Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá cao nhưng chất lượng thấp. Trong giai đoạn 2008
-2009 tốc độ tăng trưởng tín dụng trung bình đạt mức 25 – 30%, đặc biệt năm 2009
khi Chính phủ thực hiện gói kích cầu trị giá gần 08 tỷ USD để đối phó với cuộc khủng
hoảng tài chính – tiền tệ trên thế giới, trong đó nổi bật là chương trình cho vay hỗ trợ
lãi suất 4% trị giá 17.000 tỷ VNĐ (01 tỷ USD), thì chỉ riêng gói HTLS này đã đưa hơn
400.000 tỷ VNĐ vào lưu thông. Đầu tư của toàn xã hội cũng duy trì mức trên 40%
GDP trong giai đoạn 2008 – 2011. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng tín dụng và đầu tư
toàn xã hội ở mức khá cao so với nhiều quốc giá khác tuy nhiên tăng trưởng GDP của
Việt Nam trong giai đoạn này chỉ trung bình ở mức 6 – 7%.
25 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6118 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bài lạm phát tại Việt Nam từ năm 2008 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
BÀI TIỂU LUẬN
LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM TỪ
NĂM 2008 ĐẾN NAY
Giáo viên hướng dẫn:
NGUYỄN THỊ HAI HẰNG
Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN THỊ HỒNG
Lớp: K09404A
MSSV: K094040550
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 2
I. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT ............................................................................................ 3
1. Định nghĩa về lạm phát ....................................................................................................... 3
2. Các phương pháp đo lường lạm phát ................................................................................... 3
3. Nguyên nhân lạm phát ......................................................................................................... 5
a) Lạm phát do cầu kéo .......................................................................................................... 5
b) Lạm phát do cầu thay đổi ................................................................................................... 5
c) Lạm phát do chi phí đẩy ..................................................................................................... 5
d) Lạm phát do cơ cấu ............................................................................................................ 6
e) Lạm phát do xuất khẩu ....................................................................................................... 7
f) Lạm phát do nhập khẩu....................................................................................................... 7
g) Lạm phát đẻ ra lạm phát ..................................................................................................... 7
4. Tác động của lạm phát ........................................................................................................ 7
a) Đối với lĩnh vực sản xuất ................................................................................................... 7
b) Đối với lĩnh vực lưu thông ................................................................................................. 8
c) Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ........................................................................................ 8
II. DIỄN BIẾN LẠM PHÁT VIỆT NAM NĂM 2008 ĐẾN NAY ........................................... 9
1. Năm 2008 ........................................................................................................................... 9
2. Năm 2009 ......................................................................................................................... 14
3. Năm 2010 ......................................................................................................................... 15
4. Năm 2011 ......................................................................................................................... 16
5. Năm 2012 ......................................................................................................................... 18
III. NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM ............................................................. 21
IV. CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM .......................................... 22
2
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển kinh tế,các quốc gia đều đã từng
đối mặt với lạm phát,nhưng không phải lúc nào lạm phát cũng gây ra những tác động tiêu
cực,trong nền kinh tế thị trường nhiều quốc gia còn sử dụng lạm phát một con số làm
động lực để kích thích nền kinh tế phát triển.Lạm phát ở Việt Nam trong lịch sử đã kéo
dài nhiều năm và bùng nổ thành siêu lạm phát trong năm 1986-1988 với chỉ số tăng giá
hàng tháng ở mức cao phổ biến từ 15-20%.Tuy nhiên cũng chỉ sau khi ”con bệnh" lạm
phát bùng nổ thành siêu lạm phát với những hệ quả cực kì tai hại về kinh tế và xã hội
trong những năm nữa sau của thế kỉ 80 thì chính sách chống lạm phát,kiềm chế và đẩy lùi
lạm phát,tiến tới kiểm soát lạm phát mới thành vấn đề có ý nghĩa quan trọng chiến lược
tại Việt Nam..Nước ta sau 12 năm kiềm chế được lạm phát (1995-2007) ở mức một con
số,trong thời gian này chúng ta đã kiểm soát được lạm phát.Nhưng từ tháng 12 năm
2007,do tình hình phát triển của hội nhập kinh tế chung của hội nhập khu vực và thế
giới,chỉ số giá tiêu dùng cho đến nay vẫn ở mức hai con số,trong 8 tháng đầu năm
2008,tình hình diễn biến hết sức căng thẳng.Chính phủ đã kịp thời đưa ra 8 biện pháp cả
gói để kiềm chế lạm phát.Vì thế có thể nói tình hình đã có phần dịu đi nhưng nền kinh tế
vẫn chưa ổn định,giá cả vẫn ở mức cao và chưa trở về mức khi chưa có lạm phát.Diễn
biến của tình hình lạm phát Việt Nam vẫn hết sức phức tạp cho đến nay.
3
I. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1. Khái niệm về lạm phát
Quan điểm phổ thông cho rằng: lạm phát là hiện tượng tăng lên của giá chung tại
một thời điểm. Chúng ta có thể hiểu theo quan điểm này thì giá tăng là lạm phát, tất
nhiên là không hẳn như vậy. Chúng ta thử nghĩ xem vào dịp tết tất cả các mặt hàng hầu
nhu đều tăng giá, phải chăng đó là lạm phát? Không!đó chỉ là biến động cung cầu tạm
thời, hay nói cách khác nếu giá tăng trong thời gian ngắn thì không phải cứ coi là lạm
phát, chúng ta không nên cường điệu hóa.
