THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH DỰ THẢO VĂN BẢN QUI PHẠM PHÁP LUẬT DO CƠ QUAN TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG THỰC HIỆN
1. Thực trạng hoạt động thẩm định dự thảo văn bản qui phạm pháp luật do cơ quan Tư pháp địa phương thực hiện
1.1 Những thành tựu
Kể từ khi triển khai và thi hành Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật của HĐND và UBND năm 2004, công tác thẩm định đã đạt được một số thành tựu cơ bản, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng của văn bản qui phạm pháp luật (VBQPPL) và hiệu quả quản lý Nhà nước.
Theo Báo cáo tổng kết công tác Tư pháp năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010 thì, trong năm 2009, các cơ quan Tư pháp địa phương đã giúp HĐND và UBND các cấp soạn thảo 2.174 VBQPPL, thẩm định 30.071 văn bản, góp ý kiến cho 8.422 văn bản. Và tính đến hết ngày 30/9/2010 các cơ quan Tư pháp cấp tỉnh, huyện đã thẩm định và Tư pháp xã đã góp ý kiến 46.775 văn bản đề án (tăng 8.282 văn bản so với năm 2008). Như vậy, có thể thấy công tác thẩm định đang dần được đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng. Ý kiến thẩm định đã bám sát nội dung phạm vi thẩm định theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND và Nghị định số 91/2006/NĐ-CP. Nội dung thẩm định đã chú trọng đánh giá tác động xã hội, có tính phản biện cao, góp phần đảm bảo tính khả thi và nâng cao chất lượng dự thảo văn bản. Nhiều ý kiến thẩm định của một số cơ quan Tư pháp địa phương đã được các cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo văn bản. Quy trình thẩm định văn bản đã có cải tiến nhiều so với trước đây như việc thành lập Hội đồng thẩm định là bắt buộc đối với dự thảo VBQPPL có nội dung phức tạp liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, đã huy động được sự tham gia của nhiều nhà khoa học, các chuyên gia thuộc nhiều ngành, lĩnh vực có liên quan, qua đó đưa ra ý kiến phản biên tập thể giúp cơ quan soạn thảo nhìn nhận vấn đề một cách chính xác và khách quan hơn. Cũng thông qua hoạt động góp ý, thẩm dịnh VBQPPL đã phát hiện và kiến nghị chỉnh lý nhiều vấn đề thuộc nội dung của nhiều dự thảo chưa đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống
9 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4477 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm định dự thảo văn bản qui phạm pháp luật do cơ quan tư pháp địa phương thực hiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH DỰ THẢO VĂN BẢN QUI PHẠM PHÁP LUẬT DO CƠ QUAN TƯ PHÁP ĐỊA PHƯƠNG THỰC HIỆN
ThS. Đoàn Thị Tố Uyên
Giảng viên môn Xây dựng văn bản pháp luật
Đại học Luật Hà Nội
1. Thực trạng hoạt động thẩm định dự thảo văn bản qui phạm pháp luật do cơ quan Tư pháp địa phương thực hiện
1.1 Những thành tựu
Kể từ khi triển khai và thi hành Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật của HĐND và UBND năm 2004, công tác thẩm định đã đạt được một số thành tựu cơ bản, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng của văn bản qui phạm pháp luật (VBQPPL) và hiệu quả quản lý Nhà nước.
Theo Báo cáo tổng kết công tác Tư pháp năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010 thì, trong năm 2009, các cơ quan Tư pháp địa phương đã giúp HĐND và UBND các cấp soạn thảo 2.174 VBQPPL, thẩm định 30.071 văn bản, góp ý kiến cho 8.422 văn bản. Và tính đến hết ngày 30/9/2010 các cơ quan Tư pháp cấp tỉnh, huyện đã thẩm định và Tư pháp xã đã góp ý kiến 46.775 văn bản đề án (tăng 8.282 văn bản so với năm 2008). Như vậy, có thể thấy công tác thẩm định đang dần được đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng. Ý kiến thẩm định đã bám sát nội dung phạm vi thẩm định theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND và Nghị định số 91/2006/NĐ-CP. Nội dung thẩm định đã chú trọng đánh giá tác động xã hội, có tính phản biện cao, góp phần đảm bảo tính khả thi và nâng cao chất lượng dự thảo văn bản. Nhiều ý kiến thẩm định của một số cơ quan Tư pháp địa phương đã được các cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo văn bản. Quy trình thẩm định văn bản đã có cải tiến nhiều so với trước đây như việc thành lập Hội đồng thẩm định là bắt buộc đối với dự thảo VBQPPL có nội dung phức tạp liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, đã huy động được sự tham gia của nhiều nhà khoa học, các chuyên gia thuộc nhiều ngành, lĩnh vực có liên quan, qua đó đưa ra ý kiến phản biên tập thể giúp cơ quan soạn thảo nhìn nhận vấn đề một cách chính xác và khách quan hơn. Cũng thông qua hoạt động góp ý, thẩm dịnh VBQPPL đã phát hiện và kiến nghị chỉnh lý nhiều vấn đề thuộc nội dung của nhiều dự thảo chưa đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và trên cơ sở đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều quy định pháp luật, phục vụ hiệu quả quản lý Nhà nước.
