Hoàn thiện các công cụ quản lý đối với tài nguyên đầm phá, đặc biệt là
các công cụ về kiểm soát chất lượng môi trường và thuế tài nguyên. Bên cạnh
những yếu tố cơ bản về xác định quyền sở hữu và phát huy tính tự chủ trong
quản lý của cộng đồng, nhà nước cần tíchcựchỗ trợ cho các quá trình đó thông
qua các can thiệp của mình. Việc quản lý tài nguyên sẽ dễ dàng rơi vào thất bại
nếu người sử dụng không có đủ kiến thức và nhận thức về ảnh hưởng ngoại lai
(externalities) mà mình gây ra. Để khắc phục thất bại thị trường này, nhà nước
nghiên cứu triển khai nhiều hơn nữa các công cụ quản lý hiệu quả.
14 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3233 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và một số giải pháp cho hoạt động đánh bắt thủy sản tự nhiên tại đầm phá Tam Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
13
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG ĐÁNH
BẮT THỦY SẢN TỰ NHIÊN TẠI ĐẦM PHÁ TAM GIANG
Nguyễn Ngọc Châu
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế
I. Giới thiệu về hệ đầm phá Tam Giang và hoạt động đánh bắt thủy
sản tự nhiên (ĐBTN)
Với chiều dài gần 70 km và diện tích xấp xỉ 22 ngàn hecta - chiếm 4,3%
tổng diện tích tỉnh Thừa Thiên Huế hay 17,2% diện tích đồng bằng ven biển, hệ
đầm phá Tam Giang - Cầu Hai là một lagoon ven bờ có diện tích lớn nhất vùng
Đông Nam Á và là một trong những lagoon có bề mặt vực nước lớn nhất thế
giới. Xét riêng về giá trị thủy sản, hệ đầm phá là nơi gặp gỡ, giao thoa của hai
môi trường sống khác biệt nhau tạo nên sự đa dạng về sinh học. Hệ đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai lưu giữ một nguồn gen khá phong phú gồm hơn 600 loài, trong
đó có 43 loài rong có thể dùng cho công nghiệp sản xất agar hoặc làm phân bón,
12 loài tôm, 18 loài cua và nhiều loài thân mềm có giá trị khác. Nhiều loài tôm
có giá trị thực phẩm cao như tôm sú, tôm lớt, tôm rằn, tôm rảo, trìa, vẹm xanh,
ngao.... Hơn 200 loài cá trong đó có đến 23 loài có giá trị thương phẩm cao như
cá dầy, cá đối mục, cá dìa, cá mòi cờ chấm, cá sạo chấm, cá đù bạc,... [5].
Hàng năm, trung bình tại đầm phá Thừa Thiên Huế khai thác xấp xỉ được
khoảng 2.500 đến 3.000 tấn thủy sản cá, tôm, cua các loại [6]. Từ số liệu về tiềm
năng cũng như sản lượng thực tế của nghề đánh bắt thủy sản tại vùng đầm phá có
thể cho thấy giá trị kinh tế to lớn từ hoạt động này. Cũng theo số liệu của Sở
Thủy sản, hiện nay đang có khoảng 9.726 người đang tham gia vào hoạt động
13
khai thác này, chiếm tỷ lệ khoảng 26,6% trong tổng số lao động thủy sản và
khoảng 7,05% lao động toàn vùng đầm phá. Tuy nhiên, hiện nay đang có hàng
loạt vấn đề đặt ra cho các cấp quản lý trong chính quyền, trong đó nghiêm trọng
nhất là tình trạng nguồn lợi thủy sản đang bị suy giảm nghiêm trọng. Thực trạng
này đòi hỏi phải có các nghiên cứu để tìm ra giải pháp cần thiết cho hoạt động
đánh bắt tự nhiên.
II. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu, hợp phần này là một sự kết hợp giữa nghiên
cứu thăm dò (exploratory) và nghiên cứu giải thích (explainatory).
Nguồn số liệu của hợp phần bao gồm cả hai nguồn tài liệu sơ cấp và tài
liệu thứ cấp là những bài báo khoa học, các tham luận trong hội thảo quốc gia về
đầm phá, các số liệu thống kê của các Sở, Ban, Ngành có liên quan tại tỉnh Thừa
Thiên Huế như Cục Thống kê, Sở Khoa học – Công nghệ, Sở Tài nguyên – Môi
trường, Sở Thủy sản.
