Thuyết trình- Thị trường Thương phiếu Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Đối với Việt Nam, ngay từ bây giờ cũng cần có hệ số tín nhiệm để lành mạnh hóa thị trường tín dụng, bảo vệ các nhà kinh doanh thương phiếu và các tổ chức tín dụng, tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại, chủ thể chủ yếu tham gia thị trường thương phiếu.

pdf31 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6311 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thuyết trình- Thị trường Thương phiếu Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng thương mại quy định quyền và nghĩa vụ của hai bên mua và bán. Người bán có nghĩa vụ giao hàng và có quyền lợi nhận tiền thanh toán từ người mua. Người mua có nghĩa vụ thanh toán và có quyền lợi nhận hàng từ người bán. Đối với hối phiếu, người bán sẽ giao hàng trước và sau đó ký phát hối phiếu đòi tiền người mua sau. Ngược lại, đối với kỳ phiếu, người mua sẽ ký phát kỳ phiếu cam kết trả tiền cho người bán; sau khi nhận được kỳ phiếu, người bán sẽ giao hàng. Như vậy, giao dịch cơ sở là cái có trước, thương phiếu là cái có sau. Không có giao dịch cơ sở thì sẽ không có sự hình thành thương phiếu tương ứng. 5 1.2.2. Thương phiếu được nhận diện dễ dàng, trực tiếp Thương phiếu là tài sản tài chính vô hình. Chúng chỉ là những tờ giấy nhỏ nhưng chứa đựng những quyền pháp lý đối với lợi ích tương lai. Dung lượng các quyền pháp lý này được thể hiện ở hình thức và nội dung của thương phiếu. Vì vậy, có nhận dạng được hình thức và nội dung của thương phiếu một cách dễ dàng và trực tiếp thì mới có thể nhận biết được dung lượng các quyền pháp lý đối với lợi ích tương lai của thương phiếu. 1.2.3. Thương phiếu là trái vụ một bên Thương phiếu là một chứng chỉ do một người ký phát ra lệnh cho người bị ký phát thực hiện một nghĩa vụ dân sự - trả tiền (đối với hối phiếu) hoặc một chứng chỉ do người phát hành cam kết đối với người thụ hưởng sẽ thực hiện một nghĩa vụ dân sự - trả tiền (đối với kỳ phiếu). Vì vậy nghĩa vụ dân sự có được thực hiện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào sự chấp nhận của người bị ký phát đối với hối phiếu và khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của người phát hành đối với kỳ phiếu. 1.2.4. Tính “trừu tượng” của thương phiếu Trên thương phiếu không cần thể hiện nguyên nhân sinh ra việc lập thương phiếu, mà chỉ cần ghi rõ số tiền phải trả và những nội dung liên quan đến việc trả tiền. Trong lưu thông, giá trị pháp lý của thương phiếu cũng không bị ràng buộc vào nguyên nhân nào phát sinh ra nghĩa vụ trả tiền của thương phiếu. Một khi thương phiếu được phát hành và chuyển giao cho người khác thì thương phiếu trở thành một chứng thư độc lập, trong lưu thông. Người thụ hưởng và người trả tiền thương phiếu không cần quan tâm tới việc khoản nợ trên thương phiếu có hay không có hình thành trên giao dịch cơ sở nào. Hay nói cách khác, khoản nợ ghi trên thương phiếu là hoàn toàn độc lập và không phụ thuộc vào sự tồn tại hay không tồn tại của giao dịch cơ sở. 1.2.5. Tính lưu thông của thương phiếu Thương phiếu có thể được lưu thông từ người này sang người khác trong thời hạn hiệu lực của nó. Căn cứ vào mục đích của lưu thông thương phiếu, người ta có thể chia ra làm 3 loại lưu thông khác nhau. 6 Nếu lưu thông nhằm mục đích để đòi tiền, tức là người thụ hưởng thương phiếu ủy thác cho ngân hàng đòi tiền người trả tiền thương phiếu, thì lưu thông thương phiếu có vai trò như là phương tiện thanh toán thay cho tiền mặt. Nếu lưu thông nhằm mục đích chuyển nhượng quyền hưởng lợi thương phiếu, tức là người thụ hưởng thương phiếu ký hậu chuyển nhượng thương phiếu cho người khác, thì lưu thông thương phiếu có vai trò như chuyển nhượng tài sản. Dạng lưu thông thứ 3 là lưu thông “hàng hóa thương phiếu”. Thương phiếu là một loại tài sản tài chính, do vậy người sở hữu thương phiếu có thể bán thương phiếu cho ngân hàng để lấy tiền ngay hoặc cầm cố thương phiếu để vay tiền của ngân hàng. Lưu thông này không mang tính chất lưu thông thanh toán thương phiếu hay lưu thông chuyển nhượng thương phiếu mà là lưu thông “hàng hóa thương phiếu”. 1.3. Phân loại thương phiếu  Căn cứ vào người tạo lập thương phiếu, thương phiếu có thể chia thành hối phiếu và kỳ phiếu.  Căn cứ vào thời hạn trả tiền, thương phiếu có thể chia thành các loại sau: + Thương phiếu thanh toán ngay khi xuất trình (at sight or on demand commercial Bill): là loại thương phiếu cam kết hoặc yêu cầu thanh toán ngay khi xuất trình hoặc yêu cầu thanh toán ngay khi nhìn thấy hoặc trên thương phiếu không quy định thời hạn thanh toán. + Thương phiếu thanh toán sau một thời gian xác định (usance, time commercial Bill): là thương phiếu có quy định thời hạn thanh toán vào một ngày quy định trên thương phiếu hoặc sau một thời hạn nhất định để từ ngày có thể xác định trên thương phiếu (ví dụ như ngày xuất trình để chấp nhận, ngày phát hành thương phiếu).  Căn cứ vào việc thanh toán có kèm chứng từ thương mại hay không, thương phiếu có thể chia thành 2 loại: + Thương phiếu kèm chứng từ (documentary commercial Bill) là thương phiếu mà việc thanh toán dựa vào chứng từ thương mại gửi kèm với các điều kiện D/P (documents against payment – trả tiền đổi chứng từ), D/A (documents 7 against other acceptance – chấp nhận thanh toán đổi chứng từ), D/TC (documents against other terms and conditions – thực hiện các điều khoản và điều kiện khác đổi lấy chứng từ). + Thương phiếu trơn (clean commercial Bill) là thương phiếu mà việc thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán không dựa vào chứng từ thương mại gửi kèm.  Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của thương phiếu, có thể chia thành 3 loại: + Thương phiếu đích danh (nominated commercial Bill) là thương phiếu ghi rõ tên người thụ hưởng không kèm theo từ “theo lệnh” – pay to X bank. + Thương phiếu vô danh hay trả cho người cầm thương phiếu (nameless commercial Bill, Commercial Bill to Bearer) là thương phiếu không ghi tên người thụ hưởng hoặc ghi trả cho người cầm phiếu (pay to bearer). Đối với thương phiếu này, bất cứ ai cầm được phiếu đều có thể trở thành người thụ hưởng thương phiếu. + Thương phiếu trả theo lệnh (commercial Bill to order) là thương phiếu ghi trả theo lệnh của người nào đó (pay to order of…). Người có nghĩa vụ trả tiền của thương phiếu sẽ trả tiền cho người thụ hưởng hoặc sẽ trả theo lệnh của người thụ hưởng.  