Số người sống trong gia đình đông đúc có phải là một nguy cơ tăng tỷ lệ
mắc NKHHCT ở trẻ? điều này cũng được chỉ ra trong đề tài của nhóm nghiên
cứu tại huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn. Khi một thành viên trong gia đình trẻ
mắc các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, trẻ phơi nhiễm với nguy cơ đó và có
khả năng bị lây bệnh . Cơ chế lây truyền qua không khí đã được giải thích.
Những giọt nước bọt hoặc nước mũi bắt ra khi người bệnh hắt hơi hoặc khi thở,
nói chuyện có kích thước trên 100 micromet thường lắng xuống rất nhanh ,
trong khi các giọt có kích thước nhỏ bị bốc hơi mạnh trong phòng ở thì đa số
các giọt này (>100 micromet) bị khô trước khi lắng xuống đất. Những giọt chứa
vi khuẩn gây bệnh có thể bay trong không khí khá lâu và làm lây truyền bệnh
cho trẻ.
73 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3086 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và một số yếu tố nguy cơ về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của trẻ dưới 5 tuổi tại một số xã miền núi tỉnh Bắc Kạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách đưa ra các khuyến cáo
là cần tăng cường công tác giáo dục sức khoẻ và nghiên cứu sâu hơn về
niền tin của cộng đồng đối với NKHHCT ở trẻ, đặc biệt nhấn mạnh vào các
dấu hiệu, triệu chứng của NKHHCT mà các gia đình có thể xác định được
có phải con cái của họ có bị mắc NKHHCT hay không [50].
Nghiên cứu được tiến hành tại một cơ sở y tế tại Enugu, miền đông
Nigeria để xác định kiến thức của các bà mẹ về việc nhận biết viêm phổi ở
trẻ trước tuổi đi học [55]. Nhóm tác giả phỏng vấn 400 bà mẹ bằng bảng
câu hỏi có cấu trúc và thấy rằng 65% bà mẹ nhận biết được viêm phổi qua
dấu hiệu khó thở, 42% bà mẹ nhận biết được dấu hiệu thở nhanh và 26,5%
biết dấu hiệu ho ở trẻ. Chỉ rất ít bà mẹ nhận biết được viêm phổi qua dấu
hiệu: Rút lõm lồng ngực (8,5 %) và tím tái (1%). Nghiên cứu này cũng cho
thấy điểm kiến thức của các bà mẹ về các dấu hiệu viêm phổi gia tăng một
cách có ý nghĩa với trình độ học vấn và tầng lớp xã hội của các bà mẹ (p
<0,05). Trong khi đó 51% các bà mẹ tin rằng dấu hiệu thở nhanh là một
dấu hiệu quan trọng để xác định viêm phổi ở trẻ, một số khá lớn các bà mẹ
(87,5%) không tin tưởng rằng các dấu hiệu muộn như là rút lõm lồng ngực,
tím tái có phải là dấu hiệu biểu hiện của tình trạng bệnh nặng hay không.
Trên cơ sở các các tiêu chuẩn của WHO, nghiên cứu đã đưa ra kết luận
rằng nhận biết viêm phổi ở trẻ em của các bà mẹ ở mức trung bình, trong
khi đó kiến thức của các bà mẹ về các dấu hiệu chỉ điểm viêm phổi nặng ở
mức rất kém. Vì thế cần đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ
về NKHHCT cho các bà mẹ đặc biệt là cách nhận biết các biểu hiện
của viêm phổi và viêm phổi nặng [55].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Bà mẹ có con dưới 5 tuổi
- Trẻ em dưới 5 tuổi
- Sổ sách, báo cáo thống kê của trạm y tế xã
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Từ tháng 12/2006 – 12/2007
- Huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu mô tả:
Sử dụng phương pháp điều tra cắt ngang để mô tả thực trạng tình hình
NKHHCT tại cộng đồng nghiên cứu [2].
Cỡ mẫu được tính theo công thức sau:
2
2
.
1
2
p q
n Z
d
Trong đó:
n: cỡ mẫu cần có;
1
2
Z
: hệ số giới hạn tin cậy với = 0,05 thì
1
2
Z
= 1,96
p = 0,39; Tỷ lệ trẻ mắc NKHHCT = 39,75% [28]
q = 1- p = 0,61; d= 0,06; Sai số mong muốn (d = 6%)
-> n = 254 trẻ. Để tăng thêm độ chính xác khi nghiên cứu chúng tôi
gấp đôi cỡ mẫu 2n = 508 trẻ.
2.3.2. Nghiên cứu bệnh chứng.
Nhóm bệnh: Trẻ dưới 5 tuổi mắc NKHHCT
Nhóm chứng: Trẻ dưới 5 tuổi không mắc NKHHCT
Cỡ mẫu được tính theo công thức sau: [2]
{1/[p1(1-p1)] + 1/[p2 (1- p2)}
n = z2α/2
[Ln (1- ε) ]
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
n: Cỡ mẫu cần có ở mỗi nhóm
Z α/2 : Hệ số giới hạn tin cậy = 1,96
p1 : Tỷ lệ cá thể phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ ở nhóm bệnh.
p2 : Tỷ lệ cá thể phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ ở nhóm chứng. Theo
1 nghiên cứu trước đây thì tỷ lệ trẻ có trọng lượng khi sinh thấp ở
nhóm chứng p2 = 0,26 (26%)[28].
Với p1 =
OR x p2
= 0,41
OR x p2 + (1 - p2)
ε : Mức độ chính xác mong muốn: ε = 0,33
Thay vào công thức trên tính được cỡ mẫu: n = 224 trẻ
2.4. Phƣơng pháp chọn mẫu
- Chọn mẫu chủ đích: Huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn.
Huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn là một huyện miền núi vùng cao mới
tách ra từ huyện Bạch Thông từ năm 1998. Diện tích của huyện là 606,11
km
2
gồm 15 xã và 1 thị trấn. Về vị trí :
- Phía Đông giáp huyện Võ Nhai - tỉnh Thái Nguyên và huyện Na Rì -
tỉnh Bắc Kạn.
- Phía Tây giáp huyện Định Hóa - tỉnh Thái Nguyên
- Phía Nam giáp huyện Phú Lương - tỉnh Thái Nguyên,
- Phía Bắc giáp thị xã Bắc Kạn.
Dân số của huyện là 38.443 người, gồm các dân tộc sinh sống: Tày,
Kinh, Nùng, Dao, H'Mông, Hoa, Sán Chí. Trong đó dân tộc thiểu số chiếm
hơn 70% dân số toàn huyện. Hơn 80% số hộ gia đình trong huyện làm nghề
nông nghiệp, đời sống kinh tế của người dân nơi đây còn gặp rất nhiều khó
khăn [10],[30].
- Lập danh sách các xã trong toàn huyện và chọn ngẫu nhiên 4 xã để
điều tra hộ gia đình và khám trẻ. Chọn ngẫu nhiên bằng phương pháp bốc
thăm. Kết quả gồm các xã: Bình Văn, Thanh Bình, Nông Hạ, Hòa Mục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
- Với mẫu nghiên cứu mô tả: Lập danh sách trẻ dưới 5 tuổi trong từng xã
chọn ra 508 trẻ vào diện nghiên cứu. Do tổng số trẻ dưới 5 tuổi trong 4 xã
tương đương với cỡ mẫu nghiên cứu nên chúng tôi lấy toàn bộ số trẻ vào diện
nghiên cứu (kết quả n = 552 trẻ).
- Với mẫu nghiên cứu bệnh – chứng: Nghiên cứu cần tối thiểu là 224
trẻ mắc NKHHCT vào nhóm bệnh và 224 trẻ không mắc NKHHCT vào
nhóm chứng. Mẫu nhóm chứng nghiên cứu yêu cầu cùng lứa tuổi, cùng
vùng địa dư nghiên cứu với nhóm bệnh.
Qua nghiên cứu mô tả, số trẻ mắc NKHHCT là 225, số trẻ không
mắc NKHHCT là 327 xấp xỉ cỡ mẫu tối thiểu và tương đương với tỷ lệ 1:1
nên chúng tôi lấy toàn bộ 225 trẻ mắc vào nhóm bệnh và 327 trẻ không
mắc vào nhóm chứng.
2.5. Các chỉ số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh giá các chỉ số.
2.5.1. Chỉ số về thông tin chung của đối tượng nghiên cứu.
- Kinh tế hộ gia đình: Theo quy định của Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội về chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2006 – 2010 [1].
