Tiền đề ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống tư tưởng quan điểm cơ bản phản ánh thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thuộc địa trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ nhân loại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong những di sản tư tưởng mà Người để lại, nhưng luận điểm của Người về Đảng Cộng sản Việt Nam, về xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền là một phần cực kỳ quan trọng. Việc tìm hiểu tiền đề ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ giúp chúng ta nắm rõ cơ sở tư tưởng-lý luận cũng như cơ sở thực tiễn dẫn đến sự thành lập Đảng. Điều đó chi phối rất lớn đến bản chất, nội dung, tính chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
6 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7609 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiền đề ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống tư tưởng quan điểm cơ bản phản ánh thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thuộc địa trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ nhân loại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong những di sản tư tưởng mà Người để lại, nhưng luận điểm của Người về Đảng Cộng sản Việt Nam, về xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền là một phần cực kỳ quan trọng. Việc tìm hiểu tiền đề ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ giúp chúng ta nắm rõ cơ sở tư tưởng-lý luận cũng như cơ sở thực tiễn dẫn đến sự thành lập Đảng. Điều đó chi phối rất lớn đến bản chất, nội dung, tính chất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
NỘI DUNG
Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương” (Đảng Cộng sản Việt Nam – Chương trình tóm tắt của Đảng) vào đầu năm 1930. Điều đó chứng tỏ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở của những tiền đề sau:
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Đây chính là cơ sở lý luận quan trọng nhất dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết, nguyên tắc, quy luật chung của lịch sử để đi lên chủ nghĩa xã hội, là học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam bắt nguồn từ học thuyết của C.Mác và trực tiếp từ học thuyết xây dựng Đảng kiểu mới của V.I.Lênin.
C.Mác và V.I.Lênin chủ yếu quan tâm đến vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa với nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động làm cách mạng nhằm lật đổ chế độ tư bản và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Căn cứ vào tình hình thực tế của các nước tư bản phương Tây và nước Nga, V.I.Lênin đã nêu ra luận điểm: Đảng Cộng sản phải là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân phương Tây. Chủ nghĩa Mác là học thuyết xã hội khoa học, mang lý tưởng về một xã hội nhân đạo thực sự. Còn giai cấp công nhân phương Tây là giai cấp tiên tiến, đông đảo về lực lượng, lại được rèn luyện, thử thách trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, có khả năng gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Sự kết hợp của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân phương Tây sẽ đưa cách mạng đến thắng lợi.
Nếu như cuộc cách mạng ở các nước tư bản phát triển có đặc điểm là cách mạng vô sản – cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm trực tiếp giải phóng giai cấp vô sản, từ đó giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động khác và giải phóng con người. Thì cách mạng ở các nước thuộc địa lạc hậu trước hết phải là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhằm mục đích trước hết là giải phóng dân tộc, từ đó đi đến giải phóng xã hội (tức là giải phóng giai cấp) và giải phóng con người. Như vậy Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa lạc hậu phải được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, phải được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Nhận thức rõ đặc điểm và tình hình thực tế của Việt Nam lúc bấy giờ (là một nước lạc hậu, phụ thuộc, tàn tích phong kiến còn nặng nề), Hồ Chí Minh luôn quan tâm tìm kiếm một lực lượng lãnh đạo mới cho cách mạng Việt Nam, tìm kiếm những cơ sở thực tế dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản. Theo đó, Đảng phải là một tổ chức chính trị tiên phong, vững mạnh, có khả năng đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn; có khả năng vận động, tập hợp, tổ chức quần chúng và gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản trên thế giới. Đồng thời, Đảng phải có nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, giải quyết triệt để hai mâu thuẫn cơ bản là đánh đuổi thực dân đế quốc và lật đổ phong kiến, tư sản đem lại ruộng đất cho dân cày. Đảng Cộng sản phải công khai lập trường, quan điểm của mình, phải có phương pháp biện chứng duy vật trong đấu tranh cách mạng và vận động quần chúng (phải mềm dẻo, linh hoạt, nhạy bén, nắm thời cơ và đưa quần chúng ra đấu tranh, tạo thành phong trào quần chúng rộng lớn). Đảng Cộng sản Việt Nam chính là đại diện tiêu biểu, một tổ chức có khả năng hoàn thành tất cả những nhiệm vụ đó, đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
2. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu sâu sắc tình hình thực tế của Việt Nam (một nước phong kiến nửa thuộc địa, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nông dân chiếm đa số), Người đã nhận ra được đặc điểm của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ:
Phong trào công nhân: Điểm mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam đó là giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, là giai cấp cách mạng và giữ vai trò lãnh đạo, có tổ chức kỷ luật và nhạy bén với cái mới, có truyền thống yêu nước, cần cù lao động, gắn bó mật thiết với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động. Tuy nhiên bên cạnh đó thì giai cấp công nhân Việt Nam mới hình thành từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, còn mỏng về số lượng, phong trào còn non yếu và chưa có kinh nghiệm.