Căn cứ vào phạm vi sử dụng thương phiếu, có thể chia thành 2 loại: + Thương phiếu nội địa: là thương phiếu không có yếu tố quốc tế: người ký phát - người bị ký phát và người phát hành - người thụ hưởng đều là người cư trú. Thương phiếu này chỉ sử dụng trong phạm vi một nước. + Thương phiếu quốc tế là thương phiếu có yếu tố quốc tế: người ký phát - người bị ký phát và người phát hành có 1 bên hoặc cả 2 bên là người phi cư trú. Thương phiếu quốc tế được sử dụng phổ biến trong thanh toán tín dụng quốc tế.  Căn cứ vào cơ sở hình thành thương phiếu: + Thương phiếu thực (commercial Bill): là thương phiếu hình thành trên cơ sở giao dịch cơ sở như hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. 8 + Thương phiếu khống (Accomodation Bill): là thương phiếu không hình thành dựa trên giao dịch cơ sở. Ví dụ, lợi dụng đặc điểm về tính trừu tượng về nguyên nhân đòi tiền của thương phiếu, 2 ông A và B thỏa thuận với nhau tạo lập 1 hối phiếu để vay tiền ngân hàng bằng phương thức chiết khấu hoặc cầm cố hối phiếu đó. Luật nhiều nước cấm phát hành thương phiếu khống. Tuy nhiên, hối phiếu của người chấp nhận (acceptor’s Bill) là một loại hối phiếu khống tương đối thịnh hành ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển lâu đời như: Bỉ, Pháp, Đức. 1.4. Thị trường thương phiếu 1.4.1. Khái niệm Thị trường thương phiếu là thị trường ở đó diễn ra việc kinh doanh thương phiếu nhằm thỏa mãn các nhu cầu về vốn ngắn hạn của các chủ thể trong nền kinh tế và nhằm mục đích kiếm lời. Thương phiếu là một loại tài sản tài chính. Người sở hữu thương phiếu có quyền chuyển nhượng các quyền pháp lý đó cho một hay nhiều người khác, hoặc nhượng bán hoặc cầm cố các quyền đó cho ngân hàng hoặc công ty tài chính để nhận một số tiền nhất định do 2 bên thỏa thuận. Nếu cung các quyền đó lớn hơn cầu thì số tiền nhận được sẽ ít đi, ngược lại thì số tiền nhận được sẽ nhiều hơn. Quan hệ cung cầu các quyền này chịu ảnh hưởng lớn bởi thị trường hàng hóa – dịch vụ và thị trường tín dụng trong nền kinh tế quốc dân. Thị trường thương phiếu hình thành và phát triển trên cơ sở mối quan hệ đó. 1.4.2. Đặc điểm  Thương phiếu là một loại hàng hóa đặc biệt của thị trường thương phiếu. Thương phiếu cũng có 2 thuộc tính của hàng hóa: giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Giá trị sử dụng của thương phiếu thể hiện ở các quyền pháp lý đối với những lợi ích tương lai mà nó mang lại cho người thụ hưởng. Các quyền pháp lý chủ yếu này bao gồm: + Hưởng lợi số tiền ghi trên thương phiếu đó; 9 + Sử dụng thương phiếu làm phương tiện thanh toán; + Sử dụng thương phiếu làm vật cầm cố để vay tiền ngân hàng; + Chuyển nhượng các quyền pháp lý đối với những lợi ích tương lai do thương phiếu mang lại cho một hay nhiều người khác; + Bán thương phiếu (chiết khấu) cho ngân hàng để nhận tiền ngay; + Quyền khiếu nại, khởi kiện thương phiếu khi thương phiếu bị vi phạm… Giá trị sử dụng của thương phiếu được hình thành kể từ khi thương phiếu được tạo lập cho đến khi thương phiếu hết hạn hiệu lực. Tuy nhiên, người thụ hưởng thương phiếu muốn nhận ngay được các lợi ích của mình, họ thường nhượng lại các quyền và lợi ích đó cho ngân hàng, ngân hàng phải trả cho họ một giá nhất định. Nếu giá đó được người thụ hưởng chấp nhận thì hành vi trao đổi thương phiếu xuất hiện. Giá đó gọi là giá trị trao đổi của thương phiếu. Các quyền pháp lý đối với những lợi ích tương lai do thương phiếu mang lại cho người thụ hưởng là nội dung thương lượng mua bán giữa người thụ hưởng và ngân hàng. Các quyền và lợi ích này lớn, ổn định và ít rủi ro thì giá cả của nó cao, ngược lại thì giá cả của nó thấp. Do các quyền và lợi ích này tồn tại vô hình, cho nên hàng hóa thương phiếu là một loại hàng hóa đặc biệt.  Kinh doanh thương phiếu trên thị trường thương phiếu được hiểu là các hành vi chiết khấu, bảo lãnh, chấp nhận, cầm cố và nhờ thu thương phiếu. Do thương phiếu là một hàng hóa đặc biệt, cho nên kinh doanh thương phiếu cũng mang tính chất đặc biệt khác với các hàng hóa thông thường. Hoạt động kinh doanh thương phiếu của các trung gian tài chính, chủ yếu là các ngân hàng thương mại bao gồm 2 loại cơ bản. Một là, ngân hàng bỏ vốn ra cho vay đầu tư để kiếm lợi nhuận thông qua nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu. Nếu tổng vốn bỏ ra nhỏ hơn tổng vốn thu về thì kinh doanh có lãi, ngược lại thì lỗ. Hai là, ngân hàng không bỏ vốn ra kinh doanh, mà chỉ dựa vào địa vị và uy tín của mình trên thương trường để cung ứng dịch vụ bảo lãnh, chấp nhận, nhờ thu thương phiếu… cho khách hàng để thu phí. 10  Lưu thông thương phiếu trên thị trường là ngắn hạn do đặc điểm của tín dụng thương mại là loại tín dụng ngắn hạn. Lưu thông ngắn hạn của thương phiếu nói trên sẽ quyết định đến đặc điểm ngắn hạn của hoạt động kinh doanh thương phiếu trên thị trường thương phiếu. Một là, thị trường thương phiếu là một thị trường năng động trong kinh doanh, do đó, để thị trường phát triển ổn định và bền vững cần phải có một chế độ thẩm định khách hàng một cách chính xác và một hệ thống các giải pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả. Hai là, thị trường thương phiếu là một thị trường nhạy cảm với các biến động về kinh tế, chính trị của xã hội. Để thích ứng với điều này cần phải có một chiến lược và sách lược kinh doanh thích nghi với những biến động thường xuyên của tình thế, hạn chế rủi ro, kinh doanh có hiệu quả.  Các thành viên tham gia thị trường thương phiếu bao gồm chủ yếu là các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng huy động và cho vay ngắn hạn chủ yếu trong nền kinh tế, cho nên ngân hàng thương mại là thành viên chủ yếu của thị trường thương phiếu. Ngoài ra, các tổ chức tài chính khác cũng có thể tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường thương phiếu như Ngân hàng Trung ương trong nghiệp vụ tái chiết khấu thương phiếu của ngân hàng thương mại; công ty tài chính, quỹ hỗ trợ xuất nhập khẩu trong nghiệp vụ cho vay cầm cố, chiết khấu, bảo lãnh thương phiếu.  