Ngoài ra, cần hoàn thiện các quy định về lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư 
nhằm nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngo ài, ưu tiên thực hiện các dự án công 
nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên ; 
Hoàn thiện các quy định về phân cấp Giấy chứng nhận đầu tư; Các quy định về thủ
tục thực hiện dự án đầu tư, đặc biệt là các quy định về thủ tục góp vốn, mua cổ phần 
của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam, thủ tục chuyển nhượng dự
án đầu tư. Một số nội dung liên quan đến quy trình, thủ tục đầu tư theo quy định của 
Luật Đầu tư gồm Thủ tục đầu tư dự án mới; hủ tục đầu tư gắn với thành lập doanh 
nghiệp; T hủ tục điều chỉnh dự án đầu tư ; Thủ tục tạm ngừng, giãn tiến độ; Thủ tục góp 
vốn, mua cổ phần; Thủ tục áp dụng ưu đãi đầu tư; Thủ tục thanh lý, chấm dứt dự án 
đầu tư
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 41 trang
41 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2803 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ảnh hưởng của luật đầu tư 2005 đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài ở các khu công ng hiệp, khu chế xuất tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 
đảm bảo đủ thẩm quy ền và nguồn lực để quản lý các KCN, KKT theo hướng một cửa, 
một đầu mối và tương xứng với vai trò vị trí ngày càng quan trọng của các KCN, KKT 
trong quá trình CNH, HĐH đất nước. 
 2.3. Ảnh hưởng của luật đầu tư năm 2005 đối với đầu tư trong nước và đầu tư 
nước ngoài ở các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam. 
 2.3.1. Thu hút đầu tư tại khu công nghiệ p, khu chế xuất. 
 Đối với Việt Nam, để tăng trưởng và phát triển nền kinh t ế đòi hỏi một khối 
lượng vốn đầu tư rất lớn.Vốn trong nước chưa đủ để đáp ứng nhu cầu đó. Do đó thu 
hút vốn đầu tư trực t iếp nước ngoài vào KCN, KCX là rất quan trọng vì KCN, KCX 
phản ánh tiềm năng phát triển công nghiệp của mỗi nước. Theo ngân hàng thế 
giới(WB), các dự án thực hiện trong KCN, KCX do các nhà đầu tư nước ngoài hoặc 
do liên doanh với nước ngoài thực hiện (24% do liên doanh với nước ngoài, 33 do các 
nhà đầu tư nước ngoài, 43% do đầu tư trong nước). Do vậy KCN, KCX đã góp phần 
đáng kể trong việc thu hút đầu tư trực t iếp nước ngoài cho nước chủ nhà. 
 Năm 2012, các KCN cả nước đã thu hút được 366 dự án FDI với tổng vốn đầu 
tư đăng ký đạt 4.017 triệu U SD và điều chỉnh tăng vốn cho 329 lượt dự án với tổng 
vốn đầu tư tăng thêm 2.840 triệu USD. Tính chung, tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào 
KCN năm 2012 đạt 6.860 triệu USD, tăng 6% so với năm 2011, chiếm 53% tổng vốn 
FDI cả nước, trong đó có một số dự án lớn đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong 
năm 2012, như: Dự án đầu tư giai đoạn 2 của Samsung tại KCN Yên Phong, tỉnh Bắc 
Ninh với tổng vốn tăng t hêm 830 triệu USD; Dự án tăng vốn mở rộng sản xuất thêm 
870 triệu USD của Công ty TNHH Wintex Việt Nam tại KCN Quang Châu, tỉnh Bắc 
Giang; Dự án của Công ty TNHH sản xuất Toàn cầu LIXIL Việt Nam tại KCN Long 
Đức, tỉnh Đồng Nai với tổng vốn đầu tư 441 triệu U SD; Dự án nhà máy sản xuất sợi 
tại KCN Hải Yên, TP Móng Cái, Quảng Ninh của nhà đầu tư Hồng Kông với tổng vốn 
đầu tư 300 triệu U SD; dự án Công ty TNHH Thép KYOEI Việt Nam của nhà đầu tư 
Nhật Bản tại KCN Khánh Phú, tỉnh Ninh Bình với tổng vốn đầu tư 184,4 triệu USD. 
Lũy kế đến cuối năm 2012, các KCN trong cả nước đã thu hút được 4.519 dự án FDI 
với t ổng vốn đầu tư đăng ký 60.300 triệu USD, tổng vốn đầu tư đã thực hiện đạt 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 21 - 
32.400 triệu USD, bằng 54% tổng vốn đầu tư đăng ký. Hiện nay đã có hơn 3.200 dự án 
đang sản xuất kinh doanh, 450 dự án đang trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản. 
 Tính đến thời điểm hiện tại, Bình Dương là đã có 28 khu công nghiệp được 
thành lập, trong đó 26 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động với tổng diện t ích là 
8.400ha - là địa phương t hu hút nhiều vốn FDI nhất với 2.53 tỉ USD vốn đăng ký mới 
và t ăng thêm chiếm 19,5% vốn đầu tư.Nhờ có hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ nên 
thương hiệu “KCN Bình Dương” có sức hấp dẫn mạnh đối với các nhà đầu tư. . 
 + Các dự án FDI đầu tư vào các KCN của tỉnh Bình Dương có vốn đầu tư tương 
đối khá, với mức bình quân 7,5 triệu USD/dự án. Hiện đã có 33 quốc gia và vùng lãnh 
thổ trên thế giới có dự án đầu tư tại các KCN tỉnh Bình Dương. Các quốc gia và vùng 
lãnh thổ có dự án lớn là: Đài Loan, Singap ore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ… Những dự 
án này có xu hướng thiên về công nghệ cao, sản xuất những sản phẩm có giá trị gia 
tăng lớn, sức cạnh tranh mạnh.Số lượng DN đầu tư vào các KCN ở tỉnh Bình Dương 
không ngừng tăng lên trong những năm qua, bình quân mỗi năm có khoảng 60-70 DN 
mới. Cũng nhờ đó, tốc độ tăng doanh thu trung bình hàng năm đạt từ 15-20%. Giai 
đoạn 2006-2010, các KCN đã tạo ra doanh thu 25,6 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu 
đạt 12,4 tỷ USD, nộp ngân sách 650 triệu USD, đóng góp khoảng 50-60% GDP của 
tỉnh. Năm 2011, doanh thu của các DN trong các KCN tỉnh Bình Dương đạt 7,225 tỷ 
USD, trong đó xuất khẩu đạt 3,1 tỷ USD, chiếm 30% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. 
Các KCN đã giải quyết việc làm cho 308 ngàn lao ðộng 
 + Những khu công nghiệp có tỉ lệ lắp đầy 80-100% là Sóng Thần 1, Sóng Thần 
2, Đồng An, Tân Đông Hiệp A, Việt Hương,VSIP1, VSIP2, Mỹ Phước 2, Bình An, 
Bình Đường, M ỹ Phước,Nam Tân Uyên, Tân Đông Hiệp B. 
 + Không ngừng ở đó mà các nhà lãnh đạo dự kiến các khu công nghiệp tỉnh 
Bình Dương sẽ thu hút khoảng 3-4 t ỉ USD vốn FDI, giai đoạn 2016-2020 là 4-5 tỉ 
USD. 
 Theo sau khu công nghiệp Bình Dương là khu công nghiệp Hải Phòng với tổng 
vốn đăng ký cấp mới là tăng thêm 1,16 tỉ USD chiếm 9%. Số vốn FDI thu hút vào các 
khu công nghiệp chiếm gần 98% tổng vốn FDI toàn thành phố Hải Phòng (926,3 triệu 
USD). 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 22 - 
 + Tính đến cuối tháng 4/2012, các khu côn nghiệp trên địa bàn thành phố Hải 
Phòng thu hút gần 908 triệu USD vốn FDI, bao gồm 5 dự án mới được cấp giấy chứng 
nhận đầu tư với số vốn đăng ký là 863,2 triệu USD và 4 dự án t ăng vốn thêm 44,7 triệu 
USD. So với năm 2011 kết quả vốn FDI tăng gấp 20 lần do các nhà đầu tư Nhật Bản 
cam kết đầu tư số vốn lớn vào địa phương mà lớn nhất là dự án sản xuất lốp xe ô-tô 
của t ập đoàn Bridgestone với 575 triệu USD vào khu công nghiệp Đình Vũ. 
