Tài chính công gắn liền với hoạt động của nhà nước. Nó vừa là nguồn lực để nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình , vừa là công cụ để thực hiện các dịch vụ công, chi phối , điều chỉnh các mặt hoạt động khác của đất nước. Trong tiến trình đổi mới, thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia, Đảng và nhà nước ta coi đổi mới quản lý tài chính công là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu.
Nhận thức một cách đầy đủ, có hệ thống về tài chính công là đòi hỏi bức thiết trong công tác nghiên cứu, học tập cũng như hoạt động thực tiễn cho cán bộ ở mọi nghành, mọi cấp, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh cải cách hành chính hiện nay ở nước ta.
25 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 4398 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng vai trò điều tiết vĩ mô kinh tế của tài chính công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Những biến động về kinh tế của khu vực trong những năm gần đây đã tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế Việt Nam. Có thể kể như: Cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra ở Mỹ năm 2008, hay cuộc khủng hoảng nợ công diễn ra ở Châu Âu với điểm bùng nổ đầu tiên là Hy Lạp vào đầu năm 2010……Hay trên chính trên đất nước ta đã diễn ra nhiều tình hình như: Việt Nam chính thức gia nhập WTO năm 2007, thâm hụt ngân sách nhà nước vẫn còn kéo dài đến tận nay…Những vấn đề đó đòi hỏi chính phủ Nhà nước Việt Nam phải có sựu điều tiết vĩ mô đúng đắn và nhất là trong khu vực tài chính công thông qua việc sử dụng các công cụ như: chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ……
Vậy vai trò điều tiết vĩ mô của tài chính công là gì? thực trạng và một số giải pháp được đưa ra nhằm khắc phục vai trò điều tiết vĩ mô của tài chính công? Bài thảo luận này với đề tài là : “ Thực trạng vai trò điều tiết vĩ mô cảu tài chính công tại Việt Nam trong thời gian qua” sẽ trả lời các câu hỏi đó.
Bài thảo luận gồm 3 phần lớn:
Tổng quan lý thuyết về tài chính công
Thực trạng vai trò điều tiết vĩ mô của tài chính công Việt Nam trong những năm gần đây
Một số giải pháp
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu chúng em có tìm hiểu tài liệu trên sách và mạng , cùng với vốn hiểu biết còn thiếu xót nên không khỏi dẫn đễn những khiếm khuyết trong bài thảo luận. Rất mong cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn
I . lý luận chung.
Tài chính công là gì?
Tài chính công gắn liền với hoạt động của nhà nước .Nó vừa là nguồn lực để nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình ,vừa là công cụ để thực hiện các dịch vụ công ,chi phối ,điều chỉnh các mặt của hoạt động khác của đất nước Trong tiến trình đổi mới ,thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia ,Đảng và nhà nước ta coi đổi mới tài chính công là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu .
Vì vậy để hiểu rõ tài chính công là gì ,sau đây chúng ta cần thiết đi làm rõ một số khái niệm :
Khu vực công :
Tìm hiểu về khu vực công để thấy được phạm vi ,đối tượng tác động của tài chính công qua đó thiết lập cơ sở can thiệp của chính phủ đối với các hoạt động kinh tế -xã hội .Hiện nay trên thế giới đang tồn tại hai quan điểm khác nhau về khu vực công:
-Quan điểm của joseph e.stiglits cho rằng :khu vực công là khu vực của chính phủ
-Theo tài liệu “ quản lý chi tiêu của chính phủ “ của salvatore schiavo- campo anh Daniel tommasai lại cho rằng : khu vực công bao gồm khu vực nhà nước và khu vực được chính phủ kiểm soát.
Hàng hóa công :
Hàng hóa công là những hàng hóa mang tính tiêu dùng chung ,nói một cách khác hàng hóa công là những hàng hóa không có tính cạnh tranh và không bị loại trừ trong tiêu dùng .
Từ nội dung về “khu vực công “ và “hàng hóa công,dịch vụ công “ cho thấy thuật ngữ “công “ gắn liền các khía cạnh như tính sỡ hữu ,tính mục đích, tính chủ thể .
-Xét về hình thức : tài chính công là các hoạt động thu,chi tiền tệ của nhà nước gắn liền với quá trình tạo lập và sữ dụng quỹ tài chính công nhằm đáp ứng các nhu cầu thực hiện chức năng ,nhiệm vụ của nhà nước trong việc cung cấp hàng hóa dịch vụ công cho xã hội.
-Xét về thực chất:tài chính công phản ánh các quan hệ kinh tế trong phân phối nguồn tài chính quốc gia phát sinh giữa các cơ quan công quyền của nhà nước với các chủ thể khác trong nền kinh tế ,nhằm thực hiện chức năng ,nhiệm vụ của nhà nước trong việc cung cấp hàng hóa dịch vụ công cho xã hội không vì mục tiêu lợi nhuận .
Hai yếu tố tiền đề quyết định sự ra đời của Tài chính công:
-Nhà nước: ra đời mang tính chất khách quan nhưng tồn tai lại mang tính chất chủ quan Nhà nước có 2 chức năng chính là trấn áp bạo lực và tổ chức quản lý. Nhà nước thể hiện chức năng trấn áp của mình để phục vụ lợi ích cho nhà nước , cụ thể ở Việt Nam : thông qua 2 cơ quan là Bộ Công An và Bộ Quốc phòng . Nhà nước tổ chức quản lý trong 2 lĩnh vực chính là kinh tế và xã hội.
Nền kinh tế hàng hóa tiền tệ :kể từ khi xã hội xuất hiện chiếm hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra đã làm cho nền kinh tế hàng hóa ra đời và tiền tệ bắt đầu xuất hiện.
Đặc điểm tài chính công .
So với tài chính tư ,tài chính công thể hiện ở những đặc điểm khác biệt:
Gắn liền với sở hữu nhà nước, quyền lực chính trị của nhà nước:
Nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định đến quá trình tạo lập và sử dụng quỹ công đặc biệt là quỹ ngân sách nhà nước. Các quyết định của nhà nước được thể chế bằng luật do cơ quan quyền lực cao nhất phê chuẩn. Việc tạo lập và sử dụng quỹ công phụ thuộc vào quan điểm của nhà nước và các mục tiêu kinh tế-xã hội quốc gia đặt ra trong từng thời kì.
Chứa đựng lợi ích chung, lợi ích công cộng:
Tài chính công phản ánh quan hệ kinh tế giữ:a nhà nước với các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế trong việc phân phối nguồn tài chính quốc gia nên hoạt động tài chính công phản ánh các quan hệ lợi ích giữa nhà nước với các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế, trong đó lợi ích tổng thể được đặt lên hàng đầu và chi phối các quan hệ lợi ích khác
Hiệu quả của hoạt động thu chi tài chính công không lượng hoá được:
Chủ yếu mang tính chất không hoàn lại trực tiếp nên không thể đánh giá hiệu quả một cách cụ thể, chính xác. Tuy nhiên, hiệu quả của tài chính công có thể xác định một cách tương đối thông qua các chỉ tiêu kinh tế-xã hội như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, hộ nghèo, tỷ lệ thất học...