Mục đích hoạt động của thị trường thương phiếu là nhằm thỏa mãn các nhu cầu vốn ngắn hạn của các chủ thể tham gia hoạt động thương mại trong nền kinh tế quốc dân và thu lợi nhuận của các chủ thể này với từ cách là người cho vay. Có 2 thành tố cấu thành lợi nhuận từ kinh doanh thương phiếu: lãi từ các nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố và phí từ các nghiệp vụ bảo lãnh, chấp nhận, nhờ thu thương phiếu. Cả 2 mục đích này gắn bó hữu cơ với nhau. Nhu cầu vốn ngắn hạn cho hoạt động thương mại được thỏa mãn đầy đủ bao nhiêu thì lợi nhuận thu về từ hoạt động kinh doanh thương phiếu càng có điều kiện tăng thêm bấy nhiêu. Hoạt động kinh doanh thương phiếu phát triển sẽ hỗ trợ cho tín dụng thương mại mở rộng quy mô, kéo dài thời hạn, do đó, sẽ đáp ứng cao nhu cầu vốn ngắn hạn cho hoạt động thương mại. 11  Nơi diễn ra thị trường thương phiếu là các quầy giao dịch của các trung gian tài chính mà chủ yếu là các ngân hàng thương mại. Nếu thương phiếu giao dịch trên thị trường là những chứng chỉ truyền thống hay còn gọi là các chứng từ bằng giấy thì thị trường thương phiếu là thị trường giao dịch tập trung mà ở đó các doanh nghiệp mang thương phiếu đến các quầy giao dịch ngân hàng để xin chiết khấu, cầm cố, chấp nhận, bảo lãnh, nhờ thu. Ngược lại nếu thương phiếu tồn tại dưới dạng phi chứng từ (electronic documents) thì thị trường thương phiếu là thị trường phi tập trung, hay còn gọi là thị trường thương phiếu điện tử hoặc thị trường không gian (Space Market). Tại thị trường phi tập trung này, mọi giao dịch thương phiếu đều được tiến hành thông qua các phương tiện điện tử như điện thoại, computer, fax… Từ những đặc điểm trên, có thể thấy thị trường thương phiếu là thị trường rất linh hoạt, chứa đựng sự nhạy cảm cao. 1.4.3. Phân loại thị trường thương phiếu  Căn cứ vào đối tượng thương phiếu được mua bán: + Thị trường hối phiếu: thị trường kinh doanh hối phiếu giữa một bên là người ký phát hoặc người thụ hưởng hối phiếu với một bên là các trung gian tài chính. + Thị trường kỳ phiếu: là thị trường kinh doanh kỳ phiếu giữa một bên là người thụ hưởng kỳ phiếu và một bên là các trung gian tài chính.  Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh: + Thị trường chiết khấu thương phiếu: là thị trường mua bán thương phiếu giữa người thụ hưởng với các trung gian tài chính. + Thị trường bảo lãnh thương phiếu: là thị trường trong đó theo yêu cầu của người trả tiền thương phiếu, các trung gian tài chính đứng ra bảo đảm thanh toán thương phiếu. + Thị trường chấp nhận thương phiếu: là thị trường trong đó theo yêu cầu của người trả tiền thương phiếu, các trung gian tài chính chấp nhận trả tiền trực tiếp khi có yêu cầu hoặc khi thương phiếu đáo hạn. + Thị trường cầm cố thương phiếu: là thị trường mà tại đó, người thụ hưởng thương phiếu chưa đến hạn thanh toán mang thương phiếu đến các trung gian tài chính cầm cố để vay tiền. 12 + Thị trường nhờ thu thương phiếu: là thị trường mà tại đó người thụ hưởng thương phiếu ủy thác cho ngân hàng thu tiền từ người trả tiền trên thương phiếu đó. 1.4.4. Các chủ thể tham gia thị trường thương phiếu: 1.4.4.1. Căn cứ vào cơ cấu chủ thể  Người ký phát hối phiếu.  Người bị ký phát hối phiếu.  Người phát hành kỳ phiếu.  Người thụ hưởng thương phiếu.  Người chiết khấu thương phiếu: là một trung gian tài chính, mua thương phiếu của người thụ hưởng thương phiếu theo một giá thỏa thuận.  Người chấp nhận thương phiếu: là người ký chấp nhận thanh toán thương phiếu theo các điều kiện quy định trên thương phiếu.  Người bảo lãnh thương phiếu: là người tham gia quan hệ bảo lãnh thương phiếu thông qua hành vi ký bảo lãnh thương phiếu.  Người trả tiền thương phiếu: Đối với hối phiếu, người trả tiền là người bị ký phát. Tuy nhiên, người bị ký phát có thể yêu cầu người thứ ba trả tiền hối phiếu. Đối với kỳ phiếu, người trả tiền là bản thân người phát hành kỳ phiếu hoặc một người khác do người phát hành yêu cầu như ngân hàng bảo lãnh, ngân hàng chấp nhận. 1.4.4.2. Căn cứ vào hình thái tổ chức của chủ thể trên thị trường thương phiếu:  Ngân hàng trung ương: tham gia với tư cách là người điều tiết vĩ mô hoạt động của thị trường thương phiếu.  Các định chế tài chính trung gian: ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, các tổ chức tiết kiệm và cho vay, các quỹ đầu tư.  Các doanh nghiệp/cá nhân: là chủ thể chủ yếu của giao dịch cơ sở và chủ thể chính của thị trường thương phiếu. 1.4.5. Vai trò của thị trường thương phiếu đối với hoạt động thương mại  Một là, đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp. Việc sử dụng thương phiếu như là công cụ tín dụng trực tiếp giữa các doanh nghiệp có ưu thế hơn hẳn so với các nguồn vốn tín dụng khác như thời hạn cấp tín dụng linh hoạt, điều kiện, thủ tục cấp tín dụng đơn giản. Do đó, nó góp phần làm giảm sức ép 13 về vốn đối với doanh nghiệp thương mại, đặc biệt trong điều kiện tốc độ lưu thông hàng hóa rất nhanh, trong khi vốn của ngân hàng thương mại chỉ có hạn.  Hai là, thương phiếu là công cụ có thể chuyển nhượng, nên việc phát triển thị trường thương phiếu tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp thông qua các nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố, bảo lãnh thương phiếu…Tín dụng ngân hàng thông qua thị trường thương phiếu đã trở thành người hỗ trợ đắc lực cho tín dụng thương mại phát triển.  Ba là, gắn kết hoạt động tín dụng với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Thông qua các nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố, chấp nhận, bảo lãnh thương phiếu, các ngân hàng thương mại đã có điều kiện gắn kết giữa quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa của nền kinh tế với việc cấp tín dụng. Điều đó là cho việc cấp tín dụng của ngân hàng luôn gắn liền với nhu cầu vốn thực của nền kinh tế và làm giảm áp lực vốn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mặt khác, nhờ sự tồn tại và phát triển của thị trường thương phiếu mà việc mua bán hàng hóa có thể được thực hiện ngay một cách thuận lợi, không cần phải chờ đến khi người mua có tiền thì người bán mới bán được hàng hóa, nhờ đó đã nắm bắt kịp thời được cơ hội kinh doanh, hạn chế rủi ro tiềm ẩn đối với sản xuất là khó bán được hàng.  Bốn là, góp phần phát triển cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt trong hoạt động thương mại. Thương phiếu có thể thực hiện chức năng thanh toán bên cạnh chức năng phương tiện tín dụng. Có thể trong một vòng khép kín, các giao dịch kinh tế H-T-H’ hoặc T-H-T’ hoàn toàn chỉ sử dụng thương phiếu mà không cần dùng đến tiền mặt. 1.4.6. Các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của thị trường thương phiếu  Nghiệp vụ chiết khấu: là việc các trung gian tài chính mua các thương phiếu của người thụ hưởng trước hạn thanh toán với một mức giá do 2 bên thỏa thuận. Thực chấp của nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu là các trung gian tài chính cung cấp tín dụng cho người thụ hưởng thương phiếu.  