Thực trạng và giải pháp xuất nhập khẩu lao động Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong hơn 10 năm trở lại đây thế giới đã chứng kiến các cuộc khủng hoảng kinh tế làm suy giảm đáng kể nền kinh tế thế giới như cuộc khủng hoảng tài chính 1997 – 1998 và mới đây là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2009. Trong thời gian gần đây nền kinh tế của các nước chịu ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu có dấu hiệu phục hồi trở lại, tuy nhiên tình trạng thất nghiệp vẫn còn diễn ra với số lượng lớn. Và cần có một hướng giải quyết cho những lao động thất nghiệp này. Một trong những hướng giải quyết đó là: Xuất khẩu lao động. Nắm bắt được thời cơ thuận lợi đó trong những năm qua Việt Nam đã đề ra những chính sách, mục tiêu phương hướng cho việc xuất khẩu lao động nhằm giải quyết việc làm cho người lao động. Với định hướng xuất khẩu lao động rõ ràng và phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế đã được Đảng và Nhà nước xác định như là một trong những lĩnh vực đối ngoại đặc biệt, một trong những chiến lược để phát triển nền kinh tế đất nước. Tuy vậy việc xuất khẩu lao động của nước ta còn gặp một số hạn chế về trình độ tay nghề, ngoại ngữ, kỉ luật lao động Đòi hỏi sự nhập cuộc của các nhà quản lý, doanh nghiệp, người lao động đi xuất khẩu để cùng “chung tay” giải quyết vấn đề trên. Đó là lý do để chúng tôi chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam”. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu chính của đề tài là làm rõ vấn đề xuất khẩu lao động và công tác mở rộng thị trường và từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục những hạn chế, nhược điểm của lao động Việt Nam để lao động xuất khẩu của nước ta ngày càng có vị thế vững chắc trên thị trường lao động quốc tế. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên những tài liệu, số liệu của Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, CIEM – Trung tâm thông tin tư liệu – Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và báo cáo số liệu tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 về công tác xuất khẩu lao động và số liệu dân số của nước ta. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu như:  Phương pháp thống kê  Phương pháp thống kê phân tích  Phương pháp suy luận  Phương pháp tổng hợp 5. Kết quả nghiên cứu Đề tài phân tích thực trạng về xuất khẩu lao động của Việt Nam trong gần 30 năm qua và đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển công tác xuất khẩu lao động trong giai đoạn 2010 - 2015 6. Kết cấu:  Chương 1: Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu lao động  Chương 2: Tổng quan về tình hình xuất khẩu lao động của việt nam  Chương 3: Triển vọng, mục tiêu và giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu lao động ở Việt Nam

doc34 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8596 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp xuất nhập khẩu lao động Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1,28 so với thời kì 1980 – 1990. Mặc dù vậy tỉ lệ này chưa vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực như Philippin la 78,63%, Thái Lan là 80,26% và số lượng lao động nước ta tham gia vào các ngành nghề là không đồng đều. Cũng giống như thời kì 1980 – 1990, thời kì này lao động của nước ta chủ yếu vẫn làm việc ở nhũng ngành nghề giản đơn không đòi hỏi trình độ chuyên môn kĩ thuật và độ lành nghề cao của lao động. Nhìn vào bảng số liệu dưới đây sẽ phản ánh cho chúng ta thấy điều đó: BẢNG 6: SỐ LIỆU VỀ CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ CỦA LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM THỜI KÌ 1991 – 2000 NGÀNH NGHỀ SỐ LAO ĐỘNG công nghiệp  67050 công nghiệp nặng 5019 công nghiệp nhẹ 62031 Xây dựng và vật liệu xây dựng 37459 dịch vụ 4199 nông ngiệp 260 Lâm nghiệp 6475 Các ngành khác 4927 TỔNG 120370 (Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội) Đến thời điểm này cơ cấu lao động xuất khẩu của Việt Nam làm việc ở nước ngoài của nước ta có sự thay đổi có chiều hướng sang những ngành công nghiệp nhẹ và có sự biến đổi giữa các ngành nghề nhưng sự thay đổi đó là không đáng kể. Lao động Việt Nam chủ yếu vẫn làm việc trong các lĩnh vực không đòi hỏi trình độ chuyên môn kĩ thuật. Chủ yếu tập trung ở các ngành công nghiệp và vật liệu xây dựng có tỉ trọng cao nhất. Đó là một dấu hiệu tốt cho lao động Việt Nam góp phần nâng cao thu nhập và đào tạo tay nghề cho lao động Việt Nam sau khi về nước. 3.1.2. Thời kì từ năm 2001 đến năm 2010 Tổng kết kinh nghiệm của 20 năm xuất khẩu lao động nước ta đã rút ra nhiều bài học mới về công tác đào tạo nghề cho xuất khẩu lao động và mở rộng thị trường xuất khẩu nên ở giai đoạn 2001 -2010 này đã thu được nhiều thành tựu đáng kể và cao gấp nhiều lần so với các thời kì trước. Số liệu được tổng hợp dưới đây sẽ cho ta thấy điều đó. BẢNG 7: SỐ LIỆU VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG THỜI KÌ 2001 - 2010 NĂM SỐ LAO ĐỘNG TIỀN GỬI VÊ (Triệu VND) 2001 36168 689660400 2002 46122 1400000000 2003 75000 1578025000 2004 68600 1485140200 2005 70594 1498000000 2006 85000 1625600000 2007 80000 1687422300 2008 87000 1752891010 2009 75000 1548201000 2010 85000* 1700000000* TỔNG 708484** 14964939910** (Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội) (* số liệu dự kiến cho năm 2010) (** gồm cả số liệu ước tính cho năm 2010) Vào thời kì này chính sách xuất khẩu lao động của nước ta đã có phần thông thoáng và mở rộng được nhiều hơn chính và vậy mà số lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài ngày một tăng lên, nhất là 4 năm trở lại đây, tình hình xuất khẩu lao động nước ta đã có nhiều khởi sắc. Riêng năm 2009 do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu nên tình hình xuất khẩu lao động bị giảm nhưng không đáng kể. Theo dự báo thì năm 2010 tình hình xuất khẩu lao động của nước ta sẽ phục hồi trở lại và hoàn thành mục tiêu đã đề ra. Thời kỳ này cũng cho thấy sự biến chuyển rõ rệt về cơ cấu lao động có nghề xuất khẩu. Cơ cấu lao động có nghề cung đã tăng lên đáng kể so với 2 thời kỳ trước: BẢNG 8: THỐNG KÊ VỀ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU CÓ NGHỀ VÀ KHÔNG CÓ NGHỀ THỜI KÌ 2001 – 2010 NĂM LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CÓ NGHỀ LAO ĐÔNG KHÔNG NGHỀ 2001 36168 18426 17742 2002 46122 26875 19247 2003 75000 33128 41872 2004 68600 42085 26515 2005 70594 43582 27012 2006 85000 56230 28770 2007 80000 52580 27420 2008 87000 59032 27968 2009 75000 58658 16342 2010 85000 65000* 20000* TỔNG 708484 460596 247888 (Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội) (* số liệu dự kiến cho năm 2010) Qua bảng số liệu trên cho thấy giai đoạn này nước ta đã chú ý đến xuất khẩu lao động có nghề ra nước ngoài, tỉ lệ không hoàn toàn là 100% nhưng đang từng bước được nâng lên, theo Hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam thì đến năm 2010 số lao động xuất khẩu có tay nghề đạt trên 75%. Có thể thấy được công tác xuất khẩu lao động ở nước ta thời kỳ này chú trọng về chất lượng nhiều hơn là số lượng, điều đó cũng dễ hiểu muốn khai thác hết tiềm năng của các thị trường cao cấp và củng cố chất lượng tại các thị trường truyền thống thì không còn cách nào khác ngoài đào tạo nghề cho người lao động Do được đào tạo nên cơ cấu lao động cho xuất khẩu của nước ta cũng có nhiểu thay đổi rõ rệt, nó thể hiện qua bảng số liệu sau: BẢNG 9: SỐ LIỆU VỀ CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ CỦA LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM THỜI KÌ 2001 – 2010* NGÀNH NGHỀ SỐ LAO ĐỘNG Công nghiệp 512520 công nghiệp nặng 128920 công nghiệp nhẹ 383600 Xây dựng và vật liệu xây dựng 45896 Dịch vụ 25869 Nông ngiệp 21583 Lâm nghiệp 13589 Các ngành khác 89027 TỔNG 708484 (Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội) (* số liệu bao gồm cả số liệu dự kiến cho năm 2010) Cơ cấu lao động xuất khẩu của nước ta đã có nhiều sự thay đổi. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành nghề, lĩnh vực là khá rõ, ở thời kỳ này lao động nước ta tập trung chủ yếu ở các ngành công nghiệp nhẹ, vật liệu xây dựng. Đặc biệt các lĩnh vực như nông nghiệp, lâm nghiệp đã được các doanh nghiệp nước ta tập trung khai thác. Sở dĩ các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp có số lao động nước ta tham gia nhiều là vì những lĩnh vực này không đòi hỏi phải có chuyên môn kỹ thuật và phù hợp với trình độ lao động của lao động Việt Nam. Tóm lại, gần 30 năm đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài nước ta đã giải quyết được rất nhiều việc làm cho người lao động và góp phần cải thiện đời sống cho rất nhiều người lao động. Có thể nói gần 30 năm qua xuất khẩu lao động là một lĩnh vực xuất khẩu đặc biệt mang lại lợi nhuận kinh tế tương đối cao cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động này và góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế trong 30 năm qua. Tuy nhiên xuất khẩu lao động ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót cần được khắc phục kịp thời. 3.2. Những hạn chế của xuất khẩu lao động ở Việt Nam Trải qua gần 30 năm thực hiện việc xuất khẩu lao động đi nước ngoài nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể như ta đã thấy ở trên nhưng công tác xuất khẩu lao động vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế đang nổi cộm mà chúng ta cần phải chấn chỉnh và khắc phục Về chất lượng lao động là một điều rất được quan tâm của lao động Việt Nam, lao động nước ta được biết đến với những bất lợi thể hiện ở “ba không”: Không nghề, không ngoại ngữ và không tác phong công nghiệp. Điều này trở thành một bất lợi lớn cho lao động nước ta khi làm việc ở nước ngoài. Như ta đã biết trình độ tay nghề của lao động Việt Nam khi xuất khẩu ra nước ngoài là rất thấp, chúng ta chủ yếu xuất khẩu những lao động phổ thông chưa qua đào tạo nghề, không có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Chính vì vậy mà thu nhập của người lao động Việt Nam luôn thấp hơn lao động xuất khẩu của các nước khác. Sức khỏe của lao động nước ta vẫn còn rất nhiều hạn chế, lao động của nước ta chỉ đủ sức khỏe làm các công việc ở các ngành nghề như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, làm việc trong các nhà máy còn các công việc như đi biển, xây dựng thì chưa đạt yêu cầu. Đây cũng là một trong những trở ngại cho lao động Việt Nam. Trình độ ngoại ngữ của lao động được đánh giá là rất kém. Những mâu thuẫn trong lao động đều xuất phát từ bất đồng ngôn ngữ giữa giới chủ và lao động Việt Nam. Nhiều lao động bị trả về nước trước thời hạn do không đạt yêu cầu về trình độ ngoại ngữ. Kỉ luật lao động là một điều mà đã gây ra tai tiếng cho lao động nước ta khi làm việc ở nước ngoài. Lao động nước ta khi làm việc ở các nước sở tại đều thiếu kỉ luật và thiếu nghiêm túc trong việc thực hiện bảo hộ lao động. Bằng chứng là rất nhiều lao động nước ta làm việc tại Malaysia thường xuyên bị tai nạn lao động kể từ năm 2004 trở lại đây. Nguyên nhân chính của những vấn đề nêu ở trên là do: người lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài đa phần là lao động nông thôn. Những lao động này phần lớn là chưa qua một lớp đào tạo chính quy về tay nghề. Cuộc sống làm nghề nông ở một nước còn kém phát triển như Việt Nam đã hình thành nên trong họ tác phong chậm chạp, thiếu sự gắn bó trong hợp tác lao động, thiếu hiểu biết về sản xuất công nghiệp. Nhiều người trong số họ còn chưa học hết phổ thông. Mặt khác, những lao động này hầu hết đều có cuộc sống rất khó khăn, khi đi làm việc ở nước ngoài luôn mang trên vai gánh nặng thu nhập rất lớn nên họ thường bất chấp tất cả miễn là kiếm được tiền cao. Bên cạnh đó tình hình xuất khẩu lao động ở nước ta còn tồn tại một số vấn đề trong công tác quản lý xuất khẩu lao động. Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài tuy nhiên có rất ít doanh nghiệp có văn phòng đại diện để giải quyết các vấn đề liên quan đến lao động của mình điều đó chứng tỏ phần lớn các doanh nghiệp đang hoạt động theo kiểu “đem con bỏ chợ”. Đó là chưa kể tại một số thị trường, các doanh nghiệp chỉ biết tạo nguồn trong nước, thu phí, bàn giao lao động và… hết trách nhiệm. Chính vì thế mới xảy ra chuyện lao động Việt Nam tại nước ngoài không có “người quản lý” dẫn tới việc sống và làm việc vô tổ chức, bị trục xuất về nước cũng chẳng có cơ quan nào đứng ra giải quyết. Trong thời gian ngắn gần đây, có hàng trăm lao động Việt Nam đi Trung Đông làm việc bị trục xuất về nước vì vi phạm pháp luật. Một số khác thì bị bắt, bị phạt tù vì nấu rượu, đánh nhau và ăn cắp. Nghịch lý là các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đang tìm mọi cách mở rộng thị trường thì người lao động của ta lại vô tư phá. Trước khi lên đường đến các nước ở khu vực Trung Đông làm việc, phần lớn lao động Việt Nam đều được học giáo dục định hướng, trang bị kiến thức về luật pháp, lối sống nghiêm khắc ở xứ sở đạo hồi. Đó là cấm uống rượu, nấu rượu và chọc ghẹo phụ nữ,… Thế nhưng, vừa chân ướt chân ráo đến đây nhiều lao động của ta đã phá rào – ngang nhiên nấu rượu và chè chén say sưa. Theo ông Phạm Văn Thắng, trưởng phòng Trung Đông công ty Sovilaco nói “đúng là lao động của ta coi trời bằng vung”. Nhiều công trình xây dựng ở Quarta bị lao động Việt Nam ăn cắp vật tư xây dựng, chủ yếu là dây đồng. Để hợp thức hóa số dây đồng lấy cắp, họ mua axit về đổ vào cho nó biến thành phế liệu…Vì các nước ở Trung Đông đều cấm uống rượu, nấu rượu lậu nên lao động của ta “sáng tạo” bằng cách lấy đường và bột nồi nấu chung rồi ủ thành rượu. Mới đây, cảnh sát Quarta bắt được nhiều vụ lao động Việt Nam nấu rượu lậu với số lượng lớn để bán, trong đó có vụ ủ rượu trong thùng chứa 60 lít. Một tật xấu