MỤC LỤC Phần một LÝ THUYẾT MỸ HỌC TIẾP NHẬN
► VÀI NÉT VỀ LÝ THUYẾT MỸ HỌC TIẾP NHẬN / 1
► Lý luËn tiÕp nhËn v¨n häc ë ViÖt Nam / 5 Phần hai tiÕp nhËn th¬ §êng t¹i ViÖt Nam ► Qu¸ tr×nh tiÕp nhËn th¬ §êng t¹i ViÖt Nam / 7 ► §êng thi trong SGK Phæ th«ng ë ViÖt Nam / 11
► tiÕp nhËn Phong kiÒu d¹ b¹c t¹i ViÖt Nam / 26 ► TIẾP NHẬN HOÀNG HẠC LÂU Ở VIỆT NAM / 33
► TIẾP NHẬN TỲ BÀ HÀNH TẠI VIỆT NAM / 44
Tµi liÖu tham kh¶o / 63 Phần một LÝ THUYẾT MỸ HỌC TIẾP NHẬN
► VÀI NÉT VỀ LÝ THUYẾT MỸ HỌC TIẾP NHẬN
Mỹ học tiếp nhận là khuynh hướng trong phê bình nghiên cứu văn học, xuất phát từ ý tưởng cho rằng, TPVH chỉ ra đời trong quá trình gặp gỡ tiếp xúc giữa văn bản tác phẩm với độc giả.
· Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của mỹ học tiếp nhận là sự tiếp nhận, tức là sự cảm nhận tác phẩm văn học của độc giả.
Xét về nguồn gốc, mỹ học tiếp nhận là sự phản ứng đối với mỹ học nội quan, đối với tư tưởng về tính tự trị của nghệ thuật. “Mỹ học tiếp nhận đoạn tuyệt với những ý niệm về tính độc lập của nghệ thuật khỏi văn cảnh xã hội lịch sử, nó gia nhập lĩnh vực nghiên cứu độc giả và xã hội”. Do vậy, mỹ học tiếp nhận đặc biệt chú ý đến các hiện tượng của văn hóa đại chúng (văn chương giải trí, các loại ấn phẩm báo chí), nó có mối liên hệ với các nghiên cứu xã hội học, khoa học sư phạm, các bộ môn nghiên cứu văn học ứng dụng.
Ngọn nguồn của mỹ học tiếp nhận có giải thích học và hiện tượng học của Husserl, chủ nghĩa cấu trúc trường phái Prague, trường phái hình thức Nga những năm 20 thế kỷ XX, xã hội học văn học v.v.
Người tiên phong của mỹ học tiếp nhận là R. Ingarden. Ông đã tu chỉnh khái niệm cụ thể hóa và tái lập trong công trình Về việc nhận thức tác phẩm văn học nghệ thuật. Ingarden chịu ảnh hưởng mạnh mẽ hiện tượng học của Husserl, trước hết là ý tưởng về tính chủ định. Chính ý tưởng này đã trở thành luận chứng triết học cho bản chất giao tiếp của nghệ thuật, giải thích tính chất tích cực, sáng tạo của sự tiếp nhận ở độc giả.
Đầu những năm 40 thế kỷ XX, một đại diện của chủ nghĩa cấu trúc trường phái Prague là Felix Vodicka cho rằng, không phải tất cả những sự cụ thể hóa có thể có xét từ góc độ những ý đồ của cá nhân độc giả, đều có thể trở thành mục tiêu nghiên cứu, mà chỉ những sự cụ thể hóa nào cho thấy có diễn ra sự gặp gỡ cấu trúc tác phẩm và cấu trúc các chuẩn mực văn học do thời đại lịch sử cụ thể quy định, những chuẩn mực mà người tiếp nhận là đại diện.
Biểu hiện hoàn chỉnh nhất của các nguyên tắc mỹ học tiếp nhận, tính đến nay, là ở công trình của các nhà nghiên cứu thuộc trường phái Konstanz ra đời ở CHLB Đức những năm 60. Đại diện là H. R. Jauss, W. Iser, R. Warning, G. Grimm v.v. Mỹ học tiếp nhận của trường phái này đặt mục tiêu cách tân và mở rộng sự phân tích của nghiên cứu văn học bằng cách đưa vào lược đồ quá trình văn học sử một bậc độc lập mới, đó là độc giả. Luận đề trung tâm là: giá trị thẩm mỹ, tác động thẩm mỹ và tác động văn học sử của tác phẩm đều dựa trên cơ sở sự khác biệt giữa tầm chờ đợi (tầm đón đợi) của tác phẩm và
67 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5029 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiếp nhận thơ Đường tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Anh. Trong lời mở đầu, Trần Trọng San viết: “Phan Huy Vịnh với bản dịch Tỳ bà hành rất tài tình là người mở đầu dịch thơ Đường ở nước ta...” Nhận định này chưa chính xác. Trên tạp chí Hán Nôm số 1/1995, Nguyễn Quảng Tuân có khẳng định: những bài dịch thơ Đường đầu tiên đã xuất hiện từ thế kỷ XV, được ghi lại trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập.
. Sau phần phiên âm, soạn giả có giải nghĩa cho 11 từ (tr. 345).
Đến năm 2000, Đường thi ở Việt Nam xuất hiện thêm bản dịch Tỳ bà hành trong tuyển tập Đường thi cảm dịch của Đinh Vũ Ngọc. Và đến 2003, có thêm bản dịch của Trương Đình Tín trong Đường thi tuyển dịch. Tỳ bà hành trong quyển này ngoài nguyên văn chữ Hán Việt, phiên âm Hán Việt, bản dịch thơ, còn có lời tựa của tác giả. Trong số các tuyển tập thơ Đường chúng tôi đã thống kê, đây là quyển có phần chú thích nhiều nhất về Tỳ bà hành (được đánh số thứ tự tới 26).
Như vậy, từ 1940 đến nay, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị đã thu hút được sự chú ý của các dịch giả cũng như các soạn giả thơ Đường. Điều đó cũng có nghĩa rằng: Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị là một tác phẩm có sức sống mạnh mẽ ở Việt Nam.
2. Tỳ bà hành trong sách giáo khoa phổ thông tại Việt Nam:
Tỳ bà hành đã được lưu truyền rộng rãi ở Việt Nam và từ lâu đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường.
Đây là một bài thơ khá dài (88 câu), lại có nguyên văn là chữ Hán, phiên âm Hán - Việt. Thế nhưng khi đưa vào giảng dạy cho học sinh phổ thông, sách giáo khoa lại chú thích quá ít. Theo sách Văn 10 (NXB Giáo Dục, 1998) thì bài thơ này chỉ được thích nghĩa 6 từ và được giải nghĩa 5 câu. Nhưng việc chú thích đó lại dựa vào bản dịch chứ không phải dựa vào nguyên tác. Có lẽ vì vậy mà học sinh phổ thông tiếp nhận tác phẩm này chủ yếu chỉ thông qua bản dịch. Và bản dịch duy nhất đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường là bản dịch của Phan Huy Thực (thường ghi là Phan Huy Vịnh). Điều đó lý giải vì sao khi nhắc tới Tỳ bà hành, nhiều người thuộc bản dịch mà ít người nhớ được nguyên tác.
Có nhiều cách diễn giải, cắt nghĩa về Tỳ bà hành, các tác giả sách giáo khoa cho rằng Tỳ bà hành tuy có cốt truyện nhưng “chủ yếu vẫn là thơ trữ tình”, “Cốt truyện chỉ là phương tiện chủ yếu để nhà thơ biểu lộ cảm xúc” Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên), Nguyễn Hoàng Tuyên, Lưu Đức Trung, Nguyễn Khắc Phi, Lương Duy Thứ, La Khắc Hoà: Văn 10 - Phần văn học nước ngoài và lí luận văn học. NXB Giáo Dục, 1998 (Tái bản lần thứ 8), tr 49.
. Các tác giả này hướng dẫn học sinh tập trung vào đoạn miêu tả tiếng đàn lần thứ hai của người ca nữ. Hướng phân tích của họ là chỉ ra được những thành công của tác giả bài thơ trong việc miêu tả tiếng đàn. Theo đó, các yếu tố cần phân tích sẽ là: sự phân bố hợp lý mức độ miêu tả tiếng đàn trong mỗi lần, những phương pháp được dùng để miêu tả tài nghệ của người ca nữ, sự tập trung của tác giả vào miêu tả những thời điểm của quá trình diễn tấu... Trong sách này, hai câu 17 - 18 được coi là linh hồn của đoạn tả tiếng đàn:
Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tấm tức bấy lâu
Các tác giả sách cũng hướng học sinh liên tưởng tới đoạn tả tiếng đàn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Phục vụ cho chương trình phổ thông, có một số sách đã phân tích, bình giảng Tỳ bà hành theo sách giáo khoa, tiêu biểu là Thơ Đường bình giảng của Nguyễn Quốc Siêu và Bình giảng thơ Đường của Nguyễn Thị Bích Hải... Tuy nhiên, có ý kiến từng cho rằng việc phân bổ thời gian học tác phẩm Tỳ bà hành trong trường phổ thông là không hợp lý Ý kiến của Nguyễn Thị Bích Hải: “Tỳ bà hành là một kiệt tác, lại khá dài, e rằng với đối tượng là học sinh lớp 10 mà chỉ được giảng trong một tiết thì các em khó tiếp nhận được”. Văn học Châu Á trong trường phổ thông. NXB Giáo Dục 2002, tr. 83.