Nghiệp vụ bao thanh toán truy đòi và miễn truy đòi (factoring/forfaiting): là hình thức phát triển của nghiệp vụ chiết khấu ở cấp độ cao hơn. Bao tín dụng là loại hình chiết khấu trọn gói tất cả các khoản thu của nhà xuất khẩu 14 hoặc người bán trong 1 thời gian nhất định theo những điều kiện quy định trong hợp đồng bao thanh toán ký kết giữa các công ty factoring hoặc forfaiting với nhà xuất khẩu hoặc người bán.  Nghiệp vụ bảo lãnh: là nghiệp vụ mà trong đó trung gian tài chính với tư cách là người thứ ba cam kết sẽ thanh toán thương phiếu nếu như người trả tiền thương phiếu không thanh toán hoặc không thanh toán đầy đủ thương phiếu đó.  Nghiệp vụ cầm cố thương phiếu: cầm cố thương phiếu để vay vốn trung gian tài chính là việc người thụ hưởng thương phiếu có nghĩa vụ chuyển giao thương phiếu mà mình là người sở hữu cho trung gian tài chính để làm vật đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ bao gồm nợ gốc và lãi.  Nghiệp vụ chấp nhận và chấp nhận hoàn trả Nghiệp vụ chấp nhận là nghiệp vụ trong đó một trung gian tài chính theo yêu cầu của người bị ký phát đứng ra ký chấp nhận thanh toán hối phiếu vo điều kiện trong thời hạn hiệu lực của hối phiếu. Chấp nhận hoàn trả là một hình thức chấp nhận trong đó người xuất khẩu không chuyển hối phiếu đến ngân hàng của người nhập khẩu yêu cầu chấp nhận trả tiền, mà chuyển đến một ngân hàng hạng nhất do 2 bên thỏa thuận để chấp nhận trả tiền.  Nghiệp vụ nhờ thu thương phiếu: là nghiệp vụ trong đó người hưởng lợi thương phiếu ủy thác cho ngân hàng thu hộ số tiền ghi trên thương phiếu từ người trả tiền ghi trên thương phiếu đó. 15 Chương 2. Thực trạng thị trường thương phiếu Việt Nam 2.1. Thực trạng sử dụng thương phiếu ở Việt Nam thời gian qua 2.1.1. Thương phiếu chủ yếu được dùng trong thanh toán quốc tế Từ năm 1954 đến năm 1999, thương phiếu chỉ được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Các doanh nghiệp Việt Nam khi phát hành hối phiếu đòi tiền thương nhân hoặc ngân hàng nước ngoài mặc nhiên áp dụng Luật Thống nhất về hối phiếu ULB-1930. Với chính sách mở cửa, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới, mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta cũng được đổi mới. Trong hoạt động thương mại, các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng hối phiếu trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, nhờ thu trong các hợp đồng mua bán ngoại thương. Trong đó, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu sử dụng hối phiếu với tư cách là người bị ký phát khi nhập khẩu hàng hóa và là người thụ hưởng khi xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài, còn kỳ phiếu chưa thấy được sử dụng. Các doanh nghiệp Việt Nam tiến hành giao dịch thông qua các ngân hàng thương mại. Tỷ lệ doanh số thanh toán có sử dụng thương phiếu (thanh toán bằng L/C và nhờ thu) chiếm đa phần, khoảng trên 80% tổng doanh số thanh toán quốc tế ở hầu hết các ngân hàng thương mại. Bảng 1: Tình hình thanh toán xuất nhập khẩu của 4 ngân hàng thương mại lớn, giai đoạn 2005-2009 (nguồn: báo cáo thường niên của các ngân hàng). Đơn vị: Tỷ USD Ngân hàng 2005 2006 2007 2008 2009 Ngân hàng Vietcombank 20.958 22.800 26.323 32.501 25.620 Ngân hàng Vietintbank 5.651 6.790 7.695 11.270 12.100 Ngân hàng BIDV 6.450 ____ 5.150 21.577 24.527 Ngân hàng Agribank 5.857 6.131 7.248 10.643 9.700 2.1.2. Thương phiếu ít được dùng trong thương mại nội địa Trước đây Việt Nam xây dựng nền kinh tế theo hoạt thuyết kinh tế xã hội chủ nghĩa nên không thừa nhận sự tồn tại của tín dụng thương mại và thương phiếu – công cụ của tín dụng thương mại cũng không ra đời. Trên thực tế, trong nội địa khi mua bán hàng trả tiền ngay của các doanh nghiệp thường sử dụng công cụ hóa đơn thương mại để đòi tiền. Còn khi bán 16 hàng trả chậm, việc thu tiền trong tương lai thường được thực hiện dưới hình thức người bán trực tiếp ghi sổ nợ người mua và việc thu tiền về sau dựa trên cơ sở sự tin cậy làm đảm bảo. Thực trạng này bất cập ở chỗ, hóa đơn thương mại không phải là công cụ tài chính đòi tiền với mục đích và nội dung phát hành là để thu tiền mà chỉ là chứng từ thương mại nhằm mô tả hàng hóa và các tính chất của một giao dịch thương mại. Còn việc ghi sổ nợ khi bán chịu hàng hóa đã để lại một bài học quý giá cho các thương nhân chợ Đồng Xuân (Hà Nội) và chợ Rồng (Nam Định) khi xảy ra 2 vụ cháy chợ khiến các chủ nợ không thu hồi được vốn vì không có các công cụ tài chính được phát hành và được bảo vệ theo pháp luật. Về kỳ phiếu, hiện tại thị trường kỳ phiếu chủ yếu do các ngân hàng phát hành và chủ yếu phát hành kỳ phiếu với thời hạn ngắn nhằm huy động tiền gửi của người dân, ít dùng trong thương mại. Bảng 2. Số liệu về kỳ phiếu do Ngân hàng Công thương phát hành (triệu đồng). 2010 2009 2008 2007 Dưới 12 tháng (1) 12 tháng - 5 năm (2) (1) (2) (1) (2) (1) (2) 105.856 6 3.070.655 6 3.255.526 188 119.914 6 2.2. Thực trạng phát triển thị trường thương phiếu trong giai đoạn vừa qua 2.2.1. Thực trạng cơ sở pháp lý Hiện nay nguồn luật điều chỉnh hoạt động trên thị trường thương phiếu là Luật các công cụ chuyển nhượng, được Quốc hội ban hành ngày 29/11/2005, Luật các Tổ chức tín dụng, ban hành ngày 29/6/2010; Luật Ngân hàng Nhà nước, ban hành ngày 29/6/2010… 2.2.2. Chủ thể tham gia phát triển thị trường thương phiếu trong hoạt động thương mại Do thương phiếu chưa được sử dụng rộng rãi trong thương mại nội địa mà mà mới chỉ sử dụng chủ yếu trong quan hệ thương mại quốc tế, cho nên các chủ thể tham gia thị trường thương phiếu trong hoạt động thương mại ở Việt Nam 17 chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và các ngân hàng thương mại. Trong hoạt động xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam tham gia quan hệ hối phiếu với tư cách là người ký phát, người thụ hưởng khi là người xuất khẩu, là người bị ký phát khi là người nhập khẩu. Trong quan hệ kỳ phiếu, các doanh nghiệp Việt Nam tham gia với tư cách là người thụ hưởng khi là người xuất khẩu, là người phát hành khi là người nhập khẩu. Các ngân hàng thương mại Việt Nam là chủ thể của thị trường thương phiếu, là người