Chè là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, là sản phẩm quan trọng thu nhiều
ngoại tệ góp phần cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặc dù cây chè trải
qua nhiều giai đoạn thăng trầm, nhưng nó luôn là cây công ngiệp mũi nhọn, chiến
lược, gắn liền với cuộc sống và sự đổi đời của hàng vạn người sản xuất, trong đó có
nhiều đồng bào dân tộc ít người. Việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu chè luôn là
mối quan tâm, là mục tiêu lâu dài của chúng ta.
59 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2551 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng xuất khẩu sản phẩm cây công nghiệp và hoàn thiện chính sách xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược đầu tư chăm sóc qua vụ đông đúng yêu cầu kỹ
thuật. Một số đơn vị đã triển khai đào rãnh thoát nước theo kỹ thuật của ấn Độ
nhằm chống úng cho vườn chè trong mùa mưa và chống mòn cho đất.
Nhờ thực hiện các biện pháp thâm canh tổng hợp nên năng suất chè đã đạt mức bình
quân 1,2 tấn /ha. Nhiều đơn vị có năng suất bình quân 1,45 tấn/ha như : Mộc
Châu,…
2.1.1. Về giống chè:
Có nhiều giống chè hiện nay đang được trồng nhưng chủ yếu là giống chè trung du
(chiếm 59% diện tích) được trồng chủ yếu ở các vùng núi thấp và trung du. Gần
đây Công ty đã trồng thêm nhiều giống mới như ở Lâm Đồng đã có 70 ha giống
mới, phía bắc có 42 ha giống mới bao gồm các giống có chất lượng cao hương thơm
đặc biệt. Tập đoàn giống tuy có nhiều nhưng sản xuất đại trà phần lớn vẫn là giống
địa phương, chỉ có khoảng 10% giống mới và giống đã qua chọn lọc như: PH1,
TB11-TB14, LDP1, LDP2.
2.1.2. Về canh tác :
Đầu tư cho trồng và chăm sóc đều thấp so với yêu cầu: 6 - 7 triệu đồng/ha (bằng
40%) cho trồng chè và 3 - 3,5 triệu đồng/ha (80%) cho chăm sóc. Quy trình chưa
được thực hiện nghiêm túc về mặt kỹ thuật canh tác, chưa thâm canh ngay từ đầu
như: Bón phân chưa đủ, mật độ cây trồng trên 1 ha thấp do không có vốn trồng,
vườn chè rất ít cây có bóng mát, chưa có hệ thống tưới và tiêu hoàn chỉnh, tình
trạng phun thuốc trừ sâu không đúng liều lượng và chủng loại rất tràn lan. Tất cả
những yếu tố này đã làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng chè.
2.1.3. Về chế biến chè :
Cả nước có khoảng 75 cơ sở chế biến công nghiệp, với tổng công suất 1.191 tấn
tươi/ ngày (Chế biến trên 60% sản lượng búp tươi hiện có) và chủ yếu là chế biến
chè xuất khẩu (858 tấn/ ngày). Hiện nay Công ty tập trung chỉ đạo tu sửa hoàn
chỉnh thiết bị do đó sản lượng sản phẩm tăng đáng kể. Tuy nhiên chất lượng sản
phẩm vẫn chưa cao do chất lượng nguyên liệu xấu, mặt khác do thiết bị công nghệ.
Đây là mặt yếu cần phải có chiến lược, giải pháp và biện pháp cấp bách kiên quyết
nhằm nâng cao chất lượng để giữ vững thị trường tiêu thụ.
* Chế biến chè đen xuất khẩu:
Chế biến theo công nghệ Orthodox và CTC, thiết bị Orthodox nhập từ Liên Xô cũ
vào những năm 1957 - 1977 đến nay đều đã cũ, sửa chữa và thay thế bằng các phụ
tùng trong nước nhiều lần, tuy vẫn đang hoạt động song đã bộc lộ những nhược
điểm ở các khâu như: Lên men, sấy, hút bụi phòng sàng... nên đã ảnh hưởng đến
chất lượng sản phẩm. Trong năm 2002 đã nhập được 1 dây chuyền thiết bị đồng bộ
hiện đại của ấn Độ chế biến chè đen Orthodox.
Những năm 2001 nhập của ấn Độ gồm 2 dây truyền thiết bị chế biến chè đen theo
công nghệ CTC nhưng nhìn chung sản xuất vẫn không đạt hiệu quả cao thiết bị
nhập thiếu đồng bộ nên tiêu hao nguyên liệu và năng lượng. Năm 2003 nhập 2 dây
chuyền công nghệ song đôi của ấn Độ khá hiện đại.
* Chế biến chè xanh:
Chè xanh nội thành phẩm chủ yếu được chế biến theo phương pháp cổ truyền và
một phần theo công nghệ Đài Loan, Trung Quốc. Các cơ sở sản xuất chè xanh thành
phẩm chủ yếu được trang bị thiết bị Trung Quốc quy mô 8 tấn chè tươi/ngày trở
xuống và nhiều nhỏ nhất là các cơ sở chế biến thủ công của các hộ gia đình đã đáp
ứng được về mặt số lượng tiêu dùng của nhân dân, nhưng nhìn chung là chất lượng
không cao.
2.2. Phân tích khả năng xuất khẩu của Công ty TNHH TM Đại Lợi.
2.2.1. Khả năng về tài chính của Công ty TNHH TM Đại Lợi.
Với bốn năm tồn tại và phát triển, Công ty TNHH TM Đại Lợi đã tạo dựng cho
mình một nguồn vốn tương đối ổn định để đáp ứng nhu cầu của hoạt động sản xuất
kinh doanh của Công ty trong từng giai đoạn sản xuất kinh doanh.
Năm 2004 tình hình tài chính của Công ty như sau:
Tổng giá trị tài sản cố định : 7 tỷ đồng
Giá trị tài sản lưu động : 3 tỷ đồng
Trong đó nguồn vốn lưu động : 800 triệu
Có thể nói đây là một lượng vốn tương đối ổn định và Công ty TNHH TM Đại Lợi
hoàn toàn có đủ điều kiện về tài chính để Công ty có thể đảm bảo sản xuất kinh
doanh xuất nhập khẩu một cách ổn định trên thị trường để đem lại lợi nhuận cao cho
Công ty và đảm bảo nộp ngân sách nhà nước.
2.2.2. Uy tín của Công ty TNHH TM Đại Lợi trên thị trường nước ngoài.
Với bốn năm thành lập, cùng với nhiều khó khăn mà Công ty trải qua, đồng thời
cũng thu hút được những thắng lợi nhất định trong sản xuất kinh doanh. Bên cạnh
đó Công ty đã tạo dựng được uy tín tại những nước mà Công ty xuất khẩu và có cơ
hội giao lưu với quốc tế. Với một đội ngũ nhân viên năng động, trẻ trung, sáng tạo
với đà phát triển trong những năm qua Công ty ngày càng khẳng định vị trí của
mình trên thị trường thông qua việc: Giao hàng, thanh toán đúng hợp đồng, đảm bảo
chất lượng, số lượng, màu sắc, kích cỡ và kiểu dáng nên Công ty đã tạo được niềm
tin với khách hàng. Chính điều này đã làm tăng thêm sự tự tin trong Công ty, quyết
tâm phấn đấu vươn lên, xây dựng Công ty ngày một vững mạnh để có thể đem lại
thành công hơn nữa cho Công ty. Mặt khác trang thiết bị của Công ty ngày càng
được cải thiện phù hợp với nhu cầu trên thị trường với chi phí thấp nhất có thể đạt
được.
Công ty TNHH TM Đại Lợi là một Công ty chuyên sản xuất và xuất khẩu chè, vì có
hoạt động xuất khẩu nên đòi hỏi Công ty phải có một đội ngũ đủ những điều kiện để
có thể kinh doanh trên thị trường quốc tế. Có đầy đủ năng lực để tìm hiểu rõ ràng
chính xác nhu cầu thị trường quốc tế, đồng thời phải nắm bắt kịp thời về sự thay đổi
về nhu cầu về giá cả.