Tại nhiều địa phương, lãnh đạo HĐND, UBND đánh giá cao công tác thẩm định văn bản, thể hiện sự tin tưởng thông qua việc chỉ ký ban hành văn bản khi đã có ý kiến thẩm định của cơ quan Tư pháp. Chẳng hạn: Kon Tum, Quảng Nam,, Đà Nẵng, Bắc Ninh… Điều này phản ánh sự nỗ lực của toàn ngành trong việc phấn đấu trở thành “Người gác cổng” đáng tin cậy của chính quyền các cấp trong việc ban hành chính sách, pháp luật, đồng thời cho thấy các Sở Tư pháp và phòng Tư pháp ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong việc tham mưu giúp HĐND, UBND các cấp ban hành VBQPPL. Thực tế cho thấy, đã có một số địa phương làm rất tốt công tác này, nhất là việc thẩm định các dự thảo văn bản của HĐND và UBND cấp tỉnh như: Nam Định, Nghệ An, Kon Tum, Thanh Hoá, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng… Tại Nghệ An năm 2008 tổng số văn bản đã thẩm định là 5.150 văn bản (chiếm 17,0% tổng số văn bản đã thẩm định trong cả nước). Hay tại Thanh Hoá năm 2008 tổng số văn bản đã thẩm định là 12.349 văn bản (chiếm 40,8% tổng số văn bản đã thẩm định trong cả nước), trong đó có một số huyện quy định văn bản khi trình ký phải có chữ ký tắt của Chánh văn phòng và Trưởng phòng Tư pháp Huyện như Triệu Sơn (năm 2009 tổng số văn bản cơ quan Tư pháp huyện đã thẩm định, Tư pháp xã có ý kiến là 2361 văn bản), Thọ Xuân (1217 văn bản), Yên Định 314 văn bản
Song song với việc tăng lên về số lượng thì công tác thẩm định dự thảo VBQPPL của các cơ quan Tư pháp địa phương cũng đã và đang được nâng cao về chất lượng. Trên thực tế, các nguyên tắc cơ bản của công tác thẩm định, nội dung, trình tự, thủ tục thẩm định cũng như các điều kiện bảo đảm cho công tác thẩm định đang dần dần được xác lập và đi vào nề nếp.Qua xem xét một số báo cáo thẩm định của các Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp trong năm 2009 và 2010, hầu như các báo cáo thẩm định đều đề cập đến sự cần thiết ban hành văn bản; đối tượng phạm vi điều chỉnh của văn bản, tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo, ngôn ngữ kỹ thuật soạn thảo. Mặc dù chưa có một văn bản nào quy định về các tiêu chí cụ thể cho các nội dung phạm vi thẩm định nhưng một số Sở Tư pháp đã vận dụng Luật một cách linh hoạt cùng với kinh nghiệm thực tế để có cơ sở đưa ra những kết luận thẩm định. Nhờ có công tác thẩm định mà hàng năm tại nhiều địa phương, số lượng VBQPPL ban hành có nội dung sai trái không phù hợp đã phần nào đó được thuyên giảm mặc dù tỷ lệ này vẫn còn cao ở một số địa phương.
Hoạt động thẩm định dự thảo VBQPPL của cơ quan Tư pháp địa phương đạt được những kết quả đáng khích lệ như trên là do nhiều nguyên nhân trong đó chủ yếu là do đội ngũ cán bộ làm công tác đang dần dần được tăng thêm về số lượng và nâng cao về trình độ, ít nhiều đã có kinh nghiệm trong công tác này; Hệ thống cơ sở vật chất phương tiện phục vụ cho công tác cũng dần được cải thiện và nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương đối với công tác văn bản của địa phương nói chung và công tác thẩm định nói riêng đã được nâng lên.