+ Hộ nghèo: Thu nhập bình quân trên đầu người dưới 200.000 đồng
/người /tháng (2.400.000 đồng/người/năm)
+ Hộ không nghèo: Thu nhập bình quân quân trên đầu người từ
200.000 đồng /người /tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở lên [1].
- Trình độ học vấn của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi.
+ Mù chữ: là những người không biết đọc, biết viết.
+ Biết đọc, biết viết là những người học chưa hết lớp 4/10 hoặc 5/12.
+ Tiểu học là những người đã học hết lớp 4/10 hoặc 5/12.
+ Trung học cơ sở là những người đã học hết lớp 7/10 hoặc lớp 9/12.
+ Phổ thông trung học là những người đã học hết lớp 10/10 hoặc
lớp12/12.
- Dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Hoa, H’Mông, Sán Chí và các dân
tộc thiểu số khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
- Nghề nghiệp của bà mẹ: Làm ruộng, buôn bán, công nhân, giáo
viên, công chức, nghề khác.
2.5.2. Chỉ số về tình hình bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ.
- Tỷ lệ NKHHCT chung của trẻ dưới 5 tuổi tại các điểm nghiên cứu.
- Phân bố tỷ lệ NKHHCT trẻ em dưới 5 tuổi theo mức độ nặng, nhẹ
của bệnh, gồm 3 thể [28],[3].
+ Không viêm phổi; ho hoặc cảm lạnh.
+ Viêm phổi.
+ Viêm phổi nặng hoặc bệnh rất nặng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán NKHHCT trẻ em tại cộng đồng theo quy định
của Bộ Y tế như sau [3],[28].
Với trẻ từ 2 tháng – 5 tuổi
Dấu hiệu Phân loại
- Trẻ có bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm toàn
thân nào hoặc
- Rút lõm lồng ngực hoặc
- Thở rít khi nằm yên
Viêm phổi nặng hoặc bệnh
rất nặng
- Thở nhanh: Đếm nhịp thở của trẻ trong 1
phút, thở nhanh xác định theo tháng tuổi:
Trẻ 2 -<12 tháng tuổi: ≥ 50 nhịp/1 phút
Trẻ 12 đến 5 tuổi: ≥ 40 nhịp/1 phút
Viêm phổi
Trẻ bị ho hoặc khó thở và không có dấu hiệu
viêm phổi hoặc viêm phổi nặng.
Không viêm phổi; ho hoặc
cảm lạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Với trẻ dưới 2 tháng tuổi
Dấu hiệu Phân loại
- Trẻ có bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm toàn
thân nào hoặc
- Rút lõm lồng ngực hoặc
- Thở nhanh: ≥ 60 nhịp/1 phút
Viêm phổi nặng hoặc
bệnh rất nặng
Trẻ bị ho hoặc khó thở và không có dấu hiệu
viêm phổi hoặc bệnh rất nặng.
Không viêm phổi; ho hoặc
cảm lạnh
Các dấu hiệu nguy hiểm toàn thân gồm: Không uống được hoặc bỏ
bú; li bì hoặc khó đánh thức; nôn tất cả mọi thứ; co giật.
Dấu hiệu rút lõm lồng ngực: là dấu hiệu thấy được khi quan sát lồng
ngực trẻ khi trẻ hít vào, có dấu hiệu rút lõm lồng ngực khi thấy phần dưới
lồng ngực của trẻ lõm vào khi trẻ hít vào. Dấu rút lõm lồng ngực xảy ra khi
trẻ phải gắng sức để hít vào. Dấu rút lõm lồng ngực chỉ có ý nghĩa khi nhìn
thấy liên tục và rõ ràng, nếu chỉ thấy lúc trẻ đang khóc hoặc đang bú thì
không phải có dấu rút lõm.
Thở rít khi nằm yên: Tiếng thở rít là một tiếng thở thô ráp tạo ra khi
trẻ hít vào. Muốn nghe rõ tiếng này phải để sát tai vào miệng của bệnh
nhân . Thở rít xảy ra khi có hẹp thanh quản, khí quản hoặc nắp thanh quản
làm cản trở không khí vào phổi. Khi trẻ không b ị bệnh nặng, tiếng thở rít
chỉ nghe được nếu trẻ kêu khóc hoặc giắng sức. Do đó tiếng thở rít chỉ
được xác định chính xác khi để trẻ nằm yên .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
- Phân bố tỷ lệ NKHHCT của trẻ dưới 5 tuổi theo các nhóm tuổi, có
4 nhóm tuổi: 1 tháng tuổi; từ 2 – 11 tháng tuổi ; từ 12 – 35 tháng tuổi; từ 36
– 60 tháng tuổi.
Cách tính tuổi theo quy ước của WHO (1983):
+ Tính tuổi theo tháng (đối với trẻ dưới 5 tuổi)
Kể từ khi mới sinh đến tròn 1 tháng (từ 1 đến 29 ngày là tháng thứ
nhất được) được gọi là tròn 1 tháng.
Kể từ ngày tròn 1 tháng đến trước ngày tròn 2 tháng được gọi là 2
tháng tuổi. Các tháng tiếp theo tính tương tự.
+ Tính tuổi theo năm:
Trẻ từ khi sơ sinh đến 11 tháng 29 ngày gọi là 0 tuổi hay dưới 1 tuổi.
Các năm tiếp theo tính tương tự.
Vậy trẻ dưới 5 tuổi là trẻ từ 0 – 4 tuổi hay từ 1 đến 60 tháng tuổi.
- Phân bố tỷ lệ NKHHCT ở trẻ em dưới 5 tuổi theo giới.
- Phân bố tỷ lệ NKHHCT của trẻ em dưới 5 tuổi theo dân tộc.
- Phân bố tỷ lệ NKHHCT của trẻ em dưới 5 tuổi theo nghề nghiệp mẹ.
- Tỷ lệ tử vong do NKHHCT tại các địa điểm điều tra.
2.5.3. Chỉ số về các yếu tố nguy cơ:
- Bản thân trẻ:
+ Giới của trẻ.
+ Cân nặng khi sinh
+ Thời gian cai sữa cho trẻ:
Cai sữa sớm: Trước 18 tháng.
Cai sữa đúng: Từ 18 – 24 tháng.
+ Tình hình tiêm chủng phòng bệnh.
Tiêm chủng đủ, đúng lịch: là tiêm đúng thời gian theo lịch
tiêm chủng đồng thời đủ số mũi tiêm và loại vacine theo độ
tuổi của trẻ tại thời điểm điều tra.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
Tiêm chủng không đủ, hoặc đủ nhưng không đúng lịch: là
không đảm bảo 1 trong 3 điều kiện: đủ số mũi, đủ loại vacine
theo độ tuổi, đúng thời gian.
- Kiến thức về NKHHCT của bà mẹ:
Các câu hỏi được thiết kế để đánh giá bà mẹ về kiến thức phát hiện
dấu hiệu bệnh NKHHCT ở trẻ, kiến thức xử trí khi trẻ mắc NKHHCT, kiến
thức dự phòng NKHHCT cho trẻ. Có 10 câu hỏi đánh giá kiến thức, mỗi
câu trả lời đúng được 1 điểm. Đánh giá bằng cách cho điểm theo 3 mức độ:
Kiến thức kém: < 5 điểm
Kiến thức trung bình: Từ 5 đến <7 điểm.
Kiến thức khá, tốt: Từ 7điểm trở lên.
- Yếu tố môi trường sống của trẻ
Loại nhà ở: Nhà tạm, nhà bán kiên cố, kiên cố.
Tình trạng nhà ở phân thành 2 nhóm: Ẩm thấp, trống trải; Thoáng,
sạch sẽ.
Tình trạng bếp đun trong nhà: có bếp đun đặt trong nhà không được
cách ly bếp đun với phòng ngủ, phòng khách. Loại bếp đun bằng
củi, than.
Gia đình có người hút thuốc lá, thuốc lào: Hút thuốc lá hoặc thuốc
lào trong nhà hoặc hút gần trẻ. Hút thuốc hàng ngày, tần suất trung
bình 5 điếu/ngày.
Quy mô hộ gia đình:
Hộ gia đình hạt nhân (phổ biến tại khu vực vùng cao, miền núi): Từ
6 người trở xuống, gồm 3 thế hệ ông bà, bố mẹ, con cháu cùng sinh
sống trong một gia đình.
Hộ gia đình đông người: trên 6 người cùng sinh sống trong một nhà.
Chuồng gia súc dưới gầm sàn nhà, gần nhà dưới 10m, không đảm
bảo vệ sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
2.6. Phƣơng pháp thu thập số liệu và xử lý sai số.
Phỏng vấn các bà mẹ có con dưới 5 tuổi, kết hợp với quan sát tại hộ
gia đình, các kết quả được ghi chép vào phiếu điều tra in sẵn. Phiếu phỏng
vấn được thiết kế theo đúng qui trình, được thử nghiệm, chỉnh sửa trước
khi đưa vào điều tra chính thức.