khác khiến cho nhiều chủ sử dụng lao động ở Trung Đông phải thốt lên rằng không hiểu tại sao lao động Việt Nam dễ nổi nóng và dễ đánh nhau như thế? Chỉ vì những vụ việc va chạm, xích mích nhỏ là họ gây gỗ và đánh nhau. Theo số liệu chưa đầy đủ, trong số 7.000 lao động được tiếp nhận vào Quatar làm việc, đã có khoảng 400 người bị trục xuất về nước vì vi phạm pháp luật. Ngoài ra, còn có vài trăm lao động bị phạt tù vì nấu rượu lậu để bán hoặc ăn cắp... Điều đáng nói là lao động Việt Nam mới có mặt ở Quatar, Dubai, Ảrập - Xêút khoảng gần 5 năm nay và số lượng còn khiêm tốn nhưng tiếng xấu “nổi như cồn”. Cộng đồng lao động nước ngoài đến từ nhiều nước khác nhau như Ấn Độ, Nêpan, Philippines… lên đến cả triệu người đang làm việc ở đây nhưng thái độ tuân thủ pháp luật, lối sống của nước sở tại của họ khá cao. Còn lao động của ta thì ngược lại - nổi đình nổi đám vì các “tật xấu” như gây sự, đánh nhau, sống bừa bãi, đình công và hay đòi hỏi… Trước thực trạng chất lượng lao động Việt Nam có “vấn đề” như nêu trên, nhiều doanh nghiệp mới đưa lao động sang thị trường Trung Đông hoặc chuẩn bị bước chân vào đều có chung tâm lý rụt rè, ngán ngẩm. Họ có chung trăn trở là “doanh nghiệp thì cố mở thị trường còn người lao động thì lại phá”. Mới đây, Công ty Sovilaco và một số công ty khác đã bị đối tác hủy hợp đồng đưa hàng trăm lao động Việt Nam sang làm việc. Lý do là ở những nhà máy đó vừa xảy ra nhiều vụ việc lao động đánh nhau và hay ăn cắp. Một nguyên nhân khác khiến cho chất lượng lao động Việt Nam ở đây đáng báo động là có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lao động làm ăn theo kiểu chụp giật. Họ tuyển lao động ồ ạt từ những vùng sâu, vùng xa nhưng thiếu trang bị kiến thức, giáo dục định hướng cho họ trước khi đi nước ngoài làm việc. Một điều đáng lo ngại nữa là tình trạng phá vỡ hợp đồng vẫn còn diễn ra nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu để giải quyết. Ở một số thị trường truyền thống như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, tỷ lệ vi phạm hợp đồng của lao động nước ta vẫn cao ( khoảng 10 – 15%) làm ảnh hưởng tới uy tín của lao động Việt Nam. Hiện tượng các tổ chức, cá nhân lợi dụng để lừa đảo, thu tiền bất chính của người lao động đi xuất khẩu lao động vẫn còn. Đề án đưa người lao động đi làm việc nước ngoài đến năm 2015 của Chính phủ đang được thực hiện, theo đó cùng với việc nâng tỷ lệ đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài, mở rộng thị trường lao động, nâng cao chất lượng, thì siết chặt quản lý, nhất là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng được đặt ra cấp thiết. Ngoài ra vẫn còn một số hạn chế trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu lao động của nước ta còn hạn chế. Hiện nay nước ta vẫn đang tập trung chủ yếu vào việc xuất khẩu lao động ở các thị trường truyền thống và chưa có sự phát triển những thị trường mới trong bối cảnh mà thị trường truyền thống đang ngày càng bị thu hẹp.Nhiều thị trường nhiều tiềm năng như Anh, Mỹ, Canada, Pháp… nhưng chưa được chúng ta quan tâm và khai thác nên có tình trạng lao động Việt Nam đang dẫm chân lên nhau tại nhiều thị trường truyền thống. Hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu lao động vẫn còn có thái độ trông chờ, ỷ lại vào đối tác. Thiếu đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, kinh nghiệm về quản lý lao động, chưa chấp hành tốt những quy định về chế độ tuyển chọn, đào tạo, định hướng nhằm bảo vệ người lao động làm việc tại nước ngoài. Hoạt động đưa lao động xuất khẩu ở nước ngoài đang là một bức tranh với hai màu trắng đen đối lập. Một tình trạng khiến cho hình ảnh các công ty xuất khẩu lao động đang ngày càng xấu đi trong mắt người lao động đó là hiện tượng ngày càng có nhiều công ty, doanh nghiệp lừa đảo và thủ đoạn môi giới lừa đảo, tuyển dụng ngày càng tinh vi, phức tạp. Trong thời gian qua đã xuất hiện một số doanh nghiệp không có chức năng xuất khẩu lao động nhưng cũng làm công tác tư vấn và thu tiền bất hợp pháp của người lao động dưới danh nghĩa đưa đi học và làm việc tại nước ngoài. Một số tổ chức, cá nhân đã nhập nhằng lập nên những cái gọi là “trung tâm” hoặc “công ty cung ứng lao động”, mượn danh pháp hoặc mạo danh các doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động có chức năng xuất khẩu lao động với mục đích lừa đảo người lao động. Tình trạng lừa đảo xảy ra nhiều ở các thị trường tiềm năng, có thu nhập cao đang thực hiện thí điểm đặc biệt là ở những thị trường hấp dẫn như Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, Canada, Mỹ… Đáng chú ý là hơn 80% số vụ lừa đảo đều nhắm vào lao động có nhu cầu đi làm việc tại Hàn Quốc. Bên cạnh một số tổ chức, cá nhân hoạt động phi pháp, cò mồi, môi giới lừa đảo, còn có một số đối tượng người Hàn Quốc thông tin rằng họ có thể tác động tới các cơ quan có thẩm quyền của nước này để người lao động Việt Nam đã nộp hồ sơ đăng ký dự tuyển sớm được lựa chọn vào xuất cảnh đi làm việc tại Hàn Quốc. Thêm vào đó, mặc dù chương trình tu nghiệp sinh sang Hàn Quốc (do các doanh nghiệp xuất khẩu lao động tuyển chọn, đào tạo ngoại ngữ) đã hết hạn từ 1/1/2007, nhưng vẫn có rất nhiều người bị cò mồi lừa đảo thu tiền, hứa hẹn sẽ đưa đi theo dạng này. Nguyên nhân chủ yếu là do thông tin về xuất khẩu lao động chưa đến được với mọi người lao động, phần lớn người lao động không biết tiếp cận với cơ quan đơn vị nào để làm thủ tục đi làm việc ở nước ngoài. Ở một số địa phương,công tác quản lý hoạt động xuất khẩu lao động của cơ quan chức năng trên địa bàn chưa chặt chẽ, chưa kịp thời phát hiện, ngăn chặn những vụ việc lừa đảo người lao động. Bên cạnh đó,việc mở nhiều chi nhánh, trung tâm của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng khiến tình hình trở nên phức tạp hơn. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động cấp nhà nước với các cơ quan cấp địa phương và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Chính vì thế, các cơ quan quản lý chưa nắm rõ tình hình hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Từ đó, có phương hướng chỉ đạo hay sự chấn chỉnh kịp thời để công tác xuất khẩu lao động đạt hiệu quả cao hơn. Các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong lĩnh vực này chưa tổ chức việc cung cấp một cách có hệ thống thông tin thị trường lao động nước ngoài làm cơ sở cho hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp cũng như phổ cập hiểu biết cho người dân về xuất khẩu lao động. Các chính sách, văn bản về xuất khẩu lao động chưa bám sát thực tế và thường đi sau thực tế. Thủ tục xuất cảnh và các thủ tục khác có liên quan thường rườm rà, phức tạp gây mất nhiều thời gian và tiền của của người lao động. Công tác triển khai thực hiện, kiểm tra, thanh tra hoạt động xuất khẩu lao động được tiến hành chưa thực sự nghiêm túc và có hiệu quả. II. THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM 1. Những thành công và khó khăn ở thị trường truyền thống Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thì hiện nay có khoảng 1,5 triệu lao động của nước ta đang làm việc tại các thị trường lao động ở nước ngoài như: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, … Những người đi xuất khẩu lao động đã phần nào cải thiện được cuộc sống của gia đình họ và góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo của đất nước. Tuy nhiên trong những năm gần đây thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam đã có nhiều thay đổi lớn, nhiều thị trường được xem là “truyền thống” đang rơi vào tình trạng khó khăn. Thị trường lao động Đài Loan - một thị trường được xem là hấp dẫn với lao động Việt Nam, nhưng chủ yếu họ chỉ tiếp nhận những lao động có nghề, phải biết tiếng Hoa ở mức độ cơ sở và kèm theo đó là những quy định ngặt nghèo về sức khỏe. Mặc dù vậy ở thị trường này không có sự tác động về mặt nhà nước như những thị trường khác nên đã thu hút được nhiều lao động quan tâm. Theo đánh giá của Ủy ban lao động Đài Loan thì hiện nay lao động Việt Nam đang làm việc chủ yếu ở những ngành nghề như: điện tử, may mặc, dệt, chế tạo máy, giúp việc gia đình, thuyền viên đánh cá…(thống kê sơ bộ thì có khoảng 28 ngành nghề khác nhau). Mức lương hiện tại của lao động nước ta làm việc tại thị trường này khoảng từ 400 USD/người/tháng đến 1300 USD/người/tháng. Lao động Việt Nam được giới chủ tại Đài Loan đánh giá là cần cù, chăm chỉ và nhanh chóng hòa nhập với công việc Thị trường lao động Hàn Quốc là một thị trường khá dễ tính với lao động nước ngoài, nhưng họ chỉ tiếp nhận các tu nghiệp sinh đến Hàn Quốc làm việc, với tiêu chuẩn khá “thông thoáng” là có đủ sức khỏe, chăm chỉ làm việc, đủ trình độ tiếng Hàn và không cần phải có nghề vì họ muốn tự mình đào tạo công nhân theo tiêu chuẩn kĩ thuật của riêng mình. Cho đến nay tại Hàn Quốc có hơn 55000 tu nghiệp sinh và người lao động Việt Nam làm việc tại đây với mức lương từ khoảng 600 USD/người/tháng đến 1600 USD/người/tháng. Thị trường Malaysia đã từng được xem là “thị trường vàng” của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam, bởi những điều kiện tiếp nhận lao động khá dễ dàng, chi phí lao động phải bỏ ra ban đầu thấp. Chính vì vậy mà lao động Việt Nam đã chọn thị trường này để làm việc. Trong những năm đầu thì thị trường này là một thị trường tiềm năng cho ngành xuất khẩu lao động của Việt Nam, tuy nhiên trong những năm gần đây số lao động đăng kí đi làm việc ở Malaysia đã giảm đi đáng kể. Nguyên nhân chính là do thu nhập của người lao động quá thấp so với chi phí của họ phải trả. Hiện tại lao động Việt Nam làm việc tại Malaysia có mức lương bình quân khoảng 500000 RM/người/tháng tương đương khoảng 2,5 triệu VNĐ. Mức lương tối thiểu này đã phù hợp với pháp luật của nước sở tại nhưng không phù hợp với cuộc sống thực tế của người lao động. Theo nhiều chuyên gia cảnh báo thị trường lao động Malaysia có nguy cơ bị “xóa sổ” trong một tương lai không xa. Thị trường lao động Nhật Bản từ trước đến nay được xem là một điểm dừng chân lý tưởng cho lao động Việt Nam. Với mức thu nhập từ 700 USD/người/tháng đến 1500 USD/người/tháng đã thu hút nhiều lao động Việt Nam tham gia vào thị trường này. Tuy nhiên tại thị trường này có yêu cầu khắt khe với các lao động nhập cư: Người lao động phải biết tiếng Nhật, có tay nghề và đảm bảo sức khỏe để làm việc với cường độ cao. Chủ yếu thị trường này tiếp nhận các tu nghiệp sinh nhập cảnh làm việc để nâng cao tay nghề. Trong những năm gần đây do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nên chính phủ Nhật Bản đã giảm chỉ tiêu số lượng tu nghiệp sinh nhập cảnh vào nước này. Với nước ta thị trường lao động Nhật Bản là một thị trường cao cấp cho việc xuất khẩu lao động thì ngày càng trở nên eo hẹp và khó khăn hơn. Thị trường lao động trên biển là một thị trường lao động khá mới mẻ với lao động Việt Nam. Đặc điểm của thị trường này là đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyên môn kĩ thuật để đáp ứng được những yêu cầu khắt khe trong công việc trên biển. Hiện nay nước ta có khoảng 15000 người lao động làm việc trên biển với chủ yếu là máy 2, máy 3, phó 2, phó 3 và các chức danh thủy thủ hoặc thợ máy dưới tàu. Với mức thu nhập khoảng trên 1000 USD/người/tháng đã thu hút được nhiều lao động tham gia vào thị trường mới mẻ này. Tuy nhiên tại những thị trường truyền thống này chúng ta gặp không ít khó khăn do những nguyên nhân xuất phát chủ yếu từ người lao động như là tay nghề còn yếu kém, ý thức kỉ luật không cao. Theo ước tính của Cục quản lý lao động ngoài nước hàng năm có hàng nghìn lao động Việt Nam tự ý bỏ hợp đồng lao động đi làm việc ngoài do vậy nhiều thị trường lao động đã hạn chế tiếp nhận lao động Việt Nam. Bên cạnh đó những yêu cầu về trình độ tay nghề của lao động xuất khẩu ngày càng khắt khe hơn nên đây là một trở ngại lớn cho việc xuất khẩu lao động của Việt Nam tại những thị trường lao động truyền thống này. 2. Những khó khăn và bước đầu xâm nhập thị trường lao động mới Ngoài việc phải duy trì và phát triển thị trường lao động truyền thống đang ngày càng trở nên eo hẹp thì nước ta phải đẩy mạnh phát triển những thị trường lao động mới để đảm bảo giải quyết việc làm cho người lao động nước ta. Có rất nhiều doanh nghiệp đã có kế hoạch mở rộng thêm nhiều thị trường mới như Libi, Anh, Hy Lạp, Australia… mà từ trước tới nay nước ta chưa tập trung khai thác. Hiện nay tại thị trường lao động Libi có khoảng hơn 1000 lao động làm việc chủ yếu trong các lĩnh vực xây dựng và đánh bắt hải sản với mức thu nhập bình quân khoảng từ 300 USD/người/tháng đến 400 USD/người/tháng. Theo chủ tịch hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam Nguyễn Lương Trào cho biết phía Libi mong muốn được sớm kí kết hiệp định hợp tác lao động song phương giữa hai nước để tiếp nhận và bảo hộ cho lao động Việt Nam. Tuy vậy tại thị trường này thì lao động Việt Nam chưa đảm bảo sức khỏe cho công việc thuộc lĩnh vực này. Macao là một thị trường mới và khá hấp dẫn và “khá thoáng” cho xuất khẩu lao động của Việt Nam. Nhiều lao động Việt Nam làm việc chủ yếu trong các lĩnh vực dịch vụ như nhà hàng, khách sạn, thợ xây dựng, trang trí nội thất và giúp việc gia đình với mức lương từ 3 triệu đến 5 triệu VNĐ. Tuy nhiên tại thị trường này lao động Việt Nam chưa biết được chủ lao động của mình là ai sau khi đã nhập cảnh vào Macao. Chính vì vậy đã xảy ra tình trạng lao động nước ta sau khi nhập cảnh vào Macao rồi nhưng vẫn thất nghiệp. Tại Anh và Hy Lạp bước đầu lao động nước ta đã có việc làm ổn định và thu nhập khá cao, tuy nhiên số lượng lao động Việt Nam làm việc tại thị trường này chưa nhiều. Đặc biệt lao động nước ta được làm việc trong các nhà máy sản xuất công nghiệp, các công trường xây dựng lớn có liên doanh với nước ngoài và có điều kiện ăn ở sinh hoạt khá tốt. Australia là một thị trường lao động “mới toanh” cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động ở Việt Nam. Với mức lương khoảng 1500 – 2000 USD/người/tháng (VN Media ngày 12/4/2005). Thị trường này cũng thu hút nhiều lao động Việt Nam tham gia, hiện nay có khoảng hơn 2000 lao động Việt Nam làm việc trong các lĩnh vực như xây dựng, thu hoạch nông sản trong các trang trại… có điều kiện làm việc và ăn ở khá tốt. Bên cạnh đó còn nhiều thị trường tiềm năng như: thị trường lao động vận tải biển, Ixaren, Băng-la-đét…có mức thu nhập cao và điều kiện làm việc tốt đang được các doanh nghiệp xuất khẩu lao động nước ta khai thác. CHƯƠNG III: TRIỂN VỌNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM I. TRIỂN VỌNG VÀ MỤC TIÊU XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG 1. Triển vọng về xuất khẩu lao động của Việt Nam 1.