1.2 Những hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động thẩm định dự thảo VBQPPL của các cơ quan Tư pháp địa phương còn bộc lộ một số khiếm khuyết và hạn chế cần được khắc phục sớm.
Thứ nhất, vẫn còn tình trạng ban hành văn bản qui phạm pháp luật nhưng bỏ qua khâu thẩm định của cơ quan Tư pháp. Số VBQPPL ở địa phương được ban hành nhưng chưa qua thẩm định là rất nhiều cụ thể 17.098/72.407 văn bản được ban hành, điển hình như Bình Định tổng số văn bản được ban hành là 1027 văn bản nhưng chỉ có 537 văn bản được thẩm định, vẫn còn 490 văn bản chưa qua thẩm định (chiếm 47,7%). Hay ở Quảng Ngãi số văn bản ban hành là 889 văn bản nhưng chỉ có 421 văn bản được thẩm định,vẫn còn 468 văn bản chưa được thẩm định(chiếm 52,6%).Tỷ lệ này cũng còn rất cao tại Thừa Thiên Huế cụ thể 828/1462 văn bản được ban hành(chiếm 56,6%) tức chỉ có 634 văn bản đã qua thẩm định. Một trong những nguyên nhân của thực tế này là do các cơ quan chủ trì soạn thảo dự thảo VBQPPL chưa coi trọng vai trò của cơ quan Tư pháp. Mặc dù Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND đã quy định việc thẩm định pháp lý đối với các dự thảo VBQPPL của UBND về nguyên tắc thuộc trách nhiệm của các cơ quan Tư pháp địa phương (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp), nhưng ở một số địa phương khi quy định về trình tự, thủ tục ban hành VBQPPL của UBND tỉnh đã không quy định rõ Sở Tư pháp là cơ quan có chức năng thẩm định tính pháp lý của dự thảo văn bản như: Bình Định, Lạng Sơn, Thừa Thiên Huế… Hay ở tỉnh Yên Bái, do một số ngành chức năng quản lý lĩnh vực cụ thể cho rằng cơ quan Tư pháp không am hiểu về chuyên môn nghiệp vụ trong từng lĩnh vực quản lý cụ thể nên không cần thiết phải có ý kiến tham gia của Sở Tư pháp đối với dự thảo văn bản mà các ngành đó trực tiếp soạn thảo rồi trình UBND xem xét, ban hành.
Thứ hai, hoạt động thẩm định ở một số nơi còn mang tính hình thức, nội dung thẩm định chưa sâu, chưa toàn diện, chưa tạo cơ sở để tham mưu giúp UBND các cấp quyết định những vấn đề quan trọng và còn có ý kiến khác nhau của dự thảo VBQPPL vẫn còn diễn ra và cần được kịp thời chấn chỉnh. Hầu như các báo cáo thẩm định đều “đồng ý như dự thảo”. Các cơ quan Tư pháp, một phần do chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ chưa cao, các điều kiện bảo đảm cho công tác chưa đầy đủ nên đã dẫn đến tình trạng thẩm định qua loa, ít nghiên cứu xem xét văn bản được ban hành thực sự cần thiết chưa, có phù hợp với điều kiện tình hình thực tế và khi văn bản được ban hành có thể thực thi. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều văn bản được ban hành không đáp ứng yêu cầu. Không những thế, việc thẩm định VBQPPL của địa phương ở một số nơi còn chưa được nhận thức đúng đắn. Nhiều văn bản khi ban hành sai bị xử lý, trách nhiệm của cơ quan ban hành văn bản được đặt ra, trong đó có trách nhiệm của cơ quan tham mưu soạn thảo, cơ quan có trách nhiệm soạn thảo lập luận vấn đề này đã được thẩm định. Tuy nhiên, khi kiểm tra hồ sơ thì chưa có việc thẩm định của cơ quan Tư pháp,. Trong trường hợp này cơ quan có trách nhiệm soạn thảo đã nhầm lẫn khái niệm “thẩm định chuyên ngành” và “thẩm định VBQPPL”.