Phỏng vấn bà mẹ bởi các cán bộ khối Y tế công cộng – Trường Đại
học Y khoa Thái Nguyên, được tập huấn kỹ các nội dung phỏng vấn trước
khi điều tra tại khu vực nghiên cứu.
Khám lâm sàng và phân loại NKHHCT cho trẻ dưới 5 tuổi bởi các
bác sỹ chuyên khoa Nhi – Bệnh viện Đa khoa TW Thái Nguyên. Kết quả
khám phân loại được ghi vào các phiếu khám in sẵn.
2.7. Phƣơng pháp xử lý số liệu:
Các số liệu nghiên cứu được xử lý bằng các thuật toán thống kê y
học dựa trên các phần mền EPIDATA 3.02, SPSS 16.0.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Chƣơng 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thông tin chung về đối tƣợng nghiên cứu.
Qua nghiên cứu 552 trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
chúng tôi đưa ra một số kết quả sau.
Bảng 3.1. Phân bố trẻ theo tình hình kinh tế hộ gia đình
Kinh tế Số trẻ (n) Tỷ lệ (%)
Hộ nghèo 407 73,73
Hộ không nghèo 145 26,27
Tổng 552 100
Nhận xét:
Tỷ lệ trẻ sống trong hộ gia đình được xếp loại nghèo tại địa điểm
nghiên cứu chiếm 73,73%. Còn lại 26,27% số trẻ ở các hộ không nghèo.
Biểu đồ 3.1. Phân loại trẻ theo kinh tế hộ gia đình
Kinh tế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Bảng 3.2. Phân bố trẻ theo trình độ học vấn của bà mẹ
Trình độ học vấn của bà mẹ Số trẻ (n) Tỷ lệ (%)
Mù chữ 9 1,63
Biết đọc biết viết 11 1,99
Tiểu học 108 19,57
THCS 333 60,33
THPT trở lên 91 16,49
Tổng 552 100
Nhận xét:
Bảng trên cho thấy 60,33% trẻ là con các bà mẹ có trình độ học vấn ở
bậc THCS; Bậc THPT trở lên là 16,49%; Bậc tiểu học là 19,57%; Còn lại
3,62% số trẻ là con các bà mẹ trong nhóm mù chữ, biết đọc biết viết.
Biểu đồ 3.2. Phân bố trẻ theo trình độ học vấn của các bà mẹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Bảng 3.3. Phân bố trẻ theo dân tộc
Dân tộc Số trẻ (n) Tỷ lệ (%)
Kinh 110 19,93
Tày 322 58,33
Nùng 15 2,72
Dao 87 15,76
Sán Chí 18 3,26
Tổng 552 100
Nhận xét:
Dân tộc thiểu số chiếm đa số: 80,07% trong đó dân tộc Tày là
58,33%, dân tộc Dao là 15,76%, các dân tộc thiểu số còn lại là 5,98%. Dân
tộc Kinh chiếm 19,93%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Biểu đồ 3.3. Phân bố trẻ theo dân tộc
Bảng 3.4. Phân bố trẻ theo nghề nghiệp của các bà mẹ
Nghề nghiệp mẹ Số trẻ (n) Tỷ lệ (%)
Làm ruộng 479 86,78
Giáo viên, công chức 29 5,25
Công nhân, buôn bán, nghề khác 44 7,97
Tổng 552 100
Nhận xét:
Phần lớn trẻ là con các bà mẹ có nghề nghiệp là làm ruộng, tỷ lệ này
là 86,78%, trẻ là con các bà mẹ làm giáo viên, công chức chiếm 5,52%, còn
lại là nhóm công nhân, buôn bán, nội trợ hoặc nghề khác chiếm 7,97 %.
Biểu đồ 3.4. Phân bố trẻ theo nghề nghiệp của các bà mẹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Bảng 3.5. Phân bố trẻ theo loại nhà ở
Loại nhà n %
Kiên cố 42 7,61
Bán kiên cố 284 51,45
Nhà tạm 226 40,94
Tổng 552 100
Nhận xét:
Số trẻ sống trong nhà tạm là 226/552 trẻ chiếm tỷ lệ 40,94 %; Số trẻ
ở nhà kiên cố chỉ chiếm 7,61%, còn lại 51,45% số trẻ ở nhà bán kiên cố.
Biểu đồ 3.5. Phân bố trẻ theo loại nhà ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Bảng 3.6. Tình trạng bếp đun trong nhà ở của trẻ
Bếp đun trong nhà Số trẻ (n) Tỷ lệ (%)
Có 239 43,30
Không 313 56,70
Tổng 552 100
Nhận xét:
Tỷ lệ trẻ sống trong các hộ gia đình sử dụng bếp đun trong nhà tại
khu vực nghiên cứu là 43,30 %.
Bảng 3.7. Khoảng cách từ nhà của trẻ đến chuồng gia súc
Khoảng cách Số trẻ (n) Tỷ lệ (%)
Gần nhà (dưới 10m) 264 62,56
Xa nhà (≥10 m) 158 37,44
Tổng 422* 100
* 130 hộ gia đình không có chuồng gia súc
Nhận xét: 62,56% số trẻ ở các hộ làm gia đình làm chuồng gia súc gần nhà
Bảng 3.8. Quy mô hộ gia đình của trẻ
Quy mô gia đình Số trẻ (n) Tỷ lệ (%)
Hộ gia đình đông người 228 41,30
Hộ gia đình hạt nhân 324 58,70
Tổng 552 100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Nhận xét
Tỷ lệ hộ gia đình quy mô đông người tại khu vực nghiên cứu là
43,06%; Quy mô bình thường chiếm 58,7 %
3.2. Thực trạng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dƣới 5 tuổi
Bảng 3.9. Tỷ lệ mắc NKHHCT chung của trẻ dưới 5 tuổi
NKHHCT n %
Không mắc NKHHCT 327 59,24
Mắc NKHHCT 225 40,76
Trong đó:
- Không viêm phổi: Ho hoặc cảm lạnh
- Viêm phổi
- Viêm phổi nặng hoặc bệnh rất nặng
197
23
5
35,69
4,17
0,91
Tổng 552 100
Nhận xét:
- Tỷ lệ mắc NKHHCT chung của trẻ dưới 5 tuổi tại cộng đồng là 40,76%.
- Phân loại theo mức độ bệnh: Thể không viêm phổi, ho hoặc cảm lạnh
chiếm 35,69 %; Thể viêm phổi là 4,17 %; Thể viêm phổi nặng hoặc
bệnh rất nặng là 0,91%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Biểu đồ 3.6. Tình hình mắc NKHHCT của trẻ
Bảng 3.10. Phân bố tỷ lệ NKHHCT chung theo nhóm tuổi
NKHHCT
Nhóm tuổi
Tổng số trẻ
nghiên cứu
Số trẻ mắc
NKHHCT
Tỷ lệ
(%)
1 tháng tuổi 39 10 25,64
Từ 2 - 11 tháng 81 26 32,10
Từ 12 – 35 tháng 211 95 45,02
Từ 36 – 60 tháng 221 94 42,53
Tổng 552 225 40,76
Nhận xét:
Tỷ lệ mắc NKHHCT tăng dần theo nhóm tuổi. Nhóm trẻ từ 12 – 35
tháng tuổi có tỷ lệ mắc cao nhất: 45,02 %.
%
Tháng tuổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
Biểu đồ 3.7. Phân bố tỷ lệ NKHHCT theo nhóm tuổi của trẻ
Bảng 3.11. Phân bố mức độ NKHHCT ở trẻ theo nhóm tuổi
NKHHCT
Nhóm tuổi
KVP: ho hoặc
cảm lạnh
Viêm phổi
VPN hoặc
bệnh rất nặng
n % n % n %
0 - 1 tháng (n=39) 8 20,51 - - 2 5,13
2 - 11 tháng (n=81) 20 24,69 4 4,94 2 2,47
12 – 35 tháng (n=211) 82 38,86 12 5,69 1 0,47
36 – 59 tháng (n=221) 87 39,37 7 3,17 0 0
Nhận xét
Ở thể không viêm phổi, ho hoặc cảm lạnh trẻ có tỷ lệ mắc tăng dần
theo nhóm tuổi, mắc cao nhất ở nhóm 36 – 59 tháng tuổi: 39,37%
Ở thể viêm phổi nặng hoặc bệnh rất nặng trẻ có tỷ lệ mắc cao ở
nhóm trẻ từ 0 – 1 tháng tuổi: 5,13%, trẻ càng lớn tỷ lệ mắc viêm phổi nặng
giảm dần.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Biểu đồ 3.8. Phân mức độ NKHHCT theo nhóm tuổi
Bảng 3.12. Phân bố tỷ lệ NKHHCT theo giới của trẻ
NKHHCT
Giới
Tổng số trẻ
nghiên cứu
Số trẻ mắc
NKHHCT
Tỷ lệ
(%)
Nam 305 117 38,36
Nữ 247 108 43,72
Tổng 552 225 40,76
Nhận xét:
Trẻ nam tại khu vực nghiên cứu có tỷ lệ mắc NKHHCT là 38,36 %,
tỷ lệ mắc ở trẻ nữ là 43,72%.