. Có lẽ vì vậy, đến nay Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã quyết định bỏ tác phẩm này trong chương trình học phổ thông.
Tỳ bà hành không được đưa vào sách giáo khoa phổ thông nữa không phải vì nó không đáng để dạy, để học mà vì học sinh không đủ thời gian và điều kiện để tiếp nhận nó. Nhưng ở một mức độ cao hơn, bài thơ này vẫn được giới thiệu với một sự ưu ái. Đó là các giáo trình về văn học Trung Quốc dành cho các trường đại học.
3. Tỳ bà hành trong các sách giáo trình biên soạn và dịch thuật về văn học Trung Quốc tại Việt Nam:
Cùng một tác phẩm văn học nhưng sự tiếp nhận - diễn dịch được thể hiện trong các sách giáo trình bao giờ cũng phong phú và phức tạp hơn trong sách giáo khoa ở phổ thông. Điều đó cũng là lẽ dĩ nhiên bởi vì: thường mỗi người viết sách đồng thời cũng là một nhà nghiên cứu - phê bình; mà cùng viết về một tác phẩm lại có nhiều giáo trình của nhiều tác giả khác nhau, không có sự thống nhất như trong sách giáo khoa ở trường phổ thông. Vấn đề này với Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị cũng không ngoại lệ.
Trong các giáo trình, có những người cũng như các tác giả sách giáo khoa phổ thông cho rằng, Tỳ bà hành là bài thơ nghiêng về chất trữ tình. Ở đây, chúng tôi xin dẫn ra cách lý giải của Phan Nghệ: “Năm Nguyên Hòa thứ mười, Bạch Cư Dị bị giáng trích xuống làm Tư Mã Giang Châu, trong lòng uất hận không thể nói ra được, mãi đến mùa thu năm sau nhà thơ tiễn bạn ở bến Bồn - phố, mượn cớ viết về người ca nữ để thổ lộ cái bất đắc chí của mình” Phan Nghệ (biên soạn): Văn học Trung Quốc, NXB Hà Nội, 1963, tr.150.
. Sự cắt nghĩa này đã dựa vào lời “tự” của tác phẩm, song lại cũng cho rằng việc viết người kỹ nữ chỉ là cái cớ để giãi bày nỗi u uất của một người bị biếm trích. Cơ sở của cách cắt nghĩa mục đích, nội dung của Tỳ bà hành theo hướng này là cho rằng: hình tượng chính, bao trùm trong tác phẩm là Giang Châu Tư Mã.
Ngược lại, một số người cho rằng Tỳ bà hành chủ yếu là bài thơ tự sự. Theo Lê Đức Niệm thì: “Tỳ bà hành mô tả số phận của một phụ nữ. Đây là một thiên tự sự. Tác giả trình bày một câu chuyện về cuộc đời một kỹ nữ lưu lạc giang hồ đêm khuya đưa khách trên bến Tầm Dương” Lê Đức Niệm: Diện mạo thơ Đường (In lần thứ 3), NXB Văn Hóa Thông Tin, H, 1998, tr.197.
.. Theo đây, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị được coi là câu chuyện được diễn tả lại bằng thơ và mục đích của thi nhân lúc này là ghi chép và truyền lại câu chuyện cuộc đời kỹ nữ. Nhưng dù khẳng định bài thơ là “thiên tự sự”, Lê Đức Niệm vẫn nói rõ: “ở đó có cả tâm trạng bi ai của nhà thơ” và “tác giả đã khéo kết hợp cảnh ngộ của mình với số phận của ca nữ, cho nên sự đồng tình với ca nữ càng sâu sắc”. Đồng thời, ông cũng tìm thấy trong tác phẩm những nét hiện thực sâu sắc về xã hội Trung Đường. Bên cạnh đó, ông cũng đánh giá cao về nghệ thuật của tác phẩm: “Tỳ bà hành đã đạt tới mức nghệ thuật tuyệt vời... Nhà thơ đã xoáy sâu vào nội tâm nhân vật, mô tả sự phát triển của nó theo một quy luật phát triển tự thân gắn với tính giai cấp”.
Trong các giáo trình biên soạn và dịch thuật về văn học Trung Quốc, một số người lại tiếp cận “Tỳ bà hành” theo hưóng khác: coi tác phẩm này như một chỉnh thể vừa là tự sự vừa là trữ tình. Cách hiểu này cũng đã tồn tại từ lâu trong giới nghiên cứu - phê bình ở Việt Nam. Như vậy là đã có sự tiếp nhận ý nghĩa kép của bài thơ. Nguyễn Khắc Phi nhận định: “Xưa nay, về phương diện tả cảnh tả tình, giữa tự sự và trữ tình, Tỳ bà hành đều được xem là mẫu mực.” Ông đã phân tích và chỉ ra: hình tượng trung tâm, nơi chứa đựng mọi sự giao thoa ở đây chính là tiếng đàn Nguyễn Khắc Phi: Văn học Trung Quốc, Tập I. NXB Giáo Dục, 1987, tr.235.
. Trong Giáo trình văn học Trung Quốc, Tập I, Nguyễn Khắc Phi cũng cho rằng: “ý nghĩa nội dung của Tỳ bà hành nằm ở những mối liên hệ toát ra từ hình tượng âm nhạc” trong đó. Ông lý giải: tiếng đàn là trục giao thoa của tất cả, nó gắn liền với tâm trạng của nhà thơ và kỹ nữ, “phút cuối, khó nói là kỹ nữ đàn để bộc lộ tâm sự của ai”. Ông kết luận: “Tâm sự, cuộc đời của nhà thơ cũng như của kỹ nữ đều có tính chất tố cáo tương đối của nó... dù xét từ phía kỹ nữ hoặc nhà thơ, đối tượng tố cáo cũng chỉ là một: một xã hội thối nát ghét tài, ghét đẹp, vùi dập công lý, chính nghĩa....” (Sđd, tr.328)
Ngoài ra, có những người đã xác định giá trị của tác phẩm trên cơ sở tổng hợp các cách tiếp cận tác phẩm từ giá trị hiện thực và giá trị nghệ thuật. Đại diện cho chiều hướng này, Lương Duy Thứ từng viết: “giá trị của Tỳ bà hành trước hết là ở chỗ nó phê phán xã hội bất công vùi dập tài năng... Giá trị của Tỳ bà hành còn ở chỗ đó là một áng thơ tuyệt tác. Tự sự kết hợp nhuần nhuyễn với trữ tình, tiếng đàn tâm tư nghệ sĩ đã phối hợp đến mức độ khó phát hiện” Lương Duy Thứ: Giáo trình văn học Trung Quốc. NXB Giáo Dục 2003, tr.111.
.
Chỉ với một số ví dụ trên, chúng ta cũng có thể biết được rằng: trong các sách giáo trình biên soạn và dịch thuật về văn học Trung Quốc, Tỳ bà hành đã được tiếp nhận - diễn dịch theo nhiều hướng khác nhau. Chúng tôi đã trình bày về tác phẩm này trong các sách giáo khoa và giáo trình để làm rõ được vấn đề tiếp nhận Tỳ bà hành trong học đường. Nhưng thực chất, đó chính là những khía cạnh của nghiên cứu - phê bình văn học nói chung.
4. Tỳ bà hành trong sách báo tạp chí khoa học tại Việt Nam:
Vấn đề này đã được mở rộng từ những năm 40 của thế kỷ XX, đặc biệt là từ sau 1945- khi nền văn học Việt Nam thoát khỏi sự kiểm soát gắt gao của thực dân Pháp. Văn học Việt Nam có những điều kiện mới để phát triển, lý luận văn học từng bước được củng cố và nâng cao. Do đó, vấn đề diễn dịch tác phẩm Tỳ bà hành cũng được chú trọng.
Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị trên sách báo, tạp chí khoa học đã được tiếp nhận từ nhiều khía cạnh khác nhau. Ở đây, chúng tôi sẽ trình bày theo từng khía cạnh một để làm rõ những vấn đề tiếp nhận trong mối quan hệ so sánh.
Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, tuy là một tác phẩm lớn nhưng sự tranh luận về nghĩa của câu chữ thì không phải là nhiều. Có sách chú thích theo bản dịch, có sách chú thích theo nguyên văn nhưng lượng từ được chú thích không nhiều. Theo như chúng tôi tìm hiểu được thì trong nguồn tài liệu về Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị hiện còn lưu giữ, bài hát Tỳ bà của Thê Húc (sđd) là quyển chú thích trọn vẹn nhất cho tác phẩm cả nguyên tác và bản dịch. Nhìn chung các từ ngữ, ý thơ đều được hiểu tương tự nhau, chỉ số ít từ ngữ là không được thống nhất trong cách diễn giải.