Những bất cập, hạn chế còn tồn tại trong hoạt động thẩm định dự thảo VBQPPL của các cơ quan Tư pháp địa phương là do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu do các nguyên nhân sau:
Một là, nguyên nhân từ chính sự bất cập của các qui định của pháp luật hiện hành về hoạt động thẩm định dự thảo VBQPPL của cơ quan tư pháp địa phương. Nhiều quy định của pháp luật chưa hợp lý, thiếu cụ thể đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động này.
Hai là, sự phối hợp giữa cơ quan soạn thảo văn bản và cơ quan thẩm định còn hạn chế. Hầu như cơ quan chủ trì soạn thảo không tuân thủ đúng quy định về thời hạn, quy trình thể thức gửi hồ sơ thẩm định, khiến cơ quan thẩm định rơi vào tình thế bị động, thiếu thời gian để tổ chức công tác thẩm định, việc đọc dự thảo trong khoảng thời gian ngắn ngủi còn chưa đủ chứ chưa nói đến nghiên cứu kỹ lưỡng văn bản; Hơn nữa, trong mối quan hệ phối hợp thẩm định, cơ quan thẩm định chưa thực sự sử dụng hết quyền của mình mà pháp luật cho phép như quyền yêu cầu cơ quan chủ trì soạn thảo cung cấp các thông tin cần thiết hoặc giải trình về nội dung dự thảo văn bản, tự mình hoặc cùng cơ quan chủ trì khảo sát thực tế về những vấn đề thuộc nội dung của dự thảo nếu xét thấy cần thiết. Còn cơ quan chủ trì soạn thảo thì cung cấp hồ sơ không đủ cho cơ quan thẩm định như thiếu số lượng bộ hồ sơ, thiếu tờ trình, thiếu bản tổng hợp ý kiến, bản thuyết minh…Có thể nói sự phối hợp giữa Văn phòng UBND các cấp, cơ quan tư pháp và cơ quan chủ trì soạn thảo còn lỏng lẻo, hiệu quả chưa cao đã ảnh hưởng đến tiến dộ, chất lượng thẩm định. Nhiều địa phương chưa có cơ chế để cán bộ làm công tác thẩm định được tham gia vào quá trình soạn thảo văn bản ngay từ đầu.
Ba là, đội ngũ thực hiện công tác thẩm định vừa thiếu vừa yếu. Hầu như ở các cơ quan tư pháp địa phương hiện nay thì đội ngũ cán bộ thẩm định còn thiếu rất nhiều, đa số là kiêm nhiệm. Hơn nữa trình độ lại không đồng đều, chất lượng của một bộ phận cán bộ làm công tác thẩm định còn hạn chế, chưa được chuyên môn hoá cao (cả về kiến thức chuyên môn lẫn kỹ năng thẩm định) chưa có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Trong khi đó số lượng dự thảo VBQPPL cần phải thẩm định ngày một tăng khi tình hình kinh tế-xã hội có nhiều chuyển biến, nội dung thẩm định đa dạng, phức tạp một số văn bản đặt ra nhiều vấn đề mới phức tạp cả về lý luận và thực tiễn, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nhiều ban, ngành. Ở cấp tỉnh, đặc biệt là những địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển thì hầu như cán bộ thẩm định có trình độ cử nhân luật. Nhưng ngược lại, cấp huyện và xã, nhất là những địa phương vùng sâu, vùng xa thì tỷ lệ cán bộ thẩm định có trình độ cử nhân luật thấp, thậm chí nhiều người mới chỉ tốt nghiệp phổ thông trung học và chưa được đào tạo kiến thức cơ bản về Nhà nước và pháp luật. Mà hoạt động thẩm định bên cạnh trình độ chuyên môn là các quy định của pháp luật, thì phải có trình độ hiểu biết, phải đối chiếu, phải suy luận một cách logic, không những pháp luật quy định mà phải xem dự thảo đó “có phù hợp với tình hình địa phương không”. Việc thẩm định văn bản QPPL của địa phương là một công việc đòi hỏi không chỉ trình độ kiến thức tổng hợp, mà đòi hỏi người thẩm định phải có sự am hiểu địa phương về văn hoá, tập quán… .
Bên cạnh đó, một trong những nguyên nhân là lãnh đạo các cấp còn thiếư quan tâm đến hoạt động bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng thẩm định cho cán bộ làm công tác (nhất là cán bộ trẻ thiếu kinh nghiệm) chưa có nhiều lớp tập huấn bồi dưỡng kỹ năng, kinh nghiệm thẩm định hay các hội nghị để nâng cao chất lượng thẩm định.