 + Gần đây nhất là tập đoàn Nipro Pharma Corporation ( Nhật Bản) đã nhận giấy 
chứng nhận đầu tư triển khai dự án xây nhà máy chuyên sản xuất dược phẩm và thiết 
bị y tế tại khu công nghiệp tại huyện Thủy Nguyên. Với tổng số vốn đầu tư là 250 triệu 
USD, nhà máy chuyên sản xuất các loại tân dược để xuất khẩu ra thế giới. Theo kế 
hoạch, nhà máy sẽ được khởi công xây dựng trong tháng 8/2012 và đi vào sản xuất 
trong tháng 5/2015. 
 Tiếp theo đó là Đồng Nai, Hà Nội, Bắc Ninh với quy mô vốn đăng ký lần lượt 
là 1.115 tỉ USD, 1.111 tỉ USD, 1.105 tỉ USD. 
 + Tính đến tháng 9/2012, Đồng Nai có 31 KCN được thành lập với tổng diện 
tích 9.838,31ha, trong đó đã cho thuê được 3.996,63ha đạt tỷ lệ 62,02% diện tích đất 
dành cho thuê (6.144,12ha), thu hút 36 quốc gia và vùng lãnh thổ hoạt động đầu tư với 
tổng số 1.192 dự án còn hiệu lực, trong đó có 867 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với 
tổng vốn đầu tư 35.085 tỉ đồng. Giá trị giải ngân lũy kế đến tháng 9/2012 đạt 8.598 
triệu USD đạt 59% so với tổng vốn đăng ký. Riêng 2011 doanh t hu đạt 11.118 triệu 
USD, xuất khẩu đạt 5,856 triệu U SD, nhập khẩu 7.356 triệu USD. 
 Trong tháng 01/2013, Ban Quản lý các KCN Đồng Nai đã cấp Giấy chứng nhận 
đầu tư mới cho 07 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký là 124 
triệu USD, trong đó đặc biệt là dự án Cty TNHH Terumo BCT Việt Nam t ại Khu 
Công nghiệp Long Đức có tổng vốn đầu tư đăng ký là 98,9 tr iệu USD, với mục tiêu 
hoạt động là Sản xuất sản phẩm, thiết bị y tế: túi đựng máu, bộ thiết bị thu thập thành 
phần máu. Đồng thời, trong tháng 01/2013 Ban Quản lý các KCN Đồng Nai đã điều 
chỉnh 40 lượt dự án, trong đó bao gồm 04 dự án tăng vốn với tổng vốn tăng là 45.6 
triệu USD. Ngoài ra, Ban Quản lý đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong nước cho 02 
dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 200 tỷ đồng. Như vậy, tính đến hết ngày 
31/01/2013, các Khu Công nghiệp Đồng N ai đã thu hút được tổng vốn đầu tư FDI là 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 23 - 
khoảng 181,1 triệu USD và 200 tỷ đồng vốn đầu tư trong nước; ước đạt 613,8% so với 
lượng vốn đầu tư nước ngoài cùng kỳ năm ngoái (29,5 triệu USD) và 21,3% so với kế 
hoạch cả năm (01 tỷ đô la Mỹ).(DIZA) 
 + Năm 2011, ban quản lý Hà Nội đã cấp giấy chứng nhận đầu tư mới cho 29 dự 
án và điều chỉnh tăng vốn cho 21 dự án tổng giá trị đạt 191,13 triệu U SD tăng 40,5%. 
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN trong khu công nghiệp đạt mức tăng 
trưởng khá cao với doanh thu cả năm 2011 đạt 4,068 t ỉ USD tăng 13,8% so với năm 
2010. Kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 2,46 tỉ USD tăng 15,5% chiếm 37,5% kim ngạch 
xuất khẩu của thành phố, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 2,48 tỉ Usd tăng 17,7%. Đến 
cuối năm 2012 các khu công nghiệp ở Hà Nội có 510 dự án đăng ký đầu tư, trong đó 
có 257 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký 3,723 tỉ U SD. 
 Để có được sự thu hút đầu nước ngoài như vậy thì cũng do một số yếu tố: 
 + Đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển 
khu công nghiệp để tạo tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; 
chủ trương đổi mới, mở cửa nền kinh tế, mở rộng hợp tác quốc tế và phát huy nội lực 
để tăng trưởng kinh tế đã được quán triệt rộng rãi từ Trung ương đến địa phương và 
các thành phần kinh tế . 
 + Hệ thống chính sách phát triển khu công nghiệp bước đầu đã tạo được hành 
lang pháp lý cho việc vận hành các khu công nghiệp. Đây là vấn đề cần được tiếp tục 
hoàn thiện trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tế của công tác phát triển khu công 
nghiệp. 
 + Sự quan tâm chỉ đạo của các Bộ, ngành trong công tác quản lý phát triển khu 
công nghiệp. Bằng cơ chế uỷ quyền, các Bộ, ngành đã tạo điều kiện cho các Ban quản 
lý khu công nghiệp phát huy tốt cơ chế quản lý một cửa, tại chỗ, t hực h iện các giám 
sát về chuyên môn để đảm bảo sao cho các vướng mắc của doanh nghiệp được giải 
quyết nhanh và đúng pháp luật . 
 + Ý chí quy ết tâm và sự quan tâm của Đ ảng bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban 
nhân dân các cấp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đối với việc phát triển 
khu công nghiệp trên địa bàn là nhân tố quan trọng để phát huy lợi thế của địa phương, 
của vùng. Bài học ở các địa phương có khu công nghiệp phát triển cho thấy, sự thống 
nhất ý chí của các cấp ở địa phương là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của khu 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 24 - 
công nghiệp, đưa các chủ trương, chính sách về phát triển khu công nghiệp của Đảng 
và 
 + Tinh thần quyết tâm khắc phục khó khăn, chủ động tìm kiếm giải pháp hiệu 
quả để xây dựng, phát triển khu công nghiệp của các Ban quản lý khu công nghiệp, các 
doanh nghiệp phát triển hạ tầng, các doanh nghiệp khu công nghiệp được coi là một 
trong các yếu tố quan trọng nhất đảm bảo sự thành công của việc phát triển các khu 
công nghiệp. 
 Đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệ p, khu chế xuất l à nguồn vốn bổ 
sung quan trọng cho nguồn vốn phát triển kinh tế: 
 Đầu tư vào KCN, KCX thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo 
hướng CNH, HĐH: Do tác động của vốn, khoa học kỹ thuật do đầu tư trực tiếp nước 
ngoài mang lại làm cơ cấu kinh tế được chuy ển dịch. Hướng chuyển dịch là tăng tỷ 
trọng sản phẩm công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp. Số 
doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào trong KCN, KCX tăng sẽ thu hút được số lượng 
khá lớn lao động, giải quyết được công ăn việc làm cho nước s ở t ại. Ngoài ra, KCN, 
KCX còn góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng t hu ngoại tệ cho đất nước.Theo thống kê 
của WEPZA (Hiệp hội KCX thế giới) một KCX diện tích khoảng 100ha, cần đầu tư 50 
triệu USD cho cơ sở hạ tầng trong vòng 20 năm sẽ t ạo việc làm làm cho 10.000 lao 
động. Từ đó tạo ra hàng xuất trị giá 100 triệu USD/năm và 100 tr iệu USD/năm thông 
qua thu nhập gián tiếp ngoài KCX. Như vậy tính bình quân một công nhân trong KCX 
tạo ra giá trị 5.000-10.000USD/năm. Vào đầu thập kỷ này đã hình thành một số KCN, 
KCX. Thành công bước đầu và quá trình phát triển, lớn mạnh các KCX góp phần quan 
trọng đưa đất nước ta t iến nhanh trên con đường CNH, HĐH đất nước. 