Bảng 3.13. Phân bố tỷ lệ NKHHCT theo dân tộc của trẻ (*)
NKHHCT
Dân tộc
Tổng số trẻ
nghiên cứu
Số trẻ mắc
NKHHCT
Tỷ lệ
(%)
Kinh 110 47 42,73
Tháng tuổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
Tày 322 131 40,68
Dao 87 34 39,08
Sán chí 18 7 38,89
Nùng 15 6 40,00
Tổng 552 225 40,76
(*) X2= 8,10 ; p>0,05
Nhận xét:
- Tỷ lệ mắc NKHHCT ở nhóm trẻ dân tộc Kinh là 42,73%, trẻ dân tộc
Tày là 40,68%; trẻ dân tộc Dao là 39,08 %; trẻ dân tộc Sán chí là
38,89%; trẻ dân tộc Nùng là 40,0%.
- Không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc NKHHCT ở các nhóm dân tộc
khác nhau (p>0,05).
3.3. Kết quả về các yếu tố nguy cơ đến nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
3.3.1. Nhóm yếu tố nguy cơ thuộc về bà mẹ.
Bảng 3.14. Liên quan giữa trình độ học vấn của mẹ với tỷ lệ mắc
nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
NKHHCT
Học vấn mẹ
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
THCS trở xuống 199 262
1,90 1,13 – 3,20 <0,05
THPT trở lên 26 65
Nhận xét:
Trình độ học vấn của các bà mẹ có ảnh hưởng tới tỷ lệ mắc
NKHHCT ở trẻ. Nhóm trẻ là con các bà mẹ có trình độ học vấn từ bậc
THCS trở xuống có nguy cơ mắc NKHHCT cao gấp 1,90 lần so với nhóm
trẻ con các bà mẹ có trình độ học vấn từ bậc THPT trở lên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Bảng 3.15. Liên quan giữa nghề nghiệp của bà mẹ với tỷ lệ mắc nhiễm
khuẩn hô hấp ở trẻ
NKHHCT
Nghề nghiệp
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
Làm ruộng, buôn
bán, nghề khác
219 304
2,76 1,05 – 7,70 <0,05
Giáo viên, công chức 6 23
Nhận xét
Nhóm trẻ là con các bà mẹ có nghề nghiệp là làm ruộng, công nhân,
buôn bán hoặc nghề khác có nguy cơ mắc NKHHCT cao gấp 2,76 lần so
với nhóm trẻ là con các bà mẹ làm giáo viên hoặc công chức nhà nước
Bảng 3.16. Liên quan giữa yếu tố dân tộc với tỷ lệ mắc nhiễm khuẩn hô hấp
cấp tính ở trẻ
NKHHCT
Dân tộc
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
Kinh 47 63
1,11 0,71–1,73 > 0,05
Dân tộc thiểu số 178 264
Nhận xét:
Bảng trên cho thấy không có mối liên quan giữa yếu tố dân tộc với tỷ
lệ mắc NKHHCT ở trẻ em ( p>0,05).
Bảng 3.17. Liên quan giữa kiến thức của bà mẹ về nhiêm khuẩn hô hấp cấp
tính với tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
NKHHCT
Kiến thức
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
Kém 200 263
1,54 1,08-2,10 <0,05
Trung bình 25 64
Nhận xét:
Nhóm trẻ là con của các bà mẹ có kiến thức kém có nguy cơ mắc
NKHHCT cao gấp 1,54 lần nhóm trẻ con của các bà mẹ có kiến thức trung
bình. Sự khác biệt có ý nghĩa với p< 0,05.
3.3.2. Nhóm yếu tố nguy cơ thuộc về bản thân trẻ.
Bảng 3.18. Liên quan giữa cân nặng khi sinh của trẻ với tỷ lệ mắc nhiễm
khuẩn hô hấp cấp tính
NKHHCT
Cân nặng
khi sinh
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
Thấp
(<2500g)
24 19
1,96 1,03 – 3,84 <0,05
Bình thường
(≥ 2500g)
195 302
(*12 bà mẹ không nhớ cân nặng khi sinh của trẻ)
Nhận xét:
Nhóm trẻ có cân nặng thấp khi sinh có nguy cơ mắc NKHHCT cao
gấp 1,96 lần so với nhóm trẻ có cân nặng bình thường khi sinh với p< 0,05.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
Bảng 3.19. Liên quan tỷ lệ mắc NKHHCT với thời gian cai sữa của trẻ
NKHHCT
Thời gian
cai sữa
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
Cai sữa sớm 92 101
1,53 1,05 – 2,40 <0,05
Cai sữa đúng 60 101
(* 198 trẻ chưa cai sữa)
Nhận xét:
Sự khác biệt về tỷ lệ mắc NKHHCT giữa nhóm trẻ được cai sữa sớm
với nhóm trẻ cai sữa đúng thời gian có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhóm
trẻ cai sữa sớm có nguy cơ mắc NKHHCT cao gấp 1,53 lần so với nhóm trẻ
được cai sữa đúng thời gian.
Bảng 3.20. Liên quan giữa tỷ lệ mắc NKHHCT với tình trạng tiêm chủng
NKHHCT
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
Không đủ,
không đúng lịch
29 6
7,92 3,06 – 21,65 <0,01
Đủ đúng lịch 196 321
Nhận xét:
Tình trạng tiêm chủng của trẻ có ảnh hưởng rõ rệt tới tỷ lệ mắc
NKHHCT. Các trẻ được tiêm chủng không đủ hoặc đủ nhưng không đúng
lịch có nguy cơ mắc NKHHCT cao hơn hẳn (gấp 7,92 lần) các trẻ được
tiêm chủng đủ và đúng lịch (p<0,01).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
3.3.3. Nhóm yếu tố nguy cơ thuộc về môi trường sống của trẻ.
Bảng 3.21. Liên quan giữa loại nhà ở với tỷ lệ mắc NKHHCT
NKHHCT
Loại nhà
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
Nhà tạm 105 121
1,49 1,04 – 2,14 <0,05
Nhà kiên cố hoặc
bán kiên cố
120 206
Nhận xét
Kết quả bảng trên cho thấy nhóm trẻ sống trong nhà tạm có nguy cơ
mắc NKHHCT cao gấp 1,49 lần so với nhóm trẻ sống trong nhà kiên cố
hoặc bán kiên cố. (p<0,05).
Bảng 3.22. Liên quan giữa tình trạng nhà với tỷ lệ mắc NKHHCT
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
NKHHCT
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
Ẩm thấp, trống trải 99 83
2,31 1,58 – 2,37 <0,01
Thoáng, sạch sẽ 126 244
Nhận xét:
Tình trạng nhà ở có ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc NKHHCT của trẻ em. Trẻ
ở trong nhà ẩm thấp, trống trải có nguy cơ mắc NKHHCT cao gấp 2,3 lần trẻ ở
trong nhà thoáng, sạch sẽ.
Bảng 3.23. Liên quan tình trạng bếp đun trong nhà với tỷ lệ mắc NKHHCT
NKHHCT
Bếp đun nấu
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
Trong nhà 110 129
1,25 1,03 - 1,53 <0,05
Ngoài nhà 115 198
Nhận xét:
Nhóm trẻ sống trong các hộ gia đình có bếp đun trong nhà có tỷ lệ
mắc NKHHCT cao gấp 1,25 lần so với nhóm trẻ sống trong các hộ gia đình
sử dụng bếp đun nấu ngoài nhà.
Bảng 3.24. Liên quan giữa tình trạng hút thuốc lá, thuốc lào trong nhà với
tỷ lệ mắc NKHHCT với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
NKHHCT
TT hút
thuốc lá, lào
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
Gia đình có người
hút thuốc lá,
thuốc lào
175 220
1,39 1,07-1,79 <0,05
Không có người
hút thuốc lá,
thuốc lào.