Về nguồn số liệu sơ cấp được thu thập thông qua hai công cụ chủ yếu, đó
là: điều tra bằng bảng hỏi với quy mô mẫu là 335 hộ chuyên nghề đánh bắt thủy
sản phân bố trên 8 xã, tiến hành các cuộc điều tra đánh giá nông thôn có sự tham
gia (PRA) tại 4 xã trong phạm vi đầm phá Tam Giang, phỏng vấn chuyên sâu đối
với các nông dân quan trọng tại cộng đồng.
Về phương pháp phân tích, chúng tôi sử dụng kết hợp phương pháp thống
kê kinh tế (định lượng) và các phương pháp phân tích định tính trong phát triển
nông thôn.
III. Kết quả nghiên cứu
3.1. Thực trạng và giá trị từ hoạt động ĐBTN
13
Hoạt động đánh bắt tự nhiên trên đầm phá Tam Giang có rất nhiều sản
phẩm, tuy nhiên trong đó có hai loại sản phẩm chính đó là: tôm và cá. Đây là hai
loại sản phẩm có số người tham gia khai thác nhiều nhất đồng thời đem lại thu
nhập cao và ổn định nhất. Do đó, để mô tả thực trạng hoạt động đánh bắt chúng
tôi tập trung vào hai hoạt động này.
3.1.1.Giá trị thủy sản được đánh bắt bình quân hộ/năm
Trong phần này, chúng tôi xác định giá trị đánh bắt thủy sản bình quân hộ.
Tổng giá trị đánh bắt thủy sản trong năm của hộ, được tính bằng giá trị đánh bắt
bình quân ngày nhân với tổng số ngày tham gia đánh bắt trong năm, tính cho
từng loại sản phẩm.
Bảng 1: Giá trị đánh bắt thủy sản bình quân hộ/năm (1000đ)
Chỉ tiêu Giá trị đánh bắt
trung bình/ ngày
Tổng số
ngày đánh
Tổng giá trị
đánh bắt
- Cá (T12 – T8) 25,19 221,4 5.577,06
- Tôm (T2-6) 55,24 116 6.407,84
Giá trị đánh bắt/ngày trong vụ
- Cá 12,59 46,5 585,43
- Tôm 20,56 107,1 2.201,97
Giá trị đánh bắt trong cả năm
- Cá 6.162,50
- Tôm 8.609,81
Tổng giá trị đánh bắt cả năm/hộ 14.772,32
Nguồn: Điều tra thực tế, 2005
Từ số liệu điều tra cho thấy, vào thời điểm chính vụ sản phẩm tôm có thể
cho một giá trị sản lượng (khoảng 55.000 đồng) cao hơn nhiều so với cá (khoảng
13
25.190 đồng). Điều này có thể được giải thích bởi giá bán của tôm khá cao, trong
khi đó sản phẩm cá đánh bắt được bao gồm rất nhiều loại trong đó có những loại
giá trị kinh tế không cao. Từ số liệu về giá trị đánh bắt này của các loại sản
phẩm, giá trị sản lượng cả năm bình quân một hộ khai thác tự nhiên được ước
tính là: 6.162.500 đồng cho cá, 8.609.810 đồng cho tôm và tổng giá trị sản lượng
là: 14.772.320 đồng/năm.
Bảng 2: Chi phí hoạt động đánh bắt thủy sản bình quân hộ/năm (1000đ)
Chỉ tiêu Số trung bình Độ lệch chuẩn
Tổng chi phí đánh bắt
Trong đó:
4725,0 4096,0
- Lao động thuê ngoài 122,3 703,0
- Xăng dầu 2124,1 2322,3
- Sửa chữa, mua sắm ngư cụ 2388,2 2704,8
- Lệ phí 47,6 99,5
- Chi phí khác 42,8 194,2
Nguồn: Điều tra thực tế, 2005
13
Để phục vụ cho việc đánh bắt thủy sản có một số chi phí thường phát sinh
như trên (trong báo cáo này, chúng tôi chỉ đề cập đến các loại chi phí bằng tiền).
Trong các khoản chi phí dành cho khai thác có hai khoản chi phí chiếm tỷ trọng
cao trong tổng chi phí bằng tiền phát sinh, đó là chi phí cho xăng dầu (chiếm
44,95%) và chi phí cho việc sửa chữa, mua sắm ngư lưới cụ (chiếm 50,44%).