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác xuất khẩu lao động Trong những năm qua xuất khẩu lao động ở nước ta đã đóng góp rất nhiều vào việc phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Chính vì vậy mà xuất khẩu lao động đã được quốc hội đánh giá là một hoạt động thường niên của mình nhằm chấn chỉnh những chính sách đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đang từng bước hoàn thiện hệ thống phát luật về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, hoạt động này tạo ra một khung pháp lý vững chắc và đầy đủ để bảo vệ người lao động. Từ năm 1996 đến nay Chính phủ đã ban hành 4 Nghị định và đến ngày 1/7/2007 Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã minh chứng cho điều đó. Chính phủ trực tiếp đàm phán với các nước tiếp nhận lao động Việt Nam để kí kết các thỏa thuận, hiệp ước về xuất khẩu lao động nhằm phối hợp quản lý, bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ cho lao động Việt Nam. Trong thời gian gần đây Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch - Đầu tư vừa hoàn tất dự thảo đề án “Dạy nghề xuất khẩu lao động đến năm 2015” và đang tiến hành lấy ý kiến của các địa phương trước khi trình Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu của đề án là đến năm 2010 lao động xuất khẩu được đào tạo nghề chiếm tỉ lệ tối thiểu 75%; đến năm 2015 chủ yếu xuất khẩu lao động có nghề, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và chuyên gia; 100% lao động xuất khẩu được đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng về pháp luật, phong tục tập quán của nước tiếp nhận lao động. Khi dự án này được đưa vào áp dụng trong thực tế sẽ góp phần nâng cao chất lượng của lao động nước ta và sẽ củng cố được thương hiệu lao động Việt Nam trên thị trường lao động thế giới. Tổ chức bảo vệ quyền lợi người lao động làm việc ở nước ngoài. Chính phủ Việt Nam giao cho các đại diện Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người lao động. Tại các nước có nhiều lao động Việt Nam làm việc, đã thành lập các Ban Quản lý lao động trong cơ quan đại diện để thực hiện nhiệm vụ này. Ngoài ra, luật pháp Việt Nam cũng quy định các doanh nghiệp làm dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài phải có trách nhiệm cử đại diện ở các nước nhận lao động để bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Hỗ trợ người lao động có đủ năng lực và kiến thức cần thiết để có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình khi làm việc ở nước ngoài. Mọi người đi làm việc ở nước ngoài được đào tạo, bồi dưỡng về tay nghề, kiến thức pháp luật, phong tục tập quán, cách ứng xử trong công việc và cuộc sống của nước sẽ đến làm việc. Xây dựng lộ trình sắp xếp, phát triển doanh nghiệp xuất khẩu lao động theo định hướng, tiêu chí của Luật đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đặc biệt là đầu tư phát triển cơ sở đào tạo của doanh nghiệp để chủ động tạo nguồn lao động có chất lượng theo yêu cầu của thị trường, xây dựng thương hiệu, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có cơ chế biện pháp cụ thể để hỗ trợ người lao động, người nghèo vay vốn, học nghề, làm thủ tục xuất khẩu lao động. 1.2 Những triển vọng về xuất khẩu lao động Triển vọng về nguồn lao động cho xuất khẩu Dân số là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy xuất khẩu lao động. Nước ta hiện nay đang đang sở hữu một lực lượng lao động dồi dào và đa dạng. Đến năm 2009 dân số nước ta là 85.789.573 người trong đó dân số trong độ tuổi lao động là 66% trong tổng dân số. Đây là một lực lượng đóng góp rất nhiều vào hoạt động phát triển kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Hàng năm nước ta có khoảng hơn 1,8 triệu người tham gia mới vào thị trường lao động trong khi đó số người về hưu hàng năm khoảng 700 nghìn người. Điều đó cho thấy nguồn cung lao động của nước ta ngày càng tăng trong khi cầu về lao động trong nước không đủ đáp ứng. Với những đặc điểm đó lao động nước ta hiện đang thiếu việc làm trầm trọng. Chính vì vậy triển vọng cho xuất khẩu lao động là rất lớn. Dựa trên đặc điểm về lao động của nước ta hiện tại thì Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đang xúc tiến quá trình đào tạo nghề cho lao động xuất khẩu nhằm phát triển chất lượng lao động xuất khẩu của nước ta. 1.2.2 Triển vọng về thị trường tiếp nhận lao động nước ta Trong những năm gần đây xuất khẩu lao động của nước ta đã có những bước tiến rõ rệt đó là nhờ sự phối hợp và hỗ trợ của các cơ quan liên quan và với sự năng động, nhạy bén bằng nhiều biện pháp do vậy chất lượng lao động nước ta từng bước được cải thiện. Chính phủ phối hợp với các bộ ngành liên quan đã có nhiều hoạt động mở rộng và củng cố thị trường xuất khẩu lao động: Khu vực Châu Á tập trung chủ yếu ở các thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Singapo, Malaysia, … các thị trường này sẽ tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam trong những năm tới. Năm 2010 thị trường Châu Á được xem là “thị trường vàng” của xuất khẩu lao động Việt Nam. Khu vực Bắc Mỹ: Tập trung chủ yếu là Mỹ và Canada, đây là 2 thị trường tiềm năng đang thu hút nhiều lao động Việt Nam. Theo hiệp hội Xuất khẩu lao động Việt Nam thì phía Việt Nam đang đàm phán để đưa người lao động Việt Nam sang làm việc tại các thị trường cao cấp này. Thị trường Châu Âu: Nhiều thị trường có lao động Việt Nam tham gia là Đức, Anh, Pháp, Czech, … đang được khai thác một cách triệt để. Thị trường Trung Đông: Chủ yếu là thị trường ở Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE), Ko-oét, Libi… bước đầu đi vào hoạt động và có hiệu quả cao. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Ngoại giao chỉ đạo các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài thu thập các thông tin về tình hình và nhu cầu lao động của nước ngoài xúc tiến mở rộng thêm các thị trường lao động mới. 2. Mục tiêu về xuất khẩu lao động 2.1. Những phương hướng và mục tiêu trước mắt cho xuất khẩu lao động của Việt Nam trong năm 2010 Về công tác phát triển thị trường ngoài nước: Trong thời gian tới, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội vẫn tập trung phát triển các thị trường truyền thống đã và đang nhận lao động Việt Nam với số lượng lớn như Trung Đông, Đài Loan, Malaysia, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đây là những thị trường luôn tiếp nhận số lượng lớn lao động Việt Nam với yêu cầu không quá cao về tay nghề, ngoại ngữ, phù hợp với lao động Việt Nam. Cụ thể là: Malaysia vẫn là thị trường có khả năng tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam. Trong năm 2010, để đẩy mạnh số lượng lao động đưa sang làm việc tại Malaysia cần phải làm tốt: Thẩm định các hợp đồng tốt, ổn định, ít rủi ro, hướng dẫn các doanh nghiệp ký kết, triển khai đưa lao động đi; Hỗ trợ doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan chính quyền, đoàn thể ở địa phương tổ chức tư vấn, tuyển chọn lao động đi làm việc tại Malaysia. Cung cấp cho người lao động thông tin đầy đủ, khách quan về thị trường để người lao động đăng ký đi làm việc tại Malaysia; Theo dõi, giải quyết tốt, kịp thời các vấn đề phát sinh, bảo đảm quyền lợi của người lao động, không để các vụ việc kéo dài, gây ảnh hưởng xấu tới người lao động và dư luận. Trung Đông là thị trường trọng điểm đưa lao động đi trong những năm tới. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục chỉ đạo triển khai chương trình đưa 4.000 lao động sang làm nhân viên bảo vệ tại UAE. Đây là chương trình hợp tác giữa Chính phủ hai nước nên nếu thực hiện tốt sẽ là cơ sở để tiếp tục mở rộng hợp tác lao động giữa hai nước. Bên cạnh đó, Ả rập Xê út cũng là quốc gia Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội dự kiến tăng cường đầu tư, khai thác để đưa lao động sang làm việc. Để đưa được nhiều lao động sang Trung Đông, sẽ triển khai thực hiện các giải pháp sau: Mở rộng công tác hỗ trợ đào tạo các nghề có nhu cầu cao tại thị trường như nghề hàn 3G, 6G; các nghề xây dựng, cơ khí, dịch vụ; Hỗ trợ đào tạo ngoại ngữ và nghề trong các lĩnh vực khác cũng có nhu cầu như du lịch, khách sạn, thương mại bán lẻ. Thị trường Đài loan vẫn là một thị trường trọng điểm, đang có nhu cầu tiếp nhận lao động Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất chế tạo và khán hộ công trong viện dưỡng lão. Tuy nhiên, Đài Loan vẫn chưa nhận trở lại lao động làm việc trong lĩnh vực thuyền viên tàu cá biển gần và giúp việc gia đình. Trong năm 2010, Bộ sẽ tiếp tục chỉ đạo, xúc tiến tổ chức Hội nghị lao động với Đài Loan, từ đó mở rộng số doanh nghiệp và các ngành nghề lao động phía Đài Loan tiếp nhận để nâng cao thị phần lao động Việt Nam tại Đài Loan. Sau khi được dỡ bỏ cấm vận, Libya hiện đang có nhu cầu xây dựng lại đất nước nên khả năng tiếp nhận lao động nước ngoài vào làm việc cao, dự kiến từ 30 – 40 nghìn lao động/năm. Hiện nay, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang chỉ đạo xây dựng phương án triển khai thị trường Libya để mở rộng một cách bền vững theo phương châm đưa lao động đi phù hợp với khả năng quản lý. Hàn Quốc trong những năm vừa qua là nước mà nhiều người lao động Việt Nam mong muốn được đến làm việc. Số lượng lao động Việt Nam được ký hợp đồng và sang làm việc tại Hàn Quốc luôn đứng đầu trong số các nước đưa lao động sang Hàn Quốc. Trong năm 2010, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các cơ quan hữu quan của Hàn Quốc tiếp tục quảng bá về lao động Việt Nam, thúc đẩy việc tổ chức kiểm tra tiếng Hàn dành cho lao động có nguyện vọng sang làm việc tại Hàn Quốc. Với sự hồi phục của nền kinh tế Hàn Quốc và sự cố gắng của Việt Nam, số lượng lao động được đưa sang làm việc tại Hàn Quốc trong năm 2010 có thể sẽ tăng hơn nhiều so với năm 2009. Chỉ đạo các doanh nghiệp phái cử tu nghiệp sinh sang Nhật Bản thực hiện theo quy định mới của phía Nhật Bản; Đẩy mạnh việc hợp tác chương trình đưa tu nghiệp sinh sang Nhật Bản với tổ chức IMM, dành đáng kể chỉ tiêu của chương trình cho những đối tượng huyện nghèo; Xúc tiến đàm phán sớm để ký kết Hiệp định về đưa lao động sang Nhật Bản trong khuôn khổ Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản và chuẩn bị điều kiện, đào tạo chuẩn bị nguồn lao động triển khai chương trình này. Ngoài các thị trường trên, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tiếp tục chỉ đạo các cơ quan và doanh nghiệp xuất khẩu lao động tập trung khai thác hợp đồng đưa lao động trình độ cao sang các nước như Úc, New Zealand, Canada cũng như các hợp đồng nhận lao động thời vụ (thu hái hoa quả) tại các nước châu Âu như Phần Lan, Thuỵ Điển… Bên cạnh đó Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cũng tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; Rà soát để đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành phù hợp với tình hình thực tế. Ngoài ra trong năm 2010, tiếp tục triển khai các chương trình hỗ trợ đào tạo lao động xuất khẩu, bao gồm: Hỗ trợ đào tạo một số nghề đặc thù, nghề đòi hỏi kỹ thuật cao mà thị trường lao động quốc tế có yêu cầu; hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nghèo đi làm việc ở nước ngoài. Tiếp tục chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác đào tạo người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài, đảm bảo tất cả người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài đều được tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức cần thiết về phong tục, tập quán, pháp luật có liên quan của nước tiếp nhận lao động và tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp phối hợp với các cấp chính quyền tuyển chọn, đào tạo đủ nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua việc cung cấp thông tin, tổ chức tư vấn tại địa phương để người lao động có đủ thông tin khách quan tham gia xuất khẩu lao động. Về công tác quản lý lao động: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với các bộ ngành liên quan tăng cường công tác quản lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động làm việc ở nước ngoài. Ngoài việc tăng cường công tác quản lý của các cơ quan đại diện, của Ban Quản lý lao động, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ xây dựng để thực hiện cơ chế quản lý lao động của doanh nghiệp phù hợp với từng thị trường tiếp nhận lao động, bảo đảm quản lý chặt chẽ, bảo vệ tốt quyền lợi của người lao động, kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động xuất khẩu lao động, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, đặc biệt là tăng cường công tác quản lý của các cấp chính quyền địa phương đối với hoạt động tuyển chọn lao động trên địa bàn, ngăn ngừa, xử lý kịp thời các hành vi lừa đảo trong xuất khẩu lao động. Tăng cường công tác phổ biến luật, các văn bản quy định của pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động tới người dân, đặc biệt đối với các đối