Nhà kinh tế học Milton Fridmen đã định nghĩa: lạm phát là hiện tượng giá cả tăng
nhanh và kéo dài liên tục trong một thời gian dài. Như vậy với việc hình thành lamj
phát theo quan điểm này, bản chất lạm phát được thể hiện ở tính chất tăng giá, với một tốc
độ cao và trong thời gian dài., đó là đặc thù riêng của lạm phát. Định nghĩa này cũng được
Keynes ủng hộ,phù hợp với mục tiêu ổn định giá cả trong thời gian dài của các NHTW.
2. Các phương pháp đo lường lạm phát
a) Chỉ số giá tiêu dùng CPI
CPI được sử dụng một cách phổ biến trong việc đánh giá mức lạm phát. CPI đo lường
mức giá trung bình của một nhóm hàng hóa và dịch vụ dành cho tiêu dùng của các hộ gia
đình trong một giai đoạn nhất định. Chỉ số CPI được tính bằng cách so sánh giá trị hiện
tại và giá trị tại kỳ gốc của rổ hàng hóa đã được chọn theo quy định:
CPI =
Trong đó: : là giá hàng hóa i năm gốc.
: là sản lượng hàng hóa I năm gốc.
: là giá hàng hóa i năm t.
4
Tỷ lệ lạm phát hàng năm được tính theo công thức:
Tỷ lệ lạm phát=
Ưu điểm: cho phép so sánh sự biến động của chỉ số giá tiêu dùng theo thời gian
Nhược điểm: không phản ánh được sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng, đồng thời
cũng không phản ánh được sự thay đổi về chất lượng của hàng hóa dịch vụ.
Ở Việt Nam, CPI được tính cho toàn quốc và cho từng địa phương, chỉ số giá bình
quân được thông báo hàng tháng, tổ hợp của nhiều tháng và cho cả năm và được công bố
cùng chỉ số giá vàng và chỉ số đô la Mỹ.
b) Chỉ số lạm phát cơ bản
Chỉ số lạm phát cơ bản có cách tính tương tự như chỉ số CPI nhưng loại trừ một số
mặt hàng dễ thay đổi giá như lương thực và năng lượng. Hiện nay trên thế giới có phương
pháp đo lường lạm phát cơ bản nhưng có thể cho chúng vào 3 nhóm cơ bản:
Nhóm phương pháp cơ học: việc tính toán theo phương pháp này được thực hiện
bằng cách loại bỏ một số mặt hàng khỏi rổ CPI với nguyên tắc loại bỏ những hàng hóa
đặc trưng bởi những cú sốc mạnh (có tính mùa vụ hay liên quan tới cung và giá cả không
được hình thành bởi thị trường).
Nhóm phương pháp thống kê: loại bỏ tác động của những thay đổi thái quá của giá
cả ảnh hưởng tới tỷ lệ lạm phát chung. Nhóm mặt hàng bị loại trừ thay đỏi theo từng
tháng và phụ thuộc vào độ biến dộng của giá cả của hàng hóa đó. Các phương pháp thống
kê phổ biến nhất bao gồm phương pháp bình quân thu gọn và phương pháp bình quân gia
quyền cộng dồn.
Phương pháp hồi quy: sử dụng mô hình hồi quy trong kinh tế lượng để đưa ra các số
liệu thực tế của các biến số vào đánh giá lạm phát cơ bản.
5
3. Nguyên nhân của lạm phát.
a) Lạm phát do cầu kéo.
Kinh tế học Keynes cho rằng tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động,
thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang
phải trong khi đường AS giữ nguyên khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.Trong khi
đó,chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền
mặt cao hơn,dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát. Loại lạm phát
này xuất phát từ sự thay đổi hành vi tổng cầu mang tính đột biến trong nền kinh tế.Các
nguyên nhân có thể là do chính phủ chi tiêu quá mức khi thực hiện chính sách thu chi
ngân sách mở rộng, hoặc tăng chi tiêu tiêu dùng quá mức bình thường do khu vực hộ gia
đình quá lạc quan, hoặc do khu vực hộ gia đình có nguồn thu nhập từ trên trời rơi xuống
như viện trợ nước ngoài, thu nhập do giá cả xuất khẩu tăng đột biến.
b) Lạm phát do cầu thay đổi.
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác
lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc
phía dưới( chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn
không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức
giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
c) Lạm phát do chi phí đẩy.
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên , thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí
nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá
chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng. Lạm phát chi phí đẩy là loại lạm phát do thu
hẹp tổng cung hoặc do các doanh nghiệp buộc lòng phải nâng giá bán sản phẩm vì những
lý do bất lợi. Loại lạm phát chủ yếu đến từ phía cung và nguyên nhân chủ yếu xuất phát
6
từ hiện tượng tăng chi phí sản xuất không mong đợi từ phía các doanh nghiệp. Tăng chi
phí không mong đợi từ các doanh nghiệp tạo ra những cú sốc tổng cung bất lợi. Công
nhân đình công đòi tăng lương ở diện rộng, giá nguyên liệu tăng đột biến, thảm họa tự
nhiên làm đình trệ hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp là những ngòi nổ của loại
lạm phát này. Lạm phát chi phí đầy không thể xuất hiện trong nền kinh tế có thị trường
cạnh tranh lành mạnh. Hiện tượng lạm phát loại này có thể bắt nguồn từ nguyên nhân
không thuộc nền kinh tế. Có các dạng lạm phát chi phí đẩy sau:
- Lạm phát do tiền lương đẩy: các nghiệp đoàn đòi tăng lương cho người lao động
không hề liên quan tới nhu cầu thực tế về lao động.