Hằng năm vào dịp không chính vụ người dân có một đợt tu sửa nò sáo, vá lưới,
thay cọc,… và sau đó, cứ khoảng hai năm các hộ lại có một đợt sửa chữa và thay
thế mới phần lớn trộ nghề của mình. Ngoài ra, hầu như các hộ đánh bắt đều có
thuyền máy và phải sử dụng hàng ngày nên chi phí cho xăng, dầu, mỡ là khoản
chi phí lớn thứ hai. Nhìn chung, tổng chi phí bằng tiền cho việc khai thác thủy
sản bình quân một hộ gia đình trong cả năm là 4.725.000 đồng.
Bảng 3:Thu nhập từ hoạt động ĐBTN bình quân hộ/năm (1000đ)
Chỉ tiêu Số trung bình Độ lệch chuẩn
Giá trị sản lượng đánh bắt/năm 14.772,3 12.340,54
Chi phí hoạt động đánh bắt/năm 4.725,0 4.096,05
Thu nhập từ hoạt động
ĐBTN/năm
10.047.3
Nguồn: Điều tra thực tế, 2005
Như vậy, kết hợp số liệu về tổng giá trị sản lượng và tổng chi phí bằng
tiền phát sinh, thu nhập bình quân từ hoạt động ĐBTN của một hộ chuyên khai
thác thủy sản tại vùng đầm phá Tam Giang là 10.047.300 đồng/năm. Nếu loại trừ
13
các nguồn thu nhập khác và thu nhập từ các sản phẩm thủy sản phụ như cua, hến,
rong… từ số liệu về thu nhập trên, thu nhập bình quân một khẩu/tháng của các hộ
chuyên khai thác thủy sản tự nhiên đạt khoảng 141.000 đồng/người/tháng (số
nhân khẩu bình quân hộ trong nhóm đối tượng nghiên cứu là 5,9 người). Rõ ràng
đây là một mức thu nhập rất thấp, thậm chí thấp hơn chuẩn nghèo hiện hành của
Việt Nam (TCTK, 2005) một khoảng không nhỏ. Như vậy có thể thấy đây là
nhóm đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế.
3.1.2.Những khó khăn đối với hoạt động ĐBTN hiện nay
Bảng 4: Những khó khăn đối với hoạt động khai thác thủy sản
Lý do Số ý kiến Tỷ lệ (%)
Do các ao NTTS gây ô nhiễm 42 13
Các ao NTTS lấn chiếm bãi đẻ 204 61
Số hộ và phương tiện đánh băt gia tăng 132 39
Tình trạng sử dụng ngư cụ có tính hủy diệt nhiều 257 77
Khác (giá ngư cụ tăng, xâm phạm ngư trường, ảnh
hưởng đến sức khỏe ..)
31 9
Nguồn: Điều tra thực tế, 2005
13
Trong các điểm khó khăn được đưa ra có ba vấn đề nổi bật, đó là: tình
trạng sử dụng các ngư cụ có tính hủy diệt vẫn còn nhiều, hiện tượng các ao nuôi
trồng thủy sản đã gia tăng mạnh và lấn chiếm các bãi đẻ của thủy sản tự nhiên và
số hộ đánh bắt gia tăng. Một số khó khăn khác đối với hoạt động khai thác thủy
sản tự nhiên theo người dân còn là do các ao nuôi trồng thủy sản gây ô nhiễm
môi trường nước, tình trạng ngư dân xâm phạm ngư trường lẫn nhau, giá ngư cụ
tăng,… nhưng những nguyên nhân này không được nhiều ngư dân đồng tình.
Những khó khăn đối với hoạt động đánh bắt tự nhiên chính là các yếu tố
làm giảm giá trị thủy sản khai thác tự nhiên. Từ các khó khăn trên có thể thấy
đây chỉ là một số nguyên nhân cấp I (trực tiếp) ảnh hưởng đến giá trị này. Để có
một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về các khó khăn của nhóm họ này, chúng
tôi đã tiến hành một số cuộc phỏng vấn chuyên sâu đối với các cán bộ có trách
nhiệm ở địa phương và một số PRA (đánh giá nông thôn có sự tham gia của
người dân) để xây dựng cây vấn đề đối với hoạt đông ĐBTN.