Phạm vi hoạt động rộng:
Tài chính công gắn liền với các việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội, quốc phòng, an ninh,... Hoạt động thu chi tài chính công có tác động đến thu nhập của hầu hết các chủ thể trong nền kinh tế kể cả chủ thể đầu tư hay tiêu dùng. Tuy nhiên, phạm vi và mức độ tác động tuỳ thuộc vào chính sách tài chính công, bối cảnh kinh tế-xã hội quốc gia trong từng thời kì và tuỳ thuộc vào từng chủ thể.
Cơ cấu chính tài công .
Tài chính công là một tổng thể thống nhất do nhiều bộ phận hợp thành .tùy thep các góc độ tiếp cận khác nhau ,tài chính công được phân thành như sau.
Phân theo chủ thể quản lý trực tiếp :
Tài chính chung của nhà nước :
Chủ thể quản lý tài chính trực tiếp là nhà nước.tài chính chung của nhà nước bao gồm ngân sách nhà nước các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của tài chính công .Ngân sách nhà nước phản ánh các hoạt động chi ,thu bằng tiền của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đáp ứng các nhu cầu thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước .Các hoạt động thu ngân sách nhà nước như thuế ,phí ,lệ phí…Hoạt động chi NSNN chủ yếu là chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển .
Các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay bao gồm :quỹ dự trữ quốc gia,quỹ bảo hiểm xã hội,quỹ phủ xanh đất trống ...
Tài chính của các cơ quan hành chính nhà nước :
Ở Việt Nam hiện nay ,các cơ quan hành chính bao gồm :cơ quan lập pháp ,cơ quan hành pháp ,cơ quan tư pháp …..Nhiệm vụ các cơ quan này là cung cấp các dịch vụ hành chính công cho xã hội
Tài chính từ các đơn vị sự nghiệp của nhà nước :
Cung cấp các dịch vụ công cộng cho xã hội trên các lĩnh vực kinh tế ,giáo dục , y tế,văn hóa ,xã hội .hoạt đông không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà chỉ mang tính phục vụ .Vì vậy ,nguồn kinh phí đảm bảo hoạt động cho các đơn vị này là do NSNN cấp .
Phân theo nội dung hoạt động và cơ chế quản lý .
Ngân sách nhà nước :là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước.NSNN là kế hoạch tài chính vi mô của nhà nước giúp nhà nước quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế ổn định .
Như vậy ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế ,chính trị của nhà nước và được thực hiện trên cơ sỡ luật pháp ấn định .
Tín dụng nhà nước : là hình thức nhà nước vay nợ nhằm đáp ứng nhu cầu cân đối NSNN và chi đầu tư phát triển
Các quỹ ngoài NSNN:hầu hết ở các nước ,quỹ ngân sách được chia làm ba nhóm: quỹ dự trữ ,dự phòng, quỹ hỗ trợ, quỹ phục vụ các chương trình mục tiêu quốc gia .
4.vai trò tài chính công .
4.1.Đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước .
Đây là vai trò truyền thồng của tài chính công trong mọi mô hình kinh tế .
Trước hết ,tài chính công được sữ dụng đẻ huy động một phần nguồn tài chính quốc gia thông qua thuế,hay vay từ các chủ thể trong nền kinh tế ,tạo lập quỹ tài chính công
Thứ hai,tài chính công phân phối sữ dụng nguồn tài chính công để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Thứ ba, tài chính công được sư dụng để kiểm tra ,giám sát các hoạt động từ đó nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành của nhà nước.
4.2.Điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội .
-Về kinh tế :tài chính công có vai trò thúc đẩy kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững.
Với công cụ thuế ,tài chính công có vai trò định hướng đầu tư ,điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế ,kích thích hoặc hạn chế phát triển sản xuất kinh doanh theo từng loại sản phẩm.
Công cụ chi tiêu tài chính công ,tài chính công góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh ,hình thành và hoàn thiện cơ cấu sản xuất,cơ cấu kinh tế nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
Tài chính công còn có vai trò quan trọng trong việc ổn định kinh tế vĩ mô như: đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý và bền vững ,duy trì việc sữ dụng lao động ở tỷ lệ cao ,hạn chế sự tăng giá đột ngột ….
ở việt Nam ,năm 2008 và năm 2009 tài chính công đã phát huy vai trò quan trọng trong việc ổn định kinh tế ,hạn chế đà suy suy giảm kinh tế trước tác động khủng hoảng suy giảm toàn cầu .
-Về xã hội: đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện công bằng xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội .
Ví dụ như: Chênh lệch thu nhập giữa các vùng miền ngày càng tăng,để thực hiện công bằng xã hội ,giảm bớt khoảng cách giàu nghèo,chính phủ sữ dụng tài chính công thông qua công cụ thuế và chi tài chính công .
Tuy nhiên ,trong quá trình điều chỉnh thu nhập ,TCC phải đảm bảo cho các nhà đàu tư có khả năng tích tụ vốn cho đầu tư ,khuyến khích sản xuất kinh doanh
Cùng với vai trò điều chỉnh thu nhập tài chính công còn góp phần giải quyết các vấn đề xã hội thông qua việc tài trợ phát triển các dịch vụ công cộng
II.Thực trạng điều tiết vĩ mô của tài chính công.
1.Về kinh tế:
Sự suy giảm về thu ngân sách là một trong số các nguyên nhân dẫn tới những quan ngại về quy mô và chi phí của dịch vụ hành chính công. Trong năm 2001, số lượng cán bộ làm việc trong khu vực dịch vụ hành chính công vào khoảng 1,3 triệu người, trong đó khoảng 200.000 người làm việc cho Chính phủ trung ương, và 1,1 triệu người làm việc tại cấp tỉnh và huyện. Con số này không tính đến số cán bộ là công an, những người phục vụ trong quân đội, cán bộ cấp xã, những người làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước, và những thành viên của Mặt trận Tổ quốc, hội cựu chiến binh, và những đối tượng khác nhận trợ cấp của Chính phủ. Chi phí về tiền công và tiền lương cho khu vực dịch vụ hành chính công, bao gồm tất cả những khỏan chi trả bằng tiền mặt, không tính đến các khoản chi trả bằng hiện vật, và lương hưu trí, ước tính vào khoảng 3,8% GDP, góp phần đưa mức thâm hụt ngân sách tổng thể lên tới 5% GDP (ADB, 2001; IMF, 2003, 2007).