 FDI trong KCN, KCX có đóng góp không nhỏ vào t ăng trư ởng sản xuất công 
nghiệp, nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế: thực tế 20 năm 
xây dựng và phát triển cho t hấy, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN, đã 
có những đóng góp ngày càng lớn vào việc nâng cao giá trị gia tăng trong ngành công 
nghiệp. Tỷ trọng vốn FDI trong KCN, chiếm tới 80% tổng vốn FDI đầu tư vào ngành 
công nghiệp cả nước. Ngoài ra, qua vai trò của FDI trong KCN, sức cạnh tranh của 
các doanh nghiệp KCN, KKT trên thị trường thế giới được nâng cao đáng kể trong 
thời gian qua, thể hiện ở giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, tăng đều qua 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 25 - 
các năm với tốc độ tăng bình quân cao hơn tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân 
của cả nước. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, trong tổng kim 
ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ mức 20% năm 2005 và 25-30% trong 
những năm gần đây. 
 Và còn mở rộng hợp tác đầu tư quốc t ế: N gày nay trên thế giới không chỉ diễn 
ra sự cạnh tranh của các nước tiếp nhận đầu tư mà còn diễn ra cuộc cạnh tranh quyết 
liệt giữa các nước đi đầu tư. Xu hướng đa cực trong đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo 
điều kiện cho các nước thực hiện đường lối mở rộng quan hệ kinh tế quốc t ế. Vì vậy, 
đầu tư trực tiếp vào KCN, KCX cũng góp phần mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước 
chủ nhà với các nước, lãnh thổ của chủ đầu tư. 
 Bên cạnh những thành công thì vẫn còn một vài hạn chế: 
 Do cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ cho phát triển công nghiệp còn yếu 
kém, trong đó hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố gây tâm lý lo ngại cho 
các nhà đầu tư; chi phí đầu tư xây dựng hạ tầng, nền móng nhà xưởng tại các KCN tốn 
kém do nền đất tương đối yếu. 
 Về môi trường, xã hội trong KCN, KKT:Vấn đề bảo vệ môi trường KCN tuy đã 
được cải thiện, song vẫn còn tồn tại một số KCN, doanh nghiệp KCN chưa tuân thủ 
nghiêm túc pháp luật về môi trường. N guyên nhân là do ý thức của doanh nghiệp thứ 
cấp, kể cả doanh nghiệp là chủ đầu tư hạ t ầng KCN nhiều khi chưa cao, vẫn đặt lợi ích 
kinh t ế lên trên trách nhiệm bảo vệ môi trư ờng; công t ác phối hợp kiểm tra, giám sát 
bảo vệ môi trường KCN của các cơ quan Nhà nước chưa thật chặt chẽ. M ặc dù số 
lượng các nhà máy xử lý nước thải tập trung đã tăng lên nhưng theo báo cáo của các 
Ban Quản lý các KCN, tại khu vực xung quanh KCN ở một số địa phương, một số tiêu 
chuẩn nước thải vượt quá quy định cho phép. Nguyên nhân là do việc vận hành nhà 
máy xử lý nước thải chưa tuân thủ theo quy định trong khi công tác giám sát, kiểm tra, 
thanh tra của các cơ quan quản lý còn hạn chế, chưa có chế tài xử phạt có tính răn đe. 
 Các chính sách khuyến khích hiện hành đối với đầu tư xây dựng nhà ở cho công 
nhân vẫn chưa đủ mạnh, chưa đủ hấp dẫn các doanh nghiệp, chưa khiến họ quan t âm 
thỏa đáng đến việc đầu tư xây nhà ở cho người lao động trong KCN, KKT. Phần lớn 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 26 - 
người lao động thuê nhà ở do các hộ dân xây dựng thiếu tiện nghi, t iện ích, chưa đáp 
ứng nhu cầu cơ bản của cuộc sống. 
 Việc phân cấp, ủy quyền cho Ban Quản lý KCN, KKT trong một số lĩnh vực 
còn chưa được thực hiện đầy đủ, nhất quán trên cả nước do có sự không thống nhất với 
các quy định của pháp luật chuyên ngành, chưa được các bộ, ngành hướng dẫn cụ thể 
hoặc chủ trương phân cấp, ủy quyền chưa được địa phương quán triệt và thực hiện, đặc 
biệt là lĩnh vực t hanh tra, môi trường, lao động. 
 Chính sách ưu đãi đối với các KCN hay thay đổi, thiếu ổn định, mức ưu đãi đối 
với dự án đầu tư vào KCN còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa thực sự hấp dẫn đầu tư 
một cách lâu dài, ổn định. Việc các dự án trong KCN không còn được hưởng ưu đãi 
đầu tư như đối với địa bàn có điều kiện kinh t ế - xã hội khó khăn, không áp dụng ưu 
đãi đối với dự án đầu tư mở rộng theo quy định của một số văn bản pháp luật về thuế 
đã tạo khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp, làm giảm tính khuyến khích đầu tư, 
phát triển sản xuất kinh doanh trong KCN. 
 Một số bài học kinh nghiệm nhằm thu hút đầu tư: 
 - Phát triển KCN là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm thu hút nguồn lực 
thúc đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 
để cải thiện môi trường đầu tư, thực hiện tốt công t ác thu hút đầu tư, đòi hỏi phải có sự 
chỉ đạo, quán triệt tư tưởng về ý nghĩa của công tác thu hút đầu tư phát triển KCN, góp 
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 
 - Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh để tăng cường thu hút đầu tư thì môi 
trường đầu tư phải được cải thiện theo hướng thông thoáng, minh bạch và hấp dẫn. 
Trong đó, tập trung đầu tư cơ sở hạ t ầng kinh t ế - xã hội ngoài hàng rào KCN một cách 
đồng bộ; cải cách thủ tục hành chính theo hướng gọn nhẹ, rút ngắn thời gian giải quyết 
các thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế “một cửa - tại chỗ”; nâng cao tr ình độ nguồn 
nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp… 
 - Xây dựng và triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư, thu hút và quản lý 
hiệu quả các dự án đầu tư tại KCN. Trong công tác xúc tiến đầu tư cần chú trọng đến 
nội dung và phương pháp thực hiện, nội dung kêu gọi đầu tư phải rõ ràng, có đủ những 
thông tin cần thiết cho nhà đầu tư. 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 27 - 
 - Để thu hút, quản lý các dự án đầu tư hiệu quả và phát triển bền vững thì công 
tác hỗ trợ nhà đầu tư từ khâu chuẩn bị, triển khai xây dựng và trong quá trình dự án đi 
vào hoạt động là rất quan trọng, nhằm rút ngắn chi phí thời gian tham gia thị trường, 
hướng các nhà đầu tư thực hiện đúng quy định của pháp luật và tháo gỡ khó khăn, 
vướng mắc cho nhà đầu tư. 
 - Trong quá trình thu hút đầu tư vào các KCN, cần phải có sự cân nhắc, chọn 
lọc kỹ các nhà đầu tư có đủ năng lực, các dự án đầu tư tốt, hạn chế các dự án dễ gây ô 
nhiễm môi trường, hiệu quả kinh tế - xã hội kém, sử dụng quá nhiều lao động. 
 2.3.2. Sự ảnh hưởng của luật đầu tư năm 2005. 
 Cuối năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông 
qua, khi nước ta còn trong vòng xoáy cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, lạm phát phi 
mã, sản xuất và lưu thông chậm phát triển, làm không đủ ăn, buộc phải dùng tem phiếu 
“phân phối sự thiếu thốn”; khi các nước “phương Tây” cấm vận đối với Việt Nam, 
quan hệ kinh tế đối ngoại hầu như chỉ bó hẹp trong khung khổ Hội đồng Tương trợ 
kinh tế với 12 nước xã hội chủ nghĩa (cũ). 
 Luật Đầu tư nước ngoài 1987 được dư luận quốc tế đánh giá cao. Hoạt động 
FDI là khâu đột phá trong hội nhập kinh tế quốc t ế nhờ thị trường đầy tiềm năng của 
Việt Nam có sức hấp dẫn hàng trăm nhà đầu tư quốc tế, trong đó có các nước đang thi 
hành chính sách cấm vận đối với nước ta, điển hình là Mỹ. M ặc dù cuối năm 1994, 
Tổng thống Bill Clinton mới bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, nhưng một số nhà 
đầu tư nước này thông qua nước thứ ba đã thực hiện nhiều dự án FDI ở nước ta từ năm 
1989. 
 Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời, ba năm đầu 1988 - 1990, FDI chưa tác 
động rõ rệt đến tình hình kinh tế - xã hội nước ta. Nhưng từ năm 1991 đến năm 1997 
đã diễn ra làn sóng FDI thứ nhất, với 2.230 dự án và vốn đăng ký 16,244 tỷ USD, vốn 
thực hiện 12,98 tỷ USD. Trong đó, chỉ riêng năm 1997, vốn thực h iện đã đạt 3,115 tỷ 
USD, gấp 9,5 lần năm 1991. 
 Tuy nhiên, từ năm 1998 đến năm 2004, do tác động t iêu cực của cuộc khủng 
hoảng kinh tế khu vực, nên trong số 3.968 dự án mới, phần lớn có quy mô nhỏ, vốn 
đăng ký năm 1998 chỉ là 5,099 tỷ USD, năm 2000 là 2,838 tỷ USD, năm 2004 là 4,547 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 28 - 
tỷ USD. Trong khi đó, vốn thực h iện trong giai đoạn này là 17,66 tỷ USD, chỉ tăng 
36% so với giai đoạn 1991-1997. 
 Nhưng năm 2005 lại mở đầu làn sóng FDI thứ hai vào Việt Nam, với vốn đăng 
ký 6,839 tỷ USD và vốn thực hiện 3,3 tỷ USD. Từ năm 2006 tới nay, Việt Nam đã thu 
hút được một lượng lớn vốn FDI. Con số giải ngân cũng khá tích cực (xem bảng). 
 Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, tính chung, từ năm 1988 đến 
năm 2011, tổng vốn đăng ký còn hiệu lực của 13.496 dự án FDI là 195,9 tỷ USD, vốn 
thực hiện là 88,2 tỷ USD, chiếm 43,2% vốn đăng ký. 
 Sau khi Luật đầu tư nước ngoài t ại Việt Nam được ban hành năm 1987, đầu tư 
nước ngoài vào Việt Nam tăng lên rất nhanh, song hầu hết tập trung vào lĩnh vực dịch 
vụ như khách sạn, nhà làm việc ... tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Đầu tư nước 
ngoài vào công nghiệp, nhất là công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu gặp 2 khó khăn 
chính là: cơ sở hạ tầng yếu kém, thủ tục xin giấy phép đầu tư và triển khai dự án đầu tư 
phức tạp, mất nhiều thời gian. Dựa vào kinh nghiệm của nước ngoài, Chính phủ chủ 
trương thành lập khu chế xuất để làm thí điểm một mô hình kinh tế nhằm thực hiện 
chủ trương đổi mới, mở cửa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo Nghị 
quyết Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. 
 Vì vậy, Quy chế khu chế xuất đã được ban hành kèm theo N ghị định số 
322/HĐBT ngày 18/10/1991 và khu chế xuất Tân Thuận - khu chế xuất đầu tiên của cả 
nước đã được thành lập theo Quyết định của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng số 394/CT 
ngày 25/11/1991 nay là Chính phủ. 
 Năm 1991, khu chế xuất Tân Thuận được thành lập “khai s inh” ra mô hình các 
KCN trong chiến lược xây dựng phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Từ đó đến nay 
với nhiều cơ chế, chính sách liên quan đến việc thành lập, hoạt động của các KCN 
được ban hành, điều chỉnh đã tạo ra hành lang pháp lý cho sự ra đời và phát triển các 
KCN trên địa bàn cả nước. Tính đến nay (năm 2010), Việt Nam đã có 250 KCN được 
thành lập, trong đó có 170 KCN (chiếm 68% tổng số KCN của cả nước) đã đi vào hoạt 
động, số còn lại đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện. Các KCN chủ yếu được 
thành lập ở ba vùng kinh tế trọng điểm (vùng kinh tế trọng điểm phía bắc; vùng kinh tế 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 29 - 
trọng điểm phía nam; vùng kinh tế trọng điểm miền trung), song cho đến nay cả nước 
có 57 tỉnh, thành phố có KCN được thành lập. 
 Năm 1992 khu chế xuất Linh Trung , năm 1996 và 1997 liên tiếp 10 khu công 
nghiệp của Thành phố có Quyết định thành lập của Chính phủ. Đầu năm 2002 thêm 
một khu công nghiệp nữa được thành lập theo quyết định của Chính phủ là khu công 
nghiệp Phong phú. 
 Tính đến 9/2012, cả nước đã có 283 KCN được thành lập với tổng diện tích đất 
tự nhiên 80.100 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt gần 45.100 
ha, chiếm khoảng 65% tổng diện tích đất tự nhiên. Các KCN được thành lập trên 58 
tỉnh, thành phố trên cả nước; được phân bố trên cơ sở phát huy lợi thế địa kinh tế, tiềm 
năng của các Vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời phân bố ở mức độ hợp lý một số 
KCN ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hơn nhằm tạo điều kiện cho 
ngành công nghiệp địa phương từng bước phát triển. 
 Những đóng góp to lớn của luật đầu t ư: 
 Có thể nói, FDI đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển 
kinh t ế - xã hội của đất nước. Tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội 1991 - 
2000 là 30%, 2001 - 2005 là 16%, 2006 - 2011 là 28%. Các doanh nghiệp FDI đóng 
góp vào GDP thời kỳ 2001 - 2005 là 14,5%, t ăng lên 20% năm 2010; nộp ngân sách 
nhà nước năm 2010 là 3,1 tỷ USD gần bằng cả 5 năm 2001 - 2005 (3,5 tỷ USD). FDI 
tạo ra khoảng 40% giá trị sản lượng công nghiệp, có tốc độ tăng khá cao, 2001- 2010 
tăng 17,4%/năm trong khi toàn ngành công nghiệp tăng 16,3% /năm. Kim ngạch xuất 
khẩu của khu vực FDI tăng nhanh, 2001 - 2005 là 57,8 tỷ USD, 2006 - 2010 là 154,9 
tỷ USD, bằng 2,67 lần, chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (kể cả dầu thô). 
 Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng hình thành nhiều ngành kinh t ế, như 
khai thác, lọc hóa dầu, ô tô, xe máy, điện tử, xi măng, sắt thép, thực phẩm, thức ăn gia 
súc; cũng như góp phần hình thành một số khu đô thị hiện đại như Phú M ỹ Hưng, 
Nam Thăng Long, nhiều khách sạn 4- 5 sao, khu nghỉ dưỡng cao cấp, văn phòng cho 
thuê... Lĩnh vực dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, bán buôn, bán lẻ đã du nhập 
phương thức kinh doanh hiện đại, công nghệ tiên tiến, thỏa mãn nhu cầu ngày càng 
cao của các tầng lớp dân cư. 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 30 - 
 M ột thành tựu khác, tính đến cuối năm 2011, khu vực FDI tạo ra hơn 2,3 triệu 
việc làm trực t iếp và hàng triệu việc làm gián tiếp, trong đó có hàng vạn kỹ sư, nhà 
quản lý trình độ cao, đội ngũ công nhân lành nghề, với thu nhập ngày càng tăng, du 
nhập phương thức lao động, kinh doanh và quản lý tiên tiến. 
 Hạn chế của luật đầu tư nói chung: 
 Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, hoạt động FDI cũng đã bộc lộ những 
nhược đ iểm và khuyết điểm, như chưa phù hợp với quy hoạch phát triển ngành và 
vùng kinh tế, một số máy móc t hiết bị công nghệ lạc hậu đã được nhập khẩu, gây ô 
nhiễm môi trường nghiêm trọng... Chuyện ô nhiễm ở sông Thị Vải, sông Cầu, sông 
Nhuệ là ví dụ điển hình. 