50 107
Nhận xét
Nhóm trẻ sống trong các hộ gia đình có người lớn hút thuốc lá, lào
trong nhà có nguy cơ mắc NKHHCT cao hơn 1,39 lần so với trẻ nhóm sống
trong các hộ gia đình có người lớn hút thuốc lá, lào trong nhà (p<0,05).
Bảng 3.25. Liên quan giữa khoảng cách từ nhà ở của trẻ đến chuồng gia
súc với tỷ lệ mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
NKHHCT
Chuồng
gia súc
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
Gần nhà 131 133
2,55 1,67 - 3,90 <0,05
Xa nhà 44 114
Nhận xét
Trẻ ở các hộ gia đình làm chuồng gia súc gần nhà dưới 10 mét có
nguy cơ mắc NKHHCT cao gấp 2,55 lần so với trẻ ở các hộ có chuồng gia
súc xa nhà từ 10 mét trở lên (p<0,05).
Bảng 3.26. Liên quan giữa điều kiện kinh tế với tỷ lệ mắc NKHHCT
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
NKHHCT
TH Kinh tế
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
Nghèo 177 230
1,56 1,03-2,36 <0,05
Không nghèo 48 97
Nhận xét:
Yếu tố kinh tế của các gia đình tại địa điểm nghiên cứu có ảnh
hưởng tới tỷ lệ mắc NKHHCT ở trẻ. Trẻ ở các hộ nghèo có nguy cơ mắc
NKHHCT cao gấp 1,56 lần so với trẻ sống trong hộ không nghèo.
Bảng 3.27. Liên quan quy mô hộ gia đình với tỷ lệ mắc NKHHCT ở trẻ
NKHHCT
Quy mô
gia đình
Mắc
Không
mắc
OR CI95% p
Gia đình
đông người
124 104
2,63 1,83 – 3,80 <0,05
Gia đình
hạt nhân
101 223
Nhận xét
Có mối liên quan giữa số người sống trong gia đình với tỷ lệ mắc
NKHHCT ở trẻ. Trẻ sống ở các hộ đông người có nguy cơ mắc NKHHCT
cao hơn trẻ sống trong hộ không nghèo với p< 0,05.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Chƣơng 4
BÀN LUẬN
4.1. Tình hình kinh tế – văn hóa – xã hội tại địa điểm nghiên cứu
Qua nghiên cứu về NKHHCT trẻ em tại huyện Chợ Mới tỉnh Bắc
Kạn chúng tối thấy đời sống kinh tế của người dân nơi đây còn gặp nhiều
khó khăn. Tỷ lệ trẻ ở hộ nghèo khá cao, chiếm 73,73%, nghề nghiệp tạo thu
nhập chính cho gia đình các trẻ tại đây chủ yếu là làm ruộng (86,78%), tỷ
lệ trẻ phải sống trong điều kiện nhà ở tạm bợ còn khá cao (40,49%).
Trình độ học vấn của các bà mẹ tại địa điểm nghiên cứu còn thấp.
Các bà mẹ có trình độ THPT trở lên chỉ chiểm 16,49%. Phần lớn từ bậc
THSC trở xuống là 80,44% đặc biệt trong số này vẫn còn các bà mẹ mù
chữ (1,63%). Thảo luận nhóm với lãnh đạo cộng đồng trước thời điểm điều
tra cho thấy, tuy đa số các bà mẹ đạt trình độ học vấn ở bậc THCS nhưng
kiến thức chung về y học - phòng bệnh của các bà mẹ rất hạn chế, mặt khác
đa số các bà mẹ chỉ học hết THCS mà ít có điều kiện học tiếp ở bậc học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
cao hơn. Điều này chắc chắn là một yếu tố khó khăn cho bà mẹ khi tiếp
nhận các kiến thức về chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em. Từ thực tế
đó, khi xem xét vấn đề trình độ học vấn của bà mẹ với tỷ lệ mắc NKHHCT
ở trẻ, chúng tôi xếp các bà mẹ có trình độ học vấn từ bậc THCS trở xuống
vào 1 nhóm để so sánh với nhóm từ THPT trở lên.
Trong nghiên cứu này, dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ khá cao tại khu
vực nghiên cứu (80,07%) trong đó dân tộc Tày chiếm đa số 58,33%. Dân
tộc Kinh chỉ chiếm 19,93% và đa số có nguồn gốc định cư lâu đời, rất ít
trường hợp người Kinh tái định cư tại đây. Có thể nói dân tộc Kinh trở
thành thiểu số tại đây, một số hành vi sức khỏe của người Kinh gần như
tương tự với các dân tộc thiểu số khác tại khu vực nghiên cứu [32].
4.2. Thực trạng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dƣới 5 tuổi
Khám lâm sàng các trẻ dưới 5 tuổi tại 4 xã trong diện nghiên cứu
chúng tôi thấy tỷ lệ NKHHCT chung ở trẻ em là 40,76%. Theo chúng tôi,
tỷ lệ này là khá cao trong cộng đồng nhưng phù hợp với tình hình thực tế
của khu vực nghiên cứu trong đề tài. Chợ Mới là một huyện vùng cao miền
núi của tỉnh Bắc Kạn, 4 xã trong diện nghiên cứu đều là những xã thuộc
chương trình 135 của Chính Phủ và hơn 80% số dân trong các xã là người
dân tộc thiểu số [11].
So sánh với những nghiên cứu gần đây về NKHHCT cho thấy tỷ lệ
mắc NKHHCT trẻ em trong nghiên cứu của chúng tôi tại huyện Chợ Mới
tỉnh Bắc Kạn cao hơn so với các nghiên cứu ở các địa phương khác. Như
trong nghiên cứu của các tác giả Hà Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Kỳ về
NKHHCT ở trẻ dưới 5 tuổi tại Huế năm 2003 kết luận tỷ lệ mắc là 39,75%.
Theo khảo sát của Phạm Thị Minh Hồng (2004) vùng đồng bằng sông Cửu
Long thì tỷ lệ NKHHCT trong cộng đồng là 40,03%, xấp xỉ kết quả nghiên
cứu của chúng tôi [18], [28].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
So sánh với số liệu tại các bệnh viện cho thấy, các trẻ nhập viện được
chẩn đoán là NKHHCT có tỷ lệ khác biệt so với kết quả của chúng tôi khi
nghiên cứu tại cộng đồng. Tại bệnh viện Nhi Trung ương, tỷ lệ trẻ mắc
NKHHCT vào điều trị là 32,5%. Tỷ lệ này cao gấp gần 2 lần bệnh tiêu
chảy (17,7 %) và đứng đầu trong các nguyên nhân nhập viện điểu trị ở trẻ.
Tử vong do NKHHCT chiếm 20,2% tổng số tử vong ở trẻ. Số trẻ mắc
NKHHCT vào viện điều trị tại khoa Nhi bệnh viện Đa khoa thành phố Đà
Nẵng là 45,6%, số trẻ chết do viêm phổi 32,5%. Tại bệnh viện tỉnh Sơn La,
tử vong do viêm phổi ở trẻ em chiếm 63,2% số tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi.
Tại bệnh viện huyện Chiêm Hoá, Tuyên Quang số trẻ mắc NKHHCT vào
điều trị là 92,8%, tử vong do viêm phổi chiếm 88,9% tổng số tử vong nhi
tại bệnh viện [8]. Có thể thấy tỷ lệ mắc và tử vong do NKHHCT ở trẻ tại
khu vực miền núi có xu hướng cao hơn hẳn khu vực đồng bằng thành thị.
Tác giả Nguyễn Thu Nhạn khi khảo sát 20 bệnh viện tại Việt Nam để
tìm hiểu tình hình bệnh tật trẻ em cho thấy: vấn đề chẩn đoán, phân loại và
điều trị của CBYT tuyến cơ sở không tốt, đây là một 1 trong những nguyên
nhân khiến tỷ lệ trẻ nhập viện và tỷ lệ tử vong do NKHHCT tăng cao, đặc
biệt là ở các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc trong đó có Bắc Kạn.
Khi phân loại NKHHCT theo các thể, tỷ lệ mắc cao nhất ở thể không
viêm phổi ho hoặc cảm lạnh (35,69%). Tỷ lệ trẻ mắc viêm phổi và viêm
phổi nặng chiếm 5,08 % tổng số trẻ điều tra (Bảng 3.9). Theo "Đánh giá
hoạt động y tế cơ sở" năm 2004, viêm phổi vẫn là nguyên nhân tử vong cao
nhất (31,3%) trong tổng số các nguyên nhân tử vong ở trẻ nhỏ, cao gấp 6
lần so với tử vong do tiêu chảy cấp (5,1%).