Chương trình Tổng thể CCHC về đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan đơn vị hành chính và sự nghiệp đã có ba thành tố cần được hoàn thành vào năm 2005. Bộ Tài chính được giao làm cơ quan chủ trì:
Thiết lập các tiêu chí mới trong xây dựng và phân bổ ngân sách cho các cơ quan hành chính dựa trên đầu ra, chất lượng của các hoạt động, và mức độ hoạt động.
Thực hiện cơ chế khoán chi phí hoạt động cho các cơ quan hành chính.
Thiết lập các cơ chế quản lý tài chính phù hợp với các cơ quan đơn vị sự nghiệp nhằm đảm bảo tính độc lập và tính tự chủ tương đối của những cơ quan đơn vị đó trong việc ra quyết định đối với các hoạt động của mình nhằm dần dần giảm bớt các khoản chi từ ngân sách nhà nước, tiến tới áp dụng cơ chế tự hạch toán tại các cơ quan đơn vị đó.
Chương trình Tổng thể CCHC không đề cập tới các biện pháp cải tiến quản lý nguồn thu, mà việc đó được điều chỉnh bởi các quyết định khác. Liên quan đến quy mô và chi phí của khu vực dịch vụ hành chính công, Chương trình Tổng thể CCHC vạch ra những mục tiêu dưới đây phải hoàn thành trong năm 2005, với Ban Tổ chức Cán Bộ Chính phủ (sau này trở thành Bộ Nội vụ) là cơ quan chủ trì.
Việt Nam thành công trong việc hạn chế đà suygiảm thu ngân sách trước đây, qua đó làm tăng tỷ trọng các khỏan thu và viện trợ trong GDP từ dưới 22% lên tới trên 27 %, giảm bớt mức thâm hụt ngân sách từ 5% GDP xuống còn dưới 4%. Khoảng 2/5 số tăng thu ngân sách có được nhờ thu nhập từ dầu lửa.
Trong tỷ trọng thuế giá trị gia tăng (VAT) và thuế thu nhập doanh nghiệp (được thúc đẩy bởi doanh thu từ dầu lửa), tăng từ 52 lên 71% tổng thuế thu được trong giai đoạn 2001-2008.
Cũng có mốt sự sụt giảm về tỷ trọng của thuế thương mại mậu dịch trong giai đoạn này, chủ yếu là do các cam kết WTO và Hiệp định Thương mại Song phương Việt-Mỹ.
Việc phân tích số thu thuế theo khu vực kinh tế cho thấy một khuynh hướng rõ ràng của việc giảm đóng góp từ các doanh nghiệp Nhà nước trong khi đóng góp của các doanh nghiệp không thuộc Nhà nước lại trên đà tăng lên. Theo đó, trong thập niên này, thuế thu được từ các doanh nghiệp Nhà nước giảm 20% (từ 64% trong năm 2001 xuống còn 44% trong năm 2010) trong khi cùng thời gian này, thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể thu nhập từ dầu lửa) và doanh nghiệp tư nhân tăng lần lượt từ 16% và 19% lên tới 28% và 27% Mặc dù tỷ trọng thu từ thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp trong tổng số thu từ thuế ngày càng tăng, cũng cần lưu ý rằng các thủ tục thu những loại thuế này hiện vẫn còn rườm rà. Một công ty quy mô trung bình tại Việt Nam phải mất đến 650 giờ đồng hồ mỗi năm để trả thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp – xếp hàng thứ 128 trên 178 nước.
Mặc dù một cách tương đối đa số người đóng thuế tại thành phố Hồ Chí Minh có cảm nhận là các thủ tục khai thuế là phù hợp thì có tới 45% số người lại tin rằng các thủ tục hiện còn ―phức tạp (nghĩa là còn bất hợp lý).
Có những yếu kém đáng kể và có tính hệ thống trong quản lý thuế. Mặc dù có một chiến lược cải cách thuế, nhưng vẫn thiếu một tầm nhìn dài hạn với mục tiêu chiến lược rõ ràng đối với Hải Quan Việt Nam. Hải quan vẫn còn là ―thiếu nhạy bén, thiếu nhất quán và dễ bị tham nhũng.
Quản lý thuế vì vậy được đánh giá là mức độ tuân thủ thấp và dễ bị tham nhũng.
Điều này có thể được giải thích bằng một thực tế là môi trường kinh doanh đã trở nên thuận lợi và bình đẳng hơn trước kia với mức độ bảo hộ doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn và một môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn đối với các khu vực kinh doanh ngoài Nhà nước. Một cải cách có tính chất cốt lõi đóng góp vào kết quả này là Luật Doanh nghiệp 2000, sau đó đã được sửa đổi bổ sung để trở thành Luật Đầu tư chung và Luật Doanh nghiệp thống nhất năm 2005.
Là một nước đáng phát triển, Việt Nam nhận được sự hỗ trợ đáng kể từ cộng đồng quốc tế.
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam, đặc biệt về xóa đói giảm nghèo. Các cam kết ODA và các đợt giải ngân đã tăng lên mạnh mẽ và đóng góp một tỷ trọng quan trọng trong ngân sách quốc gia, tương ứng đạt 4,5 tỷ và 1,8 tỷ USD trong năm 2006, tăng lần lượt từ mức 3,4 tỷ và 1,65 tỷ USD trong năm 2004 (song lại giảm nếu xét về tỷ lệ phần trăm trong tổng thể ngân sách quốc gia).
Tiết kiệm chi tiêu chỉ là một mục tiêu phụ của Nghị định 130/2005, song đây lại là nội dung chính trong triển khai thực hiện Nghị định này. Những người được đoàn khảo sát phỏng vấnnhấn mạnh nhiều hơn vào kết quả tiết kiệm tài chính mà các cơ quan hành chính công đã nỗ lực đạt được chứ không chú trọng vào vấn đề cải tiến hoạt động cung cấp dịch vụ công.
Dường như có một sự không tương xứng giữa quyền tự chủ trong quản lý tài chính và quảnlý nhân sự. Những người đứng đầu các cơ quan hành chính công khó có thể sa thải cán bộ công chức vì công tác yếu kém hoặc không hoàn thành nhiệm vụ bởi vì việc sa thải cán bộ công chức đòi hỏi quy trình và thủ tục phức tạp, có liên quan tới các bên hữu trách bên ngoài khác,như Bộ Nội vụ. Vấn đề này đã được chính phủ thảo luận và hiện đang soạn thảo các quy định để giải quyết vấn đề này một cách hệ thống.
2.Về xã hội:
a.Thu tài chính công (hay công cụ về thuế).