- Lạm phát do lợi nhuận đẩy: loại lạm phát này gây nên do các công ty độc quyền
dùng “ sức mạnh” độc quyền để tăng lợi nhuận khi đặt giá bán sản phẩm của họ
cao hơn giá do thị trường hàng hóa quyết định. Trường hợp này đã xảy ra ở nước
ta với giá xi măng do hiệp hội Xi măng quy đinh vào năm 1995.
- Lạm phát do giá hàng nhập khẩu đẩy: giá hàng nhập khẩu tăng hoàn toàn độc lập
với nhu cầu của nền kinh tế, thí dụ các nước OPEC tăng giá dầu lên gấp bốn lần
vào cuối năm 1973 kéo dài sang năm 1974 gây lạm phát của một loạt nước nhập
khẩu dầu mỏ.
- Lạm phát di thuế đẩy: tăng thuế làm cho giá sinh hoạt tăng, chẳng hạn khi thuế giá
trị gia tăng tăng từ làm cho mức giá chung của nền kinh tế tăng.
- Lạm phát do nguồn tài nguyên cạn kiệt: khi nguồn tài nguyên chủ yếu của nền kinh
tế bị cạn kiệt( dầu mỏ) làm cho giá năng lượng tăng; hay môi trường nước bị ô
nhiễm làm cho sản phẩm nghành thủy sản tăng. Giá của từng ngành này sẽ ảnh
hưởng tới mức giá chung của toàn bộ nền kinh tế.
d) Lạm phát do cơ cấu.
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành
kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động
7
trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ
tăng giá thành sản phẩm.Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
e) Lạm phát do xuất khẩu.
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng có hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động
cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng
cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung mất cân bằng.
f) Lạm phát do nhập khẩu.
Sản phẩm không tự sản xuất mà phải nhập khẩu. khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung
cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng
tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng lên. Lạm phát
hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
g) Lạm phát đẻ ra lạm phát.
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự định duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng
hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung,
gây ra lạm phát. Đây là trường hợp dính của Việt Nam và vô cùng nguy hiểm.
4. Tác động của lạm phát :
Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng của lạm phát đối
với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế lạm phát là một nỗi lo
của toàn xă hội và ta cũng thấy được các tác động của nó.
a) Tác động đến lĩnh vực sản xuất :
Ở vị trí các nhà sản xuất, khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và đầu ra
biến động không ngừng gây ra sự ổn định giả tạo của quá tŕnh sản xuất. Sự mất giá
của đồng tiền làm cho vô hiệu hoá hoạt động hoạch toán kinh doanh .Hiệu quả sản
xuất – kinh doanh ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi gây ra những biến động về
8
kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ xuất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có
nguy cơ phá sản rất lớn.
Tuy nhiên ,xét ở góc độ nào đó ,khi tỷ lệ lạm phát thấp, không gây ảnh hưởng đến
kinh tế thì có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Từ đó sẽ khuyến khích các doanh
nghiệp đi vay để mở rộng sản xuất ,sản lượng sẽ tăng lên. Ngoài ra cũng khuyến khích
tiêu dùng, cầu tiêu dùng tăng lên, do đó hàng hoá bán chạy và cũng làm sản lượng
tăng .
b) Đối với lĩnh vực lưu thông:
Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá tŕnh đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng
hoá .Lúc này những người thừa tiền và giàu có dùng tiền của ḿnh để vơ vét và thu
gom hàng hoá, tài sản, tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ
cung – cầu hàng hoá trên thị trường giá cả hàng hoá tăng lên nhiều hơn.
Ngoài ra khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất
sẽ gặp phải những rủi ro cao. Do có nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông lên
lĩnh vực này trở lên hỗn loạn. Tiền vừa ở trong tay người bán hàng xong lại nhanh
chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm
thúc đẩy lạm phát gia tăng.
c) Đối với lĩnh vực tiền tệ ,tín dụng:
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số tiền
người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng tiền bị giảm xuống. Về
phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp
ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá quá nhanh của đồng tiền, sự
điều chỉnh lăi suất tiền gưỉ không làm an tâm những cá nhân ,doanh nghiệp hiện đang
có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Như vậy ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy
động vốn ,hệ thống ngân hàng phải luôn cố gắng duy tŕ mứclăi suất ổn định. Mà lăi
9
suất thực = lăi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, muốn lăi
suất thực ổn định thì lăi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát .
Trong khi đó người đi vay là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền
nhanh chóng. Do vậy hoạt động của hệ thống Ngân hàng không còn bình thường nữa.
Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, không c̣òn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát
thì chẳng có ai tích trữ tiền mặt dưới h́nh thức tiền mặt.
II. DIỄN BIẾN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM TỪ 2008 ĐẾN NAY
1. Năm 2008
Năm 2008 với quá nhiều con số, dữ liệu khó lường liên quan đến lạm phát đã để lại
nhiều dấu ấn đặc biệt quan trọng: chiến thắng vào những tháng gần cuối năm, nỗi ám ảnh
của một cơn “đại hồng thuỷ” về lạm phát đã không xẩy ra. Trái lại, có thể đã có một chút
quá “liều kháng sinh” nên xu hướng giảm phát đã xuất hiện ngay sau khi chặn được lạm
phát từ tháng 9, nhưng khống chế và kiểm soát được lạm phát vẫn là nét chủ đạo của
thành công kiểm soát giá cả năm 2008.