Khúc bãi tằng giáo thiện tài phục
Trang thành mỗi bị thu nương đố
Ở đây, có những cách giải thích khác nhau về các từ “thiện tài” và “thu nương”. Một số người (Thê Húc, Nguyễn Danh Đạt...) đều cho rằng đó là những danh từ chung mang tính chất tượng trưng: “thiện tài” chỉ những người dạy nhạc, “thu nương” chỉ những người con gái đẹp. Trái lại, Trương Chính và một số người khác lại cho rằng: “thiện tài” là những người làm ra khúc nhạc, “thu nương” là tên một nàng ca nữ nổi tiếng ở Trường An lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, có những người lại hiểu: Thu Nương ở đây là chỉ một nữ sĩ nỗi tiếng đời Đường. Như vậy, quanh những từ này đã có nhiều cách cắt nghĩa khác nhau, tựu trung lại có thể chia làm hai nhóm: một bên là cách diễn giải nó như những danh từ trừu tượng chung chung, bên kia lại hiểu nó như những danh từ cụ thể chỉ vào một con người cụ thể.
Hoặc trong câu thơ tiếp theo: “Ngũ lăng niên thiếu tranh triền đầu”. Về hai chữ “triền đầu” (纏頭) cũng đã tồn tại những cách giải thích không giống nhau: Người coi nó là một động từ, người lại coi nó như một danh từ. Thê Húc từng đặt dấu hỏi với cách thích nghĩa của Trần Trọng Kim cho “triền đầu” là “khăn đỏ”. Và theo cách hiệu đính của Thê Húc thì “triền đầu” có nghĩa là “(lấy gấm) quấn lên đầu”. Cũng coi nó như một động từ. Nguyễn Danh Đạt lại chú thích “triền đầu” là tặng tiền tài, vật phẩm cho các cô ca sĩ Nguyễn Danh Đạt: Bình và chú giải 100 bài thơ Đường hay nhất. NXB Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr. 329.
. Qua những ví dụ trên, chúng ta thấy rằng: việc chú thích cho các từ ngữ trong Tỳ bà hành dù không gây ra những cuộc tranh cãi lớn nhưng cũng là một công việc khá phức tạp. Công việc này không chỉ cần thiết với những người soạn sách, mà hiểu và giải thích được các từ ngữ trong tác phẩm còn là yêu cầu quan trọng đối với người tiếp nhận, là điều kiện cần cho công tác dịch văn học nước ngoài nói chung, dịch thơ Đường nói riêng.
Cuộc tranh luận về Tỳ bà hành chủ yếu tập trung vào mục đích tư tưởng của tác phẩm. Lời “Tự” của Bạch Cư Dị đã nói đến hoàn cảnh và nguyên nhân ra đời của tác phẩm, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có sự thống nhất trong cách cắt nghĩa về mục đích và nội dung tư tưởng của tác phẩm. Về hình ảnh người kỹ nữ trong bài, cũng có người cho đó là chuyện có thực, cũng có người cho đó chỉ là cái cớ tác giả tạo ra để tiện giãi bày tâm trạng.
Trong Việt Nam văn học sử trích yếu, Nghiêm Toản viết : “Tỳ bà hành là bài thơ tả cảnh huống một người kỹ nữ, nổi danh tài sắc; riêng ngón đàn Tỳ thực là tuyệt diệu nhưng sau một thời gian lừng lẫy trong làng son phấn, nàng lấy và đi theo một người lái buôn. Khách mải kinh doanh để nàng trơ trọi một mình, trong đêm khuya nương bóng bên ngọn đèn xanh, nàng gửi lòng mình vào tiếng đàn Tỳ, vừa hay Bạch Lạc Thiên tiễn bạn đi qua, nghe tiếng đàn ghé lại hỏi chuyện nàng. “Nhân một lứa bên trời lận đận”, nhà thi sĩ không khỏi ngậm ngùi mới làm ra bài thơ này truyền thế” Nghiêm Toản: Việt Nam văn học sử trích yếu (quyển II). Nhà sách Vĩnh Bảo - Sài Gòn, 1949, tr.16.
. Theo cách hiểu này thì cuộc gặp gỡ giữa nhà thơ và kỹ nữ trên bến Tầm Dương là có thật, bài thơ được viết ra bởi tấm lòng xót xa đồng cảm với người kỹ nữ. Như vậy, Nghiêm Toản đã tiếp nhận Tỳ bà hành là một tác phẩm nghiêng về yếu tố tự sự. Cách tiếp nhận này về sau đã được một số tác giả sách giáo trình đồng tình, trong đó có Lê Đức Niệm.
Đối lập với ý kiến trên, có người lại cho rằng Tỳ bà hành là bài thơ nghiêng về chất trữ tình thể hiện tâm trạng riêng của Bạch Cư Dị. Phạm Văn Diêu trong Việt Nam văn học giảng bình (1953) cho rằng: “cảm thông cho thân phận của người kỹ nữ, lại nghĩ rằng đời bạc mệnh của nàng có giống thân thế mình, thi sĩ ngậm ngùi phiên tác Tỳ bà hành đưa tặng người ca kỹ nhưng thực ra là cốt chỉ để bộc lộ nỗi niềm tâm sự riêng tây” Dẫn theo Vũ Tiến Quỳnh: Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình - bình luận của các nhà văn và các nhà nghiên cứu Việt Nam. NXB Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr.79.
.
Nói vậy, người ca kỹ và cuộc gặp gỡ trên bến Tầm Dương có thể đã có thật nhưng mục đích của Bạch Cư Dị khi viết tác phẩm này là để ký thác tâm sự của mình, còn việc tặng thơ cho người ca kỹ chỉ là cái cớ. Theo cách hiểu này thì tất cả tâm sự của người kỹ nữ trong bài chính là tâm sự của nhà thơ. Trong sách này, Phạm Văn Diêu đã phân tích Tỳ bà hành khá chi tiết. Ông diễn giải tác phẩm này theo các luận điểm chính, đó là: 1- cảm giác cô đơn lạnh lẽo (cô đơn trong khung cảnh; cô đơn của người đánh đàn; cô đơn của người nghe đàn); 2- cảm giác buồn nhớ mênh mông (buồn vì cảnh vật; buồn vì tiếng đàn; buồn vì câu chuyện của người kỹ nữ; buồn vì cảnh ngộ của tác giả); 3- tâm sự của tác giả hòa hợp với tâm sự của người đánh đàn; 4- Văn chương (kết cấu và lời thơ).
Cùng cách hiểu với Phạm Văn Diêu, sau này Nguyễn Thạch Giang xếp Tỳ bà hành vào Những khúc ngâm chọn lọc cùng với Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc... Ở đây Tỳ bà hành được xem là “một bài thơ nổi tiếng lấy chuyện người đánh đàn Tỳ-bà để tự ví mình” và ở đó, nhà thơ Bạch Cư Dị “khóc cho người mà cũng khóc cho chính mình” Nguyễn Thạch Giang (biên khảo và chú giải): Những khúc ngâm chọn lọc. Tập II. NXB Giáo Dục, 1994, tr.48.
.
Nhưng cùng thời với Phạm Văn Diêu, có người đã tiếp nhận Tỳ bà hành theo hướng phủ định tất cả nội dung tư tưởng của nó. Điều đáng nói là ý tưởng này lại nằm trong cuốn sách hướng dẫn ôn thi Trung học - Luận đề về Phan Huy Vịnh (bản dịch Tỳ bà hành) và Từ Diễn Đồng (Những bài thơ Nôm). Trong sách này, Sao Mai cho rằng: “Áng thơ chỉ là một hoạt động nghệ thuật thuần nhất, không cần chú trọng đến nhân sinh. Trong một phút xúc động mạnh mẽ, tác giả viết nó ra để tình cảm của mình bớt đau khổ. Bạch Cư Dị làm bài Tỳ bà hành chỉ vì chất nghệ sĩ, vì niềm tâm sự của riêng mình” Sao Mai: Luận đề thơ Phan Huy Vịnh và Từ Diễn Đồng . NXB Thăng Long, 1993.
. Như vậy, nói theo quan điểm đương thời ở Việt Nam thì Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị chỉ thuần tuý là một tác phẩm “nghệ thuật vị nghệ thuật” chứ hoàn toàn không có “nghệ thuật vị nhân sinh”. Tuy nhiên, cách hiểu này dường như bị cô lập, đến nay không còn thấy xuất hiện trên các tạp chí, sách báo khoa học nữa.
Nhiều nhà nghiên cứu - phê bình tiếp cận Tỳ bà hành theo hướng khác: coi tác phẩm này như một chỉnh thể vừa là tự sự vừa là trữ tình - vừa nói về kỹ nữ vừa nói về nhà thơ. Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, trên cơ sở phân tích mối quan hệ tương đồng giữa hoàn cảnh của Bạch Cư Dị và người kỹ nữ đã viết: “... cái bài tràng thiên những sáu trăm hai mươi hai chữ Sáu trăm hai mươi hai chữ là kể cả 3 chữ tên bài thơ và 3 chữ tên tác giả.
của ông Lạc Thiên này vừa nói chính ông lại vừa nói cả kỹ nữ, ngụ biết bao nhiêu ý tứ não nùng, diễn ra bao câu văn thú vị” Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc: Toàn tập, tập II, NXB Văn Học, 2004, tr.899.
. Còn Nguyễn Quốc Siêu khi giải đề cho Tỳ bà hành đã đồng thời nhấn mạnh cả chất tự sự và chất trữ tình. Ông không phản đối ý kiến cho là bài thơ có tâm trạng của Bạch Cư Dị, song cũng chú ý đến tính chất “điển hình” của người ca nữ. Theo ông, “bài thơ miêu tả tài nghệ điêu luyện của ngón đàn nọ cùng lời than vãn về cuộc đời đã khái quát được số phận rất hay bị chà đạp của người kỹ nữ trong xã hội cũ..... Nhà thơ đã cất tiếng bày tỏ nổi bất bình cho người ca nữ và cho cả mình” Nguyễn Quốc Siêu: Bình giảng (sđd), tr.55.