-Vai trò của thuế : là công cụ sắc bén để phân phối lại sản phẩm xã hội nhằm đạt mục tiêu công bằng xã hội. Phát triển nền kinh tế thị trường chắc chắn sẽ nảy sinh những vấn đề xã hội cần có sự can thiệp của nhà nước.một trong những vấn đề đó là sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các thành viên trong xã hội do sự lợi thế khách quan hoặc hoàn cảnh bất lợi ngẫu nhiên mang lại. Xét cả từ góc độ kinh tế lẫn xã hội, sự chênh lệch thái quá về thu nhập giữa các thành viên trong xã hội cần phải được hạn chế. Tham gia vào quá trình này, thuế dược coi là công cụ tái phân phối quan trọng góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Thuế có thể thực hiện dược mục tiêu công bằng này nếu nó bao quát được hầu hết đối tượng nộp thuế và phân biệt mức đóng góp thông qua các mức thuế suất khác nhau, đặc biệt là thuế suất lũy tiến thu nhập.
-Các loại thuế gồm:
Thuế thu nhập cá nhân
Thuế GTGT
Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế xuất nhập khẩu
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Chính sách thuế đã bắt đầu phát huy được tác dụng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất đã tạo ra môi trường bình đẳng về pháp luật cho sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chính sách thuế từng bước tạo ra sự công bằng về nghĩavụ nộp thuế giữa các đối tượng khác nhau, góp phần thúc đẩy đầu tư vốn, cải tiến công nghệ, tăng năng suất Lao động, giảm giá thành …
-Thứ nhất, Thuế thu nhập cá nhân:
Luật Thuế TNCN vừa được ban hành đã đảm bảo được nguyên tắc công bằng và khả năng nộp thuế, thể hiện ở chỗ: Người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhieu hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn, mỗi cá nhân dù có thu nhập từ các nguồn khác nhau đều được điều chỉnh thống nhất trong một chính sách thuế ; người có thu nhập thấp chưa phải nộp thuế.
Ngoài ra, đối tượng nộp thuế có bổ sung thêm cá nhân có thu nhập chịu thuế từ đầutư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng tài sản, thu nhập từ thừa kế,quà tặng. Thu nhập chịu thuế được mở rộng đối với các khoản như: thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất
động sản trong đó có chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở hoặc quyền sử dụng đất ở; chuyển nhượng quyền thuê đất, thuế mặt nước; một số khoản thu nhập
từ thừa kếquà tặng; thu nhập từ trúng thưởng trong các hình thức cá cược,
casino.
Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm 2007 và có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2009. Từ lúc ban hành đến hiệu lực hơn 1 năm nên có thể nói mức giảm trừ gia cảnh cho mỗi người nộp thuế là 4 triệu đồng/ tháng là chưa hợp lý. Bởi mức lương tối thiểu đã được tăng và những ảnh hưởng của lạm phát, khủng hoảng kinh tế trong thời gian gần đây cho thấy mức giảm trừ chưa phù hợp.
Trong giai đoạn chứng khoán thế giới và trong nước gặp nhiều biến động, đầu tư chứng khoán vẫn còn tương đối mới mẻ tại Việt Nam việc đánh thuế thu nhập cá nhân vào lĩnh vực này là quá sớm.
-Thứ hai,Thuế xuất, nhập khẩu và thuế GTGT :
Chính sách thuế đã góp phần khuyến khích xuất khẩu. Hàng hóa xuất khẩu
không phải chịu thuế giá trị gia tăng, đồng thời được hoàn lại toàn bộ số thuế giá trị gia tăng đã nộp ở đầu vào. Thuế GTGT có tính chất lũy thoái so với thu nhập. Thuế GTGT đánh vào hàng hóa dịch vụ, người tiêu dùng hàng hóa dịch vụ là người phải trả khoản thuế đó, không phân biệt thu nhập cao hay thấp đều phải trả số thuế như nhau. Như vậy, nếu so sánh giữa số thuế phải trả so với thu nhập thì người nào có thu nhập cao hơn thì tỷ lệ này thấp hơn và ngược lại.
Năm 1997, khi ban hành Luật thuế GTGT, ngoài thuế suất 0%, còn có 3 mức thuế suất: 5%, 10 % và 20%. Từ ngày 1 tháng 4 năm 2004; áp dụng Luật sửa đổi bổ sung: bỏ thuế suất 20%, chỉ còn 2 thuế 5% và 10%. Trong đó 5 % là mứcthuế suất ưu đãi, được áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuấtnông nghiệp hoặc phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. Tuy nhiên, trong quá trìnhthực hiện, trước những khó khăn của nền kinh tế, diện áp dụng mức thuế suất 5% cũng được mở rộng và chưa theo đúng nguyên tắc nêu trên. Từ đódẫn đến doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh một số hàng hoá, dịch vụ ở mức thuế suất này không những không phải nộp thuế mà còn được hoàn thuế từ ngân sách Nhà nước.
D o đó, cần thiết rà soát lại diện áp dụng mức thuế suất 5% để phù hợp với thực tiễn. Mặt khác, tiêu chí phân định ranh giới áp dụng mức thuế suất 5% và 10% chưa rõ ràng: vừa theo tên hàng hoá, dịch vụ, vừa theo công dụng hàng hoá, dịch vụ , vừa theo tính chất của hàng hoá, dịch vụ, dẫn đến việc áp dụng mức thuế suất không thống nhất, nảy sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện.
-Thứ ba,Thuế tiêu thụ đặc biệt :
Là công cụ góp phần quan trọng trong việc tái phân phối thu nhập của người có thu nhập cao, đảm bảo công bằng xã hội. Do loại thuế này có mức động viên cao, được xác định trên cơ sở đơn vị đo lường khác và thường được thu với mức thuế suất cao hơn so với thuế tiêu dùng thông thường. Đặc điểm này thể hiện quan điểm điều tiết nhà nước thông qua thuế TTĐB. Xét khía cạnh phân phối thu nhập, đối tượng tiêu dùng phần lớn là người có thu nhập cao,vì vậy mức động viên cao nhằm điều tiết thu nhập của người có thu nhâp cao.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế : Đối tượng không thuộc diện chịu thuế TTĐB quá rộng. Điều đáng lưu ý là qua
thực tế thi hành Luật Thuế TTĐB đã phát sinh việc lợi dụng các quy định này để trốn thuế. Ví dụ: máy bay, du thuyền…
Mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt còn thấp, chưa đủ tác dụng điều tiết, hạn chế tiêu dùng đối với hầu hết các mặt hàng, dịch vụ thuộc diện xa xỉ, như: rượu, bia, ô tô, mô tô phân khối lớn, máy bay, du thuyền, kinh doanh vũ trường, massage, karaoke, casino, sân golf...
-Thứ tư, Thuế sử dụng đất nông nghiệp (thuế SDĐNN):
Ngoài ra, việc miễn giảm thuế cho họ còn mang một ý nghĩa xã hội rất
lớn, góp phần đẩy nhanh tốc độ xóa đói giảm nghèo, nâng cao phần nào đời sống nông thônhạn chế tốc độ phân cấp giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn hiện nay.
Mặt khác, số thuế từ SDĐNN chiếm tỷ trọng không lớn so với tổng thu ngân
sách và Chính phủ cũng đã có lộ trình điều chỉnh, giảm dần từ vài năm trước,
nên khôngảnh hưởng gì lớn đến việc cân đối ngân sách của các địa phương.