Bốn là, nguyên nhân từ các điều kiện bảo đảm cho hoạt động thẩm định VBQPPL của các cơ quan tư pháp địa phương: kinh phí bảo đảm cho công tác tổ chức thẩm định còn hạn chế. Trong tổng kinh phí cho việc ban hành văn bản, thì công tác thẩm định chỉ chiếm khoảng 20% số tiền chi cho một việc ban hành văn bản. So với các hoạt động khác thì chi phí cho công tác thẩm định rất ít. Bên cạnh đó, thông tin, tư liệu cũng là một trong những điều kiện cần nhằm hỗ trợ cho công tác thẩm định. Vấn đề đặt ra là bên cạnh phương thức thông tin truyền thông bằng bản giấy, thì những phương thức hiện đại khác nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động thẩm định hầu như vẫn chưa được các địa phương áp dụng, đó là phương thức sử dụng hệ thống nối mạng máy tính để duy trì các thông tin cần thiết giữa các cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm định, thông tin giữa các đơn vị trong nội bộ cơ quan thẩm định.Việc chưa sử dụng phương thức này một phần cũng do chưa trang bị được đầy đủ cơ sở vật chất, hệ thống máy đầy đủ cho các cơ quan. Đây là một trong những nguyên nhân bất cập mà không thể không đề cập đến trong hoạt động thẩm định của các cơ quan Tư pháp địa phương.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm định dự thảo văn bản qui phạm pháp luật do cơ quan Tư pháp địa phương thực hiện
Trên cơ sở phân tích, đánh giá toàn bộ thực trạng cũng như nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong công tác thẩm định của các cơ quan Tư pháp địa phương, để nâng cao hiệu quả hơn nữa hoạt động này trong thời gian tới, các cấp, các ngành cần thực hiện một cách đồng bộ và thống nhất những giải pháp sau:
2.1 Hoàn thiện qui định của pháp luật về hoạt động thẩm định của cơ quan Tư pháp địa phương đối với dự thảo văn bản qui phạm pháp luật
Một là, nêu rõ phạm vi ban hành, chương trình ban hành VBQPPL của HĐND và UBND. Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật của HĐND và UBND cần quy định: HĐND và UBND chỉ tập trung ban hành VBQPPL để giải quyết những vấn đề bức xúc nhất của địa phương và những vấn đề mà văn bản luật giao địa phương qui định chi tiết, tránh trường hợp VBQPPL của địa phương ban hành nhắc lại những quy định của cơ quan trung ương. Đề nghị sửa đổi quy định về cơ quan chủ trì xây dựng chương trình ban hành VBQPPL ở địa phương theo hướng tăng cường vai trò của cơ quan Tư pháp trong việc lập dự kiến chương trình xây dựng VBQPPL của các ngành trước khi gửi dự kiến đến văn phòng HĐND và UBND.
Hai là, sửa đổi quy định về đối tượng thẩm định. Hầu như ở các địa phương, VBQPPL được ban hành chủ yếu dưới hình thức nghị quyết của HĐND và quyết định của UBND. Các văn bản được ban hành dưới hình thức chỉ thị thường chỉ được dùng để đôn đốc hay tăng cường những mặt công tác cụ thể. Việc xác định chỉ thị này có phải là VBQPPL hay không rất khó nhất là trong khi chưa có một cách hiểu thống nhất về VBQPPL. Do vậy, tôi đồng ý với quan điểm bỏ hình thức chỉ thị của UBND là hình thức VBQPPL cho phù hợp với thực tiễn hoạt động ban hành văn bản của địa phương.
Ba là, cần phải khẳng định việc thẩm định tính khả thi của dự thảo VBQPPL là bắt buộc. Hiện nay, Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND và Nghị định hướng dẫn thi hành đều qui định cơ quan thẩm định có thể phát biểu về tính khả thi của dự thảo VBQPPL.Việc cơ quan thẩm định phát biểu về tính khả thi của dự thảo văn bản là rất quan trọng. Bởi vì, nếu cơ quan Tư pháp không thẩm định tốt tính khả thi của dự thảo, thì sẽ để lọt các văn bản không có tính khả thi, không phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội, làm ảnh hưởng lớn đến niềm tin của tổ chức và công dân đối với tính nghiêm túc của pháp luật. Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay, việc thẩm định tính khả thi của dự thảo văn bản tuy không phải là công việc đơn giản, nhưng không phải là quá nan giải khi pháp luật quy định cơ quan chủ trì soạn thảo phải có trách nhiệm khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội ở địa phương liên quan đến dự thảo ngay từ giai đoạn lập chương trình.