2.3. Phân tích tình hình lựa chọn thị trường XK và thị trường mục tiêu của Công ty
TNHH TM Đại Lợi.
Lựa chọn thị trường xuất khẩu là khâu quan trọng trong quá trình quyết định chiến
lược marketing xuất khẩu. Nó liên quan đến thành công của Công ty và cho phép
Công ty tiết kiệm thời gian, kinh phí thâm nhập và phát triển thị trường bên ngoài.
Mục tiêu của việc lựa chọn thị trường xuất khẩu xác định số lượng các thị trường
triển vọng để Công ty tập chung khả năng của mình và xác định các đặc điểm của
thị trường để có thể áp dụng các chính sách marketing có hiệu quả tốt nhất.
Việc lựa chọn thị trường xuất khẩu của Công ty là xác định khả năng đáp ứng về
chủng loại, số lượng,…của Công ty là bao nhiêu.
Thị trường trọng điểm hiện nay của Công ty là bốn thị trường chính bao gồm: ấn
độ, Pakistan, Srilanka, Turkey, thu nhập của các nước trên cũng tương đối và ổn
định, tuy vậy đây cũng là những thị trường rất khó tính họ đòi hỏi chất lượng hàng
hóa cao.
2.4. Quyết định giá xuất khẩu ở Công ty TNHH TM Đại Lợi.
Là một Công ty chuyên sản xuất và xuất khẩu mặt hàng chè nên Công ty đã áp dụng
một chính sách giá linh hoạt cao nhằm thúc đẩy tiêu thụ và tăng cường khả năng
cạnh tranh cho mặt hàng của Công ty.
Với khách hàng đặt mua với số lượng lớn Công ty thực hiện áp dụng các biện pháp
chiết khấu để khuyến khích các thành viên.
Chiết giá theo khối lượng mua của Công ty: Là những người có quan hệ làm ăn lâu
năm với Công ty.
Chiết giá theo thời vụ: Nếu là hàng không đúng thời vụ Công ty sẽ đưa ra giá ưu đ•i
để khuyến khích khách hàng.
2.5. Phương hướng và mục tiêu chủ yếu của Công ty TNHH TM Đại Lợi tới năm
2010.
* Dự báo thị trường.
Nước ta không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế, hội nhập với khu vực và thế giới.
Việt Nam đã là thành viên của ASEAN, chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO) và các tổ chức quốc tế khác, đồng thời thiết lập và mở rộng quan hệ với
tất cả các nước. Đó là những thuận lợi cơ bản cho hoạt động kinh tế đối ngoại, thúc
đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam , trong đó có sản phẩm chè. Xong, thách thức
lớn nhất là nền kinh tế nước ta xuất phát từ cơ sở thấp kém, lại phải đi lên trong môi
trường cạnh tranh quyết liệt. Theo các tài liệu của FAO, trong mấy thập kỷ gần đây
nhu cầu tiêu thụ sản phẩm chè tăng nhanh, đã thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu. Trong
khi đó, hàng chè của các Công ty KDQT Việt Nam còn thấp, giá thành cao, khối
lượng ít so với thế giới, nhưng lại phải cạnh tranh với mặt hàng chè của nhiều nước
xuất khẩu truyền thống.
* Phương hướng:
Với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, phân tích sâu sắc những thành tựu cũng
như những tồn tại, rút ra bài học trong tổ chức sản xuất kinh doanh.
Công ty đã đề ra chiến lược sản xuất kinh doanh trong 5 năm 2005 - 2010.
Trong chiến lược sản xuất kinh doanh của Công ty, vấn đề thị trường và tiêu thụ sản
phẩm được quan tâm.
- Nội dung:
+ Tổ chức nghiên cứu nắm bắt đúng thị trường sản phẩm hàng hóa nói chung,
nhưng đặc biệt là thị trường chè để kịp thời chuyển hướng sản xuất, thay đổi sản
phẩm nhằm chiếm lĩnh thị trường
+ Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hiện đại hóa thiết bị chế biến, đa
dạng hóa sản phẩm, cải tiến bao bì, tạo ra những mẫu mã mới…, phù hợp với
người tiêu dùng, xu thế phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để phù
hợp với lối sống hiện đại. Những sản phẩm này có đủ các yếu tố như chất lượng,
kiểu dáng, giá…, để cạnh tranh xuất khẩu. Sản phẩm của Công ty vừa có nét đẹp
của văn hóa vừa có chất lượng cao, giá thành hợp lý với những dịch vụ phân phối
tiện lợi. Từ đó uy tín, tên tuổi của sản phẩm chè Công ty Đại lợi luôn được mến mộ.
* Mục tiêu:
Chè là sản phẩn có đối tượng tiêu dùng rộng rãi không những ở thị trường trong
nước mà còn cả ở thị trường quốc tế.
Năm 2004 số lượng chè xuất khẩu đạt 1000 tấn, trong đó sang.
Đơn vị: tấn
Irăc 300
Pakistan 400
Turkey 100
Srianka 100
còn lại là sang một số thị trường khác.
Hàng năm, tỷ trọng này còn tăng, đó là một thuận lợi cho Công ty TNHH TM Đại
lợi.
Để góp phần phát triển mặt hàng chè xuất khẩu trong cả nước, Công ty TNHH TM
Đại lợi xây dựng mục tiêu phát triển đến năm 2010 như sau:
Kim ngạch và tăng trưởng xuất khẩu đến năm 2010
III. Thực trạng chính sách xuất khẩu mặt hàng chè của Công ty TNHH TM Đại Lợi.
3.1. Một số chính sách xuất khẩu mặt hàng chè của Công ty.
3.1.1. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng góp phần thay đổi mặt hàng xuất khẩu.
Trong thời gian qua cơ cấu giống chè của Công ty chưa được hợp lý, sản lượng chè
xanh còn chiếm tỉ trọng nhiều hơn sản lượng chè đen. Điều này là bất hợp lý vì trên
thị trường thế giới sản lượng tiêu thụ chè đen là cao hơn sản lượng tiêu thụ chè
xanh.
Do đó, Công ty đã đưa ra chính sách giảm bớt diện tích trồng chè xanh chuyển các
diện tích chè xanh kém không có hiệu quả sang các loại cây trồng lâu năm khác, mở
rộng diện tích trồng chè đen ở những nơi có điều kiện thuận lợi nhất.
Tham khảo từ kinh nghiệm trong nước và quốc tế cho thây sự chuyển dịch cơ cấu
này là hợp lý. Trong những năm gần đây sản lượng chè đen trên thế giới tăng
nhanh.
3.1.2. Mở rộng chủng loại mặt hàng chè xuất khẩu.
Ngoài việc xuất khẩu chè truyền thống thì hiện nay Công ty đang chuyển dần sang
xuất khẩu mặt hàng chè có chất lượng cao hơn nên cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đã có
những thay đổi tích cực.
Hiện nay Công ty đã và đang tìm thị trường tiêu thụ để tạo điều kiện mở rộng sản
xuất các loại chè có chất lượng cao. Công ty đã đầu tư tăng cường công nghệ chế
biến, xây dựng kế hoạch dài hạn trong công nghiệp chế biến chè, triển khai đầu tư
công nghệ chế biến đến tất cả các vùng trồng chè có điều kiện thích hợp. Quy hoạch
nhà máy chề biến gắn bó chặt chẽ với quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu. Công
nghiệp sơ chế chè ở Công ty đã có nhiều tiến bộ trong những năm gần đây, trong
thiết bị thêm nhiều thiết bị mới chất lượng tốt trong chế biến.
Đẩy mạnh tốc độ đầu tư cho cơ sở hạ tầng, trước mắt là hệ thống thủy lợi, đảm bảo
nguồn nước tưới cho các vùng trồng chè và tiếp theo đó là nguồn nước sạch cho chế
biến chè. Tăng cường khả năng dự trữ nhằm giảm thiểu các bất lợi của thị trường
thế giới.