 Cùng với đó, cũng đã xảy ra “cuộc chiến giữa các tỉnh, thành phố chào mời nhà 
đầu tư quốc t ế” bằng những ưu đãi quá mức thuế, tiền thuê đất, ảnh hưởng tiêu cực đến 
phúc lợi chung của cộng đồng. Đã xảy ra tranh chấp lao động trong một số doanh 
nghiệp FDI. Gần đây, việc “chuyển giá” của một số doanh nghiệp FDI, gây ra t ình 
trạng “lỗ giả lãi thật ” nổi lên như vấn đề thời sự. 
 Nhiều bài báo đã đề cập các vấn đề đó, tuy nhiên chúng ta chỉ lưu ý thêm hai 
thông tin quan trọng sau: 
 - Một là, theo báo cáo “Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2010” của Cơ 
quan Phát triển quốc tế Mỹ (USAID) và Dự án Nâng cao năng lực cạnh tranh Việt 
Nam (VNCI) trên cơ sở khảo sát 1.155 doanh nghiệp của 47 quốc gia, đại diện cho 
21% số doanh nghiệp FDI đang hoạt động t hì “doanh nghiệp FDI tại Việt Nam có quy 
mô tương đối nhỏ và có lợi nhuận thấp, chủ yếu làm thầu phụ cho các công ty đa quốc 
gia lớn hơn, do đó thường nằm trong khâu thấp nhất của giá trị sản phẩm”; khoảng 5% 
doanh nghiệp FDI hoạt động trong ngành công nghệ hiện đại, 5% vào dịch vụ khoa 
học - công nghệ, 3,5% vào dịch vụ t ài chính, quản lý đòi hỏi kỹ năng cao. 
 - Hai là, khi trả lời câu hỏi doanh nghiệp có ý định cân nhắc đầu tư ở nước khác 
hay chỉ tập trung đầu tư ở Việt Nam, thì 55% doanh nghiệp tham gia phỏng vấn cho 
biết, có cân nhắc đầu tư ở nước khác, trong đó 30% sang Trung Quốc, 10% sang Thái 
Lan, 8% sang Campuchia, 6% sang Indonesia, 4% sang Philippines và 4% sang Lào. 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 31 - 
 M ặc dù các tư liệu điều tra chọn mẫu chỉ có tính tham khảo, nhưng cũng báo 
động rằng, nước ta đã chậm chuy ển đổi định hướng chính sách FDI từ đầu thế kỷ XXI. 
M ôi trường đầu tư tuy đã được cải thiện, nhưng so với nhiều nước trong khu vực thì 
chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư có tiềm năng lớn. Đối với Việt Nam, cuộc cạnh tranh thu 
hút đầu tư càng gay gắt hơn khi theo xếp hạng năm 2011, Trung Quốc vẫn dẫn đầu, 
Indonesia, Malaysia và Singapore lọt vào top 10 quốc gia có môi trường đầu tư tốt 
nhất thế giới; và khi trong số 5 nước mới nổi BRICS, th ì 4 nước đã lọt vào danh sách 
10 quốc gia có nền kinh tế hàng đầu thế giới, là Trung Quốc (thứ 2), Braz il (thứ 6), 
Nga (thứ 9) và Ấn Độ (thứ 10). Với dân số gần 3 tỷ người, 4 nước này là những thị 
trường hấp dẫn FDI nhất thế giới. 
 Hạn chế của luật đầu tư 2005: 
 Đối với Luật Đầu tư năm 2005, nhiều ý kiến nhận xét rằng, nội dung của luật 
này trùng lặp với nhiều luật khác, do vậy nên hình thành Chương Đầu tư trong Luật 
Doanh nghiệp, bởi vì đầu tư là hoạt động chính của doanh nghiệp. Cũng có ý kiến cho 
rằng, trong Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2005 không chú ý đặc điểm của 
FDI và doanh nghiệp FDI, nên đã không điều chỉnh được mọi hành vi liên quan đến 
FDI, làm giảm hiệu năng quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế này. Do vậy, Luật 
Doanh nghiệp mới cần khắc phục nhược điểm đó. 
 Hơn thế, trước thực trạng nhiều doanh nghiệp FDI đang gặp khó khăn do tác 
động từ khủng hoảng kinh tế thế giới và lạm phát cao trong nước, thì Chính phủ và 
chính quyền các cấp cần tiếp cận, hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua tình trạng 
kinh doanh kém hiệu quả. Đó chính là cách xúc tiến đầu tư tốt nhất, vì chính các doanh 
nghiệp này sẽ quảng bá rộng rãi chính sách và phương thức hoạt động của bộ máy nhà 
nước ra bên ngoài. 
 Các cuộc vận động đầu tư cần hướng chủ yếu vào 500 TNCs hàng đầu thế giới 
đối với dự án công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, nghiên cứu và phát triển, đào tạo nguồn 
nhân lực chất lượng cao, thường xuyên cập nhật thông t in về điều kiện đảm bảo đầu tư 
theo yêu cầu của từng TNCs thay cho những cuộc hội thảo đông người kém hiệu quả. 
Sau khủng hoảng kinh tế t hế giới, TNCs điều chỉnh thị trường đầu tư, có thể Việt Nam 
không còn được lựa chọn hoặc được đưa vào diện ưu tiên, do đó cần theo dõi để biết 
được chiến lược đầu tư mới của TNCs. 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 32 - 
 Các bộ lập và công bố quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật đủ chi tiết, gắn với 
quy hoạch vùng lãnh thổ, xây dựng tiêu chuẩn, định mức để hướng dẫn chính quyền 
địa phương thực h iện, bảo đảm việc phân cấp quản lý vừa phát huy được tính năng 
động, sáng kiến của tỉnh, thành phố, vừa bảo vệ lợi ích quốc gia. Trên cơ sở đó, 
chuyển trọng t âm quản lý nhà nước đối với FDI sang hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra 
doanh nghiệp khi đưa dự án đầu tư vào hoạt động theo đúng quy định luật pháp. 
 Hiện nay, Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đ ầu tư) đang xây dựng 
Trung t âm Thông tin được nối mạng với các sở kế hoạch và đầu tư, ban quản lý KCN, 
KKT, doanh nghiệp FDI, hải quan, cơ quan thuế, ngân hàng để khắc phục nhược điểm 
thiếu thông t in, không cập nhật, nhằm đánh giá đúng thực trạng và đề ra giải pháp xử 
lý kịp thời đối với hoạt động FDI trong cả nước. Đ ây là điều đáng mừng. 
 Bài học thành công và thất bại trong kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, trong 
đó có thu hút FDI là t ài sản quý giá để người Việt Nam khôn ngoan hơn, để tiếp nhận 
vốn đầu tư quốc tế có hiệu quả hơn và phát triển bền vững hơn. 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 33 - 
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NH ẰM GÓP PHẦN HO ÀN THIỆN LUẬT 
ĐẦU TƯ TRON G TÌNH HÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ TOÀN CẦU HÓA 
 Sự ra đời của Luật Đầu tư 2005 là một nỗ lực lớn của nhà nước t a trong việc 
hoàn thiện hệ thống pháp luật trong bối cảnh hội nhập, bình đẳng hóa việc đối xử với 
các nhà đầu tư, với các doanh nghiệp trên t inh thần hạn chế đến mức tối đa cho phép 
sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu. Bên cạnh một 
số tiến bộ nổi bật, các quy định liên quan đến các nhà đầu tư nước ngoài, các dự án có 
vốn đầu tư nước ngoài của luật này và các nghị định hướng dẫn đối với một số vấn đề 
cụ thể đã bắt đầu xuất hiện những bất cập và gây những ảnh hưởng nhất định đến hoạt 
động đầu tư trực tiếp nước ngoài (dưới hình thức thành lập các doanh nghiệp có vốn 
đầu tư nước ngoài) tại Việt Nam. 
 Những quy định của Luật Đầu tư và các điều khoản ghi rõ t ại N ghị định 
108/2008/NĐ-CP đã mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động đầu tư, kinh doanh của các 
nhà đầu tư, xóa bỏ một số rào cản đầu tư không phù hợp với thông lệ kinh tế thị trường 
và cam kết hội nhập của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện mạnh mẽ môi 
trường đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng hiện đại, minh bạch và bình đẳng 
giữa các nhà đầu tư. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, việc 
thực hiện Luật Đầu tư và Nghị định 108 và các văn bản pháp luật có liên quan còn tồn 
tại và hạn chế. 