Từ cây vấn đề trên đây cho thấy các tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến tình
trạng trữ lượng thủy sản giảm trong thời gian qua chủ yếu là do khả năng tái tạo
nguồn lợi thủy sản giảm và những nguyên nhân trực tiếp của khả năng này giảm
là ô nhiễm môi trường nước, các bãi đẻ, bãi giống bị mất, số ngư cụ khai thác
ngày càng nhiều và số ngư cụ có tính hủy diệt tăng. Tuy nhiên, nguyên nhân gốc
rễ của vấn đề lại xuất phát từ các yếu tố chủ yếu nằm trong phần quản lý của nhà
nước. Một nguyên nhân gốc quan trọng giải thích tại sao chất lượng môi trường
nước giảm đó là cơ chế sở hữu mặt nước chưa rõ ràng và đa số người dân coi đó
là một loại hàng hoá công cộng (public good) cho nên sử dụng bừa bãi. Điều này
cộng hưởng với việc chúng ta chưa có những nghiên cứu, đánh giá nghiêm túc về
môi trường trong các dự án sản xuất – kinh doanh cũng như phát triển tại vùng
đầm phá cho nên có thể gây ra tình trạng thiếu thông tin (trong kinh tế học tình
trạng này được gọi là thất bại thị trường – market failure) gây ra các quyết định
sai lệch. Một nguyên nhân gốc khác cũng rất quan trọng đó là vai trò của người
13
dân trong việc quản lý các nguồn lực xã hội trong quá khứ đã đôi lúc bị xem nhẹ.
Điều này dẫn tới sự thiếu tham gia trong lập quy hoạch các phát triển vùng của
các đối tượng có liên quan (stakeholders) và các sự phối hợp chưa tích cực giữa
chính quyền và người dân trong việc ngăn chặn tình trạng đánh bắt hủy diệt.
Ngoài ra, trong số các nguyên nhân gốc còn một yếu tố quan trọng phản ánh một
đặc trưng của nhóm hộ chuyên khai thác thủy sản tự nhiên đó là thiếu các điều
kiện cần thiết để lựa chọn một sinh kế khác bởi vì họ thiếu các yếu tố sản xuất cơ
bản như vốn, đất đai, kỹ thuật,… Do đó, cùng với quá trình tăng dân số, tách hộ,
số hộ đánh bắt và số ngư cụ được sử dụng tăng lên là một điều khó tránh khỏi.
Sinh kế của nhóm hộ này trong tương lai vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn khai
thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên.
3.2. Xu thế phát triển của hoạt động khai thác thủy sản tự nhiên
Bảng 5: Dự định thay đổi sinh kế của người dân
Có Không
Sinh kế trong tương lai
Số người Tỷ lệ (%) Số người Tỷ lệ
(%)
Tiếp tục nghề ĐBTN như cũ 298 88,96 37 11,04
Làm thêm nghề khác với
nghề ĐBTN
Trong đó:
221 65,97 114 34,03
13
- Nuôi tôm 79 35,75
- Nuôi cá 120 54,30
- Trồng trọt 46 20,81
- Chăn nuôi 60 29,86
- Dịch vụ 50 22,62
Nguồn: Điều tra thực tế, 2005
Hoạt động đánh bắt tự nhiên trong tương lai gần không thay đổi nhiều vì
sự lệ thuộc nặng nề của đời sống ngư dân vào nguồn tài nguyên thủy sản và đặc
biệt là do khả năng chuyển đổi hạn chế của người dân như đã phân tích ở trên vì
sự hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm, vốn, đất đai,… Tuy số người muốn chuyển
đổi hẳn sinh kế không nhiều, nhưng số người muốn làm thêm một vài hoạt động
kinh tế thì lại có khá nhiều. Điều này có thể được giải thích bởi mức độ thu nhập
từ hoạt động sản xuất chính – khai thác thủy sản tự nhiên - là không nhiều và
đang có xu hướng giảm rõ rệt. Trong đó, phần lớn người dân (54,30% trong tổng
số 221 người muốn có thêm các hoạt động sản xuất) cũng muốn được làm các
nghề có liên quan việc sử dụng mặt nước vì diện tích ruộng đất của họ quá ít
không đủ cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Những thông tin về ý định
thay đổi sinh kế của người dân thể hiện rõ rệt mong muốn cải thiện tình trạng thu
nhập thấp và không ổn định của họ và đây là một nhu cầu xã hội bức thiết, đòi
hỏi các cấp chính quyền và các cơ quan hữu trách cần có biện pháp để giải quyết
nhu cầu xã hội này.