3.1.3. Chính sách hỗ trợ xây dựng thương hiệu và quảng bá mặt hàng chè.
Thương hiệu không phải là một hoạt động mà quốc gia hay doanh nghiệp có thể dễ
dàng có được một sớm, một chiều, mà đòi hỏi phải có thời gian và sự đầu tư về vốn,
về trí tuệ một cách thỏa đáng. Thương hiệu thành công khi cùng với thời gian nó
chuyển thành lợi nhuận do người tiêu dùng chung thành với thương hiệu đó và hào
hứng mua các sản phẩm có thương hiệu của doanh nghiệp. Do vậy, muốn xây dựng
được thương hiệu riêng cho ngành chè là hình thành trung tâm giao dịch kì hạn
quốc tế.
Vấn đề quảng cáo cũng ngày càng trở nên bức xúc trong cơ chế thị trường kinh
nghiệm và điều kiện để thực hiện quảng cáo ở Việt Nam nói chung và của Công ty
Thương mại nói riêng còn nhiều hạn chế, song không phải không có những doanh
nghiệp đã tổ chức làm được tốt và mang lại hiệu quả thực sự. Có thể nói quảng cáo
vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Một hướng mới về quảng cáo của ngành
chè là buôn bán trên mạng đang rất được Công ty quan tâm.
3.1.4. Các chính sách phát triển đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghệ chế biến
mặt hàng chè.
Chính sách phát triển khoa học công nghệ và tận dụng tiến bộ khoa học công nghệ
vào công nghiệp là một trong những chính sách quan trọng của nước Việt Nam nói
chung cũng như của Công ty Thương mại Đại lợi nói riêng, trong đó phát triển khoa
học công nghệ trong chế biến nông sản phẩm có vị trí quan trọng trong chính sách
khoa học công nghệ.
Tuy vậy chất lượng chè của Công ty còn chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu về
chè xuất khẩu cũng như yêu cầu của người tiêu dùng. Một trong những nguyên
nhân của tình trạng trên là trong một thời gian dài vấn đề phát triển khoa học công
nghệ và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong các hoạt động sản xuất.
3.1.5. Chính sách liên doanh liên kết, hợp tác trong chế biến mặt hàng chè:
Những năm gần đây, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp hợp tác liên kết với
nhau trong khâu chế biến chè để hình thành các cơ sở chế biến chè với công nghệ
hiện đại hơn nhằm nâng cao chất lượng chè, nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng
chè của Việt Nam nói chung và của Công ty TNHH TM Đại lợi nói riêng trên thị
trường thế giới. Chính sách liên doanh liên kết đã thúc đẩy công nghiệp chế biến
chè ở Việt Nam phát triển với tốc độ cao trong những năm gần đây. Nhà nước tạo
điều kiện khá thuận lợi cho các nhà sản xuất, nhà kinh doanh cũng như các doanh
nghiệp liên kết với nhau nhằm tạo ra sự liện kết chặt chẽ giữa các khâu với nhau
làm cho ngành chè ngày một lớn mạnh, đuổi kịp các nước công nghiệp lớn.
IV. đánh giá chung về chính sách xuất khẩu mặt hàng chè của công ty tnhh thương
mại đại lợi.
4.1. Những thành tựu đạt được khi áp dụng chính sách mặt hàng chè ở công ty
TNHH TM Đại Lợi.
Khi có chính sách hỗ trợ tài chính tín dụng của chính phủ với người trồng chè thì đã
có được những thành tựu sau: Năng suất chè ở Công ty Thương mại Đại lợi ngày
càng được nâng cao, có nhiều tính năng, có được kết quả như trên không những nhờ
vào điều kiện thiên nhiên và sinh thái, nhờ vào nguồn nhân công dồi dào, giá tiền
công thấp mà cũng một phần lớn nhờ vào chính sách hỗ trợ tài chính của Công ty
đối với việc trồng chè.
Bên cạnh đó là có chính sách thị trường của chính phủ đã giúp cho hộ trồng chè và
nhà đầu tư có được thông tin chính xác về thị trường tiêu thụ cũng như thị trường
sản xuất, xuất nhập khẩu và khả năng cung cầu của từng thị trường, do đó đã thu
được hiệu quả đáng kể trong xuất khẩu.
4.2. Những tồn tại và nguyên nhân khi thực hiện chính sách.
Mặc dù cơ chế, chính sách vừa qua đã qua bổ sung, hoàn thiện, và có thể nói là đã
rất thông thoáng, gần như đã không còn vướng mắc gì đáng kể, nhưng so với yêu
cầu vẫn còn những bất cập, đặc biệt trong các lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch và
chính sách tài chính, tín dụng là cụ thể ảnh hưởng rất trực tiếp đến cung và cầu xuất
khẩu chè. Những hạn chế đó được thể hiện trên một số nét nổi bật sau.
* Chính sách khuyến khích sản xuất và xuất khẩu còn chưa phát huy tác dụng và
những nguyên nhân của chúng.
Chế độ chính sách áp dụng đối với sản xuất và kinh doanh chè còn có chỗ chưa hợp
lý. Chính vì vậy đã tạo nên một số khó khăn cho việc sản xuất và xuất khẩu chè của
Công ty. Ngoài những nguyên nhân do chính Công ty còn có nguyên nhân bên
ngoài là do các chính sách của Nhà nước là chưa hợp lý. Khi nhà nước đề ra các
chính sách thì rất đúng đắn nhưng khi thực hiện thì lại không thực hiện đựơc. Do
vậy trong thời gian tới nhất thiết phải nhanh chóng tổ chức lại hoạt động này để họ
yên tâm sản xuất.
- Về mặt khách quan:
Việc sản xuất chè chịu tác động mạnh của thời tiết và điều kiện tự nhiên không
những Việt Nam mà ngay cả những nước có trình độ sản xuất kinh doanh chè cao
như Trung quốc, Pakistan… thì những đợt giá lạnh kéo dài cũng làm giảm một phần
đáng kể sản lượng của họ. Thời tiết là nguyên nhân thuộc loại bất khả kháng đối với
kinh doanh chè. Tuy nhiên nếu chúng ta chủ động đề phòng thì có thể giảm thiểu
được tác hại của nó.
- Về mặt chủ quan:
Sự hỗ trợ của Công ty cho ngành chè còn chưa đủ nhiều, hiệu quả thấp. Đó là chính
sách vốn, vật tư kỹ thuật, chưa thể hiện sự ưu đãi với sản xuất kinh doanh chè .
Cơ chế chính sách của Công ty đề ra còn chưa đồng bộ, thay đổi nhanh gây khó
khăn cho kinh doanh chè.
Công ty còn chưa có kinh nghiệm vào hoạt động xuất khẩu chè, chưa đủ vốn, cơ sở
vật chất, chưa quan tâm đến công tác nghiên cứu, marketing thị trường sản phẩm
mục tiêu bên cạnh đó còn có hoạt động làm ăn “chụp rựt” trong kinh doanh xuất
khẩu chè.
Tóm lại: Những yếu kém còn tồn tại trong quá trình phát triển ngành chè của Công
ty hiện nay là do các nguyên nhân chủ quan và khách quan này tạo nên. Để tiếp tục
phát triển trong thời gian tới, khắc phục những điểm bất lợi và khó khăn thì Công ty
cần phải cố gắng nỗ lực phát triển một cách tích cực và hiệu quả hơn nữa để lợi
nhuận của Công ty ngày càng tăng.
Chương III Đề xuất hoàn thiện chính sách xuất khẩu mặt hàng chè
I. những giải pháp nhằm phát triển nguồn cung ứng chè xuất khẩu.
1.1. Chọn và lai tạo giống chè chất lượng tốt, năng xuất cao.
Cũng như các loại cây lâu năm khác, việc chọn giống đòi hỏi một thời gian dài,
nhiều khi hàng chục năm. Nếu không có phương hướng đứng đắn ngay từ đầu sẽ
dẫn đến tốn kém không ít công sức và ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và xuất khẩu
chè, nâng cao năng xuất và chất lượng chè.
Những công trình chọn và tạo giống mới của một số nước trong những năm gần
đây cho thấy những kết quả khả quan, tạo tiền đề cho việc đổi mới trồng chè ở một
số nước.
