Đồng thời, FDI đã góp phần quan trọng trong toàn bộ vốn đầu tư, chiếm khoảng 35% GDP và do đó góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế. FDI còn góp phần vào tỷ trọng trong thuế giá trị gia tăng của Trung Quốc. 1.3.2. Những nguyên nhân làm tăng FDI vào Trung Quốc: Những kỷ lục về thành tích thì thật ngoạn mục.Vậy một câu hỏi dĩ nhiên nảy sinh là những nguyên nhân nào dẫn đến kết cục thuận lợi này? -Trước hết có thề nói, Trung Quốc có một thị trường rộng lớn, đặc biệt quy mô thị trường có tầm quan trọng đối với FDI từ Mỹ và Châu Âu. - Có lợi thế so sánh về nguồn lao động so với các nước khác trong khu vực. Đây là một yếu tố rất quan trọng trong thu hút FDI hướng vào xuất khẩu từ Hồng Kông và Đài Loan. - Cơ sở hạ tầng của Trung Quốc tương đối tốt hơn so với các nước khác trong khu vực. - Đóng vai trò trung tâm trong việc mở cửa từng bước nền kinh tế đối với các nhà đầu tư nước ngoài và sự khác nhau quan trọng giữa các vùng này với các vùng khác ở Trung Quốc là các khu kinh tế mở. Tại đây đã có sự phân quyền quản lý và cho phép đầu tư vào các vùng kinh tế mở vượt kế hoạch Nhà nước. 1.3.3. Những tồn tại và khó khăn: - Sự tập trung vốn của FDI ở Trung Quốc thấp hơn so với các nước và vùng lãnh thổ khác. Chẳng hạn, FDI chảy vào 3 ngành công nghiệp hàng đầu của Hồng Công và Đài Loan là 86%, Inđônêxia là 79% và của Malaixia là 75%, còn Trung Quốc chỉ chiếm 47% FDI. - FDI có mặt ở nhiều tỉnh, kể cả các tỉnh Nội Mông nghèo, nhưng phân bố không đều (các tỉnh miền Tây chỉ thu hút được 3%, các tỉnh miền Trung 9%, trong khi đó các vùng Duyên hải thu hút tới gần 88% các dòng vốn FDI), đã tạo ra chênh lệch phát triển giữa các vùng. - Chính sách thuế của Trung Quốc rất phức tạp và còn nhiều bất cập, hiện đang khắc phục dần. Từ năm 1994 đến cuối năm 2000, khả năng mang lại lợi nhuận trước thuế trung bình của các doanh nghiệp FDI ở Trung Quốc là 8%; riêng với các doanh nghiệp FDI từ Mỹ trong những năm 1990 hoặc nửa cuối những năm 1990 là khoảng 14%, tương đương với khả năng mang lại lợi nhuận của doanh nghiệp FDI từ Mỹ vào các nước như Achentina, Braxin, Mêhicô và Thổ Nhĩ Kỳ. Tóm lại, Việt Nam là nước đi sau trong quá trình thu hút ĐTTT nước ngoài nên chúng ta có cơ hội tiếp cận bài học kinh nghiệm của nước đi trước, đặc biệt là nước Trung Quốc, vì có những điểm tương tự với nước ta. Từ đó, có thể rút ra cái hay từ những chính sách của họ và tránh đi những sai lầm mà các nước này đã mắc phải để có thể thu hút và quản lý có hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài. Chương 2: Thực trạng FDI ở TP.HCM.Thành tựu, hạn chế trong việc thu hút FDI của thành phố. 2.1. Thực trạng thu hút vốn ĐTTT nước ngoài của TP.HCM: TP.HCM là một thành phố lớn của cả nước, đồng thời cũng là trung tâm phát triển nhiều mặt của Việt Nam. Do vị trí thuận lợi, giống như Thượng Hải của Trung Quốc, Osaka của Nhật Bản, TP.HCM trong nhiều năm qua được biết đến như là một trung tâm kinh tế và là một thị trường năng động nhất cả nước. Với nguồn nhân lực dồi dào, hệ thống giao thông khá thuận lợi và hệ thống các khu công nghiệp tập trung đã và đang được xây dựng nên có sức hấp dẫn khá lớn với các nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2009 TPHCM thu hút được khoảng 20 tỉ đô la.Tuy nhiên con số này chỉ bằng hơn một nửa so với năm 2008. Sự suy giảm này có nguyên nhân của suy giảm kinh tế toàn cầu, mặt khác những dự án lơn như lọc dầu, sản xuất thép, khu du lịch sinh thái với quy mô vài tỉ đô la/ dự án như năm 2008 sẽ ít đi. Đây chỉ là dựa vào số vốn được đăng ký. Nhưng thực ra vốn nước ngoài giải ngân để thực hiện dự án bằng khoảng một nửa vốn đăng ký Trước hết là do một số dự án được cấp phép nhưng vì nhiều lý do không triển khai được, bị rút giấy phép với số vốn chiếm khoảng 10% tổng vốn đăng ký Thứ hai, trong vốn đăng ký có phần góp vốn của bên Việt Nam trong liên doanh, thường khoảng 30% tính cả các dự án 100% vốn nước ngoài (20% tổng vốn đăng ký) thì vốn góp của bên Việt Nam còn chiếm 20% tổng vốn đăng ký Thứ ba, vốn pháp định hoặc vốn điều lệ mới là qui định có tính pháp lý buộc nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam thực hiện dự án, tỷ lệ này độ 40%. Còn lại 60% là vốn vay, trong đó khoảng 30% huy động trong nước, bằng 18% tổng vốn đăng ký. Một khía cạnh khác. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, đầu tư ra nước ngoài giảm gần 50%. Nếu tính đến tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu thì vốn FDI nước ngoài giải ngân năm 2009 có thể giảm tới 20% so với năm 2008. Theo đó, vốn nước ngoài giải ngân bằng khoảng 80% của 8,5 tỉ đô la năm 2008, tức 6,8 tỉ đô la, tương đương 115.600 tỉ đồng. So với kế hoạch đề ra, vốn FDI giải ngân giảm 67.400 tỉ đồng (183.000 -115.600 tỉ đồng), chiếm 3,7% GDP. Tính toán trên cơ sở vốn đầu tư phát triển vẫn đóng góp khoảng 60% cho tăng trưởng, hệ số ICOR của năm 2009 là 6 thì riêng việc vốn FDI giải ngân giảm làm GDP mất 0,36 điểm phần trăm. Trong các dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép, có 84 dự án đầu tư vào ngành công nghiệp, tổng vốn đầu tư 688,8 triệu USD, 77 dự án ngành kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, tổng vốn đầu tư 127 triệu USD, trong đó có 40 dự án đầu tư vào ngành công nghệ thông tin, 18 dự án đầu tư vào ngành xây dựng, vốn đầu tư 21,1 triệu USD và 14 dự án đầu tư vào ngành vận tải, vốn đầu tư 428,3 triệu USD, trong đó có 1 dự án mới được cấp phép là dự án liên doanh giữa cảng Sài Gòn và Công ty SSA Holding International- VietNam xây dựng và khai thác cảng container quốc tế với vốn đầu tư 160 triệu USD. Được biết, có 24 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại TP.HCM, trong đó Hàn Quốc có 51 dự án, tổng vốn đầu tư 102,7 triệu USD, Nhật Bản 37 dự án, vốn đầu tư 45,8 triệu USD, Singapore 20 dự án, vốn đầu tư 58,5 triệu USD, Đài Loan 16 dự án, vốn đầu tư 41,9 triệu USD, British Virgin Islans có 10 dự án, vốn đầu tư 285,8 triệu USD, Hong Kong 4 dự án, vốn đầu tư 606,6 triệu USD. Và theo thống kê của Bộ kế hoạch Vốn đầu tư đạt trên 117 triệu USD (tăng gần 60%) so với cùng kỳ năm ngoái. Đài Loan luôn đứng đầu về số vốn và dự án đầu tư vào thành phố, với 335 dự án, kế đến là Hàn Quốc (254 dự án), đứng thứ 3 là Singapore với 152 dự án. Với kết quả khả quan như trên, cùng những chính sách đổi mới sắp tới, thành phố có thể hút nhiều dự án với tổng số vốn đầu tư lớn hơn (hiện đã có những dự án vốn đầu tư vào TP HCM lên đến 80 triệu USD). Mặc dù nguồn vốn của các dự án mới đổ vào TPHCM giảm mạnh, nhưng những doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên địa bàn thành phố vẫn tiếp tục tăng vốn mở rộng đầu tư, với nguồn vốn tăng cao. Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2009 có đến 114 doanh nghiệp tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm đạt trên 370 triệu đô la, tăng 3,4% so với năm ngoái. Điều này chứng tỏ mặc dù tình hình kinh tế khó khăn, nhưng các nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động vẫn tăng vốn mở rộng đầu tư, một tín hiệu cho thấy môi trường đầu tư và kinh doanh của Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng được nhiều nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng. Cụ thể như Công ty TNHH Quốc tế Unilever Việt Nam đã tăng thêm 11,2 triệu đô la Mỹ để xây nhà xưởng sản xuất các sản phẩm chăm sóc gia đình tại khu công nghiệp Tây Bắc Củ Chi; Công ty Nidec Tosok Việt Nam tăng thêm hơn 23,7 triệu đô la Mỹ, nâng tổng vốn đầu tư của công ty lên gần 110 triệu đô la Mỹ; Công ty TNHH Nhà máy bia Việt Nam (VBL) vừa công bố sẽ nâng tổng công suất từ 230 triệu lên 280 triệu lít /năm, sau khi lắp đặt thêm cho nhà máy ở Hốc Môn (TPHCM) một dây chuyền chiết lon lớn nhất và nhanh nhất Việt Nam trị giá 21 triệu đô la Mỹ... Trong bối cảnh khó khăn về thu hút đầu tư nước ngoài như hiện nay nhưng các doanh nghiệp vẫn tiếp tục tăng vốn mở rộng đầu tư cho thấy tình hình thu hút đầu tư vào thành phố vẫn còn nhiều điểm sáng. Theo số liệu của Sở Kế hoạch - Đầu tư TPHCM, từ đầu năm đến nay TP đã thu hút khoảng 1,3 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nhiều dự án đang chờ cấp phép. Thành công của các doanh nghiệp đang hoạt động này sẽ tiếp tục góp phần quảng bá thiết thực đến các nhà đầu tư nước ngoài mới khác đang có ý định làm ăn với Việt Nam. 2.2. Các nhân tố thu hút FDI tại TP.HCM: 2.2.1. Các nhân tố quan trọng trong việc quyết định đầu tư vào một địa phương: Một