tượng là người lao động ở các huyện nghèo. Trong năm 2010, Bộ sẽ tiếp tục đẩy nhanh tiến độ triển khai rộng khắp Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững, mục tiêu đưa khoảng 7000 lao động các huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài. 2.2. Những phương hướng và mục tiêu cho xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2015 Theo quyết định 71/2009/QĐ – TTg về việc phê duyệt đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2009 – 2020 thì trong giai đoạn này nước ta tiếp tục đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Trong giai đoạn này tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, giáo dục lao động trước khi đi. Đào tạo nghề được coi là một vấn đề ưu tiên hàng đầu trong việc phát triển thị trường lao động Việt Nam hiện nay. Cần tăng cường nguồn lao động có chất lượng, có ngoại ngữ. Đào tạo kĩ năng, kỉ luật lao động và tác phong làm việc cho người lao động. Tập trung khai thác những thị trường có chuyên môn. Có như vậy chúng ta mới đưa lao động đi làm việc ở những thị trường mới có thu nhập cao hơn. Bên cạnh đó tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền đến các địa phương về quyết đinh 71/2009/QĐ – TTg. Theo đó các tỉnh thành cần rà soát, bổ sung đề án xuất khẩu lao động với các nội dung bao gồm: thông tin, tuyên truyền chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, quy chế, quy trình xuất khẩu lao động dễ hiểu, với các hình thức phù hợp đến tận từng thôn bản. Song song với đó Chính phủ phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các bộ ngành liên quan xây dựng lộ trình sắp xếp, phát triển doanh nghiệp xuất khẩu lao động theo định hướng, tiêu chí của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đặc biệt là đầu tư phát triển cơ sở đào tạo của doanh nghiệp để chủ động tao ra nguồn lao động có chất lượng cao phù hợp với thị trường, xây dựng thương hiệu, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Tiếp tục xây dựng cơ chế, biện pháp cụ thể để hỗ trợ người lao động, người nghèo vay vốn, học nghề, làm thủ tục xuất khẩu lao động. Tiếp tục tăng cường công tác mở rộng thị trường xuất khẩu, và tăng cường hợp tác lao động với các nước trong khu vực Châu Á, kí kết các hợp định hợp tác về lao động để bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam khi làm việc ở nước ngoài. Tiếp tục xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc để làm căn cứ để phát triển các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và người lao động đi làm việc ở nước ngoài. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP Từ các định hướng nêu trên, để thực hiện có hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động đòi hỏi phải có các giải pháp thiết thực. 1 Các giải pháp với cơ quan quản lý Nhà nước 1.1 Sửa đổi bổ sung cơ chế quản lý Thiết lập quan hệ với các quốc gia có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài. Do Nhà nước đóng vai trò quyết định cho sự ổn định và phát triển xuất khẩu lao động Nên ngoài chức năng xác định chủ trương, định hướng và chiến lược thì còn có vai trò hết sức to lớn trong việc mở rộng thị trường lao động ngoài nước. Cần hình thành hệ thống tùy viên lao động để tham mưu tư vấn cho Nhà nước các hiệp định khung hoặc các thỏa thuận nguyên tắc để tạo tiền đề cho các doanh nghiệp ký kết thực các hợp đồng cụ thể như ở các nước xuất khẩu lao động truyền thống, có thể thấy vai trò của tùy viên lao động rất quan trọng, có tính quyết định cho việc thâm nhập, cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường. 1.2 Xác định rõ vai trò và trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan và chính quyền các cấp trong xuất khẩu lao động Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội là cơ quan chính phủ, thống nhất quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động có trách nhiệm: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, khai thác thị trường lao động quốc tế nhằm hình thành một hệ thống thị trường sử dụng lao động Việt Nam ổn định và phát triển. Nghiên cứu và tổ chức triển khai các chính sách, chế độ về xuất khẩu lao động. Tổ chức quản lý, kiểm tra đồng thời chỉ đạo và hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp triển khai công tác xuất khẩu lao động theo đúng Luật lao động. Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội thiết lập thúc đẩy và tăng cường quan hệ hợp tác song phương với các nước có khả năng thu hút lao động và chuyên gia Việt Nam. Bộ Công an phối hợp với Bộ Tư pháp chỉ đạo các cấp triệt để cải cách hành chính trong các thủ tục, đảm bảo, thuận lợi nhanh chóng tránh phiền hà cho người lao động và chuyên gia. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ thông tin và truyền thông, Bộ Công thương….và chính quền các cấp theo chức năng của mình đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động trong phạm vi thuộc Bộ, ngành địa phương mình theo quy định của Nhà nước, chỉ đạo các tổ chức kinh tế xuất khẩu lao động tổ chức tốt đời sống văn hóa tinh thần cho người lao động và chuyên gia Việt Nam làm việc ở nước ngoài. 1.3 Công tác thanh tra, kiểm tra Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội ban hành quy chế và hướng dẫn công tác thanh tra và kiểm tra về xuất khẩu lao động và chuyên gia, tiến hành thanh tra, kiểm tra, kiểm tra định kỳ và đột xuất. Các Bộ, Ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương quản lý, thanh tra, kiểm tra hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi,vi phạm liên quan đến xuất khẩu lao động. 1.4 Đẩy mạnh xuất khẩu lao động trên nhiều lĩnh vực Xây dựng, đánh bắt thủy sản, thợ mộc, cơ khí, xây dựng… là những lĩnh vực được xem là truyền thống đối với lao động xuất khẩu của Việt Nam. Trong những năm gần đây thì các lĩnh vực truyền thống đã không ngừng tăng về số lượng xuất khẩu lao động mà còn tăng cả về chất lượng nguồn lao động xuất khẩu. Với sự phát triển về nhu cầu cuộc sống như ngày nay thì ngoài việc phát triển các lĩnh vực truyền thống cần phải chú ý các lĩnh vực mới mà lao động Việt Nam có thể đáp ứng tốt như, nhân viên tạp vụ nhà hàng, công nhân làm trong các khu công nghệ cao, sản xuất hàng trang trí nội thất cao cấp… Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có thể liên kết với các cơ sở dạy nghề, trường dạy nghề để đào tạo nguời lao động trên các lĩnh vực mới này để có thể đáp ứng tốt cho các đối tác nước ngoài tiếp nhận lao động Việt Nam. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, chuyên gia có kiến thức, trình độ tay nghề thông thạo ngoại ngữ để giải quyết các tranh chấp trong lao động với giới chủ nước ngoài. 