13
3.3. Các định hướng giải pháp nhằm bảo vệ giá trị nguồn lợi thủy sản
Những định hướng giải pháp hướng tới việc bảo vệ giá trị nguồn lợi thủy
sản được đề ra ở đây chủ yếu dựa trên cây vấn đề mà trong phần phân tích các
khó khăn đối với hoạt động khai thác tự nhiên đã đề cập. Rõ ràng để giải quyết
tận gốc các khó khăn này thì các nguyên nhân gốc cần phải được giải quyết. Mặt
khác, vấn đề suy giảm nguồn lợi thủy sản gây ra bởi một tập hợp các nguyên
nhân khác nhau do đó cần có cách tiếp cận quản lý tổng hợp để giải quyết đồng
thời từ nhiều hướng khác nhau. Trong phạm vi báo cáo này, nhóm làm đề tài
chúng tôi xin đề xuất một số định hướng giải pháp như sau:
- Quyền sở hữu mặt nước cần giao cho các đối tượng cụ thể. Hiện nay,
theo mặt nước vẫn được sử dụng chung cho nên không có người chịu trách
nhiệm thực sự để khai thác mặt nước một cách hiệu quả và bền vững. Tuy nhiên,
mặt nước đầm phá không thể giao cho từng hộ quản lý như đất nông nghiệp,
nhung nó cần được quản lý bởi một tổ chức thực sự của cộng đồng và đủ quyền
lực để đại diện cho cộng đồng đó.
- Hoàn thiện các cơ chế quản lý đối với tài nguyên đầm phá. Để tổ chức
cộng đồng thực sự quản lý tài nguyên đầm phá hiệu quả, tránh đi vào hình thức
thì tổ chức này cần được giao quyền và xây dựng năng lực một cách mạnh mẽ
hơn nữa. Ví dụ, hiện nay chi hội nghề cá - một hình thức quản lý dựa vào cộng
đồng - hoạt động chưa hiệu quả vì không có năng lực để giải quyết các hiện
tượng xâm phạm tài nguyên như đánh bắt hủy diệt.
- Nâng cao sự tham gia của người dân để đạt sự đồng thuận trong quản lý.
Cũng nhằm mục đích phát huy quyền tự làm chủ của người dân và để tổ chức
cộng đồng quản lý tài nguyên tốt hơn thì sự tham gia của người dân vào các quá
trình quản lý nguồn lực xã hội cần được nâng cao hơn nữa. Trước khi thực hiện
các hoạt động liên quan đến sử dụng nguồn lực của xã hội, đặc biệt là tác động
13
đến môi trường sống (trong đó có nhiều hoạt động cần làm ngay như quy hoạch
lại các ao NTTS, sắp xếp lại nò sáo,…) thì sự tham gia ý kiến của các bên liên
quan (stakeholders) là điều rất cần thiết.
- Hoàn thiện các công cụ quản lý đối với tài nguyên đầm phá, đặc biệt là
các công cụ về kiểm soát chất lượng môi trường và thuế tài nguyên. Bên cạnh
những yếu tố cơ bản về xác định quyền sở hữu và phát huy tính tự chủ trong
quản lý của cộng đồng, nhà nước cần tích cực hỗ trợ cho các quá trình đó thông
qua các can thiệp của mình. Việc quản lý tài nguyên sẽ dễ dàng rơi vào thất bại
nếu người sử dụng không có đủ kiến thức và nhận thức về ảnh hưởng ngoại lai
(externalities) mà mình gây ra. Để khắc phục thất bại thị trường này, nhà nước
nghiên cứu triển khai nhiều hơn nữa các công cụ quản lý hiệu quả. Đặc biệt là áp
dụng công nghệ GIS (Geographical Information System) để quản lý tổng thể,
tính toán và giám sát các chỉ tiêu về môi truờng, quy định các khoản phí sử dụng
môi trường thích đáng đối với các hoạt động xâm phạm môi trường. Đối với việc
quy định phí sử dụng môi trường thì việc nghiên cứu đánh giá tác động môi
trường, các hoạt động đầu tư là điều hết sức cần thiết nhưng đó cũng chính là
điểm yếu trong quản lý môi truờng hiện nay.