cách tổng quát, các nhân tố liên quan đến chính sách tạo điều kiện cho chính quyền đối với FDI và mội trường kinh doanh, chất lượng của thế chế và các cam kết về mở của, tiềm năng thị trường, sự ổn định kinh tế vĩ mô, chi phí thấp là những nhân tố quan trọng nhất tác động đến quyết định lựa chọn địa điểm nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả cho thấy là các yếu tố lao động phổ thông nhiều, gần nguồn nguyên liệu, mức độ cạch tranh không phải là các nhân tố quyết định của nhà đầu tư FDI. 2.2.2. Đánh giá của các công ty FDI về môi trường đầu tư: Các nhà đầu tư nước ngoài không hài lòng ở các lĩnh vực như: trả lời của các cơ quan chức năng với các câu hỏi của nhả đầu tư: Mức đáp ứng dịch vụ công cộng của cơ quan chức năng; Việc thực hiện chính sách của thành phố tại cấp quận/huyện; Hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin, viễn thông; Mức giá thuê đất; công bố thông tin; thu nhập cá nhân. Mặc dù các yếu tố như sự quan tâm của lãnh đạo thành phố về thu hút FDI, cải thiện thủ tục cấp giấy phép đầu tư của Thanh phố được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao, nhưng thực sự chưa có lĩnh vực nào được các nhà đầu tư hài lòng ở mức cao. 2.2.3. So sánh các yếu tố thu hút FDI giữa thành phố và các tỉnh lân cận: Các vấn đề không thuận lợi của thành phố trong thu hút FDI bao gồm những vấn đề tham nhũng, các loại thủ tục giấy phép và hành chính, chi phí về sử dụng hạ tầng cơ sở và điều kiện về hạ tầng cơ sở, nguồn nguyên liệu, mức độ cạnh tranh lớn, chính sách thuế. Lợi thế của thành phố trong thu hút FDI bao gồm: môi trường kinh doanh đa dạng, nhiều cơ hội kinh doanh; thị trường tăng trưởng cao; các dich vụ hỗ trợ kinh doanh ( tư vấn, quảng cáo…) phát triển mạnh; định chế tài chính, ngân hàng của địa phương phát triển. Đây là các thế mạnh rõ rệt của thành phố so với các đia phương trong vùng nhưng cũng không phải là thế mạnh của Thái Lan (Bangkok) và Trung Quốc (Thương Hải/Thâm Quyến). Một điều đáng lưu ý là vấn đề tham nhũng và các thủ tục hành chính của thành phố nghiêm trọng hơn đia phương như Bình Dương hay Đồng Nai.Đây là những nhân tố quan trọng nhất tác động đến mội trường đầu tư của thánh phố. Hệ quả là trong những năm gần đây Thành phố bắt đầu thua kém các địa phương lận cận về thu hút đầu tư FDI. 2.3. Đóng góp quan trọng của FDI cho thành phố và nền kinh tế: Với một nguồn vốn lớn chiếm gần 31,28% số dự án ; 24,35% tổng vốn đăng ký và 21,7% tổng vốn thực hiện của cả nước, trong gần 20 năm thu hút đầu tư nước ngoài kể từ khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành vào tháng 12-2007, FDI đã đóng góp một phần quan trọng cho mục đích phát triển kinh tế - xã hội của TP và cả nước. Năm 2005, thành phố nộp ngân sách 64.000 tỷ đồng, chiếm 1/3 tổng thu ngân sách của cả nước, kim ngạch xuất khẩu chiếm 1/3 tổng kim ngạch so với cả nước. TP.HCM chiếm 7% dân số và 6% lực lượng lao động nhưng đã đóng góp khoảng 20% GDP (giá so sánh 1994) GDP năm 2005 tăng 12,2% và GDP đầu người đạt 1,850USD (hoặc 8900 theo chỉ số PPP) gấp 3 lần mức bình quân cả nước và xếp hàng đầu cả nước. Sang năm 2006, tăng 12,2% so với năm 2005, bằng tốc độ tăng của năm 2005 và cao hơn năm 2004. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2006 đạt mức 12,2% (kế hoạch đề ra cho năm 2006 là trên 12%). Cơ cấu các ngành kinh tế đang chuyển dịch đúng hướng, đóng góp vào con số 12,2% đứng đầu là khu vực dịch vụ(6,76%), kế đến là khu vực Công Nghiệp-Xây Dựng(5,41%). Đây cũng là năm thứ 6 kinh tế Thành Phố liên tiếp tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước (từ 9,5% năm 2001 đến 12,2% năm 2006). Từ năm 1997-2007, ngành Công Nghiệp của TP.HCM có tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt mức bình quân trên 13%. Đến thời điểm 2007, TP.HCM đã có trên 38000 cơ sở sản xuất Công Nghiệp, tăng 35,9% so với năm 2000. Trong số đó, các cơ sở Công Nghiệp thuộc khu vực ĐTTT nước ngoài có tốc độ đổi mới cộng nghệ sản xuất khá nhanh do được chuyển giao công nghệ từ các công ty mẹ từ các nước có nền công nghệ tiên tiến. Một ví dụ điển hình là lĩnh vực Điện tử - Công nghệ thông tin, trong tổng số 296 cơ sở Điện tử - Công nghệ thông tin của thành phố thì chỉ có 18 cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài nhưng lại chiếm trên 80% giá trị sản xuất toàn ngành. Tại thành phố, nhiều công ty nhựa lớn của Nhà Nước khi chuyển thành các công ty cổ phần như các công ty Bình Minh, Tân Phú,…đã đầu tư hàng triệu USD để nhập công nghệ hoặc mua sắm các máy móc thiết bị mới để sản xuất các sản phẩm nhựa có chất lượng. Các sản phẩm Công Nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao, chất lượng cao như: Cơ khí, hóa chất đã có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân phản ánh cơ cấu Công Nghiệp đang dịch chuyển theo xu hướng tích cực. Ngoài ra, các dự án FDI cũng góp phần phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, góp phần nâng cao đời sống của người dân. Đặc biệt, việc phát triển các khu chế xuất, khu công nghiệp đã biến đổi trên 3.500 ha từ đất nông nghiệp hoang hóa, nhiễm mặn, nhiễm phèn, năng suất thấp thành đất công nghiệp có đủ cơ sở hạ tầng dịch vụ, giải quyết nhiều lao động cho TP và các tỉnh. Các dự án này đã đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, giúp TPHCM đạt tỷ lệ đô thị hóa cao nhất nước (dự kiến năm 2010 đạt 58% và 2025 đạt 77%- 80%). 2.4. Những hạn chế trong việc thu hút FDI ở TP.HCM: Tuy những thành tựu trong việc thu hút FDI trên của thành phố là đáng kể thế nhưng đó vẫn chưa phải là khả năng cao nhất mà TP có thể đạt được bởi còn đó rất nhiều những hạn chế và bất cập trong việc thu hút FDI. TP.HCM thuộc Việt Nam nên nếu xét một cách toàn diện thì những hạn chế của Việt Nam trong việc thu hút ĐTTT của nước ngoài cũng là những hạn chế của TP.HCM. Đó là: Luật pháp, chính sách ta tuy được cải thiện, bổ sung nhưng còn thiếu đồng bộ, chưa tương thích hoàn toàn với thông lệ, luật pháp quốc tế. Hệ thống kết cấu hạ tầng còn yếu, gây ảnh hưởng, tăng chi phí, đội giá thành vận chuyển sản phẩm. Chất lượng, trình độ tay nghề của đội ngũ lao động còn yếu và không đồng đều nên nhiều nhà đầu tư e ngại sẽ khó tìm đủ số lượng nhân công hoặc phải mất thêm chi phí, thời gian đào tạo. Luật Việt Nam hay thay đổi. Ví dụ: thuế ưu đãi cho nhà đầu tư trước đây là suốt vòng đời dự án, nay chỉ còn giới hạn trong 15 năm. Xét riêng về TP.HCM cũng có những mặt hạn chế riêng trong việc thu hút FDI cần khắc phục: Có những vấn đề thành phố chưa thật sự sẵn sàng cũng như chưa hoàn thiện quy hoạch nên nhà đầu tư chưa tìm được điểm vừa ý. Thành phố có các dự án mà vốn đầu tư hàng tỷ USD nhưng cho đến nay, sau thời gian chờ “dài cổ” vẫn chưa có đất để triển khai quy hoạch, kế hoạch đầu tư. Thủ tục giải tỏa, đền bù còn rườm rà. Đất đai và cơ sở hạ tầng của thành phố giá cao hơn các địa phương khác, lại không còn nhiều-quỹ đất đai đã giải phóng mặt bằng để sẵn sàng giao cho nhà đầu tư còn rất ít. Hạ tầng cơ sở và ngành công nghiệp phụ trợ còn nhiều bất cập, thủ tục hành chính giấy tờ có qui trình xử lý nhưng vẫn còn chậm. Nhiều nhà đầu tư đã ngán ngẫm với khái niệm “thủ thục đầu tiên” (tiền đâu) với cái giấy đăng kí kinh doanh; thủ tục đất đai cũng làm nhiều doanh nghiệp phải nản lòng vì vẫn vô cùng phức tạp; giao thông thường hay ùn tắc, kẹt xe làm ảnh hưởng đến tiến trình vận chuyển sản phẩm… Nhìn lại, phần nhiều các dự án đầu tư không đi tới đích, sai qui hoạch, vỡ kế hoạch, thậm chí đánh mất dự án là do thiếu mặt bằng, thiếu lao động có trình độ tay nghề cao để đáp ứng theo yêu cầu của nhà đầu tư. Ví dụ như INTEL chỉ mới đầu tư dự án 1tỷ USD vào TP.HCM thôi nhưng chúng ta cũng không đủ nhân lực cho họ thì đến những dự án lớn hơn sẽ như thế nào. Chương 3: Giải pháp để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI tại TP.HCM Bất cứ cái gì muốn đạt được cũng đều có một sự đánh đổi thế nhưng cái lợi từ FDI mang lại lớn hơn cái hại mà ta phải chấp nhận. Chính vì thế việc thu hút FDI cho thành phố nói riêng và Việt Nam nói chung là một điều hết sức cần thiết và vô cùng quan trọng. Đã nhìn nhận ra được những mặt yếu của mình trong việc thu hút FDI nên việc đề ra giải pháp để tăng cường thu hút FDI là cấp bách hiện nay đối với chính phủ cũng như các cấp chính quyền ở thành phố. 3.1. Các giải pháp của nhà nước: Trong chỉ thị 15/2007/CT-TTg được thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng kí ban hành ngày 22/6/2007 đã nêu rõ: Chủ trương tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Nhà Nước và tiếp tục khẳng định tại Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ X: “Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn Xã Hội trong 5 năm(2006-2010). Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI,hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu Thế Giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn ĐTTTnước ngoài”. Để thực hiện sự chuyển biến mạnh mẽ đó thiết nghĩ nhà nước cần thực hiện một số giải pháp sau: 3.1.1. Về pháp luật, chính sách: - Chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện tốt Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư chung; Cần sớm ban hành các Nghị định và Thông tư hướng dẫn hai Luật nói trên để tạo ra sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư bất luận trong hay ngoài nước, đặc biệt là bảo đảm tính minh bạch và tiên liệu trước được trách nhiệm giải trình để các nhà đầu tư an tâm đầu tư; tuyên truyền, phổ biến nội dung của các Luật mới; kịp thời hướng dẫn cụ thể về chuyển đổi thủ tục hành chính, củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý ĐTNN phù hợp với quy định của Luật mới. Coi trọng việc giữ vững sự ổn định, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI khi áp dụng các Luật mới. - Ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, kinh doanh bất động sản đáp ứng nhu cầu và thực tế hội nhập kinh tế quốc tế. Theo ông Noboru Utaka-Tổng giám đốc Kyosin Việt Nam ở KCX Tân Thuận-người đã gắn bó với môi trường đầu tư của Việt Nam từ đầu những năm 90 cho biết: Quan điểm của nhà đầu tư là luôn tuân thủ những quy định của đất nước mà họ đang đầu tư. Tuy nhiên, nếu sự không ổn định về luật lệ cứ kéo dài mãi sẽ làm họ hoang mang và nản lòng. Để tránh tình trạng này, theo ông Utaka, tốt nhất là trước khi ban hành một luật nào đó liên quan đến đầu tư nước ngoài, nhà nước nên tham khảo ý kiến của các nhà đầu tư, bởi họ chính là những người sẽ chấp hành những quy định này. 3.1.2. Về quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài: - Đẩy mạnh việc triển khai phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; chú trọng vào công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của các địa phương tránh tình trạng ban hành chính sách ưu đãi vượt khung; giảm dần sự tham gia trực tiếp của cơ quan quản lý trung ương vào xử lý các vấn đề cụ thể, trong đó nhiệm vụ giám định đầu tư và hậu kiểm được tăng cường; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý từ trung ương đến địa phương thông qua tổ chức tập huấn, đào tạo ngắn hạn. - Thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa và giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi; khuyến khích họ đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn. (Đây là cách tốt nhất chứng minh có sức thuyết phục về môi trường ĐTNN ở Việt Nam đối với các nhà ĐTNN tiềm năng). - Tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả điều hành hoạt động ĐTNN ở cả trung ương lẫn địa phương. 3.1.3. Giải pháp về đào tạo lao động và tiền lương: -Sớm xem xét bổ sung hoặc ban hành các chính sách về tiền lương, bảo hiểm, nhà ở và một số chính sách xã hội khác, đồng thời tăng cường công tác thanh tra việc thực hiện các chính sách đó để đảm bảo lợi ích chính đáng, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân, lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI. - Cần đặt nhu cầu thiết yếu của Giáo dục đào tạo lên hàng đầu, nhiều khi phải mạnh bạo và quyết đoán giải quyết được những tình trạng cấp thiết, đào tạo nóng, liên kết hoặc gửi đi đào tạo nhanh ở nước ngoài, nơi có nhà xưởng, thiết bị mà nhà đầu tư có thể chỉ dẫn, gợi mở. 3.1.4. Giải pháp về thuế: - Chính sách pháp luật thuế hiện hành được sửa đổi, bổ sung theo hướng giảm mức điều tiết, nhưng mở rộng đối tượng chịu thuế nên hầu hết các sắc thuế đã thực hiện tốt chức năng điều tiết thu nhập của các doanh nghiệp và dân cư, đã tiến gần đến mục tiêu đảm bảo nghĩa vụ thuế công bằng, bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI, giữa người trong nước và người nước ngoài; thực hiện đúng các cam kết hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo CEPT/AFTA, EU, Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế khác, đang góp phần đẩy nhanh quá trình đàm phán gia nhập WTO. - Những năm tới trình Quốc hội sửa đổi và bổ sung Luật thuế giá GTGT, thuế TNDN, thuế tài nguyên và pháp luật phí, lệ phí (sửa đổi) và trình Quốc hội ban hành mới các Luật: thuế bảo vệ môi trường; thuế tài sản; thuế sử dụng đất; thuế thu nhập cá nhân thay cho pháp lệnh thuế TNCN đối với người có thu nhập cao hiện hành và Luật quản lý thuế – một bước đột phá trong hành chính thuế ở Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế. 3.2. Các giải pháp của TP.HCM: Để đạt kết quả cao nhất trong việc thu hút FDI thì cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính phủ và chính quyền thành phố. Chính phủ đã tạo ra một cái nền thuận lợi cho thành phố thì chính bản thân thành phố cũng phải đề ra được những giải pháp cho hạn chế của chính mình. Và tôi nghĩ những giải pháp sau là vô cùng cần thiết: 3.2.1. Đẩy mạnh cải tiến môi trường hành chính: Việc cải cách môi trường hành chính phải tiến hành đồng loạt ở cả 3 yếu tố: thể chế hành chính (những qui định về thủ tục, trình tự thực hiện hành chính), bộ máy hành chính và đội ngũ công chức,cán bộ có thẩm quyền trong các cơ quan hữu quan. Trong đó, việc cải cách chế độ tiền lương, đặc biệt đối với cán bộ làm việc trong cơ quan hành chính phải được xác định là biện pháp quan trọng bậc nhất trong nội dung cải cách nền kinh tế hành chính của Việt Nam, chỉ có như vậy mới có thể xây dựng một đội ngũ cán bộ công chức “lành mạnh”- là yếu tố quá trình, là nền tảng cho sự vững mạnh của bộ máy hành chính Hiện nay, Thành Phố có một chính sách cải tiến trong việc đăng kí kinh doanh được rất nhiều nhà đầu tư tán thành. Đó là chính sách “1 cửa”:từ ngày 1/10/2007, nhà đầu tư muốn thành lập doanh nghiệp có thể đến sở kế hoạch-đầu tư TP.HCM nhận cùng lúc giấy đăng kí kinh doanh, đăng kí thuế và giấy giới thiệu sang công an thành phố nhận con dấu, thời gian làm 3 thủ tục trên trong vòng 15 ngày (trước đây là 20 ngày) và nhà đầu tư chỉ phải đi lại 2 lần (trước đây là 6-8 lần qua 3 cơ quan trên). Theo qui chế phối hợp giữa 3 cơ quan này, trường hợp mở chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc xin thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh thì thời gian hoàn thành thủ tục giảm còn 12 ngày. 3.2.2. Nâng cấp cơ sở hạ tầng: 3.2.2.1. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật: - Công khai hóa các quy hoạch vùng, nơi phát triển hạ tầng và được cụ thể hóa bằng các luận chứng kinh tế- kỹ thuật, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng. - Tiếp tục đầu tư vào sửa chữa, nâng cấp hệ thống giao thông vận tải đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa, nguyên vật liệu và đi lại của dân cư nói chung và nhà đầu tư nói riêng. Với cơ sở hạ tầng kỹ thuật, bên cạnh đầu tư của nhà nước, nên thu hút cả đầu tư nước ngoài vào các dự án BOT, BT, BTO nhằm cải thiện hơn nữa chất lượng của hạ tầng tạo điều kiện thu hút nhiều hơn vốn đầu tư. - Đề ra nhiều chính sách hơn nữa nhằm ưu tiên cho các dự án đầu tư về cơ sở hạ tầng nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn của nước ngoài. Ví dụ: hiện nay thành phố có quyết định là dành cho những nhà đầu tư hạ tầng cơ sở được kèm theo một dự án FDI về bất động sản. - Xây dựng hệ thống thông tin và xử lý thông tin về thị trường, về công nghệ liên quan đến thu hút đầu tư thông tin nước ngoài, về các công ty tập đoàn nước ngoài để các doanh nghiệp có cơ hội đầu tư cũng như lựa chọn các đối tác trong đầu tư. - Kêu gọi các tổ chức chính phủ và phi chính phủ đầu tư vào cơ sở hạ tầng thành phố. 3.2.2.2. Cơ sở hạ tầng kinh tế : - Tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhằm mục đích tạo nguồn hàng hóa cho thị trường chứng khoán. Từ đó các nhà đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận được với vốn vay cho đầu tư mở rộng. - Có chính sách ưu đãi với các thiết bị, vật tư quốc tế nhập khẩu để đổi mới cho hệ thống thiết bị cũ và trung tâm y tế. Đầu tư cho các trung tâm y tế ở các quận huyện ngoại thành. 