. Câu chuyện về ca nữ trên bến Tầm Dương là thực hay không hiện đang còn được tranh luận. Nhưng không ít người cho rằng điều đó có thể là thực cũng có thể là do chủ ý của nhà thơ tạo ra.
Bên cạnh những cách hiểu trên, Phương Lựu phân tích, đánh giá giá trị của Tỳ bà hành qua hai phương diện cụ thể Phương Lựu: Lý luận phê bình văn học. NXB Đà Nẵng, 2004, tr.685-689.
. Phương diện thứ nhất, đó là “tiếng kêu than của một người phụ nữ bị giày vò trong xã hội cũ”. Ông diễn giải: từ những tập thơ đầu của Trung Quốc đã có tiếng than của người phụ nữ. Nhưng đến những cung nữ của Bạch Cư Dị thì lại là cả một cuộc đời bi thảm, suốt đời phải cấm cung như trong Thượng Dương bạch phát nhân, phải sự tử như sự sinh như trong Lăng Viên thiếp và bao nhiêu nỗi khổ đau ấy, Bạch Cư Dị đem tập trung lại xây dựng nên một nhân vật tiêu biểu làm cho nó sống mãi với thời gian và vượt ra ngoài biên giới, đó là hình tượng kỹ nữ trên bến Tầm Dương trong Tỳ bà hành. Phương diện thứ hai thể hiện giá trị của tác phẩm này được Phương Lựu xác định là “lời tố cáo của một kẻ tài hoa bị chà đạp”. Như vậy theo cách cắt nghĩa, giải thích của Phương Lựu thì giá trị nội dung - tư tưỏng của Tỳ bà hành chủ yếu là tập trung vào lời tố cáo.
Đồng thời với cuộc tranh luận về mục đích và nội dung tư tưởng của Tỳ bà hành, giới nghiên cứu - phê bình qua sách báo tạp chí chuyên ngành cũng quan tâm đến nghệ thuật của tác phẩm đó. Phạm Văn Diêu phân tích nghệ thuật trong Tỳ bà hành qua kết cấu - nghệ thuật miêu tả tiếng đàn, kể chuyện của tác phẩm và qua lời thơ của nó. Theo ông, “Tỳ bà hành là một khối sầu hận không cùng trên mấy đường tơ”. Bạch Cư Dị tả người kỹ nữ đánh đàn ba lần nhưng lần đầu được tả nhiều hơn và “tuyệt diệu hơn vì đó là tất cả cuộc đời kỹ nữ trên mấy ngón đàn”.
Phạm Văn Diêu chỉ ra những sự biến đổi của tiếng đàn theo thời gian: “đi từ hình tượng âm thanh, sang hình ảnh sự vật tượng trưng, đến những cảm giác trừu tượng một cách uyển chuyển rõ ràng”. Tiếng đàn được đón nhận với tất cả sự biến hóa linh hoạt đa dạng của nó. Lời bình về nghệ thuật về miêu tả tiếng đàn của Bạch Cư Dị được Phạm Văn Diêu khái quát lại: “rất mực già dặn, tuyệt vời, cả bài thơ kết thành một khối nhất trí ngân nga, các câu theo nhau trôi chảy, không chữ nào ép, không vần nào cưỡng, gợi cho người đọc cái ấn tượng một nỗi buồn lặng, rung động còn mãi” Dẫn theo Hồ Sĩ Hiệp (biên soạn): Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành. NXB Đồng Nai, 2003, tr.197-199.
. Bên cạnh đó, ông cũng nhấn mạnh đến văn từ của tác phẩm: “Tỳ bà hành được sáng tác theo thể thất ngôn trường thiên cổ phong. Người phê bình ở đây đã nhận thấy ở văn từ của nó bao hàm một sắc thái đặc biệt”, đó là “tính cách cổ kính và hàm súc”, “cổ kính đường hoàng và rất quí phái trong nhạc thơ (...) và trong cả lối dùng lại các cái đầu đề xưa cũ nữa. Lại thêm tính hàm súc của lối phô diễn ý thơ, lối chuyển mạch kín đáo (Phạm Văn Diêu). Cũng theo lời bình này thì chính cái sắc thái đặc biệt của văn từ ấy đã tạo nên cho Tỳ bà hành giá trị hấp dẫn về nội dung, truyền tải được tâm ý của tác giả và gây được “một âm hưởng nhẹ nhàng, mênh mông trong cảm quan của người thưởng thức”.
Trên cơ sở phân tích nội dung, nghệ thuật Tỳ bà hành, và liên hệ với thực tế, Phạm Văn Diêu đã xác định sức sống tiềm tàng của tác phẩm này trong nền văn học Việt Nam: “Cuộc gặp gỡ bến Tầm Dương trăng nước này, từ lâu đã thu hút tâm hồn bao nhiêu kẻ tài tử thi nhân. Nguyễn Công Trứ “vịnh tỳ bà” chiếc thuyền luống đi về trong bóng nguyệt, Chu Mạnh Trinh nói chuyện Thúy Kiều mà: giọt lệ Tầm Dương chan chứa, Xuân Diệu tả buồn: Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người, tất cả đều sống trong cái ám ảnh thanh cao tế nhị và kỳ diệu của áng thơ Tỳ bà hành vậy”.
Cũng nói về nghệ thuật tả tiếng đàn, Nguyễn Quốc Siêu chú ý thêm vào tài nghệ của Bạch Cư Dị khi sử dụng “một loạt những ví dụ so sánh có thanh có sắc”. Theo ông thì việc vận dụng kết nối tâm hồn người đọc với thế giới bên trong tác phẩm. Rộng hơn, nghệ thuật của Tỳ bà hành được đánh giá là sự tổng hợp của nhiều yếu tố: “Bài thơ tình tiết rành rẽ, tầng thứ phân minh, vận luật hài hòa, giọng thơ buồn thảm sâu lắng như than, sức cảm hóa nghệ thuật vô cùng lớn” Nguyễn Quốc Siêu: Thơ Đường bình giảng (sđd), tr.55.
. Như vậy, cái hay của bài thơ không chỉ là ở tiếng đàn mà còn nằm trong cách sử dụng thần tình vần, luật của câu thơ, trong cách lựa chọn và sắp xếp các tình tiết, lựa chọn giọng điệu... Nguyễn Quốc Siêu cũng bình thêm: “Cái hay cái đẹp của bài thơ còn ở chỗ nhà thơ đã khéo léo miêu tả âm thanh, lấy thính giác để chuyển hóa thị giác, xúc giác”.
Giáo sư Phương Lựu coi diễn biến mạch thơ Tỳ bà hành chính là kết cấu của bản nhạc. Ông liên hệ đến đặc điểm nghệ thuật của thơ Đường và chỉ ra rằng: cũng như Trường hận ca, Tỳ bà hành đã thể hiện được những đặc điểm chủ yếu của thơ ca cổ Trung Quốc. Phương Lựu nhận xét: “Đặc sắc nhất trong nghệ thuật Tỳ bà hành là tiếng đàn” Nguyễn Quốc Siêu: Thơ Đường bình giảng (sđd), tr.55.
. Tiếng đàn được cảm nhận trong âm điệu “trầm bổng, khoan nhặt, biến đổi không ngừng như trong một bản nhạc hoàn chỉnh Phương Lựu: Lý luận văn học cổ điển phương Đông. Tập I, NXB Giáo Dục, 2005, tr.82.
. Ông coi “nó là linh hồn của bản trường ca, cũng là kết tinh cao nhất của tài hoa Bạch Cư Dị, đến các bậc thi thánh, thi tiên cũng không hề có được, nó trở thành một cái gì đặc biệt phương Đông về mặt nghệ thuật...”
Lê Đức Niệm - người đã coi Tỳ bà hành là “một thiên tự sự” cũng đánh giá: “Tỳ bà hành đạt tới mức nghệ thuật tuyệt vời... Nhà thơ đã xoáy sâu vào nội tâm nhân vật, mô tả sự phát triển của nó theo một quy luật phát triển tự thân gắn với tính giai cấp” Lê Đức Trung (chủ biên), Trần Lê Bảo, Lê Huy Bắc: Chân dung các nhà văn thế giới. NXB Giáo Dục- H, 2002, tr.150.
.
Tựu trung lại, ta có thể thấy, khi nói về nghệ thuật của Tỳ bà hành, yếu tố được các nhà nghiên cứu phê bình tập trung nhiều nhất là nghệ thuật miêu tả tiếng đàn, miêu tả tâm trạng. Đây chính là một điểm tương đồng trong cách tiếp nhận bài thơ của Tư Mã Giang Châu.
Trong quá trình tiếp nhận tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, các sách báo, tạp chí khoa học cũng không quên việc giới thiệu và bình phẩm các bản dịch ở Việt Nam. Năm 1975, Tạp chí Văn học đăng bài viết của Trần Thị Băng Thanh giới thiệu một bản dịch Tỳ bà hành mới được phát hiện Trần Thị Băng Thanh: Một bản dịch Tỳ bà hành mới tìm được. Tạp chí Văn học số 4/ 1975, tr.105-108.