Theo nội dung của Nghị quyết, các đối tượng được miễn thuế SDĐNN bao gồm:
+Hộ nông dân sử dụng diện tích trong hạn mức quy định tại Luật Đất đai, kể cả hộ nông dân đó được cho, tặng, thừa kế, nhận chuyển nhượng đất để sản xuất nông nghiệp, mà tổng diện tích của hộ đó chưa vượt hạn điền.
+Hộ nông trường xã viên, xã viên HTXNN nhận đất giao khoán của doanh nghiệp, HTX để sản xuất nông nghiệp.
+Hộ nông dân đưa ruộng đất vào thành lập các HTXNN theo Luật HTX.
Toàn bộ diện tích đất sản xuất nông nghiệp của hộ được xác định là hộ nghèo theo quy định chuẩn hộ nghèo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và tổ chức, cá nhân có đất sản xuất nông nghiệp ở các xã đặc biệt khó khăn theo Chương trình 135 của Chính phủ.
Các đối tượng được giảm thuế bao gồm:
+Đất của các tổ chức, doanh nghiệp đang quản lý và trực tiếp sản xuất chưa thực hiện việc giao khoán cho các hộ nông trường viên.
+Đất của các tổ chức, tổ chức kinh tếxã hội, các đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang đang sử dụng đất hoặc đấu thầu giao đất cho các tổ chức, cá nhân khác sản xuất và thu lại bằng tiền hoặc hiện vật.
+Đất của hộ gia đình có sản xuất nông nghiệp nhưng không phải là hộ nông dân.
+Diện tích đất sản xuất nông nghiệp vượt hạn điền của các hộ nông dân và các hộ khác.
+Các hộ được giảm thuế nêu trên, nếu trong năm sản xuất gặpthiên tai gây thiệt hại mùa màng cũng sẽ được xem xét giảm thuế do thiên tai.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế trong việc quản lý:
Đối tượng được miễn thuế sử dụng toàn bộ diện tích đất nông nghiệp là
các hộ nghèo (căn cứ quy định chuẩn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) và tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có đất sản xuất nông nghiệp tại các xã đặc biệt khókhăn thuộc chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng xa.
Nhưng thực tế cho thấy, lợi dụng quan điểm vì người nghèo này của Nhà
nước, màmột số nơi đã trục lợi. Thực tế người dân nghèo không được miễn
giảm gì cả, mà số tiền thuế miễn giảm cũng chẳng được đưa vào ngân sách mà
lại chảy vào túi một số kẻ chức trách. Đây là thực tế đau lòng mà Đảng Nhà nước ta đang ra sức loại bỏ.
Chúng ta vẫn phải duy trì một bộ máy thu thuế cồng kềnh , quan liêu, trong khi tiền thu được chỉ chiếm 0.04% ngân sách năm 2006.
b.Chi tài chính công.(chính sách trợ cấp,trợ giá).
Ban hành chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn:
-Đối tượng hỗ trợ là người dân thuộc hộ nghèo theo chuẩn nghèo của Nhà nước thuộc vùng khó khăn quy định tại Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05 tháng 3 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn.
Điều 1 trong Nghị định: Mục tiêu của chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo vùng khó khăn:
- Hỗ trợ đời sống của người dân, góp phần xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội ở vùng khó khăn;
-Hỗ trợ người dân nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và từng bước tiếp cận với sản xuất hàng hóa, thông qua hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng cao.
- Nguyên tắc hỗ trợ: đúng đối tượng, kịp thời; công khai, dân chủ, khách quan và có hiệu quả thiết thực.
Điều 2. Phương thức, hình thức hỗ trợ
1. Phương thức hỗ trợ: hỗ trợ trực tiếp.
2. Hình thức hỗ trợ: hỗ trợ bằng tiền hoặc hiện vật
a) Hỗ trợ bằng tiền mặt theo định mức quy định tại Điều 5 Quyết định này để các đối tượng thụ hưởng chính sách chủ động mua sắm nguyên liệu, vật tư phục vụ sản xuất và đời sống phù hợp với thực tế của từng hộ;
b) Hỗ trợ bằng hiện vật cho sản xuất và đời sống của các hộ nghèo; có thể lựa chọn trong danh mục sau: giống cây trồng; giống vật nuôi; thuốc thú y; muối iốt.
3. Căn cứ danh sách người nghèo do Ủy ban nhân dân cấp xã vùng khó khăn lập, xác nhận và các quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, Ủy ban nhân dân cấp huyện tổng hợp, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định hình thức hỗ trợ và danh mục hỗ trợ cho phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tế của địa phương.
Điều 3. Định mức kinh phí hỗ trợ
1. Đối với người dân thuộc hộ nghèo ở xã khu vực II, xã biên giới, xã bãi ngang, hải đảo vùng khó khăn là 80.000 đồng/người/năm.
2. Đối với người dân thuộc hộ nghèo ở xã khu vực III vùng khó khăn là 100.000 đồng/người/năm.
Điều 4. Nguồn kinh phí
1. Kinh phí hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo vùng khó khăn được cân đối trong chi thường xuyên của ngân sách địa phương.
2. Riêng năm 2010 thuộc thời kỳ ổn định ngân sách địa phương 2007-2010, vì vậy số kinh phí tăng thêm so với kinh phí thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước cân đối trong ngân sách địa phương trước đây được ngân sách trung ương cấp bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương.
Cụ thể hơn :Trợ giá điện cho người dân đặc biệt là hộ nghèo:
Biểu giá điện năm 2010 về cơ bản vẫn tiếp tục thực hiện các nguyên tắc điều chỉnh cơ cấu biểu giá bán điện đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 12/2/2009. Giá bán cho các nhóm đối tượng khách hàng tính toán theo nguyên tắc xóa bỏ dần bù chéo từ điện sản xuất sang điện sinh hoạt. Cụ thể, giá bán điện bình quân cho các ngành sản xuất tăng 6,3%. Giá bán lẻ điện bình quân cho sinh hoạt bậc thang tăng 6,8%. Giá bán lẻ điện bình quân cho cơ quan hành chính sự nghiệp và kinh doanh có tỷ lệ tăng tương ứng là 6,3% và 6,1%.