Bốn là, thay đổi quy định về thời gian thẩm định văn bản QPPL cho phù hợp. Luật nên có sự phân loại đối với các VBQPPL để quy định thời gian thẩm định cho phù hợp. Mức quy định thời gian thẩm định như hiện nay chỉ có thể áp dụng với những VBQPPL không phức tạp. Còn đối với những VBQPPL phức tạp, cần thành lập Hội đồng thẩm định, thì nên tăng thời gian thẩm định lên mức tối thiểu là 10 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ thẩm định đối với VBQPPL của cấp tỉnh và 05 ngày đối với VBQPPL của cấp huyện. Bên cạnh đó cần quy định mức thời gian tối thiểu cho hoạt động thẩm định trong trường hợp VBQPPL được ban hành đột xuất ngoài chương trình, kế hoạch.
Năm là, Luật nên bổ sung qui định về trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quá trình thẩm định. Hiện nay cơ quan thẩm định không tiến hành hoặc thẩm định mang tính hình thức, cũng như các cơ quan soạn thảo không gửi dự thảo tới cơ quan thẩm định đều không phải chịu trách nhiệm nào…
Cuối cùng là, tiếp tục nghiên cứu để tiến đến thống nhất Luật Ban hành VBQPPL của Trung ương và địa phương. Sau khi Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 ra đời (có hiệu lực ngày 1/1/2009) thì một số quy định của Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND và Nghị định số 91/2006/NĐ-CP không còn phù hợp với thực tiễn nên cần phải sửa đổi sớm để tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật.
2.2 Các giải pháp về tổ chức thực hiện hoạt động thẩm định của cơ quan tư pháp địa phương đối với dự thảo văn bản qui phạm pháp luật
2.2.1 Cần nâng cao nhận thức và tăng cưởng kỷ luật trong công tác thẩm định.
Thẩm định là một hoạt động vô cùng quan trọng, có tác động không nhỏ đến chất lượng của toàn bộ hệ thống văn bản QPPL. Nếu công tác thẩm định được thực hiện tốt sẽ nâng cao chất lượng văn bản QPPL và góp phần nâng cao uy tín của ngành tư pháp. Tuy nhiên, bản thân các cá nhân, cơ quan tham gia vào quy trình xây dựng pháp luật cũng như các cá nhân đơn vị trong cơ quan tư pháp địa phương không phải tất cả đều nhận thức đầy đủ vấn đề này. Ngay một số đơn vị thẩm định trong các cơ quan Tư pháp địa phương nhiều khi vẫn xem thẩm định chỉ là công việc của một cá nhân, một nhóm người mà từ đó có cách thức tổ chức phân công thẩm định chưa ngang tầm với vai trò, vị trí của hoạt động này. Vì vậy, cần phải nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của cán bộ làm công tác thẩm định.
Không chỉ nâng cao nhận thức cho các cán bộ làm công tác thẩm định mà còn phải nâng cao nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương đối với công tác văn bản của địa phương. Đối với các cấp uỷ Đảng, lãnh đạo chính quyền địa phương phải nhận thức được tầm quan trọng của công tác văn bản nói chung và hoạt động thẩm định nói riêng. Đồng thời tăng cường trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu các đơn vị chủ trì thẩm định và tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động thẩm định. 2.2.2.Đổi mới về phương pháp và cách thức tổ chức thẩm định cho phù hợp với thực tiễn hiện nay
Cần sắp xếp lại tổ chức theo hướng chuyên môn hoá và tập trung đầu mối chuyên ngành, tức bố trí một đơn vị thực hiện chuyên trách công tác thẩm định hoặc trong các bộ phận chức năng phải có cán bộ chuyên trách thực hiện thẩm định. Đồng thời tăng cường cơ chế phối hợp để huy động trí tuệ, nguồn nhân lực trong nội bộ cơ quan Tư pháp và cả nguồn lực ngoài cơ quan. Song song với đó cũng cần phải tiến hành cải cách hành chính trong hoạt động thẩm định dự thảo VBQPPL của các cơ quan Tư pháp địa phương. Xây dựng quy trình thẩm định mang tính khoa học cao trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc hợp lý, khoa học, dân chủ, huy động trí tuệ tập thể.