trả tiền khi giữ vai trò là ngân hàng phát hành L/C, là người thụ hưởng khi chiết khấu thương phiếu, là người cho vay khi nhận cầm cố thương phiếu, là người bảo lãnh, chấp nhận khi tiến hành bảo lãnh và chấp nhận thanh toán thương phiếu, là người nhận ủy thác khi thực hiện phương thức thanh toán nhờ thu. 2.2.3. Thực trạng các nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường thương phiếu 2.2.3.1. Nghiệp vụ kinh doanh chiết khấu hối phiếu tín dụng chứng từ Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán trong đó một ngân hàng theo yêu cầu của khách hàng viết một thư cam kết (L/C) trả tiền hối phiếu (hoặc hóa đơn) của người hưởng lợi với điều kiện người hưởng lợi xuất trình chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của L/C. Hầu hết các cam kết trả tiền của ngân hàng phát hành ghi trong L/C là cam kết trả tiền hối phiếu của người hưởng lợi phát hành. Trên cơ sở thực tế hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, người hưởng lợi L/C phải lập các chứng từ quy định trong L/C như chứng từ vận tải, hóa đơn thương mại… và ký phát hối phiếu đòi tiền nghân hàng phát hành L/C. Như vậy, hối phiếu chỉ được phát hành trên cơ sở thực hiện L/C nói riêng hay hợp đồng xuất nhập khẩu nói chung. Có 2 loại chiết khấu hối phiếu thường được áp dụng ở Việt Nam: chiết khấu trong L/C và chiết khấu ngoài L/C.  Chiết khấu trong L/C là loại chiết khấu trong đó ngân hàng phát hành L/C cho phép người hưởng lợi L/C có thể chiết khấu hối phiếu tại bất cứ ngân hàng nào ở nước họ (chiết khấu tự do) hoặc tại 1 ngân hàng chỉ định (chiết khấu chỉ định). Chiết khấu trong L/C ở Việt Nam có đặc điểm: 18 + Ngân hàng chiết khấu thường là các chi nhánh của ngân hàng phát hành. Đối với L/C chiết khấu tự do, ngân hàng thông báo thường là ngân hàng chiết khấu. + Người có nghĩa vụ trả tiền các hối phiếu tín dụng chứng từ là ngân hàng phát hành/ngân hàng xác nhận, vì vậy ngân hàng phát hành hoặc xác nhận phải là ngân hàng có uy tín trên thị trường quốc tế và là những ngân hàng đại lý của ngân hàng chiết khấu Việt Nam. + Chiết khấu trong L/C là loại chiết khấu miễn truy đòi lại tiền người ký phát hối phiếu.  Chiết khấu ngoài L/C là loại chiết khấu được thỏa thuận giữa ngân hàng và người hưởng lợi L/C mà không do L/C quy định. Người hưởng lợi L/C có thể thông qua ngân hàng thông báo xuất trình hối phiếu và chứng từ đòi tiền ngân hàng phát hành hoặc cũng có thể bán hối phiếu và chứng từ cho một ngân hàng nào đó mà họ đồng ý mua. Đặc điểm: + Bất cứ ngân hàng nào ở nước người hưởng lợi L/C cũng có thể trở thành ngân hàng chiết khấu, tuy nhiên, việc xuất trình hối phiếu và chứng từ phải thông qua ngân hàng thông báo. + Do L/C không quy định chiết khấu nên ngân hàng phát hành không chịu trách nhiệm đối với những chứng từ và hối phiếu đã được chiết khấu. Chính vì vậy, chiết khấu ngoài L/C không phát triển lắm ở Việt Nam. + Việc miễn truy đòi trong chiết khấu là do 2 bên thương lượng quyết định. 2.2.3.2. Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu nhờ thu Phương thức thanh toán nhờ thu quy định rằng, người xuất khẩu sau khi giao hàng thì ký phát hối phiếu (hoặc hóa đơn) đòi tiền người nhập khẩu và ủy thác cho ngân hàng thu tiền hối phiếu (hoặc hóa đơn). Việc ủy thác ngân hàng thu tiền hối phiếu có 2 cách khác nhau: một là chỉ ủy thác thu hối phiếu, hai là ủy thác thu hối phiếu kèm với các chứng từ gửi hàng. Theo tập quá thanh toán quốc tế ở Việt Nam, các doanh nghiệp thường ủy thác nhờ thu theo cách thứ 2. Ủy thác thu hối phiếu kèm chứng từ gửi hàng thường kèm với các điều kiện giao chứng từ D/P, D/A, D/TC. 19 Các doanh nghiệp Việt Nam khi áp dụng phương thức nhờ thu thường sử dụng hối phiếu làm công cụ đòi tiền người nhập khẩu. Phương thức nhờ thu chiếm tỷ trọng nhỏ trong thanh toán hàng xuất khẩu ở Việt Nam nên lượng hối phiếu phát sinh từ phương thức này cũng ít hơn nhiều so với phương thức tín dụng chứng từ. Thông thường phương thức thanh toán nhờ thu thường thu tiền rất chậm, có khi tới 3, 4 tháng sau khi giao hàng. Để khắc phục tình trạng này, người thụ hưởng hối phiếu có thể chọn 1 trong 2 cách là cầm cố hối phiếu để vay tiền ngân hàng hoặc bán hối phiếu (chiết khấu) cho ngân hàng để thu tiền trước hạn. Bảng 3. Cơ cấu sử dụng thương phiếu trong thanh toán xuất khẩu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Tỷ USD % Tỷ USD % Tỷ USD % Tỷ USD % Tỷ USD % Hối phiếu 4.163 100 4.894 100 4.923 100 5.762 100 6.920 100 Tín dụng chứng từ 3.750 89 3.723 71 3.471 76 4.263 72 5.051 73 Nhờ thu 413 11 1.171 29 1.452 24 1.499 28 1.869 27 2.2.3.3. Nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán thương phiếu Tồn tại chủ yếu hiện nay đối với bảo lãnh thanh toán hối phiếu trả chậm theo L/C mà các ngân hàng Việt Nam phát hàh cho nước ngoài hưởng lợi là ngân hàng phải đứng ra trả nợ thay cho khách hàng vì khách hàng không trả tiền hối phiếu đúng hạn hoặc mất khả năng thanh toán. Một trong những nguyên nhân chủ yếu phát sinh tình trạng này là do khâu thẩm định khách hàng của ngân hàng thương mại Việt Nam chưa chuẩn xác, thiếu độ tin cậy. 2.3. Đánh giá chung 2.3.1. Những kết quả đạt được Một là, thương phiếu từ chỗ chỉ được đề cập một cách manh mún trong một số luật có liên quan đã được Nhà nước ban hành một Pháp lệnh riêng để điều chỉnh thương phiếu năm 1999 và sau này là Luật các công cụ chuyển 20 nhượng năm 2005. Sự ra đời của Luật các công cụ chuyển nhượng đánh dấu mốc quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường thương phiếu nước ta. Hai là, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đã và đang sử dụng hối phiếu trong thanh toán hàng xuất nhập khẩu. Ở Việt Nam, thương phiếu (chủ yếu là hối phiếu) được sử dụng làm phương tiện thanh toán và tín dụng quốc tế trong lĩnh vực ngoại thương với vai trò là phương tiện đòi tiền của các phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, nhờ thu và thư bảo lãnh. Các thành tố của thị trường thương phiếu đã và đang xuất hiện đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của thị trường thương phiếu Việt Nam trong tương lai. Ba là, nghiệp vụ kinh doanh thương phiếu của các ngân hàng thương mại như chiết khấu, cầm cố, bảo lãnh, nhận ủy thác nhờ thu đã hình thành. Việc các ngân hàng thương mại mở rộng các nghiệp vụ liên quan đến thanh toán bằng thương phiếu giúp cho các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh. Ngoài ra, trong quá trình phát triển các nghiệp vụ thanh toán bằng thương phiếu, các tổ chức tài chính trung gian đã khôn chỉ đưa thương phiếu trở thành một công cụ hữu ích trên thị trường vốn ngắn hạn, mà còn góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập của thị trường tài chính Việt Nam với thị trường tài chính thế giới. 2.3.2. Tồn tại, hạn chế 2.3.2.1. Nghiệp vụ kinh doanh thương phiếu tuy có phát triển, nhưng thị trường thương phiếu Việt Nam chưa thực sự hình thành. Các nghiệp vụ kinh doanh thương phiếu đã mang lại lợi ích cho cả 2 phía doanh nghiệp và ngân hàng, cho nên nó đã được phát triển khá sớm ở nước ta. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có thị trường tự do tín dụng, tự do hóa lãi suất chưa hình thành, ngoài kênh tín dụng chủ yếu của ngân hàng thương mại, kênh huy động vốn trên thị trường chứng khoán còn non yếu, nên trên thị trường chưa xuất hiện quan hệ cung cầu đối với “hàng hóa” thương phiếu trong các nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố, bảo lãnh thương phiếu. Yếu tố kinh doanh trong nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố… thương phiếu chưa hình thành, cơ chế “xin - cho” vẫn chi phối trên thị trường này. 21 Thương phiếu chỉ được sử dụng trong quan hệ thanh toán quốc tế của Việt Nam với nước ngoài, tuy nhiên chủng loại chưa phong phú. Các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ sử dụng hối phiếu làm công cụ đòi tiền khi xuất khẩu, còn chưa sử dụng kỳ phiếu trong thanh toán hàng nhập khẩu. Thương phiếu là công cụ không thể thiếu của các phương thức thanh toán như tín dụng chứng từ, nhờ thu, bảo lãnh, L/C dự phòng, bao tín dụng, thư ủy thác mua, treo tài khoản ở nước ngoài, ghi sổ… Thực trạng sử dụng các phương thức thanh toán của doanh nghiệp Việt Nam từ trước tới nay cho thấy mới sử dụng hối phiếu như là công cụ đòi tiền trong phương thức tín dụng chứng từ, nhờ thu, còn các phương thức khác chưa thấy sử dụng, đặc biệt là đối với kỳ phiếu. Để hình thành một thị trường, trong nền kinh tế phải hội đủ những thành tố cơ sở tối thiểu sau đây:  Một là phải có một lượng hàng hóa nhất định để đưa vào thị trường;  Hai là phải có nhu cầu đối với hàng hóa đó;  Ba là phải có người bán người mua  Cuối cùng là có hệ thống pháp lý điều tiết và bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ của những thành viên của thị trường. Cả 4 yếu tố cơ bản đó vẫn chưa hình thành đầy đủ ở Việt Nam. 2.3.2.2. Bất cập về chủ thể tham gia thị trường thương phiếu Trong thương mại nội địa, các doanh nghiệp thường sử dung các công cụ thanh toán như chuyển khoản qua tài khoản ngân hàng, séc, còn chưa sử dụng hối phiếu và kỳ phiếu. Có thể nói đây là mặt hạn chế trong sử dụng thương phiếu ở nước ta. Do thương phiếu chưa được sử dụng trong thương mại nội địa mà mới chỉ được sử dụng trong quan hệ thương mại quốc tế, nên các chủ thể tham gia thị trường thương phiếu trong hoạt động thương mại ở Việt Nam rất hạn chế. Điểm mặt các chủ thể tham gia thị trường thương phiếu ở Việt Nam hiện chỉ thấy có các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và các ngân hàng thương mại. Nếu thương phiếu được sử dụng trong nội địa, các thành phần chủ thể tham gia thị trường thương phiếu Việt Nam sẽ phong phú hơn nhiều. 22 Nhu cầu tín dụng của các thương nhân trong nền kinh tế chủ yếu là do hệ thống ngân hàng thương mại cung ứng, nhưng vì khả năng của hệ thống ngân hàng có hạn nên các chủ thể đã phải bán chịu hàng hóa cho nhau, ai cũng là chủ nợ của nhau, không có công cụ (thương phiếu) để bù trừ nợ lẫn nhau. Do đó, sinh ra hiện tượng chiếm dụng vốn lẫn nhau, không có cách giải quyết. 2.3.3. Nguyên nhân 2.3.3.1. Nền kinh tế nước ta có xuất phát điểm thấp, lại đang trong quá trình chuyển đổi Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam những năm gần đây thuộc vào hàng những nước cao nhất thế giới, song chưa có tính ổn định, lạm phát còn ở mức cao. Thu nhập của dân chúng còn thấp, lại chưa được đào tạo cơ bản các kiến thức về thị trường tài chính nói chung, thương phiếu và thị trường thương phiếu nói riêng. Chúng ta lại chưa có các chính sách phù hợp để khai thác mọi nguồn lực trong dân chúng. Vì vậy, khi có tiền người dân chỉ có thói quen gửi tiết kiệm, mua vàng, ngoại tệ hoặc bất động sản. Khi cần vốn, các doanh nghiệp chủ yếu vay vốn qua hệ thống ngân hàng mà không phát hành thương phiếu để vay vốn lẫn nhau. Nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự quan tâm tới thương phiếu và thị trường thương phiếu. Điều này làm cho việc sử dụng thương phiếu ở Việt Nam còn quá hạn chế. 2.3.3.2. Nền kinh tế còn nặng thói quen sử dụng tiền mặt Thương phiếu là một trong những công cụ của chế độ thanh toán không dùng tiền mặt, nhưng Việt Nam là một trong những quốc gia có thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán nội địa, nên thương phiếu khó có thể nảy mầm trên thói quen này. Theo nghiên cứu của IMF, tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong thanh toán của Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực. 2.3.3.3. Các doanh nghiệp nhà nước chiếm dụng vốn của xã hội nhiều nhưng lại có độ tín nhiệm thấp. Trên thực tế, độ tín nhiệm của các doanh nghiệp nước ta không cao, các doanh nghiệp khi có quan hệ mua bán chịu chỉ lập các văn bản thỏa thuận với nội dung đơn giản về thời gian trả chậm, số tiền trả chậm, không sử dụng thương phiếu. Do vậy, thường dẫn đến nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau. 23 Số liệu công bố gần đây về tình trạng công nợ dây dưa giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau là những con số khổng lồ: EVN – Tập đoàn điện lực Việt Nam hiện đang nợ Tập đoàn dầu khí hơn 5.000 tỷ đồng, nợ Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam 1.600 tỷ đồng. 2.3.3.4. Hình thức tín dụng chủ yếu của nền kinh tế là tín dụng qua hệ thống ngân hàng thương mại Thị trường chứng khoán chưa phát triển, tiềm ẩn nhiều rủi ro, chưa trở thành kênh huy động vốn lớn cho doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp thiếu vốn thì đi vay ngân hàng thương mại. Các doanh nghiệp thiếu tính năng động, tìm tòi các nguồn vay khác như phát hành trái phiếu doanh nghiệp hay phát hành thương phiếu để huy động vốn của các bạn hàng. Thực tế, cho đến nay cũng mới chỉ có 2 doanh nghiệp tư nhân lớn: Công ty Cổ phần Vincom và