CPI năm này đã liên tục tăng cao từ đầu năm, và mức cao nhất của CPI tính theo
năm của năm 2008 đã lên đến 30%. Kết thúc năm 2008, chỉ số CPI tăng 19.89%,
tính theo trung bình năm tăng 22.97%.
BIỂU ĐỒ CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG (CPI) NĂM 2008
10
Đến hết tháng 6/2008, lạm phát ở Việt Nam đã là 18,44% so với 31/12/2007 và 24,8%
so cùng kỳ năm trước - mức cao nhất trong 15 năm kể từ 1993 (diễn biến lạm phát 6
tháng lần lượt là: T1: 2,38%; T2: 3,56%; T3: 2,99%; T4: 2,2%; T5: 3,91%; T6: 2,14%=>6
tháng: 18,44%).
Tiền trong lưu thông cùng với các hình thức quay vòng của nó, được phân tích và
chỉ rõ nằm ở thị trường bất động sản (BĐS) rộng lớn nhưng bị “đóng băng” ở giá cao,
ở thị trường vàng (giá cao hơn thế giới đến trên 10%),
Ở thị trường ngoại tệ (chủ yếu là đồng USD, vì USD lên giá rất mạnh so với VND
ngay cả khi chính đồng USD lúc đó đang bị mất giá mạnh so với các đồng tiền thông
dụng quốc tế khác: đến tuần đầu tháng 6/2008 thì 1 USD chỉ còn ăn 0,6345 Euro, giảm
11% so tháng 9/2007; 0,5041 Bảng Anh, giảm 10%; 1,0135 Đô la úc, giảm 9%; 0,9552
Đô la Canada, giảm 13% (lần đầu tiên trong lịch sử tiền tệ thế giới, đồng USD thấp giá trị
chuyển đổi hơn so với đồng Đô la Canada!); 103,8 Yên Nhật, giảm 8%; 7,8025 Đô la
Hồng Kông, giảm 4%; 1,3145 Đô la Singgapore, giảm 11%; 26,96 Bath Thái Lan, giảm
5%; 6,9475 Nhân dân tệ Trung quốc, giảm 9%... Trong khi tại Việt Nam, đồng USD sau
khi mất giá mạnh so với VND vào quí I/2008, có lúc tỷ giá tụt xuống 15.300đ/USD, lại
lên giá tới 9,38%: 16000đ/USD tháng 10/2007 so với hơn 17.500đ/USD cuối tháng
6/2008), một bộ phận tiền khác nằm ở khu vực đầu cơ vào một số hàng hoá vật tư chiến
lược như sắt, xi măng, xăng, dầu, phân bón... góp phần gây nên tình trạng nhập siêu 4
tháng đầu năm lên tới 63%…Còn lại phần lớn tiền tệ tham gia vào CPI
Lạm phát ở Việt Nam đến thời điểm cuối tháng 6/2008 ở mức cao nhất khu vực.
Lạm phát với tốc độ cao vào thời điểm nửa đầu năm 2008 đã trở thành “điểm nóng” nhất
và chống lạm phát đã được xác định là nhiệm vụ ưu tiên số một trong quản lý nền kinh tế
quốc dân ở Việt Nam.
11
Nhiều chuyên gia đã phân tích độ trễ về tác động của các nhân tố tiền tệ và các
nhân tố nội tại của sản xuất trên thị trường Việt Nam và đã chỉ ra các nhân tố tác động
đẩy lạm phát liên tục gia tăng với 3 nhóm nguyên nhân chính:
i) Nhập khẩu lạm phát qua
nhập siêu; mất cân đối cơ cấu đầu
tư và kém hiệu quả - đặc biệt là khu
vực đầu tư công và độ trễ của cơ chế
nới lỏng tiền tệ ưu tiên tăng trưởng từ
các năm trước. Đơn cử chỉ nhìn vào 2
con số: tốc độ tăng M2 tính dồn từ
2005 đến 2007 tăng 92% (trong đó
năm 2005: tăng 23,34%; năm 2006: tăng 33,59% và năm 2007 tăng 35%), trong
khi cũng 3 năm đó, GDP tăng tích luỹ khoảng 24,88% (2005: 8%; 2006:8,4% và
2007:8,48%). Như vậy, tốc độ tăng M2 trong 3 năm trước đã gấp 3,7 lần tốc độ
tăng GDP là quá cao so với cũng con số này bình quân tại các nước trong khu vực
thường không lớn hơn 1,5 lần.
ii) Ở Việt Nam từ lâu đã song song tồn tại 3 nền kinh tế độc lập tương đối
với nhau xét chủ yếu qua “cơ chế đầu vào” và một phần cơ chế sử dụng phương
tiện thanh toán hoàn toàn khác nhau gồm: (i) Khu vực kinh tế công của Nhà nước;
(ii) khu vực kinh tế tư nhân gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa và kinh tế hộ gia
đình; (iii) khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, khu vực (i), ở đầu
vào có rất nhiều nhân tố rẻ và độc quyền như: Giá quyền sử dụng đất, tiền công,
khấu hao... rất rẻ nhưng năng suất lao động rất thấp, hàm lượng giá trị lao động
cao và giá trị gia tăng rất nhỏ làm cho giá cả vẫn cao; khu vực (ii) và (iii) lại có
các nhân tố đầu vào khá cao và rất cao, đồng thời hầu như có rất ít nhân tố “ưu
đãi” nên nhìn chung, “giá xuất xưởng” của hai khu vực này cao và rất cao hơn so
với “giá cả sản xuất” của khu vực (i) và giá cả (giá bán) cao hơn giá hàng nhập
khẩu của hàng hoá cùng loại nên phải dùng các loại “hàng rào” để bảo hộ đã vô
12
tình cùng lúc đẩy cả giá sản xuất trong nước và giá nhập khẩu lên cao, tách rời giá
trị thị trðờng ở mức khá lớn nên cũng là nhân tố trực tiếp đẩy lạm phát lên cao.