Phong trào yêu nước: Điểm mạnh là đang diễn ra mạnh mẽ, lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân, chủ yếu là nông dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và phong kiến. Phong trào yêu nước đã phát triển theo hai khuynh hướng rõ rệt là khuynh hướng dân chủ tư sản và khuynh hướng vô sản. Tuy nhiên do thiếu một lực lượng có khả năng đề ra đường lối đấu tranh và lãnh đạo phong trào nên các phong trào yêu nước ở Việt Nam lúc bấy giờ đều đi đến thất bại.
Nhận thức được những đặc điểm đó, Hồ Chí Minh thấy rõ nếu kết hợp được phong trào yêu nước của đông đảo quần chúng nhân dân với phong trào công nhân thì sẽ tạo ra sức mạnh to lớn, đó là sự kết hợp tạo nên sức mạnh của trí tuệ và sức mạnh của lực lượng. Nếu phong trào công nhân không gắn bó chặt chẽ với phong trào yêu nước, không trở thành nòng cốt của phong trào yêu nước thì cách mạng cũng không đủ lực lượng để mở rộng cuộc đấu tranh và đưa nó đến thắng lợi. Ngược lại, nếu phong trào yêu nước không được dẫn dắt bởi giai cấp công nhân với đội tiên phong là Đảng Cộng sản thì cuộc đấu tranh của nó cũng không đi đến thắng lợi.
Như vậy Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng đảng kiểu mới với việc phân tích tình hình thực tế của cách mạng Việt Nam để hoàn thiện lý luận về xây dựng đảng của mình. Đó là sự sáng tạo, góp phần bổ sung và phát triển học thuyết Mác-Lênin về xây dựng đảng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới đã đã kiểm nghiệm và chứng minh quan điểm về việc gắn chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, giai cấp với dân tộc là hoàn toàn đúng đắn. Sự gắn bó ấy không chỉ đúng với cách mạng Việt Nam, với cách mạng của các nước thuộc địa, mà còn đúng với tất cả những nước đang đi vào con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3.Những hoạt động thực tiễn chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết tiến tới thành lập Đảng.
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh không những đã nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của một chính đảng cách mạng mà còn chuyển nhận thức đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với nhận thức đó, từ rất sớm, trong những hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc luôn quan tâm chú ý đến việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức để tiến tới thành lập một chính đảng cách mạng ở Việt Nam.
Trong thời gian hoạt động ở Pháp, Người đã liên kết với những người Việt Nam yêu nước ở Pháp và càng mở rộng sự liên kết ấy trong “Hội những người Việt Nam yêu nước”. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi tới hội nghị Vecxây “Bản yêu sách 8 điểm”. Cũng trong năm 1919, Người gia nhập Đảng xã hội Pháp. Đây là những bước đầu tiên để Nguyễn Ái Quốc đi vào một cuộc đấu tranh có ý thức, có tổ chức, một cuộc đấu tranh chính trị thực sự.