Những năm gần đây, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ chúng ta
đã nhập nội được một số giống cây chè chất lượng cao, bước đầu nhân giống một số
ra đại trà có kết quả. Đặc biệt là nhiều loại chè cho năng xuất cao và phù hợp với
nhiều địa phương chịu rét giỏi, chịu hạn giỏi.
Nhiều loại chè không bệnh cao cũng được theo dõi để chọn và đưa ra sản xuất, chất
lượng sản phẩm cao mà còn đòi hỏi đặc tính di truyền tốt.
Như vậy, chọn và lai tạo giống là một trong những biện pháp quan trọng để nâng
cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu chè. Có thể nói, công việc này có vị trí quan
trọng đầu tiên cho việc nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm chè xuất khẩu.
Do đó, cần phải tăng cường đầu tư phối hợp với viện nghiên cứu và các trung tâm
nghiên cứu có liên quan, vừa nghiên cứu tuyển chọn vừa xây dựng quy trình canh
tác thích hợp cho từng vùng, sản xuất và cung cấp giống tốt và dịch vụ kỹ thuật cho
các địa phương trong khu vực.
1.2. Đẩy mạnh thâm canh diện tích chè hiện ở nước ta cũng như diện tích thâm canh
chè của Công ty TNHH TM Đại lợi nói riêng.
Trong những năm qua diện tích chè nước ta tăng một cách ồ ạt, cùng một lúc chùng
ta vừa phải mở rộng diện tích vừa phải lo tăng cường đầu tư thâm canh trong điều
kiện vốn bị hạn hẹp, vì thế mà trình độ thâm canh còn thấp ảnh hưởng đến cấn đối
nước - vườn và cân đối chủng loại Robusta- Rrabica. So với khả năng thực tế thì
mức năng suất ở nước ta chưa cao và còn không đồng đều. Hơn nữa việc mở rộng
diện tích chè mang tính chất phong trào, tự phát nên không ít diện tích chè đã trồng
nhưng kém hiệu quả về chất lượng và năng suất, chất lượng sản phẩm. Về hướng
đầu tư thâm canh, cần tập chung vào một số vấn đề cơ bản như sau:
- Ngành chè tập trung vào nỗ lực vào việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho thâm canh.
Theo quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc chè trong thời kỳ kinh doanh cứ hai năm
phải bón một lần phân hữu cơ với khối lượng từ thích hợp để đem lại năng suất cao
và hàng năm mỗi ha chè cần bón khoảng 200kg đạm nguyên chất 100kg kali và
200kg lân. Cung cấp phân bón yêu cầu cho thâm canh chè rất ít, còn thiếu nhiều.
Chình vì vậy phải kết hợp với chăn nuôi, tăng cường sản xuất và nhập khẩu phân vô
cơ, chú ý trồng cây phân xanh, mở rộng hệ thống dịch vụ đáp ứng kịp thời yêu cầu
phân bón cho thâm canh cây chè.
- Nhà nước - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tập chung giải quyết vấn đề
nước tưới cho chè. Tưới nước cho chè là vấn đề khó khăn đối với 2 vùng chè lớn là
Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Thực tiễn cho thấy dù đã đầu tư vào khâu này rất
lớn song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cây chè. Nguồn nước mạnh hiện nay đang
rất thiếu do nạn phá rừng. Nguồn nước ngầm cũng cạn dần do quá trình giếng khoan
khai thác, nước rừng bị phá nặng nề. Mặt khác thiết bị máy tưới ống dẫn, nguồn
năng lượng cho máy tưới có nhiều khó khăn, điều đó ảnh hưởng lớn đến năng suất
chè. Do đó nước ta cần phải thực hiện tập chung vào các biện pháp sau:
+ Trồng rừng là biện pháp quan trọng, có tác dụng lâu dài.
+ Xây dựng hệ thống điện để tiếp thu nguồn điện lưới quốc gia.
- Bộ và ngành cung cấp đầu đủ các thiết bị dùng cho với tưới nước.
- Bộ và ngành chè cần chú ý đáp ứng kịp thời yêu cầu phòng trừ sâu bệnh cho cây
chè.
Thực tế cho rằng sự phá hoại của sâu bệnh ảnh hưởng lớn đến năng suất.
Khi quy mô sản xuất được mở rộng thì sẽ có ý nghĩa to lớn, và góp phần làm cho
năng suất, chất lượng sản phẩm chè được nâng cao.
- Hỗ trợ, tạo điều kiện giúp đỡ, khuyến khích chè ngoài quốc doanh đẩy mạnh thâm
canh sản xuất, bởi vì hiện nay, chè ngoài quốc doanh đã chiếm ngoài 30% diện tích
chè cả nước.
- Mở rộng diện tích cây chè giảm sự chênh lệch và chủng loại chè.
Sản xuất chè nước ta trong thời gian qua chủ yếu là chè đen chiếm tỉ trọng khoảng
90% về diện tích chè chỉ 10% diện tích là chè xanh. Điều này gây thiệt hại cho
chúng ta vì chè đen được ưa chuộng hơn và giá cũng cao hơn/ Hơn nữa, đầu tư cơ
bản cho một ha chè xanh cũng lâu hơn , chè đen có thời gian thu hồi vốn nhanh
hơn, tỷ suất lợi nhuận cao thể hiện ở chỗ.
+ Chè được trồng chủ yếu ở miền núi phía Bắc, giá ngày công lao động thấp.
+ Chè trồng trong điều kiện không tưới nước hoặc tưới nước bổ xung thấp, đầu tư
thuỷ lợi thấp.
+ Chè có thời gian kiến thiết cơ bản ngắn.
1.3. Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ sản xuất chè của nhà nước ta.
1.3.1. Chính sách thuế nông nghiệp.
- Nên thu thuế theo hạng đất và theo sự biến động của giá cả thị trường với mục
đích điều tiết để xây dựng giá bảo hiểm cho sản xuất khi gía chè thế giới có sự thay
đổi, sự quản lý vĩ mô yếu kém, không có hệ thống giá bảo hiểm (trên cơ sở nguồn
lợi của ngành để ổn định ngành) do cung vượt quá cầu.
- Đối với vùng đất trống, đối trọc được đưa vào sản xuất nông nghiệp nên có thời
gian miễn giảm thuế dài hơn để khuyến khích người sản xuất mở rộng diện tích
trên đất này, nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng chè xuất khẩu.
Cụ thể là: Sau 3 năm đến 5 năm kể từ khi vườn cây đưa vào khai thác thì mới được
thu thuế.
1.3.2. Chính sách hộ trợ về vốn:
* Đối với các doanh nghiệp quốc doanh.
Chỉ thực hiện đầu tư với các đơn vị quốc doanh sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Việc đầu tư này cần hướng vào một số vấn đề cơ bản sau:
- Cần đầu tư cho việc xây dựng các cơ sở hạ tầng quan trọng, có tác dụng lớn trên
cả vùng sản xuất chè rộng lớn nhất định. Trước hết coi trọng khâu đầu tư xây dựng
công trình thuỷ lợi phục vụ cho việc tưới nước, hệ thống giao thông, các cơ sở chế
biến có trình độ khác, hệ thống kho bảo quản sản phẩm, các cơ sở dịch vụ sửa chữa
máy móc thiết bị, dịch vụ mua bán vật tư sản phẩm.
- Khi đầu tư thì một phần vốn đầu tư do ngân sách cấp, phần khác. Nhà nước cho
vay hoặc phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm để huy động vốn trong dân.
- Mọi công trình xây dựng cơ bản đã hoàn thành phải giao cho các cơ quan nhất
định quản lý, sử dụng. Những cơ quan này có trách nhiệm khai thác các công trình
qua dịch vụ sản xuất hoặc thu lệ phí sử dụng công trình đó để hoàn vốn nâng cấp.
*Đối với tư nhân, hộ gia đình.