3.1. Một số kiến nghị đối với Nhà nước. 
 Tăng cường tuy ên truy ền, phổ biến nội dung Luật đầu tư năm 2005 và các văn 
bản hướng dẫn thi hành: 
 - Nhà nước phải tăng cường tuyên truyền, phổ biến nội dung Luật đầu tư 2005. 
Đây là công tác rất quan trọng góp phần đưa những nội dung chính sách của Đảng và 
Nhà nước đến được với quần chúng nhân dân. Làm cho mọi người dân hiểu luật và có 
những đóng góp cho sự nghiệp xây dựng một nhà nước pháp quyền. 
 - Đối với các nghị định hướng dẫn thi hành Luật đầu tư, thì công tác tuyên 
truyền, phổ biến nội dung càng đóng vai trò quan trọng. Nhà nước nên sử dụng các 
phương tiện thông tin đại chúng để góp phần t uyền truyền có hiệu quả hơn. Đặc biệt, 
nhà nước nên khai thác khả năng truyền t ải nhanh và tiện lợi của mạng internet. Nhà 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 34 - 
nước đăng tải toàn văn Luật đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành trên trang Web 
của Chính phủ và của các Bộ, ngành hữu quan... 
 Tiến hành rà soát các văn bản pháp luật chuyên ngành:Luật đầu tư 2005 liên 
quan đến rất nhiều luật chuy ên ngành như: Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, 
Luật Ngân hàng, Luật Bảo hiểm,.. Do đó, để tránh hiện tượng chồng chéo, Chính phủ 
cần rà soát lại các nội dung của các luật chuyên ngành, sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ những 
qui định cho phù hợp thống nhất với Luật đầu tư năm 2005, phù hợp với cam kết quốc 
tế. 
 Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đầu tư 2005: Các nghị định 
hướng dẫn đã ban hành nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Để Luật đầu tư 2005 thực sự 
phát huy được vai trò của nó, trước mắt, Chính phủ phải ban hành thông tư hướng dẫn 
các vấn đề chưa cụ thể trong Nghị định 108; Nhanh chóng soạn thảo, ban hành đầy đủ 
các qui định hướng dẫn thi hành, thống nhất về thủ tục đầu tư, các qui định về mẫu hồ 
sơ đăng ký kinh doanh, đăng ký đầu tư, chuẩn hoá các nội dung qui trình đăng ký, 
thẩm tra và điều chỉnh dự án. 
 Rà soát các cam kết của Việt Nam với Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) và 
có những cơ chế thực hiện đầy đủ theo lộ trình đã cam kết.: Việt Nam đã là thành viên 
chính thức của WTO, do vậy chúng t a phải chủ động t hực hiện những cam kết với 
WTO, tham gia tích cực vào đàm phán quốc tế, đặc biệt là những cam kết liên quan 
đến mở cửa thị trường đầu tư và thương mại. Những qui định của pháp luật Việt Nam 
ban hành cũng phải phù hợp với những vấn đề mà chúng ta đã cam kết. Pháp luật đầu 
tư nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung thực sự phải quan t âm đến vấn đề này, 
bởi vì khi đã tham gia vào một sân chơi chung muốn được đối xử bình đẳng thì trước 
hết chúng t a phải tuân t hủ những qui định của họ. Đồng t hời, m uốn pháp luật Việt 
Nam có thể trở thành luật cho các quốc gia khác trên thế giới, thì luật của chúng ta 
phải đạt tiêu chuẩn. 
 Nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện qui hoạch phát triển KCN, KCX 
 - Quy hoạch phát triển trên KCN, KCX có liên quan trực tiếp đến quy hoạch 
tổng thể của vùng, qui hoạch phát triển các ngành công nghiệp và sử dụng đất đai. Do 
vậy, quy hoạch KCN, KCX cần phải làm trước nhiều năm và hàng năm có rà soát, điều 
chỉnh, bổ sung và hoàn thiện. Kinh nghiệm của các nước cũng cho thấy một trong các 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 35 - 
nguyên nhân tạo ra thành công hay thất bại của các KCN, KCX là việc chọn địa điểm 
xây dựng, lựa chọn ngành, sản phẩm của KCN, KCX. 
 - Khả năng thu hút đầu tư lấp đầy KCN, KCX trước mắt tập trung thu hút các 
nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. 
 - Chú trọng khuyến khích các thành phần kinh tế bao gồm cả đầu tư nước ngoài 
tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội trong và ngoài hàng rào KCN, KCX. 
 - Đa dạng hoá các loại KCN, KCX để đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau của 
nhà đầu tư. Ngoài các K CN, KCX đa nghề, nên hình thành các KCN, KCX chuyên 
ngành. Các KCN, KCX được xây dựng hài hoà trong khu liên hiệp công nghiệp-dịch 
vụ-đô thị sẽ tạo ra nhiều cơ hội thu hút vốn đầu tư. 
 - Quy hoạch cơ cấu đầu tư theo ngành nghề có lợi thế, phù hợp với yêu cầu của 
thị trường. 
 Xây dựng đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng KCN, KCX có chất lượng: Đây là 
một yêu cầu quan trọng hàng đầu để hấp dẫn các nhà đầu tư. Để có thể xây dựng được 
cơ sở hạ tầng đạt yêu cầu, chất lượng đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư, chúng ta 
nên có những chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng cơ 
sở hạ tầng bằng cách có những chính sách ưu đãi hơn khi họ đồng thời đầu tư vào hoạt 
động sản xuất kinh doanh trong KCN, KCX mà họ đã tiến hành đầu tư xây dựng. 
 Đào tạo nguồn nhân lực, năng cao trình độ tay nghề và chuyên môn cho người 
lao động. M ột nghịch lý hiện nay của các KCN, KCX là thiếu lao động kĩ thuật, có tay 
nghề, trong khi số lao động dư t hừa chưa được đào tạo lại gia tăng. Yêu cầu về trình 
độ lao động trong KCN, KCX thể hiện nhiều mặt, ngoài trình độ tay nghề, chuyên 
môn còn phải có tác phong trong làm việc, có kĩ thuật…mới đáp ứng được các yêu cầu 
của công nghệ quản lý, sản xuất hiện đại. M ặt khác, hiện nay khi lao động rẻ và dồi 
dào không còn chiếm được ưu thế trong thu hút FDI như trước. Do vậy cần có giải 
pháp để đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực nâng cao tay nghề cho người lao động phù 
hợp với yêu cầu về nguồn nhân lực trong từng địa phương, giai đoạn. 
 - Đối với các địa phương, ngay từ giai đoạn đầu khi lập dự án xây dựng KCN, 
KCX cần có sự phối hợp giữa các ban, ngành liên quan với các chủ đầu tư hạ t ầng để 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 36 - 
nắm cơ cấu ngành nghề trong KCN, KCX từ đó dự báo nhu cầu lao động của các 
doanh nghiệp trong KCN, KCX để chủ động đào tạo lao động cho các doanh nghiệp. 
 - Thành lập các cơ sở đào tạo nghề tại những nợi dự kiến phát triển KCN, KCX 
để trực tiếp đào tạo nghề. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao động 
địa phương. 
 - Hình thành các quỹ đào tạo nghề chung nhằm giảm bớt chi phí đào tạo nghề 
cho các doanh nghiệp. 
 Xây dựng các chính sách thu hút đầu tư ngắn hạn mang tính chiến thuật cao 
 - Phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu trong t hu hút FDI. Cần 
tập trung thu hút có trọng điểm vào một số quốc gia khu vực châu Á có mức di chuyển 
tư bản cao, đã đầu tư và hoạt động có hiệu quả tại Việt Nam. Chú trọng thu hút vốn 
đầu tư từ các t ập đoàn kinh tế châu Âu và Bắc M ỹ. Điều mấu chốt là sử dụng số liệu 
thống kê cụ thể trong phân tích và lựa chọn quốc gia cần thu hút. 