iii) Lý do khác đến từ tình trạng Đôla hoá ở Việt Nam còn khá nặng nề, đã
trở thành một nhóm trong những nhóm nhân tố tác động trực tiếp đến chính sách
tiền tệ (CSTT) nên việc kiểm soát lạm phát càng trở nên khó lường hơn.
Xuất phát từ bối cảnh nói trên, các quyết sách lớn từ phía Chính phủ và Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) về việc chống lạm phát đã được triển khai:
Từ tháng 3/2008, đã chuyển mục tiêu tăng trưởng xuống cấp độ ưu tiên sau nhiệm vụ
chống lạm phát, theo đó, NHNN thực hiện CSTT thắt chặt và linh hoạt. Biểu hiện qua
một loạt cơ chế như:
Sử dụng quyền quản lý Nhà nước khuyến cáo các ngân hàng thương
mại (NHTM) không được nâng lãi suất huy động vượt quá 12% vào cuối tháng
2/2008 và đã chặn đứng được “cuộc đua” tăng lãi suất;
Các giải pháp kế tiếp là: khống chế tỷ lệ cho vay đầu tư chứng khoán, bất
động sản; tăng dự trữ bắt buộc đối với hầu hết các loại tiền gửi và các nhóm
NHTM; thu tiền từ lưu thông về bằng tín phiếu bắt buộc...; từ 19/5/2008, lần đầu
tiên công cụ lãi suất cơ bản được sử dụng như một quyền lực điều hành CSTT của
NHNN với tư cách là ngân hàng Trung ương (NHTW), theo đó, so với lãi suất cơ
bản (LSCB), các mức lãi suất của các NHTM không được vượt quá 150%. NHNN
dùng lãi suất này để điều hành mặt bằng lãi suất của thị trường trên cơ sở dựa vào
tín hiệu của hiệu ứng chống lạm phát phát ra từ chính thị trường hàng hoá, dịch vụ
- gắn chặt thị trường tiền tệ, tín dụng với thị trường hàng hoá để chống lạm phát,
thay dần những giải pháp can thiệp hành chính trực tiếp bằng các giải pháp sử
dụng chính các công cụ của thị trường để linh hoạt điều hành CSTT. Đến hết 6
tháng đầu năm, khi GDP tăng khoảng 6,8% thì tốc độ tăng M2 đã được khống chế
chỉ còn ở mức tăng khoảng 6% so đầu năm và tốc độ tăng tín dụng cũng chỉ ở mức
13
12%, nguy cơ thiếu thanh khoản của nhiều NHTM đã được giải toả từ giữa tháng
7... là những biểu hiện đầu tiên rõ nhất về mức độ an toàn hệ thống ngân hàng
trong khi góp phần chống lạm phát thành công thông qua điều hành CSTT và tín
dụng bằng cơ chế thắt chặt, linh hoạt của NHNN.
Tình hình diễn biến thị trường nói chung, vấn đề chống lạm phát nói riêng, trong 6
tháng cuối năm 2008 lại có rất nhiều dấu hiệu vừa khả quan, vừa khó lường do tác động
rất mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ ngày càng mang tính toàn cầu.
►Trong bối cảnh đó, các quyết sách của Việt Nam là:cơ cấu lại đầu tư công, cắt
giảm các dự án đầu tư kém hiệu quả, giảm nhập khẩu hàng hoá để hạn chế nhập khẩu lạm
phát; ngành Ngân hàng kết hợp giữa CSTT thắt chặt với linh hoạt tài trợ vốn có địa chỉ cụ
thể với các đơn vị thu mua hàng xuất khẩu cho nông dân ở các mặt hàng xuất khẩu chiến
lược như cá basa, cây công nghiệp, lương thực... Khi lạm phát có chiều hướng giảm thì
NHNN chỉ đạo các NHTM chủ động hạ lãi suất cho vay trước, hạ lãi suất huy động sau để
chia sẻ khó khăn với người vay và đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền, đồng
thời NHNN cùng “chia sẻ” khó khăn với NHTM thông qua việc trả lãi suất tiền gửi
DTBB, giảm dần mức DTBB, cho phép bán lại trước hạn tín phiếu bắt buộc, sử dụng
LSCB để phát tín hiệu và định hướng giảm dần mặt bằng lãi suất trên thị trường tín dụng
theo tín hiệu từ tốc độ giảm chỉ số giá tiêu dùng...