Kết quả điều tra của dự án NKHHCT cho thấy hàng năm có khoảng
1600 lượt trẻ bị viêm phổi, tỷ lệ tử vong do viêm phổi khoảng 2,8/1000 trẻ.
Với 7 triệu trẻ dưới 5 tuổi trên cả nước, ước tính số tử vong do viêm phổi
không dưới 20.000 trẻ/ năm [8].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
Các nghiên cứu tại bệnh viện cũng kết luận viêm phổi là nguyên
nhân gây tử vong cao nhất trong các nguyên nhân gây tử vong ở trẻ khi
nhập viện. Tác giả Bế Văn Cẩm khi nghiên cứu 482 bệnh nhi tử vong tại bệnh
viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên thì có 223 trẻ dưới 1tuổi chết do viêm
phổi chiếm 51,74% đứng hàng đầu trong các nguyên nhân gây tử vong ở
trẻ nhỏ [10].
Điều này cho thấy việc duy trì tiến tới giảm tỷ lệ mắc viêm phổi trẻ
em tại khu vực này cần phải được thực hiện tích cực hơn nữa. Đây cũng
chính là một trong các mục tiêu chung của Bộ Y tế trong phương hướng
hoạt động của chương trình NKHHCT giai đoại 2006 – 2010[8].
Khi phân loại NKHHCT theo lứa tuổi của trẻ tại địa điểm nghiên cứu
chúng tôi nhận thấy: tỷ lệ mắc NKHHCT chung có xu hướng tăng cao sau
12 tháng tuổi. Ở nhóm trẻ từ 12 đến 35 tháng, tỷ lệ mắc NKHHCT ở nhóm
này là 45,02% cao nhất trong các nhóm tuổi. Theo chúng tôi có thể ở lứa
tuổi này sức đề kháng của trẻ bị hạn chế do kháng thể từ mẹ sang trong thời
kỳ bào thai đã không còn, khả năng cung ứng các kháng thể bề mặt cũng đã
hết, khả năng tự đề kháng còn đang bị hạn chế. Vì vậy, trẻ vẫn có thể có tỷ
lệ mắc NKHHCT cao ở giai đoạn từ 1 đến 3 tuổi. Trong nghiên cứu này, tỷ
lệ mắc NKHHCT không giảm mà vẫn còn khá cao khi trẻ được 36-59
tháng tuổi (42,53%). Kết quả của chúng tôi khác với kết quả của Hà Văn
Thiệu: nhóm trẻ dưới 1 tuổi có tỷ lệ mắc cao nhất (53,29%) còn nhóm trẻ
từ 4 – 5 tuổi lại có tỷ lệ mắc thấp nhất (28,27%) [31].
Phân loại NKHHCT theo mức độ bệnh và tiến hành so sánh ở từng
nhóm tuổi nghiên cứu đã cho thấy trong những trẻ mắc viêm phổi nặng thì
cao nhất ở nhóm trẻ dưới 2 tháng tuổi và giảm dần khi trẻ lớn lên. Điều này
là phù hợp vì ở nhóm tuổi dưới 2 tháng, do sự chưa hoàn thiện về đặc điểm
giải phẫu cũng như sinh lý của hệ hô hấp nên ở tuổi này trẻ rất dễ mắc
NKHHCT, còn khi trẻ đã bị viêm phổi thì sẽ chuyển sang viêm phổi nặng
rất nhanh do vậy mà WHO xếp loại viêm phổi ở trẻ dưới 2 tháng tuổi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Trong nghiên cứu tại huyện Chợ Mới – Bắc Kạn, chúng tôi không thấy
có sự khác biệt về tỷ lệ mắc NKHHCT giữa trẻ trai và trẻ gái (p>0,05).
Tương tự như kết quả nghiên cứu của Hà Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Kỳ
(2003) trên 400 trẻ dưới 5 tuổi: tỷ lệ trẻ nam mắc NKHHCT là 40,57%; ở
trẻ nữ là 39,11% nhưng p<0,05. Nghiên cứu 5524 trẻ dưới 5 tuổi tại
Tanzania [46] cũng cho kết quả tương tự khi tìm hiểu mối liên quan giữa
giới và tỷ lệ mắc ARI. Trong nghiên cứu này, trẻ nam có tỷ lệ mắc
NKHHCT là 11,21%, trẻ nữ là 9,85 tuy nhiên OR =0,86(0,72-1,03).
4.3. Các yếu tố nguy cơ đến nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
4.3.1. Các yếu tố nguy cơ thuộc về bà mẹ
Trình độ học vấn của bà mẹ luôn là yếu tố được xem xét trong các
nghiên cứu về NKHHCT trẻ em tại cộng đồng [14],[15],[28]. Bà mẹ có
trình độ học vấn thấp thì khả năng tiếp nhận các thông tin y tế phổ cập qua
các phương tiện truyền thông đại chúng (đài, sách báo, tivi…) rất hạn chế.
Càng khó khăn hơn khi tiếp nhận các thông tin TT – GDSK từ phía CBYT
đặc biệt ở những vùng tập trung đông dân tộc thiểu số mà CBYT lại không
thông thạo tiếng của người dân tộc. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã
chỉ ra: Nhóm trẻ là con của bà mẹ có học vấn từ bậc THCS trở xuống có
nguy cơ mắc NKHHCT cao gấp 1,90 lần so với nhóm trẻ con các bà mẹ có
trình độ học vấn từ THPT trở lên. Tác giả Nguyễn Thanh Hà và cộng sự
cũng nghiên cứu về yếu tố học vấn liên quan đến NKHHCT trẻ em và chỉ
ra rằng con của các bà mẹ có trình độ từ tiểu học có nguy cơ mắc
NKHHCT cao gấp 1,75 lần so với con của các bà mẹ có trình độ THCS
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
[15]. Kết luận của chúng tôi cũng tương tự như kết quả nghiên cứu của
Nascimento khi xem xét các vấn đề xã hội liên quan đến NKHHCT của trẻ,
trong đó trình độ học vấn của bà mẹ thấp được chứng minh là một yếu tố
nguy cơ [51].
Trong gia đình, bà mẹ luôn là người gắn bó, trực tiếp chăm sóc trẻ
nhất là trong giai đoạn trẻ từ 0 – 5 tuổi. Những hành vi CSSK của bà mẹ có
ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng sức khỏe của trẻ, bà mẹ có kiến thức hiểu
biết đúng về bệnh là một yếu tố khởi đầu quan trọng để bà mẹ có một hành
vi sức khỏe tốt [22].
Kiến thức, sự hiểu biết của bà mẹ về bệnh NKHHCT có phải là yếu tố
nguy cơ đến tình trạng NKHHCT trẻ em tại địa điểm nghiên cứu hay không?
Nghiên cứu của chúng tôi đã trả lời câu hỏi này, các bà mẹ có hiểu biết
chung về NKHHCT kém thì con của họ có nguy cơ mắc NKHHCT cao gấp
1,54 lần so với các bà mẹ có kiến thức trung bình (Bảng 3.18). Chúng tôi
đánh giá kiến thức của các bà mẹ thông qua bộ câu hỏi phỏng vấn. Các câu
hỏi được thiết kế để thu thập những kiến thức rất cơ bản về bệnh như các
kiến thức phát hiện triệu chứng NKHHCT, kiến thức xử trí và phòng bệnh.
Một thực tế là dù CBYT có trình độ giỏi, được trang bị thuốc men và
các phương tiện y tế đầy đủ nhưng khi bà mẹ thiếu kiến thức, không biết
phát hiện sớm các dấu hiệu NKHHCT, chỉ đưa con đến cơ sở y tế khi bệnh
đã nặng thì khả năng tử vong của đứa trẻ là rất cao. Không có kiến thức,
hiểu biết đúng về bệnh bà mẹ sẽ không thấy hoặc không thấy hết mối đe
dọa đến tính mạng trẻ, từ đó sẽ có thái độ không đúng với việc chăm sóc trẻ
và hậu quả là không có hành vi tốt với vấn đề NKHHCT cho con mình.