Không những thế cũng cần đặt ra chế tài đối với việc cơ quan chủ trì soạn thảo không có trách nhiệm mời thành viên cơ quan Tư pháp tham gia vào quá trình soạn thảo văn bản hay mời khi ở giai đoạn cuối của việc soạn thảo. Việc mời thành viên cơ quan Tư pháp tham gia vào quá tình soạn thảo văn bản ngay từ đầu là rất hợp lý vì đa phần thành viên của cơ quan Tư pháp chỉ có trình độ chủ yếu là chuyên ngành luật rất ít người có sự am hiểu chuyên sâu về các lĩnh vực khác của đời sống.
2.2.3 Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa cơ quan Tư pháp, cơ quan chủ trì soạn thảo, văn phòng UBND và các cơ quan khác trong quá trình thẩm định, tổng hợp, tiếp thu ý kiến thẩm định.
Cần phải tiếp tục tăng cường cơ chế phối hợp này vì những lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, mục đích chung của cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan thẩm định là hoàn thành và tạo ra một dự thảo tốt đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và tính khả thi của dự thảo.
Thứ hai, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước ta là vừa có sự phân công, phân nhiệm rõ, vừa có sự liên kết phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan.
Thứ ba, cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm định có “mặt mạnh” riêng ở góc độ quản lý nhà nước chuyên ngành, không cơ quan nào có thể làm tốt hơn cơ quan chủ trì soạn thảo và chúng ta đang thực hiện nguyên tắc: văn bản thuộc ngành lĩnh vực nào thì giao cho ngành, lĩnh vực đó phụ trách.
Vấn đề đặt ra hiện nay là sự phối hợp giữa các cơ quan này còn lỏng lẻo chưa đạt hiệu quả cao.Chính vì vậy cần tăng cường sử dụng cơ chế họp liên ngành, trong đó cơ quan thẩm định phải có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan chủ trì soạn thảo, không khỉ ở giai đoạn tiền thẩm định mà cả trong việc yêu cầu cơ quan chủ trì soạn thảo cung cấp bổ sung thông tin về dự thảo văn bản, tham gia phiên họp thẩm định để thuyết trình về dự thảo văn bản.
2.3 Các giải pháp liên quan đến nguồn nhân lực thực hiện công tác thẩm định dự thảo văn bản QPPL ở địa phương
Việc đầu tư và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đảm nhiệm công tác thẩm định là hướng dầu tư có hiệu quả, vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu dài. Trong thời gian tới, cơ quan có thẩm quyền cần thực hiện những biện pháp sau:
- Bổ sung thêm số lượng cán bộ làm công tác thẩm định vì hiện nay số lượng cán bộ làm công tác thẩm định còn thiếu rất nhiều, đa phần là kiêm nhiệm. Ngoài công việc thẩm định họ còn đảm nhận một lĩnh vực khác của xã hội chính vì vậy không tạo nên sự chuyên sâu trong công việc. Việc tăng về số lượng cán bộ sẽ làm giảm sự kiêm nhiệm trong hoạt động của cán bộ, họ sẽ đầu tư nhiều thời gian hơn cho công việc; Nên áp dụng một số mô hình bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ hiện đang làm công tác thẩm định như: bồi dưỡng thêm kiến thức chuyên ngành khác đối với những cán bộ đã tốt nghiệp chuyên ngành luật, bồi dưỡng kiến thức pháp lý đối với người đã được đào tạo chuyên ngành khác. Việc đào tạo như vậy sẽ giúp cho các cán bộ làm công tác có sự am hiểu phong phú hơn về các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo thuận lợi cho việc thẩm định được khách quan khoa học.
- Nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác thẩm định bằng cách tiêu chuẩn hoá chức danh “Thẩm định viên” cho đội ngũ công chức trực tiếp thực hiện thẩm định dự thảo VBQPPL (về trình độ đào tạo, chuyên ngành đào tạo, kỹ năng nghiệp vụ thẩm định dự thảo VBQPPL) không chỉ đối với cán bộ thẩm định trong nội bộ cơ quan Tư pháp mà cả cán bộ pháp chế của các ban ngành. Bên cạnh đó cần chú trọng việc mở các lớp tập huấn, toạ đàm, hội nghị… về công tác xây dựng văn bản, kỹ thuật soạn thảo văn bản. Đặc biệt, chú trọng việc đào tạo, tập huấn kỹ năng thẩm định cho các cán bộ thẩm định của các cơ quan Tư pháp.