. Tác giả viết: “Bản dịch Tỳ bà hành tương truyền của Phan Huy Vịnh lâu nay vẫn được dư luận coi là một tác phẩm hoàn mỹ và gần như độc nhất, đến nỗi không ai muốn nghĩ đến một bản dịch nào khác, mặc dù cũng có thể trước Phan Huy Vịnh đã có một vài người dịch. Gần đây, nhân đọc sách, tình cờ chúng tôi thấy một bản Tỳ bà hành “quốc âm” khác, chép trong thi tập của Phạm Nguyễn Du. Bản dịch này thiếu bốn câu và mất vài chữ”. Trong bài viết, tác giả đã phân tích một số cứ liệu và chỉ ra rằng: bản dịch này dù được chép trong thi tập của Phạm Nguyễn Du nhưng có thể nó không phải là của ông. Bản dịch được đánh giá là “thua kém” bản dịch hiện hành nhưng “cũng là bản dịch khá sát nguyên tác”. Đặc biệt, Trần Thị Băng Thanh cho rằng, có thể nó đã ra đời trước bản dịch của Phan Huy Thực và có thể khi dịch Tỳ bà hành, Phan Huy Thực “đã biết hoặc tham khảo bản dịch này chút ít”. Bản dịch “quốc âm” “mới được phát hiện”, do đó mà được xem là bản dịch đã “tỏ rõ phần nào ưu điểm”, nhất là sự gợi ý của nó cho bản dịch của Phan Huy Thực.
Cũng trên Tạp chí Văn học, số 1/1983, Đỗ Văn Hỷ đã giới thiệu hai bản dịch của Phan Văn Ái Đỗ văn Hỷ: Phan Văn Ái với hai bản dịch Tỳ bà hành . Tạp chí Văn học số 1/1983.
. Bản thứ nhất (Tỳ bà hành diễn âm) giữ nguyên thể thơ của nguyên tác, được đánh giá là “câu nệ về hình thức”, “cứng nhắc nên không hay”. Bản thứ hai (Hựu diễn khúc ca) dịch theo thể song thất lục bát, được đánh giá là “hay hơn” và “có những chỗ trội hơn hẳn” bản dịch của Phan Huy Thực.
Tới nay, Tỳ bà hành đã có nhiều bản dịch Phan Huy Thực. Có những người theo quan niệm “dịch là diệt”, dù thừa nhận bản dịch của Phan Huy Thực là hay nhưng vẫn cho rằng: so với nguyên tác, nó đã “làm cái việc phủ lên bức tranh đẹp một tấm màn mỏng, làm mờ đi những đường nét tinh tế” Nguyễn Quốc Siêu: Thơ Đường bình giảng, (sđd) , tr.65.
. Hoặc như Nguyễn Thạch Giang khi biên soạn quyển Những khúc ngâm chọn lọc có viết: “Đã là bản dịch thì không thể nào hay hơn nguyên tác. Nghĩa là bản dịch của Phan Huy Vịnh không thể nào hay hơn nguyên tác của Bạch Cư Dị, cảm giác hay hơn đó là do ta vốn có duyên thầm với quốc âm”... Song ngược lại, không ít ý kiến cho rằng: bản dịch của Phan Huy Thực là hay hơn nguyên tác. Trong Bài hát Tỳ-bà, Thê Húc đã nhận định: “về lời thơ, ý vị ở chỗ so sánh bản dịch với nguyên tác, chứng tỏ tinh thần và năng lực đặc biệt Việt ngữ”. Nghiêm Toản cũng từng khen: “Bài thơ chữ Hán đã hay thế mà bản dịch không những lột hết được tinh thần của nguyên văn, thường có khi lại đặt được câu trội hơn cả câu thơ Đường, toàn thể lời văn bóng bẩy du dương và giữ được nguyên vẹn tình cảm của người làm” Nghiêm Toản: Việt Nam văn học sử trích yếu (sđd) , tr. 26.
... Hầu hết ý kiến của những người viết sách khi nói đến thành công trong bản dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực đều tập trung vào các yếu tố sau đây:
1- Bản dịch sử dụng thể thơ song thất lục bát - một thể thơ truyền thống của dân tộc có khả năng biểu cảm mạnh mẽ. 2- Bản dịch giữ nguyên được số câu và số chữ trong nguyên tác (88 câu với 616 chữ). 3- Bản dịch đã khéo sử dụng những tiếng đôi, những từ lấp láy trong tiếng Việt để vừa “dịch thoát được những ngôn ngữ rườm rà trong nguyên tác vừa “có sức khêu gợi hơn”, ví dụ như: lau lách , đìu hiu, mênh mông.... 4- Bản dịch thể hiện được tinh thần của nguyên tác, “đặt câu dùng chữ thật hết sức chọn lọc, không phụ tình ý của nguyên tác chút nào, và cũng không non kém chút nào” Hà Như Chi: Việt Nam thi văn giảng luận (từ khởi thủy đến cuối thế kỷ XIX). NXB Văn Hóa Thông Tin, H, 2000, tr.662
...
Về bản dịch của Phan Huy Thực, Tạp chí Văn học Nước ngoài đã có hẳn những bài viết mang tính chất trao đổi, tranh luận. Trên số 3/1997, Phạm Hồ với bài viết: Một số ý kiến về một bản dịch, đã cho rằng: bản dịch của Phan Huy Thực “bên cạnh nhiều câu, nhiều đoạn rất hay cũng còn những câu dịch chưa sát, chưa đúng nguyên văn, nguyên ý”. Ông đưa ra một số ví dụ ở câu 4, câu 5, câu 6, câu 11, câu 38... để chứng minh. Nhưng ý kiến này của ông Phạm Hồ ngay sau đó đã bị ông Nguyễn Hùng Vĩ phản đối trên bài Đôi ý về Tỳ bà hành (góp ý với ông Phạm Hồ), tạp chí Văn học Nước ngoài, số 5/1997. Ông Nguyễn Hùng Vĩ nêu ra quan điểm của mình: “Phạm Hồ đưa ra 11 chỗ sai mà ông cho rằng Phan Huy Vịnh (Phan Huy Thực?) dịch chưa sát hoặc chưa đúng nguyên văn, nguyên ý, theo tôi, đa số trong đó, Phan Huy Vịnh dịch đúng và hay hơn, còn ông Phạm Hồ đọc mất ý nghĩa của người xưa. Ông Nguyễn Hùng Vĩ chứng minh lập luận này bằng cách cắt nghĩa những chữ, những câu mà Phạm Hồ đã cho là “chưa đúng, chưa sát” Tạp chí văn học nước ngoài, số 5/1997, tr.233.
.
Dù còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng bản dịch của Phan Huy Thực vẫn được thừa nhận là bản dịch hay nhất và được lưu truyền rộng nhất.
Bên cạnh các tạp chí sách báo khoa học đã xuất bản, hiện nay một số trang Web cũng quan tâm đến việc giới thiệu và diễn dịch tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Trên trang Web của Viện Nghiên cứu Hán Nôm www.hannom.vn
, Hải Đà - Vương Ngọc Long đã sưu tầm và biên soạn bài viết: Tiếng đàn trên sông (Tỳ bà hành - Bạch Cư Dị). Trong bài viết này, tác giả đánh giá: “Đó là một bài thơ mang khía cạnh nhân sinh, xã hội hiện thực đã được truyền tụng trong nhân gian gắn với tên tuổi của nhà thơ...” Theo hướng phân tích ở đây, tác phẩm của Tư Mã Giang Châu không chỉ nói về người kỹ nữ, cũng không nói riêng về tâm trạng nhà thơ mà trong đó còn hàm ẩn một ý nghĩa sâu xa, một thông điệp thầm kín: “câu chuyện trong bài thơ Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị đã thầm nói lên một triết lý nhân sinh, cái chua xót ngậm ngùi của cảnh đời dâu bể ba chìm bảy nổi, cảnh đoạn trường hưng phế của tạo hóa mà con người chỉ là một sinh vật nhỏ nhoi, bất lực trước cuộc đời hư ảo như bóng câu bên cửa sổ, như thoáng mây bay cuối trời”. Trong lịch sử tiếp nhận, đã có người cho rằng trong hai bài trường thiên của Bạch Cư Dị thì “Bài Trường hận ca hay hơn Tỳ bà hành” Nguyễn Hiến Lê: Đại cương văn học sử Trung Quốc. NXB Trẻ, 1997.
. Nhưng cho đến nay, đa số các nhà nghiên cứu phê bình đều thừa nhận ở Việt Nam, Tỳ bà hành có ảnh hưởng sâu sắc hơn so với Trường hận ca. Nguyễn Khắc Phi viết: “So với Trường hận ca, ý nghĩa hiện thực, tinh thần phê phán nhân đạo cũng như giá trị nghệ thuật của Tỳ bà hành đều cao hơn” Nguyễn Khắc Phi: Văn học Trung Quốc, tập I . NXB Giáo Dục H, 1987, tr.235.
.
Nhu cầu của thơ Đường là “dĩ tâm truyền tâm”, là truyền “tâm ấn” (in dấu trái tim mình vào trái tim độc giả tri âm) Nguyễn Thị Bích Hải: Thi pháp thơ Đường. NXB Giáo Dục, H, 2003, tr.18.