Việc các bà mẹ quan niệm trẻ NKHHCT chỉ đơn thuần là ho sốt mà
không biết bệnh có thể tiến triển rất nhanh thành viêm phổi ở trẻ nhỏ hay
việc các bà mẹ tự mua thuốc ngoài về chữa, hay không cần đưa trẻ đến cơ
sở y tế khám vẫn là một hiện tượng phổ biến. Vậy rõ ràng là việc thiếu hiểu
biết của bà mẹ về bệnh NKHHCT là một trong những yếu tố nguy cơ quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
trọng cần phải can thiệp hàng đầu vào để giảm tỷ lệ mắc và tử vong do
NKHHCT ở trẻ. Một nghiên cứu tại Ethiopia cho thấy nếu bà mẹ biết phát
hiện sớm dấu hiệu viêm phổi và đưa trẻ đến cơ sở y tế kịp thời, đồng thời
trẻ được xử trí đúng thì tỷ lệ tử vong ở trẻ sẽ giảm được khoảng 20%
(p<0,05) [50].
Một nghiên cứu tương tự đã được tiến hành tại Enugu-Nigeria xác
định kiến thức của các bà mẹ về việc nhận biết viêm phổi ở trẻ trước tuổi đi
học: 65% bà mẹ nhận biết được viêm phổi qua dấu hiệu khó thở, 42% bằng
dấu hiệu thở nhanh và 26,5% bằng dấu hiệu ho nặng. Chỉ rất ít bà mẹ nhận
biết được dấu hiệu viêm phổi: Rút lõm lồng ngực (8,5%) và tím tái (1%)
[55]. Cũng trong nghiên cứu này điểm kiến thức của các bà mẹ về nhận biết
các dấu hiệu viêm phổi gia tăng một cách có ý nghĩa với trình độ học vấn và
tầng lớp xã hội của các bà mẹ (p<0,05). Trong khi một số đáng kể các bà mẹ
(51%) nhận biết được dấu hiệu thở nhanh là một chỉ số xác định viêm phổi
thì một số khá lớn các bà mẹ (87,5%) có thái độ không tin tưởng liệu các
dấu hiệu muộn như là rút lõm lồng ngực, tím tái có phải là dấu hiệu biểu
hiện của tình trạng bệnh nặng ở trẻ hay không? [55]. Vì thế cần đẩy mạnh
công tác TT - GDSK về NKHHCT mà các dấu hiệu thở nhanh, rút lõm
lồng ngực là biểu hiện nặng và là nguy cơ tử vong do viêm phổi.
Mỗi dân tộc có những phong tục tập quán riêng có thể ảnh hưởng tốt
hoặc không tốt đến chăm sóc sức khỏe trẻ em nói chung trong đó có chăm
sóc trẻ NKHHCT. Tuy nhiên, chúng tôi không thấy sự liên quan khi so
sánh tỷ lệ mắc NKHHCT giữa nhóm trẻ dân tộc Kinh với nhóm trẻ dân tộc
thiểu số, trong nghiên cứu của chúng tôi yếu tố dân tộc không phải là một
yếu tố nguy cơ với NKHHCT ở trẻ. Có thể do đặc thù khu vực nghiên cứu
tỷ lệ dân tộc thiểu số chiếm đa số (trên 80%) dân tộc Kinh chỉ chiếm gần
20%. Để làm rõ hơn điều này, theo chúng tôi, cần phải có những nghiên
cứu cụ thể hơn về hành vi chăm sóc trẻ NKHHCT trong các dân tộc thiểu
số tại địa điểm nghiên cứu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
4.3.2. Các yếu tố nguy cơ thuộc về bản thân trẻ.
Các yếu tố về bản thân trẻ được xem xét như cân nặng thấp khi sinh
thấp (<2500gam), cai sữa không hợp lý, tiêm chủng không đầy đủ đều là
những yếu tố có liên quan đến việc gia tăng tình trạng NKHHC của trẻ nhỏ
dưới 5 tuổi ở khu vực nghiên cứu.
Trẻ có cân nặng thấp khi sinh <2500g và trẻ đẻ non thì sức đề kháng
của trẻ với bệnh tật kém hơn các trẻ cân năng khi sinh bình thường, quá trình
phát triển của những trẻ này thường chậm và khả năng thích nghi với môi
trường thấp. Với trẻ cân nặng thấp các kháng thể từ mẹ truyền giảm ngay
trong thời gian sau đẻ do đó khả năng miễn dịch của trẻ kém, trẻ dễ mắc các
bệnh truyền nhiễm trong đó có NKHHCT.
Sữa mẹ có vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng và miễn dich cho
trẻ. Trẻ cai sữa sớm trong nghiên cứu này có nguy cơ mắc NKHHCT cao gấp
1,53 lần so với nhóm trẻ được cai sữa đúng thời điểm. Nghiên cứu về các yếu
tố này đã có một số tác giả đề cập đến. Các nghiên cứu về sự liên quan giữa
sữa mẹ và viêm phổi trẻ em ở Trung Quốc, Brazil, Canada, Argentina đã chỉ
ra rằng trẻ em không được nuôi bằng sữa mẹ có nguy cơ vào viện cao gấp từ
1,5 đến 4 lần, trẻ em cân nặng sơ sinh thấp có nguy cơ vào viện gấp 2 lần
[14],[39]. Điều này giải thích là do đáp ứng miễn dịch kém, chức năng phổi bị
tổn thương do đường kính của của đường hô hấp trên nhỏ hơn và có khuynh
hướng tắc nghẽn đường thở ngoại vi. Nghiên cứu ở Brazil cho thấy trẻ đẻ non
tháng và trẻ có cân nặng thấp có nguy cơ viêm phổi trong 1 và 2 năm đầu cao
hơn bao gồm cả viêm phổi nói chung [37], [39].
Tiêm chủng là một hoạt động rất qua trọng trong chiến lược chăm sóc
sức khỏe trẻ em. Trẻ được tiêm chủng đủ, đúng lịch sẽ tạo được miễn dịch
bền vững cho trẻ chống lại 6 bệnh truyền nhiễm nguy hiểm [22]. Trẻ không
được tiêm phòng đầy đủ hoặc đủ nhưng không đúng lịch sẽ không có kháng
thể chống lại các bệnh truyền nhiễm và là yếu tố làm gia tăng tỷ lệ mắc
NKHHCT ở trẻ nhỏ. Kết quả của chúng tôi cho thấy nhóm trẻ không được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
tiêm phòng đầy đủ có nguy cơ mắc NKHHCT rất cao gấp 7,92 so với nhóm
chứng. Đây là một yếu tố cần được quan tâm trong các nghiên cứu can
thiệp sau này về NKHHCT tại huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn.
4.3.3. Các yếu tố nguy cơ thuộc về môi trường sống của trẻ.
Những nghiên cứu ở Kerala, Nepal, Gambia, Zimbabwe, Nam Phi,
Tanzania về các yếu tố nguy cơ NKHHCT ở trẻ cho thấy tỷ lệ NKHHCT
cao hơn ở nhóm trẻ nhỏ bị phơi nhiễm với ô nhiễm không khí trong nhà
[46], [47]. Các tác giả Jame H và Satoshi Nakai nghiên cứu tại Tanzania
cho thấy nguồn ngây ô nhiễm không khí lớn nhất trong nhà là do bố , mẹ
hoặc người lớn hút khác thuốc lá, thuốc lào trong nhà. Trẻ nhỏ có bố mẹ
hút thuốc lá, thuốc lào có tỷ lệ mắc các bệnh NKHHCT cao gấp 2 lần so
với trẻ nhỏ mà bố/mẹ không hút thuốc. Nghiên cứu tại Brazil cho thấy tỷ lệ
mới mắc bệnh hô hấp của những đứa trẻ bị phơi nhiễm với khói thuốc lá do
bố mẹ gấp 1,5 đến 2 lần so với con của những người không hút thuốc lá.
Nghiên cứu tại xã Thủy Dương (Huế) năm 2003 cũng cho thấy tỷ lệ trẻ
phơi nghiễm với khói thuốc mắc NKHHCT (63,15%) cao hơn nhóm trẻ
mắc NKHHCT nhưng không phơi nhiễm với khói thuốc (29,75%) với
p< 0,05 [31].
Nghiên cứu của chúng tôi tại huyện Chợ Mới cũng cho kết quả tương
tự. Nhóm trẻ có bố mẹ hút thuốc lá, lào có nguy cơ mắc NKHHCT cao gấp
1,39 lần so với nhóm chứng. Rõ ràng trẻ hít phải khói thuốc từ người lớn
(hút thụ động) là một yếu tố nguy cơ đến NKHHCT.
Trong đề tài của chúng tôi, các yếu tố môi trường như loại nhà ở tạm
bợ, điều kiện nhà ở ẩm thấp là những yếu tố nguy cơ NKHHCT ở trẻ nhỏ.