Công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai phát hành trái phiếu ra nước ngoài để huy động vốn đầu tư vào trong nước. 2.3.3.5. Rủi ro do sử dụng thương phiếu trong hoạt động thương mại còn chưa có biện pháp phòng ngừa kịp thời, hữu hiệu. Thương phiếu là một công cụ tài chính quan trọng được sử dụng trong tín dụng thương mại. Tín dụng trước hết xuất phát từ sự tín nhiệm, tin cậy. Như vậy, ngay khi phát hành, tự bản thân các quyền pháp lý đối với những lợi ích tương lai của thương phiếu đã ngầm hàm chứa những dấu hiệu rủi ro dựa trên sự tín nhiệm của người ký phát đối với người bị ký phát (hối phiếu) hoặc của người phát hành đối với người thụ hưởng (kỳ phiếu). Khi doanh nghiệp và các tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ phát hành, chấp nhận, bảo lãnh, chuyển nhượng, cầm cố, nhờ thu, thanh toán, truy đòi… của thương phiếu hầu như không phụ thuộc vào hợp đồng giao dịch cơ sở mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên có liên quan. Sự tách biệt giữa chứng từ và hàng hóa đã tạo nên khe hở để một số tổ chức, cá nhân tiến hành lừa đảo ngân hàng, như phát hành thương phiếu khống nhằm lừa đảo thông qua nghiệp vụ chiết khấu ngân hàng hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp thôn qua người mua, người bán. Tại các nước có thị trường thương phiếu phát triển, để giảm thiểu rủi ro cho các bên liên quan khi sử dụng thương phiếu, trên thị trường có các tổ chức xếp loại thương phiếu. Ở Việt Nam, thị trường thương phiếu còn đang trong giai 24 đoạn phát triển nên chưa có tổ chức xếp hạng thương phiếu và các chứng từ có giá ngắn hạn khác. Do vậy, việc sử dụng thương phiếu, đặc biệt là trong hoạt động thương mại ở nước ta rất dễ gặp phải rủi ro. Các doanh nghiệp và các trung gian tài chính còn có thể gặp phải rủi ro lãi suất khi thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu. Khi lãi suất trên thị trường tăng lên sẽ đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng phải đối mặt với sự gia tăng chi phí sản xuất. Các trung gian tài chính có thể gặp phải rủi ro do chênh lệch giữa mệnh giá thương phiếu và số tiền được đảm bảo thanh toán hoặc số tiền chấp nhận thanh toán của bên thứ ba (nếu có). Rủi ro ở chỗ số tiền chênh lệch giữa mệnh giá thương phiếu và phần vốn gốc được ngân hàng chấp nhận bảo lãnh thanh toán có thẻ không thanh toán được hoặc thanh toán không đủ. Cuối cùng, một rủi ro cũng thường gặp là rủi ro mất khả năng thanh toán do nguyên nhân bất khả kháng. Rủi ro này có thể phát sinh do chủ hàng bị tổn thất do các nguyên nhân khách quan dẫn đến mất khả năng thanh toán, khi đến hạn thì người thụ hưởng hoặc ngân hàng chiết khấu thương phiếu có thể không được thanh toán do người bị ký phát hối phiếu hoặc người phát hành kỳ phiếu mất khả năng chi trả thương phiếu Ở các nước phát triển, người ta thường lập các quỹ dự phòng thanh toán thương phiếu. Ở Việt Nam, việc phát triển các quỹ dự phòng thanh toán thương phiếu còn chưa phát triển nên phần nào ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường thương phiếu. 25 Chương 3. Giải pháp phát triển thị trường thương phiếu ở Việt Nam 3.1. Các giải pháp vi mô 3.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật thương phiếu và thị trường thương phiếu Hệ thống pháp luật quốc gia giống như là một hệ thần kinh của cơ thể con người. Có hệ thần kinh hoàn thiện thì mới đảm bảo cho cơ thể phát triển lành mạnh. Hiện nay, hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung và hệ thống pháp luật điều chỉnh thương phiếu nói riêng vẫn còn nhiều bất cập. Trước mắt, nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật các công cụ chuyển nhượng. Luật này được ban hành từ năm 2005 nhưng đến nay vẫn chưa có nghị định hướng dẫn thi hành. Về thuật ngữ hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ quy định trong luật này chưa chính xác vì hối phiếu có 2 loại: hối phiếu thương mại và hối phiếu tài chính. Nếu luật chỉ điều chỉnh hối phiếu đòi nợ tức là hối phiếu thương mại, vậy hối phiếu tài chính sẽ được điều chỉnh bởi luật nào? Bên cạnh đó, thuật ngữ hối phiếu nhận nợ là chưa chính xác, đồng thời cũng không phù hợp với cách dùng thông dụng trong hoạt động thương mại, vay nợ, thanh toán quốc tế là kỳ phiếu hay giấy nhận nợ. 3.1.2. Thể chế hóa chế độ thanh toán không dùng tiền mặt Tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển lâu đời, đặc biệt là có thị trường thương phiếu phát triển, thương phiếu có thể thay cho tiền mặt chấp hành chức năng phương tiện thanh toán. Thương phiếu là một thành phần của khối lượng tiền tệ M2, do đó, góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hóa phát triển, giảm sức ép phát hành tiền mặt đưa vào lưu thông, do đó góp phần chống lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền. Thu hẹp tối đa thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế để tạo cơ hội hạn chế đi đến xóa bỏ nạn tham nhũng công quỹ. 26 Thanh toán bằng tiền mặt là mặt đối nghịch với thanh toán bằng thương phiếu. Vì vậy, muốn thị trường thương phiếu phát triển thì phải thu hẹp thị trường tiền mặt ở Việt Nam. Mối quan hệ này là tỷ lệ nghịch. Giải pháp cho vấn đề này là:  Ban hành Luật hoặc Pháp lệnh thanh toán không dùng tiền mặt trong phạm vi toàn quốc.  Buộc tất cả các giao dịch từ một số tiền nhất định trở lên phải thanh toán qua tài khoản tại ngân hàng thương mại.  Nhà nước quy định mức tiền mặt tồn quỹ tối thiểu tại các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội, trên mức đó phải gửi vào tài khoản mở tại ngân hàng.  Nghiên cứu chuyển hình thức sổ tiết kiệm sang chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng (CDs). Bằng hình thức này có thể mở rộng diện người dân sử dụng công cụ chuyển nhượng của ngân hàng, tạo thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng trong dân cư. 3.1.3. Hoàn thiện cơ chế tự do hóa lãi suất. Lãi suất tự do hóa là cơ chế lãi suất trong đó không có hoặc chỉ có sự can thiệp rất hạn chế của nhà nước vào việc hình thành lãi suất. Lãi suất khi đó sẽ được hình thành trên cơ sở thị trường, quan hệ cung – cầu. Tự do hóa lãi suất góp phần làm dòng vốn trong xã hội được tự do lưu chuyển, lãi suất khi đó tự điều chỉnh theo tín hiệu thị trường, lúc đó nó phản ánh được giá của vốn, giá cả thương phiếu trên thị trường. Lãi suất ngân hàng là cơ sở định giá chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố, chấp nhận và chấp nhận hoàn trả các chứng từ có giá nói chung, thương phiếu nói riêng. Kiểm soát lãi suất quá chặt chẽ sẽ khuyến khích hình thành các công cụ tài chính, trung gian tài chính phi chính thức cạnh tranh với các công cụ tài chính và trung gian tài chính chính thức, làm cho thị trường tài chính thiếu tính minh bạch và khó phát triển. 