Tháng 7-1920, Hồ Chí Minh đọc tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin. Bản luận cương đã giải đáp tất cả những trăn trở trong suốt mười năm đi tìm đường cứu nước của Người. Cuối tháng 12-1920, Người tán thành Quốc tế III và là người dân thuộc địa duy nhất tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Đây là một cản bản của Nguyễn Ái Quốc để bước vào thời kỳ xác lập một đường lối cách mạng phù hợp với xu thế chung của thời đại, thời kỳ thức tỉnh dân tộc và đưa dân tộc đi theo con đường cách mạng đúng đắn, thời kỳ chuẩn bị tích cực cho việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc tiếp tục đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, chế độ Xôviết mới ra đời, Người mở rộng sự liên kết với những người Việt Nam yêu nước, với những người cách mạng ở các nước thuộc địa, đồng thời tham gia vào nhiều hoạt động của Quốc tế cộng sản. Hội liên hiệp thuộc địa được thành lập năm 1921, và Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông được thành lập năm 1925 là những tổ chức quốc tế đầu tiên của phong trào giải phóng dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc vừa là người khởi xướng, vừa là người tổ chức, lãnh đạo với vai trò chủ yếu nhất.
Như vậy từ một người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một người cộng sản, một chiến sĩ quốc tế của phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc. Người đã kết hợp chặt chẽ các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản không chỉ ở nhận thức lý luận mà còn trong hoạt động cách mạng thực tiễn rất phong phú.
Nguyễn Ái Quốc cũng đã xác định được đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối mà những người đi trước không giải quyết được. Năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho việc chuẩn bị về cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập Đảng sau này. Thông qua tổ chức tiền thân Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, có Cộng sản đoàn làm nòng cốt, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện đào tạo, bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên theo chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối cách mạng mới, bằng cách mở các lớp huấn luyện tại Quảng Châu từ năm 1925 đến năm 1927. Sau các khóa học phần lớn họ trở về nước để truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân, còn số ít được chọn vào Trường quân sự Hoàng Phố và Trường đại học Phương Đông học tập để sau đó trở về Việt Nam hoạt động trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân khác, làm cho phong trào chuyển dần từ tự phát sang tự giác. Đây chính là sự gặp gỡ tất yếu của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam với tư tưởng cách mạng tiên tiến nhất của thời đại.
Sự xuất hiện ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930 (Đông Dương cộng sản đảng – 6/1929 ở Bắc kỳ, An Nam cộng sản Đảng – 8/1929 ở Nam kỳ và Đông Dương cộng sản liên đoàn – 1/1930 ở Trung kỳ) là sản phẩm tất yếu của phong trào công nhân và phong trào yêu nước dâng cao, là sản phẩm tất yếu của sự chuyển biến ý thức hệ. Những người cách mạng Việt Nam trong nước đã nhận thấy rằng tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên không còn đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, cần phải có Đảng Cộng sản thay thế. Tuy nhiên trong một nước không thể cùng tồn tại ba tổ chức cộng sản có cùng mục tiêu, lý tưởng vì như vậy không thể thống nhất được đường lối và hoạt động, không thể thống nhất được sự lãnh đạo đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập đại biểu và chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930, đáp ứng đòi hỏi bức thiết mà cách mạng Việt Nam đang đặt ra, mở ra bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam.
Như vậy thông qua những hoạt động thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị những điều kiện cần thiết nhất vê mặt chính trị, tư tưởng cũng như tổ chức đễ dẫn tới sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
KẾT LUẬN
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước cũng như những hoạt động thực tiễn chuẩn bị những điều kiện cần thiết về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức của Hồ Chí Minh. Người đã dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng đảng để nghiên cứu tình hình thực tế ở Việt Nam, từ đó có sự khái quát về tư tưởng và lý luận. Đây chính là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Những tư tưởng, lý luận của Người đã được kiểm nghiệm thông qua những hoạt động thực tiễn và đã cho thấy tính đúng đắn của nó.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- (bài tập học kỳ TTHCM) Tiền đề ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.doc