3.2.3. Đẩy mạnh việc tự giới thiệu và đầu tư: - Mở rộng công tác vận động công tác đầu tư qua các Đại sứ quán ở Việt Nam, văn phòng đại diện của các công ty Việt Nam ở nước ngoài, các lãnh sự quán, các tổ chức kinh tế - thương mại nước ngoài, các công ty nước ngoài đang có mặt tại Việt Nam, tranh thủ sự hợp tác của các thành phố kết nghĩa ở Mĩ, Châu Âu, Nhật Bản. - Phối hợp trao đổi thông tin thường xuyên với các hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài ở thành phố, các công ty tư vấn nước ngoài. Tổ chức định kì các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa lãnh đạo thành phố với cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài. - Tận dụng các cơ hội để giới thiệu, mời gọi đầu tư vào thành phố thông qua các cuộc hội thảo, diễn đàn, triễn lãm đầu tư trong và ngoài nước. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đầu tư thông qua phát hành các loại tài liệu, đưa tin trên mạng internet, xây dựng các bộ phim về đầu tư nước ngoài vừa đáp ứng nhu cầu thông tin với các nhà đầu tư nước ngoài, vừa tuyên truyền gây ấn tượng tốt về môi trường đầu tư thành phố. 3.2.4. Đào tạo nguồn nhân lực: - Thành phố cần phải có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực cụ thể phục vụ cụ thể cho các ngành. Căn cứ vào quy hoạch phát triển ngành, tính toán lượng lao động cần đào tạo thêm là bao nhiêu, phân bổ lại cho cân xứng lực lượng lao động giữa các ngành. - Để phục vụ cho yêu cầu phát triển của khu vực nông nghiệp cần ưu tiên đào tạo kỹ sư nông nghiệp,thường xuyên tổ chức các chương trình khuyến nông nâng cao trình độ nông dân, giúp họ biết áp dụng hữu hiệu những thành quả khoa học công nghệ vào nông nghiệp, qua đó làm tăng hiệu quả sản xuất. Ưu tiên cho sinh viên học ngành nông nghiệp ở các trường đại học bằng chế độ giảm học phí, học bỗng. Trong cơ cấu đào tạo của nhà trường cần tăng thêm các môn học, các chuyến khảo sát mang tính thực tế. Ngoài ra còn phải có những chính sách ưu đãi các kĩ sư nông nghiệp tình nguyện về các quận huyện kém phát triển. - Ngành công nghiệp thì có xu hướng dư thừa kĩ sư, trong khi đó thiếu thợ lành nghề. Vì vậy cần tập trung mở rộng hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp, trường hướng nghiệp dạy nghề để đào tạo lao động có trình độ tay nghề cao, phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa. - Thường xuyên đào tạo và bổ sung chuyên môn cho lao động làm việc trong ngành dịch vụ nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, nhất là các dịch vụ tiện ích cao cấp phục vụ cho sản xuất như viễn thông, tài chính ngân hàng, tư vấn … Có thể mời chuyên gia nước ngoài về giảng dạy trong nước hoặc ra nước ngoài học để nâng cao nghiệp vụ vì đây là một lĩnh vực còn khá mới mẽ đối với Việt Nam nên cần phải biết tiếp cận với cái mới bên ngoài. KẾT LUẬN Qua đề tài trên, chúng ta có thể thấy rằng hiện nay ĐTTT nước ngoài là một trong những nhân tố quan trọng nhất góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của TP.HCM nói riêng và Việt Nam nói chung trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay. Cũng với đề tài trên, chúng ta có thể đúc kết được những ý chính sau : Ở chương I: Em đã nêu rõ cơ sở lý luận chung về ĐTTT nước ngoài thông qua phân tích được xu thế toàn cầu hóa và ĐTTT nước ngoài; nêu bật được 8 mặt tích cực và 4 mặt hạn chế của FDI, đồng thời chỉ ra bài học kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc thu hút FDI. Ở chương II: Em đã nêu được tình hình và các nhân tố thu hút FDI ở TP.HCM với những số liệu tổng quát, cụ thể và chỉ ra một số công trình, dự án tiêu biểu với số vốn đầu tư được cụ thể hóa. Bên cạnh đó, em cũng đã nêu được nhũng đóng góp của FDI vào sự tăng trưởng của TP.HCM và không quên chỉ ra những hạn chế mà cả nước ta và TP.HCM đang mắc phải trong việc thu hút vốn ĐTTT của nước ngoài với 4 hạn chế chung của cả nước và 4 hạn chế riêng của thành phố Ở chương III: Qua việc phân tích được những hạn chế ở chương II, em đã xây dựng những biện pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả FDI của TP.HCM bao gồm 4 giải pháp của nhà nước và 4 giải pháp của nhà nước. Đó là những giải pháp sau: - Về nhà nước: Tăng cường bổ sung, cải thiện chính sách pháp luật cho rõ ràng và ít phức tạp; đa dạng hóa các hình thức đầu tư để khai thác thêm nhiều kênh đầu tư. Đẩy mạnh việc