Nhà nước cần áp dụng chính sách cho vay dài hạn với việc mở rộng diện tích chè và
cho vay ngắn hạn đối với chè thâm canh. Nhà nước nên căn cứ vào tình hình thực
trạng của thị trường chè mà có chính sách hỗ trợ nông dân một cách kịp thời và hợp
lý.
II. một số vấn đề hoàn thiện chính sách đẩy mạnh xuất khẩu chè của công ty tnhh
TM đại lợi.
2.1. Chính sách Marketing mở rộng thị trường cho mặt hàng chè xuất khẩu:
Trong những năm qua ngành chè đã có phát triển đáng kế về tăng diện tích, năng
xuất, chất lượng, sản lượng và sản phẩm chè trở thành mặt hàng xuất khẩu có giá trị
cao.
Tuy nhiên, sự phát triển của ngành chè trong giai đoạn hiện nay đang chịu tác động
bởi rất nhiều yếu tố, đặc biệt là nhân tố thị trường. Nhìn ra thị trường chè thế giới,
một điều kiện bất lợi với chúng ta là nhu cầu của thị trường tăng không nhiều, trong
khi khả năng sản xuất và xuất khẩu chè phát triển nhanh, chè ngày càng phải cạnh
tranh với nhiều loại đồ uống khác, hơn nữa thị trường thế giới là vấn đề mới mẻ,
nhiều phức tạp đối với chúng ta. Tăng sức cạnh tranh từng bước mở rộng thị trường
tiêu thụ của chè Việt Nam đã trở nên một yêu cầu bức thiết. Vì vậy tăng cường
Marketing mở rộng thì trường là giải pháp hàng đầu để đẩy mạnh xuất khẩu chè,
cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
- Nghiên cứu và dự báo thị trường: Thị trường là đối tượng hoạt động thị trường sản
phẩm. Nắm bắt thị trường, nghiên cứu thị trường đầy đủ và dự báo chính xác thị
trường tiêu thụ có ý nghĩa lớn trong việc xác định chiến lược sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp. Cần hình thành tổ chức dự báo thị trường và mở rộng các
doanh nghiệp. Cần hình thành tổ chức dự báo thị trường và mở rộng các hình thức
thông tin kinh tế thích hợp để tăng khả năng tiếp thị của các hộ sản xuất và tổ chức
kinh tế. Từ đó mỗi doanh nghiệp, mỗi hộ sản xuất chè tự điều chỉnh sản xuất cho
phù hợp với nhu cầu của thị trường.
- Tổ chức tốt hệ thống thu mua, tiêu thụ, chế biến sau thu hoạch nâng cao giá trị gia
tăng cho sản phẩm chè xuất khẩu: Nông dân là người trực tiếp sản xuất và bản lẻ
sản phẩm ra thị trường. Do đó, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần tổ chức, củng
cố và quản lý tốt hơn hệ thống chi nhánh, điểm, đại lý thu mua sản phẩm của mình,
mua trực tiếp sản phẩm từ người sản xuất. Thực tế cho thấy doanh nghiệp nào tổ
chức tốt hệ thống mạng lưới thu mua thì mua được khối lượng sản phẩm lớn. Đây là
phương thức chủ yếu hạn chế rủi ro, đảm bảo chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh
doanh. Đồng thời mua qua các đại lý, các điểm thu mua, các hộ kinh doanh, các
công ty tư nhân là những đầu mối có khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn hơn. Hệ
thống thu mua ở Việt Nam rất đa dạng và phức tạp, các cơ quan chức năng cần làm
tốt hơn nữa công tác quản lý Nhà nước về hoạt động của hệ thống thu mua chè hiện
nay, đảm bảo tính hợp lý, thuận tiện, thông suốt và bình đẳng.
- Tổ chức tốt công tác thông tin giới thiệu sản phẩm, tiếp cận với thị trường sản xuất
chè chủ yếu để xuất khẩu, do vậy cần phải nắm chắc thông tin thị trường, xử lý
thông tin tốt về giá cả thị trường thế giới, tránh tình trạng nhiễu loạn thị trường,
lũng loạn thị trường. Cần đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển thị trường.
Tăng cường công tác tiếp thị và khai thác thị trường, xây dựng chiến lược thị trường
lâu dài và ổn định.
- Phát huy lợi thế tài nguyên thiên nhiên, lao động… để mở rộng thị trường tiêu thụ
chè.
Thương mại quốc tế đã trở thành xu hướng tất yếu. Trên thế giới nhóm các nước
đang phát triển đang tìm cách khai thác lợi thế và tài nguyên thiên nhiên, lao
động,… để phát triển kinh tế. Trong khi đó các nước phát triển cũng tìm cách xuất
khẩu cách yếu tố đầu vào cho sản xuất, cũng như tìm kiếm các môi trường đầu tư có
lợi nhất, sự gặp gỡ, tìm đến nhau giữa các bên, qúa trình CNH - HĐH theo lợi thế
và thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ.
Trong quá trình mở rộng cửa nền kinh tế chúng ta đang đẩy mạnh khai thác những
sản phẩm nông nghiệp có lợi thế tuyệt đối về nhập khẩu, đặc biệt là chè. Bởi vì đây
là loại sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới có lợi thế so với nước khác.
Chè thế giới đang là mặt hàng được tiêu dùng mạnh và cũng có những biến động
rất phức tạp, với khả năng mở rộng thị trường Việt Nam sẽ được nâng cao lên
ngang bằng với giá chè của các nước trong khu vực.
Căn cứ vào cán cân cung cấp chè trên thị trường thế giới, trong thời gian tới giá chè
sẽ dần đi vào ổn định, điều này rất có lợi cho chè Việt Nam cũng như chè của Công
ty Đại lợi nói riêng là dấu hiệu đáng mừng cho sản xuất và xuất khẩu chè Việt Nam
và cho các Công ty KD XNK Chè ở Việt Nam. Vấn đề là chúng ta phải có những
giải pháp đồng bộ cả về sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm và các chính sách vĩ
mô hỗ trợ một cách tốt nhất.
2.2. Hoàn thiện về chính sách chế biến, nâng cao chất lượng chè xuất khẩu.
Để tăng sức cạnh tranh và đảm bảo uy tín chè Việt Nam cũng như chè của các Công
ty KDQT Việt Nam trên thị trường thế giới cần tập chung đổi mới công nghệ trong
sản xuất, giải quyết tốt công tác thu hoạch, chế biến và bảo quản sản phẩm là nột
dung cơ bản và là thách thức của ngành chè hiện nay.
Thu hái chè là một trong những khâu quan trọng để đảm bảo chất lượng sản phẩm,
có nguồn nguyên liệu tốt thì mới chế biến được những sản phẩm có chất lượng cao.
Do đó, cần tăng cường công tác bảo vệ đảm bảo công tác thu hoạch tốt, loại bỏ tập
quán “hái quả xanh”, thu hái chè đúng thời gian, phải trên 95% đặc biệt là không
được quá lạm dụng vào chuyện dùng thuốc kích thích một cách quá đáng dẫn đến
có những hậu quả nguy hiểm cho người tiêu dùng vi phạm đến tiêu chuẩn thực
phẩm. Với tỷ lệ đó mới thực hiện được công nghệ chế biến trên các loại chè mà vẫn
đạt yêu cầu chất lượng, xuất bán theo đúng tiêu chuẩn mới đảm bảo hương vị tốt.
2.2.1. Chính sách đầu tư chế biến chè xuất khẩu
Ngoài những mặt hàng khoáng sản khác, hiện nay chúng ta xuất khẩu chè là chủ
yếu, được thực hiện qua hai công đoạn: Sơ chế chè và chế biến chè xuất khẩu.
- Sơ chế chè: Sau khi thu hoạch, chè tươi được phơi khô theo phương pháp chế biến
khô hoặc bằng phương pháp chế biến ướt được xát ra theo quy trình. Đây là công
đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
Để thực hiện tốt và có hiệu quả công đoạn sơ chế chè cần phải:
+ Đầu tư xây dựng đầy đủ hệ thống sân phơi đúng kỹ thuật, không nên để lá chè qúa
lâu khi thu hái về nhằm hạn chế tỷ lệ lá chè hỏng do quá trình hô hấp, vi sinh vật và
nhiều những yếu tố ngoại cảnh khác (như: do dập nát khi vận chuyển, thu hái…)
dẫn đến chất lượng của sản phẩm không tốt. Hạn chế phơi chè sân đất, trên đường
giao thông để không bị lẫn cát, đá và mùi đất.
+ Đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến theo phương pháp đảm bảo màu sắc, hương
vị chất lượng sản phẩm để bán theo tiêu chuẩn chế biến, nâng cao giá trị sản xuất.
+ Nghiên cứu, trang bị hoàn thiện các thiết bị xao, ủ, vò chè và sấy khô… hệ thống
xấy nhập ngoại hoặc chế tạo trong nước với quy mô nhỏ và vừa cho hộ gia đình
hoặc nhóm hộ gia đình. Đồng thời khuyến khích các đơn vị, cá nhân, hộ gia đình có
điều kiện đâu tư những công nghệ chế biến trên để thực hiện dịch vụ sơ chế cho các
hộ sản xuất.
- Chế biến chè xuất khẩu: Đây là công đoạn chế biến quan trọng sau thu hoạch,
được thực hiện trong các doanh nghiệp Nhà nước và các đại lý thu mua chế biến
xuất khẩu. Với công đoạn này được đầu tư dây chuyền công nghệ tái chế, sàng phân
loại, sàng tạp chất, hệ thống sấy khô đảm bảo độ ẩm, “đánh bóng” và loại bỏ lá chè
không đạt tiêu chuẩn... Khuyến khích các doanh nghiệp và các cơ sở chế biến đầu tư
xây dựng cơ sở nhà kho bảo quản, đối với công nghệ các thiết bị tiên tiến hiện đại,
sản xuất chè chất lượng cao, mẫu mã đẹp… đánh vào thị hiếu của khách hàng để
nâng cao sức cạnh tranh của Công ty, đảm bảo trên 80% lượng chè xuất khẩu đạt
loại tốt, giá cao.
2.2.2. Các chính sách đầu tư chiều sâu cho mặt hàng chè xuất khẩu:
Ngoài sản phẩm chè xuất khẩu, cần đầu tư chế biến sâu, nhằm tạo ra các sản phẩm
chè tiêu dùng như chè có chất lượng cao và nhiều loại nhằm đa dạng nhu cầu ( ví
dụ: lipton, dimat cũng có xuất sứ từ chè đen tinh chế, chè xanh đã xuất hiện và
được ưa chuộng ở Hàn quốc) và các mặt hàng khác là sản phẩm của chè làm tăng
tính đang dạng của hàng hoá, tăng tính cạnh tranh trên thị trường, tăng giá trị xuất
khẩu. Đó là các sản phẩm sử dụng nguyên liệu là chè và các dạng chè đóng hộp…
- Chè PS: là sản phẩm tiêu thụ chính trên thị trường nội địa, chủ yếu do hộ gia đình
và các doanh nghiệp chế biến. Trong tương lai chúng ta sẽ phát triển loại chè này
trên thị trường thế giới trước hết là thị trường Trung Quốc và Hoa Kì.
- Chè FOP: Ngày càng được tiêu dùng rộng rãi trên thế giới cũng như ở Việt Nam,
các sản phẩm mới chất lượng cao được chế biến trên dây chuyền công nghệ tiên tiến
và hiện đại, được người tiêu dùng ưa chuộng do vậy ngoài việc lo đổi mới công
nghệ, nâng cao năng suất chế biến chè hoà tan. Cần có chính sách khuyến khích
nước ngoài đầu tư 100% vốn vào lĩnh vực này, hoặc Nhà nước ưu tiên vốn xây
dựng cơ sở chế biến chè đen.
2.2.3. Chính sách hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chất lượng chè xuất khẩu
Chất lượng chè xuất khẩu là vấn đề sống còn của ngành chè trong xu thế thương
mại hoá quốc tế. Do đó, ngoài việc nâng cao chất lượng bằng biện pháp kĩ thuật
canh tác và công nghệ chế biến thì cần rà soát, sửa đổi, bổ sung và sớm hoàn thiện
hệ thống tiêu chuẩn chè Việt Nam phù hợp với các tiêu chuẩn chè thế giới. Đồng
thời tăng cường công tác quản lý và tuyên truyền phổ cập rộng rãi tiêu chuẩn chất
lượng chè của Công ty đến tận người sản xuất, người thu mua, tạo cho mọi người có
ý thức và trách nhiệm trong việc thực hiện nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo
uy tín của chè nước ta trên thị trường thế giới.
2.3. Chính sách về vốn hỗ trợ xuất khẩu đối với mặt hàng chè mới.
Các doanh nghiệp tham gia thu mua và xuất khẩu chè hiện nay đều thiếu vốn đặc
biệt là khi giá chè xuống thấp không bán được, họ cần một số lượng vốn lớn để thu
mua, dự trữ chờ khi giá cao thì xuất khẩu. Từ việc thiếu vốn cũng dẫn đến nhiều
thiệt hại khác cho các doanh nghiệp kinh doanh chè, do vậy cần có các chính sách
cơ bản để giải quyết tình trạng này.
- Nhà nước thông qua ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại, tạo
điều kiện cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vay những khoản tiền lớn đảm bảo thu
mua chè xuất khẩu kịp thời. Đặc biệt là thời gian hoàn thiện vốn cần nghiên cứu kéo
dài hơn để các doanh nghiệp có đủ thời gian tiêu thụ được chè với giá cao.
- Cho phép các doanh nghiệp Nhà nước giữ lại số tiền hao mòn tài sản cố định, tạo
cho họ lượng vốn lớn để đầu tư phát triển. Bên cạnh đó Chính phủ nên bổ sung
thêm vốn lưu động cho các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả, có số
lượng tồn kho lớn.
- Tiến hành cổ phần hoá một số doanh nghiệp bằng cách bán một phần sở hữu cho
ngay những công nhân nông trường, của các công ty TNHH TM Đại Lợi.
- Về đầu tư nước ngoài: Trong thời gian tới chúng ta sẽ cần một lượng vốn lớn đầu
tư nước ngoài. Phương hướng chung là chúng ta chỉ khuyến khích các dự án theo
hình thức liên doanh, không khuyến khích đầu tư 100% vốn nước ngoài. Như vậy
giúp chúng ta quản lý tốt hơn việc sử dụng tài nguyên, đồng thời ngăn chặn nạn
“đầu tư chui” của các văn phòng nước ngoài. Khuyến khích liên doanh trong lĩnh
vực chế biến, vì chỉ có liên doanh trong khu vực này thì chúng ta mới có hy vọng
nâng cao công nghệ, chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
2.4. Về hoàn thiện chính sách hỗ trợ xuất khẩu chè của Công ty TNHH TM Đại lợi.
Đây là một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài của toàn thể l•nh đạo Công ty để
phù hợp với sự vận hành của nền kinh tế mở rộng đồng thời hòa nhập với xu thế
chúng của khu vực và thế giới.
- Dần dần tiến tới xoá bỏ chế độ cơ quan chủ quan. Công ty TNHH TM Đại lợi sẽ là
một chủ thể kinh tế trong xã hội có đăng ký kinh doanh và thực hiện theo pháp luật
và có đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước và chịu trách nhiệm trước pháp luật về
hành vi kinh doanh của họ.
+ Nhà nước cần hạn chế tối đa các biện pháp điều hành bằng hành chính đối với các
hoạt động xuất khẩu chè. Khi cần thiết phải điều tiết lại, khuyến khích hoạt động
xuất khẩu thì nên sử dụng các biện pháp kinh tế là chủ yếu.
+ Loại bỏ chế độ hạn chế người trực tiếp tham gia xuất khẩu. Cần nghiên cứu việc
quản lý xuất khẩu mặt hàng chè theo kế hoạch định hướng, đồng thời ấn định chất
lượng mặt hàng chè cấm nhập, cấm xuất theo pháp luật.