Biểu giá bán lẻ điện sinh hoạt bậc thang tiếp tục thực hiện nguyên tắc đã được Thủ tướng Chính phủ quy định. Chính phủ cũng sẽ tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ giá điện cho các hộ nghèo, hộ có thu nhập thấp và đa số cán bộ công nhân viên chức có mức sử dụng điện thấp, mức giá cho bậc thang đầu tiên từ 0 đến 50 kwh được giữ nguyên bằng 600 đồng/kwh. Mức bù giá cho bậc thang này bằng 43%, cao hơn mức bù giá 37% của năm 2009. Mức giá của bậc thang thứ hai, từ 51 kwh đến 100 kwh được giữ ở mức tương đương giá thành bình quân, không có lợi nhuận. Mức giá của các bậc thang tiếp theo được điều chỉnh với tỷ lệ cao hơn, tương ứng để đảm bảo bù chéo đủ cho các bậc thang thấp và đảm báo giá bán lẻ điện bình quân sinh hoạt bậc thang tăng ở mức 6,8%./.hiện nay, Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giá điện đối với hộ nghèo, hộ thu nhập thấp thường xuyên có mức sử dụng điện không quá 50 kWh/tháng (993đ/kWh chưa có VAT) với mức hỗ trợ 30.000 đồng/hộ/tháng, EVN đã chỉ đạo các đơn vị Điện lực niêm yết công khai thông tin liên quan tại tất cả các điểm giao dịch với khách hàng, công bố trên trang Web, báo, đài truyền hình, đài phát thanh địa phương về thủ tục, địa điểm, thời hạn, điện thoại liên hệ để tiếp nhận đăng ký mua điện. Đồng thời ban hành mẫu Giấy đăng ký và yêu cầu các đơn vị bố trí nhân lực đảm bảo tiếp nhận hết Giấy đăng ký hộ nghèo, hộ thu nhập thấp theo thời hạn quy định của Bộ Công Thương. Nếu trong 3 tháng liên tục, các hộ sử dụng điện vượt quá trên 155kWh, bên bán điện sẽ tự động chuyển hộ đó sang áp dụng giá điện cho hộ bình thường kể từ tháng tiếp theo với giá từ 1.242 đồng/kWh trở lên.
Đối với ngư dân: Sẽ hỗ trợ ngư dân về dầu theo phương thức hỗ trợ trực tiếp (cấp tiền) một phần chi phí tăng thêm về giá dầu cho chuyến đi biển của ngư dân để bù đắp một phần chi phí khai thác hải sản. Ngoài ra, mức hỗ trợ kinh phí mua bảo hiểm cho tàu cá và thuyền viên gồm 1/3 (33%) phí bảo hiểm thân tàu phải nộp hàng năm cho các tàu đánh bắt hải sản xa bờ; hỗ trợ 100% chi phí bảo hiểm tai nạn thuyền viên; hỗ trợ thay máy tàu từ loại tiêu hao nhiều nhiên liệu sang loại tiên hao ít nhiên liệu.
Đối tượng hỗ trợ là các ngư dân là chủ sở hữu của những chiếc tài đánh bắt cá có công suất máy từ 40CV trở lên hoặc tàu dịch vụ cho tàu khai thác hải sản xa bờ thực hiện thay máy cũ lắp máy mới tiêu hao nhiên liệu ít hơn.- Mức hỗ trợ: bằng tiền trực tiếp cho ngư dân tương ứng với một phần lãi suất (30%) lãi suất vay ngân hàng để đầu tư thay máy tàu. Thời gian hỗ trợ trong 3 năm.
- Hỗ trợ ngư dân mua hoặc đóng máy tàu có công suất lớn đánh bắt hải sản hoặc tàu dịch vụ, hỗ trợ khi mua, đóng mới tàu có công suất máy từ 90 CV trở lên để thay thế các tàu công suất nhỏ.
Tiếp tục tăng mức đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho phát triển hạ tầng nghề cá như đầu tư cảng cá, tàu thủy, cung cấp dịch vụ nghề cá, xây dựng khu neo đậu, tránh bão, hệ thống thông tin phục vụ công tác phòng chống thiên tai trên biển bao gồm máy thu trực canh.v.v
Tuy nhiên cần có chính sách hỗ trợ người nghèo song cần có sự phân biệt đối tượng để người nghèo thực sự được thụ hưởng chính sách này của Chính phủ, tránh bao cấp cho cả những người không nghèo. Chính phủ có thể hỗ trợ ngư dân tiền xăng dầu.
Hỗ trợ cho nông nghiệp:
Quốc hội ban hành Nghị quyết số 55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp trong giai đoạn 2011 - 2020.
Ngày 12/4/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 41/2010/NĐ-CP Nhằm tăng cường những ưu đãi về tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn . Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 497/QĐ-TTg hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn; Quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày 31/12/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 497/QĐ-TTg nhằm hỗ trợ đúng đối tượng, đặc biệt là các hộ gia đình và cá nhân ở khu vực nông thôn, thực hiện được mục tiêu ngăn chặn suy giảm và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
Ngày 4/6/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định 61/2010/NĐ-CP, trong đó quy định miễn giảm 70% tiền sử dụng đất cho các nhà đầu tư có dự án nông nghiệp ưu đãi đầu tư; miễn, giảm, hỗ trợ tiền thuê đất, thuê mặt nước của Nhà nước; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực từ 50 - 100% đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ có dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư…
Ngày 26/2/2009, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 36/2009/TT-BTC hướng dẫn chi tiết việc thi hành một số điều của Nghị định 143/NĐ-CP và Nghị định 115/2008/NĐ-CP về miễn thủy lợi phí cho các hộ gia đình, cá nhân có đất, mặt nước dùng vào sản xuất nông nghiệp.
Ngày 16/5/2011, Bộ Tài chính hướng dẫn hỗ trợ lãi suất vay vốn và cấp bù chênh lệch lãi suất do thực hiện chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản tại Thông tư 65/2011/TT-BTC. Chính sách hỗ trợ lãi suất mua máy móc giảm tổn thất sau thu hoạch là một chính sách đúng đắn và hợp lòng dân, rất cần thiết đối với nền nông nghiệp nước ta.
c. Giải quyết các vấn đề xã hội.
-Thứ nhất vấn đề việc làm
Trong chính sách thị trường lao động, hướng cơ bản nhất là phát triển sản xuất, tạo thêm nhiều chỗ việc làm mới. Trong những năm qua, với sự ra đời của Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Luật Hợp tác xã… đã góp phần tạo cơ sở pháp lý và môi trường thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình và hợp tác xã phát triển mạnh. Bên cạnh đó, nhằm nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, Việt Nam đã tiến hành sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, chủ yếu theo hướng cổ phần hoá, thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất... Đó là những chính sách quan trọng, quyết định đối với tạo việc làm cho lao động xã hội.
Đặc biệt, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Lao động đầu tiên của Việt Nam có hiệu lực từ 1/1/1995 và Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động (năm 2002, 2006 và 2007), trong đó đã thể chế hóa những nội dung cơ bản liên quan đến quan hệ lao động, thị trường lao động và việc làm.