Tất cả các giải pháp nói trên đã đi vào cuộc sống một cách đúng địa chỉ, có hiệu quả
và đảm bảo được trạng thái an toàn thị trường tài chính (nguy cơ nhất là từ giữa tháng 5
đến giữa tháng 7/2008 - nhiều NHTM trong tình trạng rủi ro thanh khoản) ngay trong
nhịp điệu giảm giá - CPI tháng sau so tháng trước liền kề trong nửa sau năm 2008 như
sau: T7: 1,13%; T8: 1,56%; T9: 0,18%; T10: -0,19%; T11:-0,76%; T12:-0,68% => cả
năm 2008:19,98%; mức tăng trưởng GDP đạt 6,23%, thấp hơn dự kiến hồi đầu năm
khoảng 2% là mức hy sinh cần thiết để chống lạm phát; hạ tỷ lệ nhập siêu cả năm xuống
còn 27% trong khi cán cân thanh toán tổng thể tiếp tục bội thu nhờ dòng vốn FDI chảy
vào tới hơn 11 tỷ USD trong số 64 tỷ USD đăng ký; cân đối được thu chi NSNN trong
giới hạn thâm hụt cho phép (dưới 5%); dự trữ ngoại tệ vẫn duy trì ở mức an toàn (tương
đương khoảng trên 3 tháng nhập khẩu bình quân tính theo năm 2008); vốn đầu tư gián
tiếp chênh lệch chảy ra so với chảy vào khoảng 0,5 tỷ USD là mức không đáng lo ngại;
đồ thị lãi suất cơ bản theo đường cong song song và phản ánh đúng xu hướng của đồ thị
lạm phát, đã dẫn đường thành công cho lãi suất thị trường tín dụng đã và đang dần trả lại
mặt bằng lãi suất cuối tháng 12/2007 – lãi suất cho vay phổ biến tại thời điểm cuối tháng
12/08, đầu năm 2009 là: 11%/năm đối với khoản vay VND ngắn hạn, 12,5%/năm với
khoản vay VND trên 1 năm, lãi suất ưu đãi: 9%/năm... là các mức đã thấp hơn thời điểm
này một năm trước từ 0,5 đến 1%/năm. Tuy các khó khăn của NHTM còn nhiều, song
nguy cơ thì đã được đẩy lùi. Sự an toàn hệ thống song song với cuộc chiến chống lạm
phát thắng lợi ở mũi đột phá năm 2008 đã tạo thành một nét son rất đáng ghi nhận đối với
ngành Ngân hàng Việt Nam sau một năm đầy ắp những gian nan và thử thách.
14
2. Năm 2009
Không có những đột biến lớn, không bất thường về quy luật, diễn biến chỉ số giá tiêu
dùng năm 2009 cho cảm giác khá trầm lắng. Nhưng trong một năm nền kinh tế trầm,
thăng phức tạp, CPI vẫn có sự đảo chiều tương ứng.
Trên biểu đồ, tốc độ tăng CPI theo tháng đạt đỉnh 4 lần trong năm qua, ở các tháng
Hai, Sáu, Chín và Mười hai, với các mức tăng 1,17%; 0,55%; 0,62% và 1,38%. Quy luật
nén - nhả nới lỏng dần qua các vòng “xoắn ốc”, và lạm phát gia tăng sau mỗi chu kỳ được
hình thành.
Trong 8 tháng đầu tiên, diễn biến chỉ số giá là biểu hiện của kìm nén, ít nhiều theo tính
quy luật và cho cảm nhận an toàn. Tuy nhiên trong 4 tháng còn lại, đường biểu diễn xóc
nhẹ, báo hiệu những đột biến, để rồi tăng dần và dựng ngược lên trong tháng tận cùng của
năm, hiện thực hóa phần cảm nhận lơ lửng đâu đó về nguy cơ tái lạm phát.
15
3. Năm 2010
Năm 2010 lạm phát của cả nước ở mức 11,75% chỉ số tiêu dùng (CPI) tháng 12/2010
của cả nước tăng 1,98% qua đó đẩy mức lạm phát của cả nước lên 11,75% so với năm
2009. Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu Quốc Hội đề ra đầu năm (khoảng 8%).
Trong khi đó, nếu tính bình quân theo từng tháng (cách tính mới của cục thống kê) thì lạm
phát năm 2010 tăng 9,19% so với năm 2009.
Nhìn vào biểu đồ tỷ lệ lạm phát năm 2009-2010 ở ta có thể thấy lạm phát tăng cao
trong các tháng đầu năm và cuối năm, mức tăng có độ vênh lớn, tháng cao nhất so với
tháng thấp nhất lệch nhau đến hơn 1,5%. 3 tháng đầu năm CPI tăng cao nhưng sau đó có
liền 5 tháng tăng thấp về gần mức 0%, sau đó vượt lên trên 1%vào 4 tháng còn lại của
năm. Các tháng từ 9 đến 11, mức tăng đều đạt mức kỷ lục của 15 năm trở lại đây.
Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%. Tiếp đó là hàng ăn
(16,18%), nhà ở -vật liệu xây dựng (15,74%). Các ngành giao thông, hàng hóa và dịch vụ
khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm
giasvowis mức giảm gần 6% trong năm 2010. Chỉ số giá vàng tăng 36,72%,giá USD tăng
7,63%. Về CPI của các vùng miền, đáng chú ý nhất là chỉ số CPI khu vực nông thôn
tháng 12 tăng 2,04% cao hơn 1,87% của khu vực thành thị.
16
4. Năm 2011
Một trong những vấn đề nổi cộm của nền kinh tế Việt Nam năm 2011 là lạm phát. Đã
có những tháng, Việt Nam nằm trong số các quốc gia có lạm phát cao nhất thế giới.