triển khai phân cấp quản lý nhà nước giữa chính phủ và chính quyền các cấp. Cải thiện tiền lương và đào tạo lao động. Chính sách thuế bảo đảm tính nhất quán, đồng bộ, cơ cấu hợp lý, khuyến khích đầu tư,. . . - Về TP.HCM: Đẩy mạnh cải tiến môi trường hành chính được tiến hành đồng loạt ở thể chế hành chính, bộ máy hành chính và đội ngũ công chức có thẩm quyền trong cơ quan hữu quan. Nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật và kinh tế bằng các chính sách ưu đãi kêu gọi đầu tư nước ngoài vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đầu tư ngân sách vào việc sửa chữa, nâng cấp hệ thống giao thông vận tải, đầu tư cho các trung tâm y tế ở quận huyện ngoại thành. Đẩy mạnh việc tự giới thiệu thông qua các đại sứ quán Việt Nam,các công ty nước ngoài ở Việt Nam,tuyên truyền qua tài liệu,hình ảnh để gây ấn tượng tốt về môi trường đầu tư của thành phố. Đào tạo nguồn nhân lực cho cả lĩnh vực công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ để phục vụ cho sự phát triển của các ngành, tạo sự thu hút lớn cho các nhà đầu tư. Bên cạnh những biện pháp nêu trên em còn đề xuất ra một số biện pháp để thu hút vốn đầu tư FDI tại TP.HCM. Cần xây dựng chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2006-2010, tầm nhìn 2020. Các chính sách phải minh bạch và có khả năng dự báo được các chủ trương về định hướng phát triển thánh phố Hố Chí Minh cần phải phổ biến rộng rãi đến các doanh nghiệp Xây dựng danh mục riêng các ngành dịch vụ hỗ trợ công nghiệp và hỗ trợ sản xuất kinh doanh được hưởng ưu đãi về thuế và các ưu đãi khác. Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư, tiếp cận các tập đoàn kinh tế lớn, phát huy những hiệu quả đầu tư đã đạt được trong những năm qua Như vậy với hệ quả của quá trình toàn cầu hóa, và hội nhập kinh tế Thế giới là lượng vốn FDI đổ vào Việt Nam mà tiêu biểu là TP.HCM ngày càng lớn đã tạo ra cho chúng ta những thời cơ và thách thức lớn. Muốn thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI ấy thì chúng ta cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa nhằm tạo ra một môi trường đầu tư tốt, an toàn và đáng tin cậy cho các nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng một tương lai sáng sủa cho Việt Nam và cho riêng TP.HCM –đầu tàu kinh tế của cả nước. Phụ lục Bảng thống kê đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép từ năm 1989 - 2007 Số dự án Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ)(*) Tổng số Trong đó: Vốn điều lệ Tổng số Chia ra Nước ngoài góp Việt Nam góp TỔNG SỐ 280 1960.4 1593.1 336.1 1257.0 1989 1 0.6 0.6 0.6 1990 3 0.0 0.0 0.0 0.0 1991 3 4.0 4.0 2.0 2.0 1992 4 5.4 5.4 3.1 2.3 1993 5 0.7 0.7 0.3 0.4 1994 3 1.3 0.7 0.3 0.4 1998 2 1.9 1.9 0.3 1.6 1999 10 12.3 6.8 3.4 3.4 2000 15 6.7 5.6 2.2 3.4 2001 13 7.7 7.6 2.2 5.4 2002 15 170.9 156.2 2.5 153.7 2003 26 28.2 27.7 1.6 26.1 2004 17 12.5 9.7 0.1 9.6 2005 37 368.5 133.5 2.2 131.3 2006 36 349.1 320.8 304.3 16.5 Sơ bộ 2007 90 990.6 911.9 11.6 900.3 (*Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước) Dự kiến một số chỉ tiêu kế hoạch FDI, giai đoạn 2006-2010: STT Chỉ tiêu Kế hoạch 2001-2005 (triệu USD) Thực hiện 2001-2005 (triệu USD) Kế hoạch 2006-2010 (triệu USD) Tăng trưởng bình quân (%) PA1 PA2 1 Vốn thực hiện 11.800 13.321 19.500 23.500 60 2 Vốn cấp mới và tăng thêm 15.379 15.900 22.500 25.500 50 (Nguồn: cục đầu tư nước ngoài, bộ kế hoạch và đầu tư-2005) DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Nam Bình- Phạm Đỗ Chí “Đánh thức con rồng ngủ quên- Kinh tế Việt Nam đi vào thế kỷ 21” Nhà xuất bản TP.HCM, xuất bản năm 2001 Trang sử dụng: 241- 349. 2. Viện nghiên cứu tài chính “Định giá chuyển giao và chuyển giá tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại TP.HCM” Nhà xuất bản tài chính, xuất bản năm 2000 Trang sử dụng: 3- 28. 3. GS- TS Lê Hữu Nghĩa; TS Lê Danh Vĩnh “Thương mại Việt Nam 20 năm đổi mới” Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, xuất bản năm 2006 4. www.thongtinbaochi.com 5. www.hoinhap.gov 6. www.doanhnghiep24h.com 7. www.mof.gov 8. www.mpi.com 9. www.tuoitreonline.com 10. www.dothi.net.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại thành phố Hồ Chí Minh.doc
Luận văn liên quan