- Cải tiến chế độ tài chính ngân hàng cho phù hợp với chế độ mới: Không nên căn
cứ vào chỉ tiêu kế hoạch mới cho người sản xuất và kinh doanh chè vay vốn, mà
phải că cứ vào kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật và có khả năng hoàn trả vốn
của người sản xuất và kinh doanh.
- Bộ Thương mại nghiên cứu chế độ trợ cấp xuất khẩu và các quy chế về hình thành
quỹ này để khi cần thiết có thể trợ cấp gián tiếp hoặc trực tiếp cho mặt hàng xuất
khẩu chè của Vịêt Nam.
- Bộ Thương mại cần nghiên cứu thành lập “Trung tâm khuyếch trương thương
mại” (Trade Promotion centre) để làm công tác thúc đẩy xuất khẩu đối với các mặt
hàng nói chung và đối với mặt hàng chè nói riêng, đồng thời là đầu mối đặt quan hệ
trao đổi kinh nghiệm với tổ chức này ở một số nước trong khu vực và trên thế giới.
2.5. Chính sách nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý hoạt động xuất khẩu chè.
Việc quản lý hoạt động sản xuất và xuất khẩu chè hiện nay còn phân tán thiếu tập
chung. Một số thì còn một số cơ quan trong các Bộ và tổ chức Nhà nước đang chịu
trách nhiệm về những mặt khác nhau đối với hoạt động của ngành chè. Cách tổ
chức cách tổ chức này hoàn toàn khác với các nước sản xuất chè trên thế giới (họ
thường có một tổ chức chuyên trách phụ trách toàn bộ các hoạt động của ngành).
Kinh nghiệm cho thấy mô hình này được nhiều nước sản xuất chè thực hiện quản lý
có hiệu quả và có thể kết hợp lại được những nỗ lực. Do vậy, chúng ta cần áp dụng
có chọn lọc những bài học kinh nghiệm từ những nước sản xuất chè thành công trên
thế giới.
Biện pháp hiện nay là nhanh chóng thành lập một tổ chức liên kết được mọi hoạt
động của sản xuất cũng như xuất khẩu (có thể phát triển từ Tổng Công ty chè Việt
Nam, Công ty chè Thế hệ mới, Công ty chè Phát đạt…đây là những công ty đã có
thương hiệu rất uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế mặc dù chưa được rộng
rãi.Tổ chức này không chỉ liên kết về mặt kinh tế giữa các doanh nghiệp Nhà nước
mà cần mở rộng cho sự tham gia của khu vực tư nhân kinh doanh chè. Nó đóng vai
trò là một tổ chức chịu toàn bộ trách nhiệm đối với toàn ngành chè Việt Nam bao
gồm: Sản xuất, thị trường, chế biến, xuất khẩu…
Tổ chức này sẽ xây dựng và quản lý một hệ thống kho và dự trữ và bảo quản chè.
Việc xây dựng hệ thống kho có tác dụng giúp chúng ta chủ động được trước sự biến
động của giá cả thị trường chè thế giới (khi giá giảm ta có hệ thống kho để giữ hàng
lại, khi giá cao thì ta có hàng ngay để xuất), đồng thời nó là một trong những điều
kiện để nước ta gia nhập ACPC. Hệ thống kho này cũng sẽ đươc dùng để làm dịch
vụ cho các nhà kinh doanh xuất khẩu bảo quản hàng hoá của mình.
Kinh phí ban đầu có thể do Nhà nước cấp, nhưng sau đó chủ yếu lấy từ nguồn thu
trên mỗi tấn chè xuất khẩu mà nó cấp giấy phép và khoản đóng góp thường niên của
các hội viên. Tuy hoạt động độc lập nhưng nó lại thực hiện các chính sách dưới sự
giám sát của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp, Bộ Thương mại...Vị trí vai trò của tổ
chức này có thể ví như vị trí vai trò của phòng công nghệ và phòng Thương mại
Việt Nam đối với hoạt động công nghiệp và thương mại ở nước ta.
2.6. Chính sách xây dựng và quảng bá mạnh mẽ thương hiệu mặt hàng chè của
Công ty TNHH TM Đại lợi.
Chè của Việt Nam nói chung và của Công ty TNHH TM Đại lợi nói riêng phần lớn
vẫn phải xuất khẩu qua các nhà xuất khẩu trung gian. Tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp còn
khá hạn chế, chè nước ta cũng như chè của Công ty chưa có thương hiệu nhãn mác
riêng. Do đó hàng năm nước ta xuất khẩu một lượng chè rất lớn mà trên thế giới
nhiều nước chưa biết đến chè Việt Nam, chè Việt Nam đã được các hãng buôn lớn
mua về và bán ra với các nhãn mác khác. Hàng năm nước ta đã xuất khẩu sản phẩm
của mình sang hơn 70 quốc gia và vùng lanh thổ nhưng thực ra chỉ bán cho khoảng
10 hãng buôn có đại diện tại Việt Nam. Có thể nói chè Việt Nam đã xuất khẩu ngay
trên sân nhà, rõ ràng chúng ta đã nhượng lợi ích xuất khẩu cho người khác hưởng.
Do vậy Nhà nước cần phải quan tâm thích đáng đến xây dựng thương hiệu chè trên
thị trường thế giới có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc bảo hộ sở
hữu công nghiệp với các thương hiệu, xuất sứ hàng hoá, phổ biến các thông tin liên
quan và hướng dẫn thủ tục đăng kí thương hiệu cho các doanh nghiệp. Hiệp hội chè
cần kết hợp với các công ty đưa mặt hàng chè của các công ty có một thương hiệu
nhanh nhất, hiệp hội nên tư vấn, kiểm tra chất lượng, hỗ trợ kĩ thuật, tín dụng,
nghiên cứu, dự trữ và các dịch vụ hỗ trợ khác cho các doanh nghiệp kinh doanh chè,
để các doanh nghiệp này sản xuất có uy tín trên thị trường trong nước và thế giới.
Từ đó có thể xây dựng một thương hiệu đến với người tiêu dùng có hiệu quả hơn,
từng bước giảm dần xuất khẩu qua trung gian, tăng cường xuất khẩu chè trực tiếp.
2.7. Chính sách hỗ trợ tìm kiếm thông tin thị trường, xúc tiến thương mại mặt hàng
chè của Công ty TNHH TM Đại lợi.
Thông tin thị trường, xúc tiến thương mại là điều kiện vật chất cơ bản cho việc hiểu
biết thị trường, thâm nhập thị trường và xuất khẩu có hiệu quả. Xuất khẩu từ thực
trạng còn yếu kém hiện nay và những nhận định khái quát về thực trạng đ• được
trình bày, cần chủ động đầu tư cho việc thu thập, xử lý (phân tích, dự báo) và cung
cấp các thông tin phục vụ trực tiếp cho việc nghiên cứu, thâm nhập thị trường, đồng
thời có quy định thống nhất tiêu thức phân loại thị trường.
Đối với thông tin, nên phân loại thông tin thành hai nhóm để có hình thức tổ chức
và cơ chế điều hành thích hợp là:
- Nhóm thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu, chỉ đạo và tổ chức xây dựng chiến
lược thị trường.
- Nhóm thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh tác nghiệp. Loại này đòi hỏi
tính thời sự và tính chính xác cao, thông tin mang tính chất nghiệp vụ cụ thể.