. Nhưng thơ Đường uyên thâm trí tuệ không phải ai cũng đọc được và không phải ai đọc được cũng đều hiểu giống nhau. Cũng như nhiều tác phẩm khác, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị đã được nhìn nhận, đánh giá theo những cách khác nhau. Đó cũng là một điều tất yếu bởi lẽ tác phẩm văn học không phải là một sản phẩm bất biến và đơn nghĩa, người đọc lại là “kẻ đồng sáng tác ra tác phẩm không chỉ với tư cách làm sống dậy tác phẩm trong cảm thụ (...) mà còn phát hiện ý nghĩa mới và mối quan hệ chỉnh thể tương ứng với nó”. Vì thế, mọi cách đọc đều là những cách mở ra các cánh cửa chìm của tác phẩm” Trần Đình Sử: Văn học và thời gian. NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2002, tr.107.
.
IV. TIẾP NHẬN TỲ BÀ HÀNH TRONG CÁC THỂ LOẠI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT TẠI VIỆT NAM
1. Tiếp nhận Tỳ bà hành trong thể hát nói:
Một số bài hát nói còn lưu lại được tự bản thân nó đã chứng minh có sự tiếp thu ảnh hưởng từ “Tỳ bà hành” của Bạch Cư Dị. Phan Huy Ích đã mượn ý “thiên nhai luân lạc”, “nguyệt dạ”, “khúc Tỳ-bà” khi viết “Độ Tầm Dương vang giọng Tỳ bà hành” (sđd). Còn Nguyễn Công Trứ nổi tiếng với bài Vịnh Tỳ bà hay Nghe tiếng Tỳ bà:
Cũng người giác hải thiên nha
Cùng nhau gặp gỡ lọ là quen nhau
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Bóng trăng thu thấp thoáng trên thuyền
Tiếng Tỳ bà ai khéo gẩy cho nên
Xui lòng khách thiên nha luống những
Ai oán nhẽ bốn dây văng vẳng
Nỗi bất bình như khấp như tố như oán như than
Nực cười thay cái phận hồng nhan
Nào những khách Ngũ Lăng đâu vắng tá ?
“Yên thủy mang mang thiên ngũ dạ
Tỳ bà khúc khúc nguyệt tam canh
Bến Tầm Dương cảnh ấy xiết bao tình
Chiếc thuyền luống đi về trong bóng nguyệt
Người viễn thú biết chăng chẳng biết
Khúc đàn này biết gãy cùng ai
Giang đầu hạnh hữu khách lai.
Bài ca vẻn vẹn 17 câu nhưng theo như nhận xét của Nguyễn Văn Duyệt thì: “Bài này đã tổng quát cả bài Tỳ bà hành Bạch Cư Dị đời Đường” Phan văn Duyệt: Hát ả đào. Hà nội 1923
. Nguyễn Công Trứ đã mượn ý của Tỳ bà hành mà diễn ra, mượn những hình ảnh, điển tích trong bài thơ ấy mà biểu đạt. Có những câu sáng tạo trên cơ sở tiếp nhận, chẳng Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt - Hốt văn thủy thượng Tỳ bà thanh mà thành Yên thủy mang mang giang tẩm nguyệt - Tỳ bà khúc khúc nguyệt tam canh. Đặc biệt có câu dẫn nguyên lời của Bạch Cư Dị như Tầm Dương giang đầu dạ tống khách. Cứ theo bài này thì Nguyễn Công Trứ đã tiếp nhận nội dung tư tưởng trong Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Ông đã lấy lòng mình mà thể hiện tâm trạng của nhà thơ Trung Hoa, tri kỷ cùng tiếng đàn “ai oán”, văng vẳng “nỗi bất bình như khấp như tố như khóc như than”. Song, cách cắt nghĩa Tỳ bà hành ở đây mới chỉ dừng lại ở chỗ xót thương cho thân phận người kỹ nữ và cho rằng gặp được Tư Mã Giang Châu đến nghe đàn là cái may của người kỹ nữ ấy trong lúc cô đơn.
Sau bài Nghe tiếng Tỳ bà của Nguyễn Công Trứ, chúng ta lại có thêm bài hát nói của Ngô Thế Vinh (tức cụ Nghè Vinh dưới triều Minh Mệnh) cũng liên quan đến Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Đó là bài Tài sắc mà chi:
Não nùng một khúc tỳ bà
Giang - Châu Tư - Mã mới là tri âm
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Người đâu đâu gặp gỡ cũng nực cười!
Giữa dòng sông nước chảy giăng soi
Dặt díu cả sắc tài vào một cuộc
Giai nhân tâm sự qui cầm trục
Tài - tử tao phong nhập tửu bôi
Nghe tiếng đàn, đà rát ruột đòi thôi
Nghĩ mình đó thương vay cho kẻ khác
Hồng nhan tự cổ đa luân lạc
Thái bút như kim bán lục trầm
Người trăm năm gặp ngoảnh lại cõi trăm năm
Tài với sắc tính ra là ngộ cả.
Quá ngạn nhẽ người ngồi thiên - tải hạ
Cũng với lên chung một gánh sầu
Lệ tình há một Giang Châu?
Thật chẳng khó khăn gì để chúng ta nhận ra đây chính là những dòng tri âm trước kiệt tác của nhà thơ họ Bạch. Ngay từ đầu, bài ca này đã nói rõ điểm xuất phát của nó là mối quan hệ giữa “Giang Châu Tư Mã” và “Khúc Tỳ bà”. Cụ Nghè Vinh đã thể hiện được những cảm xúc của mình với người xưa. Tác giả bài hát nói, cũng như Nguyễn Công Trứ, đã rất tâm đắc mà trích dẫn nguyên câu đầu của Tỳ bà hành: “Tầm Dương giang đầu dạ tống khách”. Đây chính là sự tiếp nhận có chủ ý. Người viết xác định mình viết về “Khúc Tỳ bà”, về “Giang Châu Tư Mã” và cũng xác định không gian, thời gian gắn với các đối tượng ấy: Đêm khuya tiễn khách ở đầu sông Tầm Dương. Ngô Thế Vinh đã bày tỏ quan điểm của mình: cuộc gặp gỡ giữa hai con người ở nơi “nước chảy giăng soi” kia là một gặp gỡ giữa “tài và sắc” và trong cuộc gặp gỡ ấy, tiếng “Tỳ bà não nùng đã khiến cho Tư Mã Giang Châu phải nghĩ về số phận của mình đồng thời xót thương cho người kỹ nữ. Ngô Thế Vinh đã khái quát được tâm trạng của tác giả Tỳ bà hành, hơn thế ông lại thể hiện một sự tri âm sâu sắc. Ông đem cái nhìn của “Người trăm năm ngoảnh lại cõi trăm năm” để cắt nghĩa: “Tài” như Giang Châu Tư Mã, “sắc” như người nữ Tỳ bà xưa kia chỉ là cái lầm lạc thất thế ở giữa cõi đời. Ông cảm thông, thương xót và sẻ chia cùng những con người ấy: “Cũng với lên chung một gánh sầu”. Như vậy, “bài hát nói Tài sắc mà chi đã có sự tiếp nhận sâu sắc Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị”. Nó được sáng tác trên những cảm hứng về Tỳ bà hành, sử dụng những tích của bài “hành” để truyền đạt như: “khúc Tỳ bà”, “Giang Châu Tư Mã”, “sông Tầm Dương”, “nước chảy giăng soi”..., lại lấy nội dung, tư tưởng của bài “hành” ấy để tạo nên cái tứ của mình...
Ngoài ra, trong làng hát nói Việt Nam vẫn còn một số bài nói về Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, trong số đó có Tỳ bà nữ (khuyết danh). Bài này chủ yếu nói về cuộc đời của người ca nữ, chính là sự phỏng theo những lời kể của người đánh đàn trong Tỳ bà hành.
Nhưng ca trù Việt Nam tiếp thu Tỳ bà hành không chỉ từ phía nguyên tác mà còn từ phía bản dịch của Phan Huy Thực. Cả cụ Bùi Kỷ trong Quốc văn cụ thể (1932) và Thê Húc trong Bài hát Tỳ bà đều nói rõ: đây là bài hát ả đào mà các đào nương bấy giờ vẫn hát; trước khi hát bài này, họ thường mào đầu bằng bài dịch thơ Thu hứng của Đỗ Phủ để gây không khí. Trong bài Tỳ bà hành và bản dịch của Phan Huy Thực, thế Anh cũng viết: dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực thì nó đã lan nhanh và trở thành một điệu hát đầy chất thơ, nhạc điệu và chất trữ tình bổ sung thêm cho hàng chục điệu ca trù khác trong ca quán thời xưa” Trịnh Ân Ba, Trịnh Thu Lôi: Văn học Trung Quốc - Tủ Sách Văn hoá Nghệ thuật Trung Quốc. NXB thế giới, H. 2002.
. Những ý kiến nhận định, đánh giá tương tự như thế còn được thể hiện trong bài viết của nhiều học giả khác.