Nếu tháng giêng năm 2011, lạm phát Việt Nam khởi điểm 7% so với cùng kỳ năm
2010 thì đúng 3 tháng sau đó, cuối tháng 4/2011, Tổng cục Thống kê Việt Nam chính
thức thông báo lạm phát hay chỉ số giá tiêu dùng (gọi tắt là CPI) nhảy vọt lên mức gần
18% so với một năm trước đó.
Với mức tăng xấp xỉ gần 18%, tốc độ leo thang của giá cả được cho là tăng nhanh nhất kể
từ hồi năm 2008.
Tuy nhiên, lạm phát Việt Nam vẫn chưa dừng lại ở đó. Lạm phát tháng 7 lên đến đỉnh
điểm, tăng hơn 22% so với cùng kỳ năm 2010 và tăng xấp xỉ 15% so với ngày đầu tiên
của năm 2011. Lạm phát tháng 7 của Việt Nam lúc này ở mức cao nhất Châu Á và đứng
thứ nhì thế giới, chỉ sau Venezuela.
Sau những tháng ngày được coi là hết sức khó khăn chống chọi với mức tăng giá cả,
lạm phát bắt đầu có dấu hiệu chững lại và tốc độ tăng chậm hơn trong quí 3 và đến những
tháng cuối cùng của năm, lạm phát được xem là bắt đầu giảm từ từ, chẳng hạn ở mức gần
22% trong tháng 10, xuống gần 20% trong tháng 11, và 18% trong tháng 12. Cho đến khi
chúng tôi thực hiện bài viết này, lạm phát trung bình cả năm 2011, là xấp xỉ 19% so với
năm 2010.
17
Như vậy, so với mục tiêu đề ra ban đầu, khống chế lạm phát toàn năm ở mức 7% đã
hoàn toàn thất bại.
Nguyên nhân là do việc phá giá đồng nội tệ hơn 9%, tăng giá xăng dầu lên gần 3,000
đồng/lít, cho đến việc điều chỉnh giá điện sinh hoạt hơn 15% được thực hiện một cách
liên tục, dồn dập và thiếu đồng bộ trong một thời gian ngắn đầu năm khiến chỉ số CPI
tăng không ngừng ở những tháng tiếp theo.
Hơn nữa, với nền kinh tế tăng trưởng quá nóng từ các năm trước đó, Chính phủ liên tục
bơm tiền vào nền kinh tế qua các biện pháp tín dụng mở rộng, khiến lượng tiền dư thừa,
đẩy giá cả hàng hóa lên cao một cách chóng mặt.
Với chính sách tiền tệ mở rộng, tổng phương tiện thanh toán toàn xã hội tính đến giữa
năm lên xấp xỉ 130% lượng GDP. Đi đôi với tốc tăng trưởng cao là cái giá phải trả cho
lạm phát cũng bị kéo lên theo.
Tạp chí kinh tế Economist hồi tháng 7, đã xếp Việt Nam vào một trong 7 nền kinh tế
mới nổi, có nguy cơ tăng trưởng nóng nhất thế giới
Với nền kinh tế quá nóng dẫn đến lạm phát là điều khó tránh khỏi, chính sách tài khóa mở
rộng cũng là nguyên nhân chính khác khiến tổng lượng tiền chung của toàn bộ nền kinh tế
bị đẩy lên cao. Cụ thể, là việc đầu tư công của chính phủ thông qua chi tiêu quá nhiều cho
khối doanh nghiệp Nhà nước. Một lần nữa, bà Phạm Chi Lan giải thích:
Chi tiêu công của Việt Nam trong suốt mấy năm vừa qua ở một tỷ lệ khá cao và là một
trong những nguyên nhân gây ra lạm phát. Chính vì vậy, trong 6 nhóm giải pháp cơ bản
để chống lạm phát ở Việt Nam, thì Chính phủ đề ra việc cắt giảm chi tiêu công và hạn chế
chi tiêu công xuống và giảm mức tín dụng quá nhiều và quá lớn ở các doanh nghiệp Nhà
nước cũng như các dự án liên quan đến đầu tư công. Bởi vì đây là khu vực thường gây ra
lãng phí lớn nhất, hiệu quả của nó thấp nhất và có cả những nhân tố tham nhũng ở đó nữa.
Với con số khoảng 300,000 dự án đầu tư công mỗi năm, lượng tiền đổ ra cho các dự án
này lên đến nhiều ngàn tỉ đồng cộng với số tiền thất thoát 68,000 ngàn tỉ đồng của
Vinashin hay 3,000 tỉ đồng của công ty cho thuê Tài chính 2 của Ngân hàng NN và
PTNN khiến lượng tiền đổ ra thị trường quá nhiều khiến lạm phát bùng nổ là điều dễ nhận
thấy. Do đó, vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế hiện nay với mục tiêu cắt giảm chi tiêu công
đang là trọng tâm hàng đầu mà Chính phủ Việt Nam phải nỗ lực.
Có thể nói rằng, quá trình đấu tranh chống lạm phát của Việt Nam sẽ là một con đươn
với quyết tâm kiềm chế lạm phát, thậm chí đánh đổi tăng trưởng đang là những ưu tiên
hàng đầu mà Chính phủ Việt Nam thực hiện.