- Cần phải xây dựng, biên soạn các cuốn cẩm nang hỗ trợ về kỹ thuật soạn thảo văn bản, kỹ năng thẩm định, cẩm nang về kỹ năng kiểm tra văn bản, hệ thống hoá, pháp điển hoá…Mặc dù cuốn Sổ tay nghiệp vụ soạn thảo, ban hành văn bản qui phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đã được xuất bản năm 2007 nhưng cuốn sách mới chỉ dừng lại ở khía cạnh chung chung của việc ban hành văn bản QPPL mà chưa có sự hỗ trợ chuyên sâu về kỹ năng thẩm định.
- Bổ sung nội dung “kỹ năng thẩm định văn bản quy phạm pháp luật” vào chương trình đào tạo hoặc có thể tách ra thành một môn học riêng mang tính bắt buộc đối với sinh viên luật nhằm giúp sinh viên khi tốt nghiệp ra trường đã được trang bị nền kiến thức và kỹ năng cơ bản về thẩm định, soạn thảo văn bản. Bởi vì họ sẽ chính là nguồn nhân lực hùng hậu cho các cơ quan xây dựng pháp luật
2.4. Tăng cường các điều kiện bảo đảm đối với hoạt động thẩm định dự thảo văn bản qui phạm pháp luật của cơ quan tư pháp địa phương
- Bảo đảm về kinh phí cho hoạt động thẩm định
Mức kinh phí xây dựng VBQPPL ở địa phương có thể chia thành nhiều loại, tuỳ theo tính chất từng văn bản và điều kiện kinh tế-xã hội của địa phương. Xây dựng các tiêu chí để phân loại tính chất của văn bản thẩm định theo mức độ phức tạp, phạm vi ảnh hưởng, nhu cầu tổ chức Hội đồng thẩm định, họp liên ngành để xác định mức kinh phí hỗ trợ phù hợp cho từng loại văn bản chứ không nên phân bổ kinh phí một cách bình quân: mức kinh phí dành cho thẩm định văn bản đơn giản phạm vi tác động hẹp cũng bằng mức kinh phí dành cho văn bản thẩm định có nội dung phức tạp, phạm vi tác động rộng lớn cần phải mời các luật gia, chuyên gia am hiểu lĩnh vực chuyên môn.
Bên cạnh đó, cũng nên cho phép các địa phương có thể chủ động huy động các nguồn kinh phí khác nhau ngoài nguồn kinh phí từ ngân sách phục vụ cho công tác thẩm định.
- Đảm bảo nguồn thông tin tư liệu cho hoạt động thẩm định
Những văn bản của Đảng ở các cấp về chính sách phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn địa phương, các đề tài nghiên cứu về các lĩnh vực trên địa bàn địa phương và các đề tài nghiên cứu chiến lược phát triển vùng là những nguồn tư liệu tốt mà cán bộ làm công tác thẩm định cần được tiếp cận, để từ đó, kết hợp với tình hình địa phương đưa ra những ý kiến thẩm định có giá trị đảm bảo cho văn bản QPPL có tính khả thi cao.
Bên cạnh đó, cần ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thẩm định. Trong thời gian tới, Nhà nước cần: Tăng cường sử dụng hệ thống mạng máy tính để duy trì các thông tin cần thiết giữa cơ quan chủ trì soạn thảo với cơ quan thẩm định, thông tin giữa các đơn vị trong nội bộ cơ quan thẩm định để phục vụ cho hoạt động thẩm định; Xây dựng các phần mềm soạn thảo, thẩm định dự thảo VBQPPL và phần mềm kiểm tra văn bản QPPL.
Trên đây là thực trang và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm định dự thảo VBQPPL của các cơ quan Tư pháp địa phương. Rất mong nhận được ý kiến trao đổi của các nhà khoa học để nội dung này được đánh giá một cách sâu sắc và toàn diện nhất.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm định dự thảo văn bản qui phạm pháp luật do cơ quan tư pháp địa phương thực hiện.docx