1.5 Giảm chi phí xuất khẩu lao động Tiếp tục sửa đổi và giảm các thủ tục rờm rà để giảm các chi phí đi xuất khẩu lao động xuống tối thiểu và có những chính sách ưu đãi với những người thuộc diện đặc biệt như gia đình chính sách, người nghèo,… nhằm thu hút tối đa lực lượng lao động ở nông thôn, vùng núi để góp phần cải thiện đời sống của gia đình họ. 2 Các giải pháp với doanh nghiệp xuất khẩu lao động Phải xây dựng cho được một đội ngũ doanh nghiệp xuất khẩu lao động mạnh, là đội quân tiên phong trong khâu khai thác thị trường mới, cạnh tranh với các nước xuất khẩu lao động khác, tham gia đấu thầu quốc tế làm nền tảng và dọn đường cho đội ngũ doanh nghiệp phía sau thâm nhập thị trường. Muốn vậy phải tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp này. Trước mắt, chúng ta cần đầu tư vốn, phương tiện hoạt động, xây dựng bộ máy, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác xuất khẩu lao động có khả năng tiếp cận và tìm kiếm thị trường. Các cơ quan chủ quản và các cơ quan quản lý Nhà nước cần hỗ trợ về vốn và về cán bộ để đầu tư xây dựng các tổ chức kinh tế tham gia vào xuất khẩu lao động trở thành các tổ chức kinh tế mạnh, có đủ kinh nghiệm và khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu lao động quốc tế, xây dựng một số tổ chức kinh tế thành công ty đấu thầu quốc tế. Ban hành các chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong các lĩnh vực tài chính, như cho vay với lãi suất thấp, xây dựng chi phí môi giới hoa hồng linh hoạt để tạo thế chủ động cho doanh nghiệp trong việc tìm được hợp đồng xuất khẩu lao động. Giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp nghiên cứu thành lập Hiệp hội xuất khẩu lao động và chuyên gia để các doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài có sự phối hợp chặt chẽ với nhau và bảo vệ quyền lợi cho nhau trước sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. Nâng cao điều kiện, tiêu chuẩn cấp giấy phép hoạt động cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động: nâng vốn điều lệ lên 7 tỷ đồng; Về cán có ít nhất 7 cán bộ có trình độ đại học kinh tế, pháp luật, ngoại ngữ, doanh nghiệp phải có cơ sở đào tạo quy mô trên 100 học viên nội trú trở lên và dành một phần chi phí cho đào tạo lao động. Các doanh nghiệp tự nâng cao năng lực và khả năng chuyên môn bằng cách tự đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân viên của mình. Trong quá trình đào tạo cần bám sát các chỉ tiêu chuẩn đã được xây dựng trước cho từng vị trí công việc để đáp ứng yêu cầu của hoạt động xuất khẩu lao động trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa. Bên cạnh việc nâng cao năng lực của doanh nghiệp, cần phải thu hồi giấy phép đối với các doanh nghiệp hoạt động thiếu năng lực và không có hiệu quả, sáp nhập giải thể các doanh nghiệp có nhiều đầu mối xuất khẩu lao động. Xử lý triệt để và nghiêm minh đối với các trường hợp hoạt động phi pháp, tuyển chọn lao động thông qua cò mồi, trung gian gây thiệt hại cho người lao động và xã hội. 3 Các giải pháp đối với công tác đào tạo xuất khẩu lao động Ở nước ta hiện nay, nguồn lao động thì nhiều nhưng đáp ứng tốt các yêu cầu về chuyên môn, sức khỏe,…còn hạn chế. Do vậy cần phải tăng cường công tác đào tạo lao động xuất khẩu để đáp ứng cho thị trường. Và công tác đào tạo nguồn lao động được coi là yếu tố quyết định ảnh hưởng đến vấn đề này. Nếu thực hiện không tốt công tác này, người lao động sẽ không đủ khả năng, trình độ đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động và từ đó có thể dẫn đến việc không hoàn thành tốt trách nhiệm đề ra, gây thiệt hại, vi phạm hợp đồng… ảnh hưởng xấu đến uy tín, lợi ích của doanh nghiệp và xa hơn nữa là chiến lược xuất khẩu lao động của Nhà nước. Do đó cần có sự quản lý, hướng dẫn chặt chẽ của Nhà nước cho doanh nghiệp thực hiện: Đối với Nhà nước: Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo nguồn lao động xuất khẩu, cùng doanh nghiệp đầu tư xây dựng các cơ sở, trung tâm dạy nghề… chú trọng phát triển những nghề mà có nhu cầu cao của người sử dụng lao động. Nâng cao chất lượng đào tạo giáo dục phổ thông để khi ra trường, lực lượng này đủ khả năng, điều kiện về ngoại ngữ tham gia xuất khẩu lao động. Từng khu vực, ngành nghề có từng chương trình giảng dạy riêng. Đào tạo chuyên môn, kiến thức phải đi kèm đạo tạo về ý thức kỷ luật trách nhiệm cho người lao động Bổ sung cho người lao động về pháp luật Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phải thường xuyên hướng dẫn cho chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người lao động về định hướng, thông tin các thị trường một cách cụ thể. Và điều cuối cùng là cần phải làm cho người lao động thấy được ý nghĩa, vai trò to lớn, trách nhiệm của họ đối với quê hương, đất nước, doanh nghiệp và gia đình khi họ được chọn ra nước ngoài làm việc. 4 Các giải pháp hậu xuất khẩu lao động Sau khi người lao động kết thúc hợp đồng trở về nước thì cần giải quyết các vấn đề liên quan như là: Giải quyết việc làm cho họ khi họ trở về nước vì sau một thời gian làm việc ở nước ngoài họ đã được trang bị kỹ năng nghề nghiệp nên cần sắp xếp, bố trí công việc phù hợp với tay nghề, trình độ của họ. Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp luật quản lý những người lao động đi làm việc ở nước ngoài trở về để có thể giải quyết việc làm được tốt hơn. PHẦN KẾT LUẬN Trong giai đoạn toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức sôi động và mạnh mẽ như ngày nay thì việc giải quyết việc làm cho người lao động đang là một vấn đề cấp thiết. Xuất khẩu lao động là một xu hướng khách quan cho các nước đang phát triển mà có cơ cấu dân số trẻ như Việt Nam. Cùng với sự tăng tốc của các cường quốc mạnh và những phát minh khoa học công nghệ tiên tiến tối ưu thì ngoài việc học hỏi tiếp thu các thành tựu của nước bạn, chúng ta cần đem chính những nhân công Việt Nam sang tận các nước đó để tiếp thu những kỹ năng nghề nghiệp và trình độ chuyên môn nước sở tại. Bởi nếu được trực tiếp quan sát, làm việc thì chúng ta sẽ nhanh chóng lĩnh hội tốt hơn. Đồng thời xuất cảnh làm cho người lao động Việt Nam có cơ hội mở rộng tầm nhìn toàn cảnh nền kinh tế thế giới, để rồi cải thiện cuộc sống người lao động, gây dựng viễn cảnh tương lai tươi sáng hơn cho chính mình và tương lai phồn thịnh của đất nước mình Đề tài đã tổng hợp các phương pháp để trình bày và phân tích một cách chi tiết về các vấn đề liên quan đến xuất khẩu lao động của nước ta. Bên cạnh đó là hệ thống hóa những vấn đề cơ bản có liên quan đến việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài như: nguồn nhân lực, nguồn lao động, sức lao động, việc làm, thất nghiệp, thị trường lao động, xuất khẩu lao động…. Bên cạnh đó đề tài còn phân tích những số liệu về số lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài và cơ cấu ngành nghề khi xuất khẩu để thấy được những thành tựu và hạn chế của xuất khẩu lao động ở nước ta để đưa ra những giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu lao đông ở Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp xuất nhập khẩu lao động Việt Nam.doc