2. Tiếp nhận Tỳ bà hành trong Thơ mới:
Nhiều sáng tác Thơ mới của ta thể hiện rõ những ảnh hưởng của Tỳ bà hành. Không phải đến thời điểm này kiệt tác của Bạch Cư Dị mới được thơ Việt Nam tiếp nhận. Từ hơn 200 năm trước, Nguyễn Du khi viết Long Thành cầm giả ca đã sử dụng những từ “triền đầu”, “Ngũ Lăng” v.v... trong Tỳ bà hành. Quan trọng hơn, cách cấu tứ hình tượng cũng dễ gây liên tưởng đến Tỳ bà hành Phương Lựu: Vài suy nghĩ nhận đi tìm ảnh hưởng của Tỳ bà hành và Trường hận ca trong văn học nước ngoài. Tạp chí văn học số 7/1996, tr.13.
. Nhưng phải đến Thơ mới, ảnh hưởng của tác phẩm này mới trở nên rộng khắp, dường như là một phong trào. Giáo sư Phương Lựu trong bài viết Vài suy nghĩ nhân đi tìm ảnh hưởng của Trường hận ca và Tỳ bà hành trong thơ ca nước nhà có phân tích vấn đề này.
Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có những biến động lớn. Hoàn cảnh ấy đã sinh ra cả một thế hệ những con người thấy mình “đầu thai nhầm thế kỷ”. Họ bất mãn với thực tại, muốn ẩn mình vào thế giới của cõi tiên, cõi mộng. Và đúng như Phạm Văn Diêu đã viết trong Việt Nam văn học giảng bình: “Họ tìm thấy ở Tỳ bà hành một nhu cầu thoả mãn tâm hồn nghệ sĩ phóng khoáng của thi nhân vốn có khuynh hướng thoát ly thực tại để trở về với một thế giới kỳ ảo xa xưa”. Các nhà Thơ mới (Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương...) đã trực tiếp hoặc gián tiếp mượn những từ ngữ, điển tích trong Tỳ bà hành để diễn tả ý thơ của mình. Xuân Diệu viết:
Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi
rồi: Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người...
(Nguyệt cầm - Thơ thơ)
Những “thu lạnh”, “đàn ghê như nước”, “Tầm Dương”...khiến người đọc liên tưởng đến những “thu sắt sắt”, những “thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng nguyệt”, những “Tầm Dương”... ở Tỳ bà hành. Do vậy, âm hưởng của Nguyệt cầm càng vang vọng trong sự ảm đạm Xuân Diệu mà còn vang trong cả cảm nhận của chúng ta. Cũng gợi nhớ về Tỳ bà hành, bài thơ Nghe hát của Vũ Hoàng Chương có câu:
Canh khuya đưa khách... Lời reo ngọc
Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm
Trong câu này, thi sĩ Việt Nam đã mượn ý thơ của Bạch Cư Dị “Canh khuya đưa khách” (dạ tống khách). Lời thơ nhẹ nhàng chậm rãi nhưng cũng reo vang như khúc ca vậy. Khát vọng tìm về quá khứ với những gì phong lưu, tao nhã đã tạo nên cái giấc mơ về hình ảnh người con gái ở bến Tầm Dương. Tầm Dương đã thực là chữ dùng của Bạch Cư Dị rồi. Còn hình ảnh người con gái kia, phải chăng cũng liên quan đến người nữ Tỳ bà trong Tỳ bà hành? Nếu như vậy thì nhà thơ của chúng ta đã tiếp nhận cả lời thơ, ý thơ và hình ảnh trong tác phẩm của thi sĩ Trung Hoa.
Lại có những bài thơ tuy không trực tiếp sử dụng những hình ảnh, từ ngữ của người đi trước nhưng vẫn in dấu của một sự tiếp nhận văn học. Bên sông đưa khách của Thế Lữ là một ví dụ như thế. Bản dịch thơ Tỳ bà hành của Phan Huy Thực có câu:
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
Lời thơ trong sáng, giọng điệu tha thiết nhịp nhàng, Hoàng Thanh từng nhận xét: “Thế Lữ có lẽ đã nhớ đến hai câu ấy khi viết”:
Tiếng diều sáo nao nao trong vắt
Trời quang mây xanh ngắt màu lơ Hoài Thanh - Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam. NXB Văn học. H, 1998 tr. 107.
.
Thanh điệu trong hai câu của Phan Huy Thực là:
Bằng - trắc - trắc/ - bằng/ - trắc - trắc.
Trắc - bằng/ - bằng - trắc/ - bằng - bằng.
Còn hai câu của Thế Lữ là:
Trắc - bằng - trắc/ - bằng - bằng - trắc - trắc.
Bằng - bằng / - bằng - trắc/bằng - bằng.
Hai câu thơ của Bạch Cư Dị gieo vần “ắt” (ngắt - vắt) thì hai câu thơ của Thế Lữ cũng là vần “ắt” (đảo lại: “vắt - ngắt”). Cả hai câu thơ lại cùng miêu tả một không gian trong sáng, tĩnh lặng. Chính vì vậy, đọc hai câu thơ ấy của Thế Lữ, người ta dễ dàng nghĩ ngay đến hai câu thơ dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực.
Từ tác phẩm đến tác phẩm, đó cũng là một biểu hiện của tiếp nhận văn chương. Thơ Đường ở Việt Nam đã có những bài thu hút được sự “đồng sáng tạo” của nhiều thi sĩ. Đó là trường hợp của Hoàng Hạc lâu. Thôi Hạo sáng tác ra Hoàng Hạc lâu lưu danh thiên cổ. Tuyệt tác đã từng khiến cho thi tiên Lý Bạch phải gác bút mà than rằng: “Tấm lòng của ta, Thôi Hạo đã nói hết rồi, làm thơ sao nổi nữa” Ngô Văn Phú (biên soạn và tuyển chọn): Thơ Đường ở Việt Nam. NXB Hội Nhà Văn Việt Nam. 1996, tr. 220.
, đã trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho các nhà thơ Việt Nam. Nguyễn Du viết Hoàng Hạc lâu tỏ rõ tấm lòng tri kỷ cùng Thôi Hạo. Tản Đà dịch Hoàng Hạc lâu vì ái mộ một áng thơ tuyệt cú của đời Đường. Đến Vũ Hoàng Chương - một tâm hồn lãng tử của “thơ say” lại tiếp tục viết thêm một Hoàng Hạc lâu như một lời nhắn nhủ cho cổ nhân và cho thời đại.
Đã bao giờ có hạc vàng đâu
Mà có người tiên để có lầu
Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở
Lầm Thôi Hạo trước, Nguyễn Du sau
v.v...
Rõ ràng, tiếp nhận trong sáng tác văn học cũng là một hiện tượng đáng được chú ý. Ở đó, chính nghệ thuật đã đẻ ra nghệ thuật và những tác phẩm nghệ thuật ấy đã kết nối các thời đại, các thế hệ nghệ sĩ với nhau. Vấn đề đề tiếp nhận Tỳ bà hành cũng không ngoại lệ. Bạch Cư Dị có hai tác phẩm lớn, ngoài Tỳ bà hành còn có Trường hận ca. Cả hai bài thơ trường thiên này đều có giá trị lớn và ảnh hưởng sâu sắc đến thơ ca Trung Quốc. “Thế nhưng sang Việt Nam thì ảnh hưởng của Tỳ bà hành sâu sắc hơn, còn Trường hận ca thì mờ nhạt lắm” Phương Lựu: Vài suy nghĩ nhân đi tìm ảnh hưởng của Trường hận ca và Tỳ bà hành trong thơ ca nước nhà (Sđd ), tr.12.
. Tỳ bà hành đã đi vào các sáng tác của văn học Việt Nam. Cuộc gặp gỡ nơi trăng nước bến Tầm Dương trong tác phẩm này đã trở thành một chủ đề quen thuộc” cuốn hút tâm hồn bao nhiều kẻ tài tử giai nhân.
---------------------------------------------------------
Tµi liÖu tham kh¶o
Lê Huy Tiêu, Lương Duy Thứ, Nguyễn Trung Hiền, Lê Đức Niệm, Trần Thanh Liêm dịch; Nguyễn Khắc Phi, Lương Duy Thứ, Lê Huy Tiêu hiệu đính tái bản lần thứ nhất: Lịch sử văn học Trung Quốc, Tập một [2 tập], Nxb Giáo dục, H.1997. [Nguyên bản tiếng Trung: Dư Quan Anh, Tiền Chung Thư, Phạm Ninh chủ biên: Trung Quốc văn học sử, Nhân dân Văn học Xuất bản xã, Bắc Kinh, 1988.]
Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch: Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2003, đọc trang 91-145: Mỹ học tiếp nhận.
Nguyễn Văn Dân: Lý luận văn học so sánh, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2000.
Đào Duy Hiệp: Phê bình văn học phương Tây ở Việt Nam - Tiếp nhận và ứng dụng, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5/2006.
Trịnh Bá Đĩnh: Ba kiểu nhà phê bình hiện đại (Về phê bình văn học Việt Nam: phân tích cấu trúc - loại hình), in trong cuốn Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, H.2002.
Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức: Thơ ca Việt Nam (Hình thức và thể loại), Nxb KHXH, H.1971.
Bùi Duy Tân: Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam thời Trung đại: Tiếp nhận - cách tân - sáng tạo, Tạp chí Văn học, số 1/1992.
Nguyễn Khắc Phi: Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc qua cái nhìn so sánh, Nxb Giáo dục, H.2001.