Cùng với các chính sách phát triển kinh tế, Việt Nam đã ban hành một hệ thống chính sách xã hội hướng vào phục vụ lợi ích và phát triển toàn diện con người, trong đó có các chính sách lao động - việc làm và thu nhập, giáo dục, chăm sóc bảo vệ sức khỏe, chính sách dân tộc và tôn giáo, chính sách đối với người có công với đất nước... Việt Nam cũng đã thành lập Ban Chỉ đạo công tác đào tạo nghề quốc gia. Đặc biệt, ngày 27/11/2009, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956). Với mục tiêu Nhà nước chi ngân sách xấp xỉ 26.000 tỷ đồng để khi kết thúc vào năm 2020, sẽ đào tạo nghề cho gần 10 triệu lao động nông thôn làm việc ở khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp, và bồi dưỡng đào tạo 1 triệu cán bộ công chức cấp xã, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo việc làm tăng thu nhập của lao động nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn.
Đây là Đề án có quy mô lớn nhất và có sự hỗ trợ cho học viên, giáo viên nhiều nhất, với số lượng đào tạo lớn nhất và trong thời gian dài nhất từ trước tới nay hướng tới khu vực lao động nông thôn, gắn đào tạo nghề với dự báo xu hướng yêu cầu của thị trường lao động. Bộ NN&PTNT đã phối hợp với Bộ LĐ-TB&XH thống nhất xây dựng danh mục 180 nghề nông nghiệp trình độ sơ cấp để dạy nghề cho lao động nông thôn, đồng thời triển khai xây dựng chương trình tài liệu học nghề năm 2010 đối với 25 loại nghề phổ biến ở 3 miền đất nước.
Tuy nhiên, việc đào tạo việc làm còn yếu kém:Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hóa và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực cho an sinh xã hội và phúc lợi xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ còn thấp. Các hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn thấp, vẫn còn không ít tiêu cực, phiền hà.
-Thứ hai, về vấn đề Giáo dục:
Tỷ lệ biết đọc biết viết theo giới tính và thành thị/nông thôn, 1989-2009
Đơn vị: %
1989
1999
2009
Chung
87,3
90,3
93,5
Nam
92,7
94,0
95,8
Nữ
82,7
86,9
91,4
Thành thị
93,8
94,8
97,0
Nông thôn
85,4
88,7
92,0
Tháng 9.2008, Chính phủ và Bộ GD&ĐT xây dựng đề án Phát triển giáo dục cho các DTTS nhằm đưa ra những chính sách đặc biệt để phát triển giáo dục đào tạo đối với các dân tộc này. Đề án đã được Bộ GD&ĐT soạn thảo và đang tổ chức lấy ý kiến đóng góp. Bản đề án này cũng được công bố ngay trong hội thảo để lấy thêm ý kiến của các đại biểu. Mục tiêu đề ra của đề án là tất cả trẻ em, học sinh, sinh viên các DTTS được hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng đặc biệt, được giáo dục, rèn luyện tốt để có trình độ văn hóa, trình độ nghề, góp phần phát triển bền vững mục tiêu bảo tồn và phát triển cho cộng đồng. Mục tiêu cụ thể của Đề án là 100% trẻ em các DTTS trong độ tuổi 3 - 5 tuổi được hỗ trợ tiền ăn, quần áo, được chăm sóc, nuôi dưỡng tại các trường mầm non, 100% học sinh cấp tiểu học được học tại các trường PTDT bán trú, được hỗ trợ học bổng, quần áo... và bữa cơm trưa. Đảm bảo 100% học sinh các DTTS hoàn thành chương trình cấp tiểu học, 100% học sinh sau khi hoàn thành chương trình cấp tiểu học được vào học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú huyện hoặc trường PTDTNT tỉnh. Mục tiêu của đề án cũng đặt ra 100% học sinh DTTS tốt nghiệp cấp THCS, 100% học sinh DTTS tốt nghiệp THCS được vào học tại trường PTDTNT tỉnh. Học sinh DTTS được nuôi, dạy và có chính sách hỗ trợ tại trường PTDTNT cấp huyện, cấp tỉnh. Ngoài ra, đề án còn có mục tiêu đảm bảo cơ sở vật chất, cung cấp thiết bị, đồ dùng dạy học cho các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học và hỗ trợ các trường phổ thông dân tộc nội trú đủ điều kiện nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em, học sinh của 9 DTTS... Đồng thời đề án cũng nêu các giải pháp đặc biệt để thực hiện những mục tiêu đề ra như Nhà nước sẽ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phù hợp để hình thành các điểm trường lớp bán trú dành riêng cho con em đồng bào rất ít người, đào tạo đội ngũ giáo viên có chuẩn kiến thức và biết tiếng dân tộc nơi mình công tác, có chính sách ưu tiên thu hút đội ngũ giáo viên đến giảng dạy cho đồng bào rất ít người. Một kế hoạch lớn biên soạn giáo trình, xây dựng các chương trình sinh hoạt ngoại khóa phù hợp với truyền thống văn hóa của đồng bào cũng được khởi động. Theo Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển, Bộ GD&ĐT cố gắng lấy ý kiến đóng góp hoàn thiện bản đề án để trình Chính phủ vào cuối năm nay.
III.Một số giải pháp:
-Thứ nhất, phân cấp rõ ràng về quản lý ngân sách, bảo đảm cho các cấp chính quyền địa phương có sự chủ động lớn hơn về nguồn thu và thẩm quyền quyết định chi ngân sách, trên cơ sở đó chủ động bố trí và thực hiện kế hoạch hoạt động quản lý nhà nước và công tác chuyên môn tại địa phương mình.
Cần tiệm cận việc phân cấp cho từng cấp chính quyền có nguồn thu độc lập tương đối. Khi có được nguồn thu độc lập, ổn định theo khu vực hành chính của mình, mỗi cấp sẽ tích cực và chủ động hơn trong việc bồi dưỡng và khai thác nguồn thu. Khoản thu độc lập, có tính ổn định cao sẽ giúp chính quyền địa phương chủ động bố trí các khoản chi tiêu cố định của mình, không bị lệ thuộc quá nhiều vào cấp trên.
Việc phân bổ tỷ lệ điều tiết theo từng sắc thuế giữa trung ương và địa phương làm cho việc tính toán trở nên khá phức tạp và không khuyến khích địa phương thu các sắc thuế do trung ương được hưởng hoặc có tỷ lệ phân bổ cho địa phương thấp. Vì vậy, có thể sử dụng một tỷ lệ điều tiết chung giữa trung ương và địa phương tính trên tổng số thu từ tất cả các loại thuế. Tỷ lệ này có thể được điều chỉnh theo từng vùng để tạo ra sự phân bổ ngân sách hợp lý giữa các vùng phù hợp với định hướng phát triển của vùng đó. Tỷ lệ điều tiết ngân sách được quyết định 3 năm một lần để tạo sự chủ động cho địa phương trong bố trí các khoản chi.