Trẻ phải sống trong điều kiện nhà ở tạm, tình trạng nhà ẩm thấp sẽ dễ bị
nhiễm lạnh hơn sơ với trẻ sống trong điều kiện tốt hơn. Nhà ở quá gần
chuồng gà, vịt và các gia súc khác như trâu, bò, lợn thì tỷ lệ mắc NKHHCT
ở nhóm trẻ thường xuyên phải tiếp xúc với các yếu tố như trên cao hơn hẳn
nhóm trẻ ít hoặc không tiếp xúc với các yếu tố đó. Việc phải thay đổi nhận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
thức của nhân dân khu vực này thực sự là một vấn đề mang tính thách thức
vì tập quán ở nhà sàn và nuôi gia súc dưới gầm sàn đã là một truyền thống
có từ lâu đời của hầu hết các hộ gia đình nơi đây. Thực tế nhiều người dân
biết tác hại đó nhưng họ vẫn không thay đổi hành vi vì nguy cơ mất trộm
gia súc làm họ phải quan tâm tới vấn đề bảo vệ gia súc của mình nhiều hơn
mà ít để ý đến nguy cơ cho trẻ nhỏ.
Số người sống trong gia đình đông đúc có phải là một nguy cơ tăng tỷ lệ
mắc NKHHCT ở trẻ? điều này cũng được chỉ ra trong đề tài của nhóm nghiên
cứu tại huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn. Khi một thành viên trong gia đình trẻ
mắc các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, trẻ phơi nhiễm với nguy cơ đó và có
khả năng bị lây bệnh. Cơ chế lây truyền qua không khí đã được giải thích.
Những giọt nước bọt hoặc nước mũi bắt ra khi người bệnh hắt hơi hoặc khi thở,
nói chuyện có kích thước trên 100 micromet thường lắng xuống rất nhanh ,
trong khi các giọt có kích thước nhỏ bị bốc hơi mạnh trong phòng ở thì đa số
các giọt này (>100 micromet) bị khô trước khi lắng xuống đất. Những giọt chứa
vi khuẩn gây bệnh có thể bay trong không khí khá lâu và làm lây truyền bệnh
cho trẻ. Nguy cơ mắc bệnh tăng lên khi số người sống trong gia đình đông đúc
và điều kiện ở chật chội [40].
Cũng trong một nghiên cứu tại Brazil đã chứng minh rằng gia đình có
từ 3 con dưới 5 tuổi trở lên có nguy cơ tử vong do viêm phổi cao gấp 2 đến 5
lần so với gia đình ít con. Theo chúng tôi điều này rất phù hợp khi xem xét đến
vấn đề đông con liên quan đến NKHHCT ở các khu vực vùng cao miền núi tại
Việt Nam. Mặt khác, gia đình đông con không chỉ tạo ngánh nặng về kinh tế
mà còn làm giảm thời gian mà bà mẹ dành chăm sóc cho từng đứa con do đó
làm tăng nguy cơ mắc NKHHCT ở trẻ. Tuy nhiên, trong đề tài này nhóm
nghiên cứu chưa tìm hiểu được mối liên quan giữa số con trong gia đình với
bệnh NKHHCT ở trẻ nhỏ. Đây là một hạn chế của đề tài mà chúng tôi cần phải
rút kinh nghiệm cho những nghiên cứu sau này. Nếu khẳng định được vấn đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
đông con là một nguy cơ NKHHCT tại khu vực này, nghiên cứu sẽ góp phần
khuyến cáo người dân trong vùng về việc tích cực thực hiện công tác kế hoạch
hóa gia đình, góp phần hạn chế bệnh tật, tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội
[14], [39], [51].
KẾT LUẬN
1. Thực trạng bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dƣới 5 tuổi
- Tỷ lệ mắc NKHHCT chung ở trẻ dưới 5 tuổi là 40,76%
- Phân loại NKHHCT theo mức độ:
Thể không viêm phổi: ho hoặc cảm lạnh: 35,69%.
Viêm phổi: 4,16%.
Viêm phổi nặng hoặc bệnh rất nặng là: 0,91%.
- Nhóm tuổ i mắc NKHHCT: cao nhất ở nhóm trẻ từ 12 – 35 tháng tuổi
chiếm tỷ lệ 45,02%.
- Giới tính: Tỷ lệ trẻ nam mắc NKHHCT: 38,36%; Trẻ nữ: 43,72%.
2. Các yếu tố nguy cơ NKHHCT ở trẻ dƣới 5 tuổi.
- Các yếu tố nguy cơ thuộc về bà mẹ
Nghề nghiệp mẹ làm ruộng (OR=2,76)
Trình độ học vấn của bà mẹ thấp (OR=1,90)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
Kiến thức của bà mẹ về NKHHCT cho trẻ kém (OR=1,54 )
- Các yếu tố nguy cơ thuộc về trẻ
Tiêm chủng không đầy đủ (OR=7,92)
Cân nặng thấp khi sinh (OR=1,96)
Thời gian cai sữa cho trẻ quá sớm (OR=1,53)
- Các yếu tố nguy cơ thuộc về môi trường sống
Làm chuồng gia súc gần nhà (OR=2,55)
Tình trạng nhà ở ẩm thấm, trống trải (OR=2,31)
Kinh tế gia đình nghèo (OR= 1,56)
Loại nhà ở tạm (OR=1,49)
Gia đình trẻ có người hút thuốc lá, thuốc lào (OR=1,39)
Bếp đun trong nhà (OR=1,25)
Quy mô gia đình đông người (OR = 2,63)
KHUYẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu về tình hình NKHHCT và một số yếu tố liên quan
đến NKHHCT ở trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn chúng tôi
xin đưa ra một số khuyến nghị sau:
- Tăng cường truyền thông giáo dục sức khỏe cho các bà mẹ về phòng
chống NKHHCT cho trẻ nhỏ. Tăng cường công tác chăm sóc trước sinh,
giảm số trẻ có cân nặng thấp khi sinh, thực hiện tiêm chủng đầy đủ và đúng
lịch cho trẻ. Giữ vệ sinh môi trường nhà ở đặc biệt với những hộ sống trong
nhà tạm. Vận động người dân làm chuồng gia súc xa nhà từ 10m trở lên,
hạn chế bếp đun trong nhà hoặc có biện pháp thông khói, cách ly trẻ với
khói bếp. Vận động người lớn trong gia đình không nên hút thuốc lá, lào
trong nhà hoặc gần trẻ.
- Cần triển khai cụ thể các giải pháp can thiệp về NKHHCT ở trẻ dưới
5 tuổi theo nhiều kênh khác nhau tập trung vào các vấn đề: Truyền thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
giáo dục sức khỏe cho người dân, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ y
tế hoặc dự phòng NKHHCT bằng vaccin cho trẻ.
MỤC LỤC
Nội dung Trang
Đặt vấn đề ................................................................................................ 1
Chƣơng 1. Tổng quan ............................................................................... 3
1.1. Khái niệm, phân loại nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính và một số đặc điểm
giải phẫu sinh lý bộ phận hô hấp của trẻ em? ............................................... 3
1.1.1. Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là gì?. ................................................... 3
1.1.2. Phân loại các trường hợp nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. ...................... 3
1.1.3. Một số đặc điểm giải phẫu sinh lý bộ phận hô hấp của trẻ em. ............. 4
1.2. Tình hình nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi trên Thế giới
và tại Việt Nam........................................................................................... 5
1.2.1. Tình hình nhiễm khuẩn hô hấp ở trẻ dưới 5 tuổi trên Thế giới............. 5
1.2.2. Tình hình nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại Việt Nam .......................... 8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
1.3. Các yếu tố nguy nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. .................................... 12
Chƣơng 2. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu ................................. 17
2.1. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................... 17
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ....................................................... 17
2.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 17
2.4. Phương pháp chọn mẫu ...................................................................... 18
2.5. Các chỉ số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh giá các chỉ số. ..................... 19
2.6. Phương pháp thu thập số liệu và xử lý sai số........................................ 24
2.7. Phương pháp xử lý số liệu: ................................................................. 24
Chƣơng 3. Kết quả nghiên cứu .............................................................. 25
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu............................................ 25
3.2. Thực trạng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi .................... 31
3.3. Kết quả về các yếu tố nguy cơ đến nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính .......... 35
Chƣơng 4. Bàn luận ............................................................................... 43
4.1. Tình hình kinh tế – văn hóa – xã hội tại địa điểm nghiên cứu ............... 43
4.2. Thực trạng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi .................... 44
4.3. Các yếu tố nguy cơ đến nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính .......................... 47
Kết luận ................................................................................................. 53
Khuyến nghị............................................................................................ 54
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_va_mot_so_yeu_to_nguy_co_ve_nhiem_khuan_ho_hap_cap_tinh_cu_.pdf