 - Đẩy mạnh công t ác Marketing đầu tư thiết lập trung t âm xúc tiến đầu tư với 
tính chuyên môn hoá cao. Công tác xúc tiến thu hút FDI cần phải mang t ính thực tiễn 
cao, tức xúc tiến phải nhấn mạnh nguyên tắc “ tìm kiếm nhà đầu tư thay vì đợi các nhà 
đầu tư tìm đến”, tránh xúc tiến đầu tư chung chung. Cụ thể : 
 + Nghiên cứu, phân tích các nhà đầu tư có qui mô lớn, các tập đoàn, các Công 
ty xuyên quốc gia đã hoạt động kinh doanh có hiệu quả tại các KCN, KCX Việt Nam. 
Trên cơ sở đó, sử dụng hình thức xúc tiến thích hợp (thư mời, điện thoại, email, gặp 
trực tiếp, gián tiếp, qua trung gian…), kết hợp hội thảo trực tiếp với các nhà đầu tư đó 
nhằm thu hút vốn đầu tư từ họ (khuyến khích họ mở rộng quy mô đầu tư t ại Việt 
Nam). Tránh t ình trạng hội thảo chung chung như đã thực hiện trong thời gian qua. 
 + Sử dụng các kênh trung gian trong xúc tiến FDI từ các quốc gia trong thị 
trường mục tiêu đã chọn.Thông qua các tổ chức trung gian như: các đại sứ quán, các 
trung tâm xúc tiến thương mại quốc tế, các hiệp hội, các công ty tư vấn xúc tiến đầu tư 
quốc tế… để tiếp cận với các nhà đầu tư lớn, các công ty xuyên quốc gia tại các thị 
trường mục tiêu đã lựa chọn. Đối với các quốc gia tiềm năng, cách trở về mặt địa lý 
nhưng có quy mô di chuy ển vốn ra nước ngoài lớn, đã đầu tư nhiều tại châu Á, cần áp 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 37 - 
dụng các hình thức xúc tiến gián tiếp (qua email, môi giới đầu tư…) để marketing hiệu 
quả. 
 Chú trọng thu hút các dự án FDI vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Cần có 
chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các dự án đầu tư xây dựng KCN, KCX (chính sách 
giao đất, hỗ trợ đào tạo, thuế…) Kinh nghiệm cho thấy việc xây dựng các KCN, KCX 
nên để các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn làm, bởi phía nước ngoài có trách nhiệm và 
quan hệ để mời gọi đầu tư. Bên cạnh đó, có thể thực hiện nguyên tắc “ mượn gà đẻ 
trứng” bằng biện pháp huy động vốn ứng trước của các chủ đầu tư nước ngoài sẽ sử 
dụng hoặc hưởng lợi trực tiếp từ công trình đó, các nhà đầu tư này s ẽ thuê công trình 
với điều kiện hết sức ưu đãi. Tìm nguồn ODA phối hợp với các nguồn khác (ngân 
sách, phát hành trái phiếu…) để đẩy nhanh xây dựng, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng. Đẩy 
nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng đối với các dự án đầu tư, giao đất đủ, kịp thời cho 
các nhà đầu tư nước ngoài, t ạo mọi điều kiện thuận lợi để dự án sớm đi vào hoạt động. 
 Chú trọng mạnh mẽ thu hút FDI từ các Việt kiều, các doanh nghiệp Việt kiều: 
Cần có chính sách phù hợp tạo cơ chế cho phép người nước ngoài được mua nhà ở 
định cư lâu dài (theo thời gian hoạt động của dự án), đặc biệt đối với Việt kiều. 
 Khuyến khích các loại hình dịch vụ hợp pháp phát triển: Các loại hình dịch vụ 
này sẽ đáp ứng các yêu cầu khác nhau, đa dạng của nhà đầu tư nước ngoài. Chú trọng 
khuyến khích các dự án FDI có hàm lượng khoa học công nghệ cao, hiện đại, phục vụ 
xuất khẩu, bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh thu hút FDI vào ngành du lịch nhằm phát 
huy triệt để tiềm năng vốn có. Khuyến khích và t ạo thuận lợi về mặt thủ tục cho các dự 
án có quy mô vốn lớn, công nghệ hiện đại được thực hiện chính sách khấu hao nhanh, 
từ đó tăng tốc độ tái đầu tư của các dự án. Tạo cơ chế giúp các nhà đầu tư nước ngoài 
có thể dễ dàng tiếp cận được với các tổ chức tín dụng trên địa bàn trong việc vay vốn 
phục vụ sản xuất kinh doanh cũng như chuyển đổi ngoại tệ trong quan hệ giao dịch 
xuất nhập khẩu. 
 Cải thiện môi trường kinh doanh, giảm chi phí. 
 - Khuyến khích cạnh tranh, kiểm soát độc quyền kinh doanh kết cấu hạ t ầng 
trong và ngoài KCN, KCX như: mở rộng cạnh tranh trong xây dựng và cung cấp các 
dịch vụ hạ tầng trong và ngoài KCN, KCX, mở rộng đấu thầu quyền cung cấp các dịch 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 38 - 
vụ, áp dụng chế độ quản lý phù hợp với nền kinh tế thị trường, tạo nguồn thu nhập để 
tự trang trải chi phí và tích luỹ để đầu tư. 
 - Giảm t huế và các chi phí, bao gồm: loại bỏ những chi phí bất hợp lệ đối với 
doanh nghiệp trong KCN, KCX ở tất cả các khâu vận tải, bốc dỡ, hải quan, thuế… xoá 
bỏ chế độ phụ thu đối với sản phẩm xuất khẩu và nhập khẩu. Giảm thuế xuất khẩu đối 
với những mặt hàng không hạn chế nhập khẩu, giảm mức thu đối với những loại phí và 
lệ phí quá cao so với các nước trong khu vực. Xem xét lại mức đóng góp bảo hiểm xã 
hội, bảo hiểm y tế… Đẩy nhanh tiến độ điều chỉnh giá, phí hàng hoá, dịch vụ. 
3.2. Một số đề xuất đối với các nhà đầu tư. 
 Nhà đầu tư là đối tượng chủ yếu của Luật đầu tư năm 2005, do đó, việc thực thi 
có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của các nhà đầu tư. Luật đầu 
tư chung đã mở rộng quyền của nhà đầu tư, tạo cho họ rất nhiều những thuận lợi để họ 
tiến hành hoạt động đầu tư. Song để có thể phát huy được những thuận lợi đó đòi hỏi 
nhà đầu tư phải thực sự nhạy bén, năng động và hiểu biết pháp luật. Vì thế, một số đề 
xuất đối với nhà đầu tư đó là: 
 - Tìm hiểu, nghiên cứu về Luật đầu tư và những N ghị định hướng dẫn thi hành; 
 - Tham gia đóng góp vào các chương trình hội thảo, hội nghị liên quan đến Luật 
đầu tư, đề xuất, kiến nghị những gì không phù hợp giữa thực tế và Luật. 
 - Đóng góp ý kiến của mình cho những dự t hảo hướng dẫn Luật đầu tư. 
Trong giai đoạn suy thoái kinh t ế toàn cầu hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư 
phát triển nền kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của quốc gia. Tuy nhiên, nội dung quy 
định của các Bộ Luật ngày càng bộc lộ một số điểm lạc hầu không còn phù hợp với 
thực t ế và xu hướng phát triển kinh tế xã hội của nước ta và điều kiện phát triển kinh tế 
thế giới trong bối cảnh hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa như hiện nay. 
Khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, chúng ta phải bám sát 5 
nguyên t ắc cơ bản của tổ chức, để từng bước hòa nhập với kinh tế thế giới từng bước 
vũng chắc, thu hút đầu tư, sử dụng hiệu quả nguồn lực bên ngoài và phát triển nội lực 
kinh tế quốc gia là mục tiêu chính. 
a) Nguyên tắc thương mại không phân bi ệt đối xữ (non di scrimination): được 
thực hiện dưới 2 hình thức 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 39 - 
- Hình thức tối huệ quốc (M FN): Được diễn dịch là m ỗi nước thành viên sẽ 
dành sự ưu đãi của mình đối với sản phẩm của các nước thành viên khác, không có 
nước nào dành lợi thế thương mại đặc biệt cho bất cứ một nước nào khác hay phân biệt 
đối xữ chống lại nước đó (trên cơ sở bình đẳng và phân chia lợi ích mậu dịch ở mọi 
lĩnh vực). Riêng các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế thấp kém có thể 
hưởng lợi ích từ điều kiện thương mại thuận lợi nhất ở bất cứ nơi nào mỗi khi các điều 
kiện thương mại được đưa ra đàm phán. 
Ngày nay, qui chế “tối huệ quốc” được hiểu như là sự bình thường hóa quan hệ 
thương mại bình thường vĩnh viễn. 
- Hình thức đối xữ quốc gia (National treatment) : Đối xữ quốc gia(NT) được 
hiểu là: “khi hàng hóa thâm nhập vào một thị trường, sẽ phải được đối xữ không kém 
ưu đãi về thuế, điều kiện vệ sinh, v.v… so với hàng hóa tương tự được sản xuất trong 
nước đó”. Sự đối xử quốc gia thường chỉ là kết quả của cuộc đàm phán, thương lượng 
giữa các nước thành viên với nhau. 
b) Nguyên tắc tạo đi ều kiện hoạt động thương mại ngày càng thuận lợi và tự 
do hơn thông qua đàm phán: Tức là mỗi nước phải thiết lập được lộ trình cắt giảm 
thuế và các biện pháp phi thuế quan thông qua các vòng đàm phán song phương và đa 
phương để tạo thuận lợi cho việc thực hiện tiến trình tự do hóa thương mại. Các nước 
thành viên phải có nghĩa vụ tạo môi trường lành mạnh , công khai , bình đẳng giữa các 
sản phẩm sản xuất trong nước mình và sản phẩm, hàng hóa nhập khẩu. 
c) Nguyên tắc xây dựng môi trường kinh doanh có thể dự đoán trước: Được 
thể hiện qua việc các nước thành viên không được thay đổi các chính sách , pháp luật 
về kinh t ế một cách tuỳ t iện, đặc biệt là hàng rào thương mại, gây trở ngại cho các nhà 
doanh nghiệp và nhà nhập khẩu khi thực hiện các kế hoạch, các chính sách thương mại 
của mình. 
d) Nguyên tắc tăng cường cạnh tranh công bằng: Các nước thành viên phải 
cam kết giảm dần đi đến cắt bỏ các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng (như trợ giá, 
tài trợ xuất khẩu), phải chống bán phá giá, từ bỏ các biện pháp ưu đãi, đặc quyền đặc 
lợi trong hoạt động thương mại, kể cả ưu đãi cho các doanh nghiệp nhà nước. 
e) Nguyên tắc chấp nhận dành một số ưu đãi thương mại cho các nước đang 
phát triển hoặc chậm phát tri ển: như ưu đãi về t huế nhập khẩu hàng hóa của các nước 
đang phát triển (hay chậm phát triển) vào thị trường nội địa của các nước công nghiệp 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 40 - 
phát triển (t heo qui định “Hệ thống ưu đãi thuế quan tổng quát” – Genenalized 
Systems of preference). Các nước đang phát triển hoặc chậm phát triển được ưu đãi 
không phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của WTO như các nước công nghiệp phát triển, 
được kéo dài lộ trình thời gian điều chỉnh, sửa đổi các chính sách thương mại, kinh tế 
để phù hợp dần với các qui định của WTO. 
 Để đảm bảo được 5 nguyên tắc trên chúng ta phải xây dựng nền kinh tế có môi 
trường chính tr ị ổn định và một hành lang pháp lý kinh tế chặt chẽ, rõ ràng, bám sát 
với t hực tế yêu cầu của nền kinh tế nước ta và có tầm nhìn chiến lược phù hợp với nền 
kinh tế thế giới. Đặc biệt, là các Bộ luật kinh tế phải rõ ràng, chặt chẽ, thông thoát tạo 
lòng tin cho nhà đầu tư an t âm thực hiện các dự án kinh tế của mình, thu hút vốn đầu 
tư, phát triển nền kinh tế đất nước. 
3.3. Một số kiến nghị khác. 
- Sửa đổi nhóm các quy định chung của Luật làm cơ sở cho việc áp dụng thống 
nhất điều kiện, thủ tục đầu tư, kinh doanh, khắc phục tình trạng xung đột giữa luật Đầu 
tư, Luật Doanh nghiệp và các Luật có liên quan khác. 
- Sửa đổi, bổ sung quy định về điều đầu tư và lĩnh vực đầu tư có điều kiện phù 
hợp v ới chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn m ới đáp ứng yêu cầu 
hội nhập quốc tế. 
Ngoài ra, cần hoàn thiện các quy định về lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư 
nhằm nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài, ưu tiên thực hiện các dự án công 
nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên…; 
Hoàn thiện các quy định về phân cấp Giấy chứng nhận đầu tư; Các quy định v ề thủ 
tục thực hiện dự án đầu tư, đặc biệt là các quy định về thủ tục góp vốn, mua cổ phần 
của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam, thủ tục chuyển nhượng dự 
án đầu tư. Một số nội dung liên quan đến quy trình, thủ tục đầu tư theo quy định của 
Luật Đầu tư gồm Thủ tục đầu tư dự án mới; Thủ tục đầu tư gắn với thành lập doanh 
nghiệp; Thủ tục điều chỉnh dự án đầu tư ; Thủ t ục tạm ngừng, giãn tiến độ; Thủ tục góp 
vốn, mua cổ phần; Thủ tục áp dụng ưu đãi đầu tư; Thủ tục thanh lý, chấm dứt dự án 
đầu tư. 
Ví dụ: Liên quan đến Thủ tục đầu tư dự án mới, việc đăng ký đầu tư được thực 
hiện trong vòng 15 ngày, áp dụng đối với dự án dưới 300 tỷ không có điều kiện. Hồ sơ 
gồm: bản đăng ký đầu tư và báo cáo năng lực tài chính (đối với dự án nước ngoài). Sau 
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm 
 - 41 - 
đó tiến hành việc thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư được thực hiện trong 45 ngày, 
áp dụng đối với dự án có điều kiện, dự án trên 300 tỷ và dự án thuộc thẩm quyền Thủ 
tướng. Tuy nhiên, qua thời gian thực hiện đã phát sinh những vấn đề vướng mắc như 
xác định loại thủ tục: một số trường hợp không xác định được dự án đầu tư có điều 
kiện (phân biệt điều kiện ĐKKD); Nội dung thẩm tra chưa phù hợp cho các dự án khác 
nhau, thiên về các dự án sử dụng đất hơn là các dự án thông thường khác; Chưa đồng 
bộ trong các thủ tục có liên quan. Vì vậy, để hoàn thiện quy trình này chúng tôi đưa ra 
hướng hoàn thiện quy trình thông qua việc nghiên cứu phương án tích hợp các thủ tục 
khác vào thủ tục đầu tư. Về hồ sơ và quy trình, cần hoàn thiện quy trình cho từng loại 
dự án, rút ngắn thời gian xét duy ệt hồ sơ và đơn giản thủ tục hành chính một của. 
Để hoàn thiện và ban hành Luật Đầu tư sửa đổi cần chú ý đến các nội dung liên 
quan đến vai trò pháp lý của nhà đầu tư, đánh giá rõ vai trò của nhà đầu tư đối với xã 
hội. Cần xem xét kỹ việc có nên đưa quyền sử dụng đất vào Luật Đầu tư. Luật Đầu tư 
sửa đổi cần ghi rõ quy trình, điều kiện chuy ển nhượng dự án để các cấp quản lý áp 
dụng dễ hơn. Tránh trường hợp cụ thể hiện này đang vướng phải trên địa bàn thành 
phố Biên Hòa (Dự án chợ tạm Tân Hiệp). 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bai_tong_hop_mon_luat_kinh_te_05_03_2013_5518.pdf bai_tong_hop_mon_luat_kinh_te_05_03_2013_5518.pdf