-Thứ hai, tăng cường quản lý chu trình ngân sách. Quản lý tốt hơn chu trình ngân sách giúp cho các cơ quan, đơn vị khớp nối giữa kế hoạch hoạt động với kế hoạch tài chính, từ đó có đầy đủ và kịp thời các nguồn lực tài chính để chủ động thực thi các nhiệm vụ. Cần đổi mới các hoạt động từ lập dự toán ngân sách cho đến chấp hành và quyết toán ngân sách có tính khoa học và phù hợp hơn với thực tế. Cụ thể là cần tiếp tục đổi mới các căn cứ và quy trình lập dự toán ngân sách, hoàn thiện thủ tục và cơ chế chấp hành ngân sách, cũng như đổi mới phương thức quyết toán ngân sách. Đặc biệt, cần chuyển các định mức phân bổ ngân sách cho các lĩnh vực dựa trên đầu vào sang căn cứ vào kết quả đầu ra.
-Thứ ba, hoàn thiện các chế độ, định mức chi tiêu. Các định mức chi tiêu hợp lý giúp các cơ quan, đơn vị tính toán chính xác hơn các nguồn lực tài chính cần thiết cũng như có căn cứ khoa học để chi tiêu kinh phí một cách tiết kiệm và thích hợp. Cần tiếp tục hoàn thiện các định mức chi tiêu cụ thể - đặc biệt trong lĩnh vực hành chính, trên cơ sở khách quan và sát hợp hơn với thực tế, theo hướng tạo ra sự chủ động cho cơ quan, đơn vị và khuyến khích tiết kiệm.
Thứ tư, tăng cường tính chủ động về tài chính của các đơn vị hành chính sự nghiệp trên cơ sở gắn chi tiêu tài chính với việc cải tiến cơ chế quản lý của các đơn vị này. Việc khoán biên chế và chi phí hành chính đối với các cơ quan hành chính và quyền tự chủ về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu cần được hoàn chỉnh và áp dụng mở rộng trong thời gian tới.
-Thứ năm, mở rộng và hoàn thiện kiểm toán ngân sách, góp phần chấn trỉnh kỷ luật tài chính công, phát hiện và ngăn chặn tình trạng lãng phí, tham nhũng. Tăng cường cả kiểm toán nội bộ và kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước, làm cho kiểm toán trở thành một hoạt động thường xuyên đối với các cơ quan, đơn vị sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước. Hoạt động kiểm toán phải góp phần đánh giá tính kinh tế, hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực tài chính của nhà nước, kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi lãng phí, tham nhũng, từ đó chấn chỉnh kỷ luật tài chính trong các cơ quan, đơn vị.
-Thứ sáu, tăng cường sử dụng ngân sách có hiệu quả, từ đó dành một khoản chi thoả đáng cho tiền lương trên cơ sở tiếp tục cải cách chính sách tiền lương gắn với kết quả thực thi nhiệm vụ. Yêu cầu quan trọng bậc nhất trong cải cách tiền lương là xây dựng được một hệ thống thang bảng lương và cơ chế nâng lương hợp lý có tác dụng khuyến khích những người làm việc có hiệu quả.
Thực hiện tốt những cải cách trên đây về tài chính công sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, làm tăng tính tự chủ của các đơn vị gắn với sự chủ động về tài chính; tạo ra cơ chế tài chính khuyến khích các đơn vị chi tiêu có hiệu quả, hướng vào kết quả đầu ra và tiết kiệm ngân sách, trên cơ sở đó tăng cường thu nhập cho người lao động. Đó chính là những động lực thúc đẩy các cơ quan trong bộ máy nhà nước đổi mới về tổ chức, phương thức hoạt động và nâng cao năng lực của đội ngũ CB,CC, làm cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả hơn.
Cải cách tài chính công là một trong 4 nội dung cơ bản của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Cải cách tài chính công không chỉ mang lại lợi ích cho nhà nước, cho các bộ, ngành, địa phương, đơn vị trực tiếp sử dụng các nguồn lực tài chính công mà còn mang lại lợi ích cho mọi tầng lớp nhân dân, những người có quyền giám sát việc sử dụng các nguồn lực tài chính công, đồng thời là người thụ hưởng dịch vụ công được cung cấp bởi những nguồn lực tài chính công. Tuy nhiên, cải cách tài chính công là vấn đề nhạy cảm, luôn tiềm ẩn những khó khăn, thách thức, vì vậy, cần phải được quan tâm chỉ đạo và có biện pháp thực hiện một cách thường xuyên, có chương trình, kế hoạch cho từng giai đoạn, với những biện pháp cụ thể. Có thể nói, đó là những công việc đầy khó khăn nhưng phải vượt qua để góp phần quan trọng vào quá trình cải cách hành chính nhà nước, để tài chính công xứng đáng với vai trò, vị trí của nó trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ mới.
Kết luận
Tài chính công gắn liền với hoạt động của nhà nước. Nó vừa là nguồn lực để nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình , vừa là công cụ để thực hiện các dịch vụ công, chi phối , điều chỉnh các mặt hoạt động khác của đất nước. Trong tiến trình đổi mới, thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia, Đảng và nhà nước ta coi đổi mới quản lý tài chính công là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu. Nhận thức một cách đầy đủ, có hệ thống về tài chính công là đòi hỏi bức thiết trong công tác nghiên cứu, học tập cũng như hoạt động thực tiễn cho cán bộ ở mọi nghành, mọi cấp, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh cải cách hành chính hiện nay ở nước ta. Mặt khác trong giai đoạn hiện nay, khi mà nước ta đang trong giai đoạn phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cuộc cải cách cơ bản tài chính nhà nước được thực hiện theo hướng "phải nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng tích luỹ để tạo vốn cho đầu tư phát triển; đáp ứng những nhu cầu chi thường xuyên thật sự cần thiết, cấp bách; bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát. Xử lý đúng đắn các mối quan hệ như : tích luỹ và tiêu dùng; tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư ,ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, chi bảo đảm quốc phòng an ninh, huy đổng vốn trong nước và vốn bên ngoài, vay và trả nợ...Vì thế tài chính công là một lĩnh vực vô cùng quan trọng đối với nhà nước và việc quản lý nó đòi hỏi phải chính xác và khoa học.
Những tìm hiểu và phân tích của chúng em trên đây cũng chỉ phản ánh được phần nào thực trạng v ề vai trò của tài chính công ở Việt Nam trong những năm gần đây. Hi vọng bài tiểu luận sẽ cung cấp một phần thông tin quan trọng đối với các bạn sinh viên cũng như những ai có nhu cầu tìm hiểu khu vực tài chính công.
Do những hạn chế về nhiều mặt nên bài làm còn có những sai sót. Chúng em rất mong nhận được những góp ý chân thành từ cô và các bạn, để bài tiểu luận đựợc hoàn thiện hơn.
Lời cuối cùng chúng em xin xhân thành cảm ơn cô và các bạn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_vai_tro_dieu_tiet_vi_mo_kinh_te_cua_tai_chinh_cong_3144.docx