27 3.2. Nhóm các giải pháp vi mô 3.2.1. Tạo “hàng hóa” cho thị trường thương phiếu Muốn hình thành một thị trường, trước tiên phải có hàng hóa cho thị trường đó. Để có thương phiếu sử dụng trong thương mại, cần phải thể chế hóa việc sử dụng các công cụ thanh toán trong ký kết và thực hiện các hợp đồng mua bán thay cho thanh toán bằng tiền mặt phổ biến như hiện nay. Do đó, giải pháp có thể là:  Tất cả các hợp đồng mua bán chịu ký kết giữa các doanh nghiệp phải sử dụng hối phiếu trả chậm hoặc kỳ phiếu trả chậm có bảo lãnh thanh toán làm công cụ thah toán. Riêng đối với hối phiếu thì người mua hoặc một người thứ ba do người mua ủy quyền phải ký chấp nhận thanh toán hối phiếu thì mới có thể giành được quyền nhận hàng.  Các hợp đồng mua bán trả tiền ngay sau khi xuất trình chứng từ gửi hàng (D/P) cũng nên bắt buộc sử dụng hối phiếu trả tiền ngay.  Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân và dân doanh phát hành và sử dụng thương phiếu trong quan hệ mua bán chịu nội địa. 3.2.2. Thành lập các công ty định mức tín nhiệm Hệ số tín nhiệm là chỉ tiêu để thông qua đó người ta nhận dạng được thực trạng về khả năng tài chính của doanh nghiệp. Các nhà kinh doanh thương phiếu thường dựa vào hệ số tín nhiệm của các tổ chức phát hành thương phiếu cao hay thấp để quyết định có đầu tư vào thương phiếu đó hay không hoặc quyết định đến mức giá của thương phiếu đó. Vì vậy, hệ số tín nhiệm có tác động rất tích cực đến sự phát triển của thị trường thương phiếu. Các nước có nền kinh tế phát triển như Hoa Kỳ rất coi trọng hệ số tín nhiệm trong đầu tư và kinh doanh các chứng từ có giá. Đối với Việt Nam, ngay từ bây giờ cũng cần có hệ số tín nhiệm để lành mạnh hóa thị trường tín dụng, bảo vệ các nhà kinh doanh thương phiếu và các tổ chức tín dụng, tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại, chủ thể chủ yếu tham gia thị trường thương phiếu. 28 Để thành lập công ty định mức tín nhiệm nội địa, cần phải tìm được một số nhà bảo trợ chính, sự trợ giúp kỹ thuật của các công ty định mức tín nhiệm uy tín quốc tế. Bên cạnh đó, khi hình thành công ty định mức tín nhiệm, nên thành lập dưới dạng công ty cổ phần để có tính độc lập, cộng đồng cao. Nên hạn chế tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ đối với cổ đông nhằm tránh sự chi phối quá sâu của bất kỳ ai làm giảm chất lượng hệ số tín nhiệm cung cấp ra thị trường. 3.2.3. Áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro Như đã phân tích ở trên, hoạt động tín dụng liên quan đến thương phiếu tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy, các tổ chức tín dụng tại Việt Nam khi triển khai các nghiệp vụ tín dụng liên quan đến thương phiếu, cần thiết phải có những biện pháp phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra. Một số biện pháp chủ yếu:  Tăng cường chất lượng khâu thẩm định.  Ràng buộc các yếu tố đảm bảo: ký quỹ, cầm cố, thế chấp tài sản, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba…  Thực hiện giám sát thường xuyên.  Bảo hiểm hàng hóa phải thu.  Thực hiện tốt trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. 3.2.4. Tăng cường đào tạo, phổ cập kiến thức về thương phiếu, thị trường thương phiếu và vai trò của nó trong nền kinh tế. Yếu tố con người đóng vai trò quyết định sự phát triển và hội nhập của thị trường thương phiếu. Nguồn nhân lực của thị trường thương phiếu phải bao gồm lực lượng cán bộ và nhân viên tác nghiệp có trình độ và kiến thức nhất định. Kinh nghiệm của các nước có thị trường thương phiếu phát triển cũng cho thấy, để thị trường thương phiếu phát triển, các tác nhân trong nền kinh tế phải hiểu rõ tác dụng, ưu điểm của thương phiếu trong thanh toán. Do đó, để thực hiện giải pháp này, cần chú trọng một số công việc sau: 29  Tăng cường đào tạo và đào tạo lại, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ điều hành, quản lý, đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia hoạt động của thị trường.  Đổi mới, hoàn thiện nội dung các loại tài liệu liên quan đến thị trường thương phiếu phù hợp với yêu cầu của thực tế.  Tuyên truyền giáo dục kiến thức về thương phiếu và thị trường thương phiếu.  Cần có chính sách hướng dẫn và khuyến khích doanh nghiệp trong việc sử dụng thương phiếu. 30 KẾT LUẬN Việt Nam đang đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh quan hệ thương mại với tất cả các quốc gia trên thế giới. Do đó, việc phát triển thị trường thương phiếu nhằm phát triển hoạt động thương mại ở nước ta là điều rất cần thiết. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này có vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa có ý nghĩa lý luận. Đối với sinh viên học môn Thanh toán quốc tế, việc nghiên cứu đề tài này giúp làm sáng tỏ lý luận và góp phần vận dụng lý luận vào thực tiễn, hoàn thành chương trình đào tạo tại Đại học Ngoại thương. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài nghiên cứu là vấn đề khó, do đó đề tài không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chúng em mong sẽ nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn cùng lớp nhằm hoàn thiện đề tài hơn nữa. Qua đây, chúng em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô giáo, Tiến sĩ Trần Thị Lương Bình đã hướng dẫn chúng em trong quá trình nghiên cứu đề tài này./. 31 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Thanh toán Quốc tế, GS.NGƯT Đinh Xuân Trình (chủ biên), Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, 2009. 2. Thị trường Thương phiếu ở Việt Nam, GS.NGƯT Đinh Xuân Trình, TS.Đặng Thị Nhàn, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, 2006. 3. Luật các công cụ chuyển nhượng 2005. 4. Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010. 5. Luật Ngân hàng Nhà nước năm /2010. 6. Báo cáo thường niên các năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010 của các ngân hàng Vietcombank, BIDV, Vietinbank, Agribank

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐề tài Thuyết trình- Thị trường Thương phiếu Việt Nam – Thực trạng và giải pháp.pdf
Luận văn liên quan