Nguyễn Khắc Phi: Thơ văn cổ Trung Hoa - Mảnh đất quen mà lạ, Nxb Giáo dục, H.1999.
Lương Duy Thứ: Thơ Trung Quốc - Quá trình tiếp nhận và thi pháp, Tạp chí Văn học, số 6/1996.
Nguyễn Văn Hiệu: Quan hệ và tiếp nhận văn học Trung Quốc ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, Tạp chí Hán Nôm, số 4/2000.
Trần Nho Thìn: Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, H.2003.
Trần Ngọc Vương: Văn học Việt Nam - dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb ĐHQG Hà Nội, 1999.
Nguyễn Thị Bích Hải: Bình giảng thơ Đường (theo SGK ngữ văn mới), tái bản lần thứ 2, Nxb Giáo dục, H.2005.
Nguyễn Thị Bích Hải: Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa, 2006.
Nguyễn Xuân Diện - Trần Văn Toàn: Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của thơ Đường đối với Thơ Mới, Tạp chí Hán Nôm, số 3/1998.
Phạm Ánh Sao: Từ “tùng cúc do tồn” trong thơ Đào Uyên Minh đến “hoa năm ngoái” trong thơ Thu vịnh (Nguyễn Khuyến), Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 1/2004, tr. 115-122.
Phạm Ánh Sao: Bài thơ Cẩm sắt của Lý Thương Ẩn và tiếng đàn ở cuối Truyện Kiều của Nguyễn Du, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7/2007, tr. 99-110.
Phạm Ánh Sao: Thơ đăng lãm của Nguyễn Du - cuộc hoàn nguyên và đối thoại siêu việt thời gian (qua một số tác phẩm trong Bắc hành tạp lục và Đường thi), bài viết tham dự Hội thảo “Nguyễn Du - danh nhân văn hóa Việt Nam” do Viện Văn hóa Nghệ thuật tổ chức năm 2005, đã in T/c Nghiên cứu Trung Quốc, số 6/2007, tr 65-75.
Nguyễn Xuân Diện: Khảo sát và giới thiệu các bản dịch Nôm thơ Đường trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tạp chí Hán Nôm, số 6/2006.
Nguyễn Quảng Tuân: Những bài dịch Đường thi đầu tiên trong văn học Việt Nam, Tạp chí Hán Nôm, số 1/1995.
Trần Xuân Ngọc Lan: Sách Đường thi tuyệt cú diễn ca, Tạp chí Hán Nôm, số 3/2004.
Nguyễn Tuyết Hạnh: Vấn đề dịch thơ Đường ở Việt Nam, Nxb Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 1996.
Dương Thùy Trang: Nghiên cứu việc dịch thuật Đường thi ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay (qua hệ thống thư mục), Niên luận sinh viên chuyên ngành Hán Nôm khóa 47. Tư liệu Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội, 2004.
Trịnh Minh Xuân: Tìm hiểu việc nghiên cứu Đường thi qua hệ thống thư mục, Niên luận sinh viên chuyên ngành Hán Nôm khóa 47. Tư liệu Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội, 2004.
Hoàng Tịnh Thủy: Khảo sát tư liệu dịch thơ Đường trong di sản Hán Nôm Việt Nam, Niên luận sinh viên chuyên ngành Hán Nôm khóa 49. Tư liệu Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội, 2007.
Vũ Quốc Anh: Văn học nước ngoài trong chương trình môn Văn trường trung học phổ thông, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 1/1996.
Mạnh Thị Minh: Đường thi trong SGK phổ thông ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân, lớp Sư phạm ngữ văn khóa 48. Tư liệu Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội, 2007.
Lưu Đức Trung chủ biên: Hợp tuyển văn học châu Á, Tập 1, Văn học Trung Quốc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.1999.
Trương Chính, Phan Nghệ biên soạn: Văn học Trung Quốc - Tư liệu tham khảo, tập 2 (Từ văn học Ngụy Tấn đến văn học Tống), Nxb Giáo dục, H.1963.
Trần Thanh Đạm: Chùa Hàn San với bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, Tạp chí Vạn Hạnh, số 12/1966.
Mai Quốc Liên: Về bài thơ Phong Kiều dạ bạc, Báo Văn nghệ, số 10/1993.
Hoài Anh: Nên hiểu về bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế như thế nào, Báo Văn nghệ, số 13/1995.
Trần Đắc Thọ: Tư liệu mới về một bài thơ Đường nổi tiếng, Tạp chí Hán Nôm, số 3/1997.
Nguyễn Quảng Tuân: Đến Hàn San tự để tìm hiểu bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, Tạp chí Hán Nôm, số 1/2002.
Nguyễn Cảnh Phức: Một cách tiếp cận bài thơ Phong Kiều dạ bạc, Tạp chí Hán Nôm, số 5/2004.
Nguyễn Tất Phan: Nói thêm về bài thơ Phong Kiều dạ bạc, Báo Văn nghệ, số 29/2004.
Kiều Thu Hoạch: Lại bàn về bài thơ gây xôn xao dư luận ngàn đời, Tạp chí Hán Nôm, số 4/2005.
Phan Ngọc Anh - Ngô Quyền: Phong Kiều dạ bạc - Bút pháp tài hoa của Trương Kế, Báo Giáo dục và thời đại, số 78/2005.
Nguyễn Thu Hương: Tiếp nhận và diễn dịch Phong Kiều dạ bạc tại Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân, lớp Sư phạm ngữ văn khóa 47. Tư liệu Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội, 2006.
Phan Văn Các: Bài thơ Đường Hoàng Hạc lâu và những bản dịch tiếng Việt, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 1/1996.
Mạc Đình Tư: Tỳ bà hành - Bạch Cư Dị, Nxb IMPR, 1927.
Thê Húc biên soạn: Bài hát Tỳ bà, Nxb Nam Việt, 151 Đại lộ La somme Saigon, 1952.
Sao Mai: Luận về Phan Huy Vịnh (Bản dịch Tỳ bà hành) và Từ Diễn Đồng (Những bài thơ Nôm), Nxb Thăng Long, 1953.
Trần Thị Băng Thanh: Một bản dịch Tỳ bà hành mới tìm được, Tạp chí Văn học, số 4/1975.
Đỗ Văn Hỷ: Phan Văn Ái với hai bản dịch Tỳ bà hành, Tạp chí Văn học, số 1/1983.
Thế Anh: Ai là người dịch bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, Tạp chí Hán Nôm, số 3/1994.
Thế Anh: Lại thêm một bản dịch Trường hận ca, Tạp chí Hán Nôm, số 2/1995.
Phương Lựu: Góp vào bài giảng Tỳ bà hành, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 5/1996.
Phương Lựu: Vài suy nghĩ nhân đi tìm ảnh hưởng của Trường hận ca và Tỳ bà hành trong thơ ca nước nhà, Tạp chí Văn học, số 7/1996.
Phạm Hồ: Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và các bản dịch, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 3/1997.
Nguyễn Hùng Vĩ: Đôi ý về Tỳ bà hành (góp ý với ông Phạm Hồ), Tạp chí Văn học Nước ngoài, số 5/1997.
Hồ Sĩ Hiệp biên soạn: Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 2003.
Nguyễn Xuân Diện: Thêm một văn bản phóng tác Truyện Tỳ bà vừa phát hiện, Tạp chí Hán Nôm, số 4/2003.
Nguyễn Thị Hường: Vấn đề tiếp nhận Tỳ bà hành tại Việt Nam, Niên luận sinh viên chuyên ngành Văn học khóa 49. Tư liệu Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội, 2007.
Tản Đà dịch: Thơ Đường, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, Nxb Văn học, H.2003.
Trần Trọng Kim tuyển dịch: Đường thi, Nxb Văn hóa Thông tin, H.1995.
Nam Trân tuyển dịch: Thơ Đường (Hai tập), Nxb Văn học, H.1962.
Nhiều người dịch: Thơ Đỗ Phủ, Nxb Văn học, H.1962.
Nhượng Tống dịch: Thơ Đỗ Phủ, Nxb Văn hóa - Thông tin, H. 1996.
Khương Hữu Dụng dịch: Thơ Đường, Nxb Đà Nẵng, 1996.
Phan Ngọc: Đỗ Phủ - nhà thơ dân đen, Nxb Đà Nẵng, 1990.
Phan Ngọc: Đỗ Phủ - nhà thơ Thánh với hơn một nghìn bài thơ, Nxb Văn hóa Thông tin - Trung Tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2001.
Ngô Văn Phú: Thơ Đường ở Việt Nam, Nxb Hội Nhà Văn, H.1996.
Ngô Văn Phú: Thiên gia thi toàn tập, Nxb Hội Nhà Văn, H.1998.
Ngô Văn Phú dịch: Đường thi tam bách thủ, Nxb Hội Nhà Văn, H. 2007. Nguyên bản tiếng Trung: Hành Đường Thoái Sĩ (đời Thanh) biên tuyển: Đường thi tam bách thủ, Hoằng Trưng dịch tích (dịch ra tiếng Hán hiện đại và phân tích), Ly Giang Xuất bản xã, xuất bản lần thứ 2 năm 1995, in lần thứ 5 năm 1999.
Ngô Văn Phú: Thơ Bạch Cư Dị, Nxb Hội Nhà Văn, H. 2006.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiếp nhận thơ Đường tại Việt Nam.doc