- Tạo điều kiện để một bộ phận ngư dân chuyển đổi sinh kế nhằm giảm áp
lực với khả năng tái tạo của nguồn lợi thủy sản. Về lâu dài, nếu số hộ ngư dân cứ
tiếp tục tăng lên mà không thể tìm kiếm những sinh kế khác, họ sẽ lại tiếp tục
nghề đánh bắt truyền thống và đe doạ đến khả năng tái tạo của nguồn lợi thủy
sản. Do đó, các cấp chính quyền cần có những biện pháp để chuyển một bộ phân
ngư dân sang các nghề khác, đặc biệt là các nghề phi nông nghiệp. Bởi vì nhóm
hộ này có diện tích đất bình quân quá thấp không đủ để tham gia sản xuất nông
nghiệp.
13
- Nâng cao khả năng tái tạo nguồn lợi thủy sản hiện tại thông qua: khắc
phục chất lượng môi trường nước, quy hoạch lại vùng nuôi trồng thủy sản, xử lý
rác thải sản xuất và sinh hoạt, ngăn chặn đánh bắt hủy diệt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quang Vinh Bình. Quản lý nguồn lợi thủy sản Hệ đầm phá
Tam Giang, NXB Thuận Hóa, Huế (1996)
2. Nguyễn Lương Hiền, Nguyễn Quang Vinh Bình. Quản lý nghề cá dựa
vào cộng đồng tại đầm phá Tam Giang (2004)
3. Nguyễn Văn Hợp. Chất lượng nước đầm phá Tam Giang - Cầu Hai,
Báo cáo hội thảo quốc gia về đầm phá, Sở KHCN (2005)
4. Đỗ Nam. Báo cáo hội thảo quốc gia về đầm phá, Sở KHCN (2005)
5. Phân viện Hải dương học Hải Phòng. Đánh giá tiềm năng và Đề xuất
lựa chọn khu bảo vệ đất ngập nước hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai,
Đề tài cấp tỉnh Thừa Thiên Huế (1997).
6. Sở Thủy sản, Quy hoạch tổng thể quản lý khai thác thủy sản tỉnh Thừa
Thiên Huế, (2003).
7. Sở Thủy sản. Chiến lược quản lý hệ thống đầm phá Thừa Thiên - Huế
dưới góc độ thủy sản, Báo cáo hội thảo quốc gia về đầm phá, Sở
KHCN (2005).
8. TS. Nguyễn Việt Thắng, Chủ trương và những thách thức đối với phát
triển bền vững ngành thủy sản, Tạp chí Thủy sản, 2005.
13
9. Trương Văn Tuyển. Mở rộng ứng dụng quy hoạch theo phương pháp
tham gia trong hệ thống đầm phá Tam Giang, Báo cáo hội thảo quốc
gia về đầm phá, Sở KHCN (2005)
AQUATIC PRODUCT CATCHING IN TAM GIANG LAGOON,
THUA THIEN - HUE PROVINCE - SITUATION AND SOME
SOLUTION
Nguyen Ngoc Chau
College of Economics, Hue University
SUMMARY
The Tam Giang lagoon of Thua Thien - Hue province is well endowed with
biological resources. Aquatic product catching is the main livelihood of
thousands of local households. However, income gained from this activity has
been seriously declined for several years. By now, the average monthly income
from aquatic product catching is only 141,000 VND per capita. It reveals the
very low living standard of fish catching households in Tam Giang lagoon.
Several reasons explaining for decline in aquaculture resources have presented
the reciprocal relationships, ranging into six-level problem tree. These reasons
embed typical and complicated social issues which need involvement of many
stakeholders (state agencies, local residents, local management bodies…) to deal
with. Based on the problem analysis and expectation of local residents on their
future livelihood, some policy implications were pointed out as below:
1. Re-allocating water surface ownership to specific agents
2. Improving management mechanism of the lagoon natural resources,
especially the roles of local management bodies
13
3. Strengthening participation of local households in the lagoon natural
resource use and management
4. Improving management tools, especially environment quality control and
environment taxation
5. Improving livelihood of fishermen households by off-farm activities
6. Enhancing renewal capacity of current aquatic resources.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 43_nguyen_ngoc_chau_3701(1).pdf