Trong việc thống kê “thị trường nhập khẩu” của cơ quan Hải quan hiện nay, thị
trường nhập khẩu được căn cứ vào “lý lịch” của doanh nghiệp nhập khẩu, không
phụ thuộc vào việc hàng hoá sau khi rời lãnh thổ Việt Nam có đến nước của doanh
nghiệp nhập khẩu hay không. Trong trương hợp này, việc phân tích thị trường sẽ có
giá trị khẳng định các đối tác trực tiếp với nhà xuất khẩu Việt Nam và do đó sẽ biết
để tập chung đầu tư xây dựng mối quan hệ bạn hàng với các đầu mối nhập khẩu
này. Tuy nhiên, trong một số trường hợp (thậm chí có thể trong nhiều trường hợp)
sẽ là không chính xác khi phân tích, đánh giá “thị trường nhập khẩu”, nếu lô hàng
đó lại được nhà nhập khẩu chuyển đến một nước khác. Theo chúng tôi, kinh doanh
lớn đòi hỏi nhà xuất khẩu không chỉ cần quan hệ với nhà nhập khẩu trực tiếp để
xuất được hàng là xong mà phải cần theo dõi, nắm bắt khâu tiêu thụ tiếp theo ( tối
thiểu là chặng hành trình đầu tiên) để biết được chính xác thị trường nhập hàng của
mình, trên cơ sở đó, chủ động có kế hoạch tổ chức nguồn hàng xuất khẩu một cách
ổn định, có hiệu quả trong những thời gian tiếp theo. Do vậy, nếu cơ quan Hải quan
Việt Nam thống kê được hàng hoá xuất khẩu theo cả hai tiêu thức được được phản
ánh trên tờ khai Hải quan là nước của doanh nghiệp nhập khẩu (theo lý lịch kinh
doanh) và nước có cảng bến đầu tiên (Destination) của lô hàng xuất khẩu, thì việc
phân tích “thị trường nhập khẩu” sẽ thực sự có ý nghĩa hơn nhiều. Ngoài ra, cần
giao trách nhiệm cho các Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thu
thập và cung cấp định kỳ số lượng và giá trị mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam
vào thị trường nước sở tại để kết hợp đối chiếu với thống kê Hải quan trong quá
trình phân tích thị trường nhập khẩu. Sự kết hợp thông tin từ nhiều nguồn, kể cả
tham khảo thêm nguồn tin của các tổ chức Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng
thế giới (WB), sẽ đảm bảo dữ liệu phân tích, đánh giá thị trường nhập khẩu phong
phú toàn diện và chính xác hơn nhiều.
* Một số kiến nghị:
Từ những phân tích về tình hình sản xuất và xuất khẩu chè của Việt Nam trong thời
gian qua, em xin có một số kiến nghị như sau:
1. Nhà nước cần coi chè là cây trồng mũi nhọn, có nhiều tiềm năng khai thác và cần
xác định rõ đây là một mặt hàng chủ lực trong chiến lược phát triển nông nghiêp -
cây công nghiệp - nông sản xuất khẩu có chính sách đầu tư phát triển hợp lý.
Cho phép các doanh nghiệp chè lớn, kinh doanh có hiệu quả được quyền tích luỹ
tập trung tư bản để có nguồn vốn lưu động đủ mạnh, chủ động thu mua sản phẩm
của người sản xuất và làm tốt các hoạt động xuất khẩu.
2. Nhà nước cần có chính sách bảo hộ cho người sản xuất chè để họ có điều kiện
duy trì phát triển và thâm cach năng suất cây trồng khi mức giá chè xuống ngang
bằng hoặc thấp hơn giá thành sản xuất.
3. Nhà nước cần có chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp Nhà nước có hiệu quả
cao để các doanh nghiệp này có đủ mạnh về tài chính, đóng vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay, có đủ điều kiện, khả năng để cạnh tranh trên
thương trường quốc tế.
Đồng thời nghiên cứu các hình thức hỗ trợ vốn để các chủ vườn chè, các đơn vị
chuyên ngành chè ở địa phương có điều kiện đầu tư phát triển mạnh sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm cho người lao động.
Chính sách thuế đối với người sản xuất và xuất khẩu cần phải hợp lý, linh hoạt. Cụ
thể là thuế đất nông nghiệp cần định ra theo hạng đất. Không nên căn cứ theo năng
suất thực thu hàng năm trên mảnh đất đó để khuyến khích người sản xuất đầu tư
tăng năng suất cây trồng.
4. Tăng cường công tác quản lý chất lượng sản phẩm chè, không nên để tình trạng
quá nhiều đơn vị kiểm tra chất lượng chè xuất khẩu như hiện nay mà thiếu kinh
nghiệm và nghiệp vụ chè.
5. Ngành chè cần đa dạng hoá sản phẩm chè xuất khẩu, nhất là chè chế biến đa dạng
thành phẩm, đồng thời phải nâng cao chất lượng hàn xuất khẩu đủ sức cạnh tranh
trên thế giới.
6. Ngành chè cần có chiến lược thị trường cụ thể, đa dạng hoá và đa phương hoá
quan hệ thị trường và cần có chiến dịch tuyên truyền quảng cáo trên thị trường quốc
tế, mở rộng khả năng tiếp thị, xây dựng những bạn hàng lớn ổn định lâu dài, đồng
thời tranh thủ thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho thâm canh và mở rộng sản xuất
chè nhất là trong khâu chế biến đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu.
7. Xây dựng và củng cố hệ thống thông tin trong toàn ngành chè, thường xuyên liên
tục để nắm bắt và xử lý thông tin nhanh chóng, chính xác, thống nhất trong công tác
kinh doanh xuất nhập khẩu, tranh thủ thời cơ thuận lợi trong kinh doanh.
8. Cần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động của các doanh nghiệp chè
và nhất là đội ngũ làm công tác xuất nhập khẩu có đủ điều kiện, năng lực trong hoạt
động tiếp thị và kinh doanh xuất khẩu chè.
Kết luận
Chè là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, là sản phẩm quan trọng thu nhiều
ngoại tệ góp phần cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặc dù cây chè trải
qua nhiều giai đoạn thăng trầm, nhưng nó luôn là cây công ngiệp mũi nhọn, chiến
lược, gắn liền với cuộc sống và sự đổi đời của hàng vạn người sản xuất, trong đó có
nhiều đồng bào dân tộc ít người. Việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu chè luôn là
mối quan tâm, là mục tiêu lâu dài của chúng ta. Tuy nhiên trong thời gian qua, việc
phát triển sản xuất chè một cách quá nhanh, đồng thời với sự biến động mạnh của
giá cả thị trường chè thế giới, làm cho chúng ta đang gặp rất nhiều khó khăn. Thực
tế đó đòi hỏi chúng ta phải có những chính sách, kế hoạch đúng đắn nhằm hạn chế
những khó khăn, đưa ngành chè Việt Nam thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi
nhọn trong thời kì đầu của sự ngiệp CNH - HĐH đất nước.
Chuyên đề: “Hoàn thiện chính sách xuất khẩu mặt hàng chè của Công ty TNHH TM
Đại lợi” đa căn cứ vào thực trạng của ngành chè trong thời gian qua từ đó nêu lên
đề xuất hoàn thiện chính sách xuất khẩu chè Công ty trong thời gian tới và đưa ra
một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu chè Công ty và ngày càng hoàn thiện
chính sách xuất khẩu mặt hàng chè Công ty trong thời gian tới.
Qua đề tài này với mong muốn của tác giả là trong thời gian tới chính sách xuất
khẩu mặt hàng chè ngày càng hoàn thiện hơn, nhằm thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu
chè của nước ta. Cuối cùng tôi xin cảm ơn các cô các chú trong Công ty TNHH TM
Đại lợi và đặc biệt là Thầy giáo: Nguyễn Văn Minh đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài. Vì kiến thức còn hạn chế và thời lượng thực
tập tại Công ty không nhiều nên đề tài chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rât
mong được sự góp ý của các cô chú trong Công ty cũng như Thầy giáo hướng dẫn
để đề tài của tôi hoàn thiện hơn.
Tài liệu tham khảo.
1. Marketing Thương mại quốc tế.
GS.TS. Nguyễn Bách Khoa - Đại học Thương mại
2. Quản trị Marketing - Philip Kotler.
3. Kỹ thuật Nghiệp vụ ngoại thương.
Vũ Hữu Tửu- Đại học ngoại thương
4. Giáo trình Nghiệp vụ thương mại quốc tế.
Doãn Kế Bôn - Đại học thương mại
5. Các báo và tạp chí có liên quan.
- Báo thương mại
- Báo đầu tư
- Báo kinh tế
- ……………
6. Cùng các tài liệu khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hthien_chsach_xk_mat_hang_che_cua_cty_tnhh_tm_dai_loi_7623.pdf