18
5. Năm 2012
Sự đảo chiều của lạm phát đã thật sự gây “sốc” khi chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng
9/2012 lên đến 2,2%, cao nhất kể từ 16 tháng trở lại đây (5/2011). Dịch vụ y tế & giáo
dục cùng với các đợt tăng giá xăng dầu vừa qua đã trở thành tác nhân chính khiến “cơn
bão” lạm phát có khả năng quay lại vào cuối năm
19
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2012 tăng mạnh lên 2,2%, vượt dự đoán của các
chuyên gia kinh tế và cơ quan thống kê. Nếu không có các giải pháp hữu hiệu, thời gian
tới, nền kinh tế có quá nhiều yếu tố bất lợi để “hãm phanh” và việc khống chế lạm pháp
năm 2012 sẽ trở nên nan giải. Ngay đầu tháng 8, cơ quan giám sát tài chính quốc gia đã
khuyến cáo các nhà điều hành không thể chủ quan với lạm phát. “Độ trễ” của lạm phát
bao giờ cũng nằm trong vòng 6 tháng, nếu tỉ lệ bình quân 1% / tháng trong 4 tháng cuối
năm, lạm phát sẽ là 2 con số. Điều này sẽ tác động tiêu cực tới ổn định kinh tế vĩ mô vào
năm 2013.
Ba lần tăng giá xăng (1/8, 13/8 & 28/8) với mức tăng +2.650 đồng/lít đã khiến cho
chỉ số giá nhóm giao thông tăng vọt. Trong lúc này, nếu như Bộ tài chính tiếp tục điều
chỉnh tăng giá xăng vào những tháng cuối năm, CPI sẽ “bùng nổ” dưới tác động tiêu cực
của mặt hàng xăng dầu. Theo Tổng cục Thống kê, trong 11 nhóm của “rổ hàng hóa” tính
CPI, thuốc và dịch vụ y tế tăng đột biến nhiều nhất vơi tỉ lệ 17,02%. Trong đó, dịch vụ y
tế tăng 23,87% do các tỉnh, thành đã áp dụng giá viện phí mới trong tháng 9. Đây là hệ
quả tất yếu của việc thực hiện Thông tư liên tịch giữa Bộ Y tế và Bộ Tài chính về việc
điều chỉnh khung giá một số dịch vụ khám chữa bệnh. Bên cạnh đó, giá các sản phẩm,
dịch vụ giáo dục trong mùa khai giảng cũng tăng mạnh khiến chỉ số của nhóm này tăng
10,54%.
Một vấn đề được mọi người quan tâm là chỉ số giá tiêu dùng tăng không xuất phát
từ “sức mua” của người dân mà do quyền số của các nhóm y tế, giáo dục, giao thông
(xăng dầu) tăng mạnh. Điều này được cảnh báo như là một nguy cơ tái lạm phát và diễn
biến này sẽ xảy ra từ nay đến cuối năm, phá vỡ mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 1 con số
của Chính phủ. Thâm hụt ngân sách năm nay rất cao do nguồn thu gặp nhiều khó khăn.
Tình thế này buộc Chính phủ phải tìm nguồn tài trợ khác, thực hiện những chính sách làm
ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô, gieo mầm lạm phát. Việc điều chỉnh giá các mặt hàng thiết
yếu theo lộ trình giá thị trường đã chứng minh cho thấy khuynh hướng này đã xảy ra. Mặt
khác, lạm phát lần này đột ngột bộc phát trong lúc tăng trưởng tín dụng rất thấp. Đây là
một dấu hiệu đáng lo ngại vì chỉ số giá tiêu dùng tăng do chi phí đẩy, đình đốn sản xuất
chứ không phải do các yếu tố tiền tệ. Làm cho bài toán ngăn chặn lạm phát trở nên rắc rối
hơn so với những năm về trước. Theo các chuyên gia, nền kinh tế Việt Nam đang ở “vùng
trũng mấp mô”, lúc lạm phát bùng lên, tăng trưởng ở mức cao, sau đó bị “kéo giật lùi”,
giảm phát rồi lại tái lạm phát. Xu hướng này đã xuất hiện từ năm 2008 đến nay, có khả
năng kéo dài đến năm 2015. Chính vì vậy, việc dồn dập tăng chi, giải ngân vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước đã tác động làm đảo chiều xu hướng giá cả. Lạm phát cao đã quay trở
lại
Viên phí, điện, nước và xăng dầu là 4 nhóm hàng hóa cần phải được ngăn chặn
trước khi lạm phát quay trở lại trong năm này. Việc điều chỉnh tăng giá thường xuyên các
mặt hàng thiết yếu thường tạo ra những “đột biến” về chỉ số lạm phát, đe dọa trực tiếp đến
20
nền kinh tế, khiến chính sách vĩ mô đi chệch hướng, việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế, giáo
dục quá lớn thường tạo thay đổi khác biệt lên CPI mà quá khứ đã từng chứng kiến vào
giai đoạn cuối năm 2010
Các cây xăng lại treo bảng “hết xăng”, dấu hiệu của đợt tăng gía mới, ngành điện lại
“ngấp nghé” lên giá khi họ có quyền được xem xét lại giá bán sau 3 tháng quy định, gas
dự kiến tăng thêm 20.000-30.000 đồng/bình (12 kg), nhiều hãng sữa vừa thông báo sẽ
tăng 3,8%-5%,... Tất cả đều “nhúc nhích”, chuẩn bị cho một tăng giá hàng hóa, khiến
CPI có thể tiếp tục “bùng phát” vào quý 4/2012. Để đối phó với tình trạng này, một
chuyên gia kinh tế độc lập cho rằng, giải pháp tốt nhất lúc này là Chính phủ phải “neo”
giá của những dịch vụ công như điện, nước, xăng dầu và viện phí. Thậm chí, ngân sách
phải chấp nhận bội chi, tìm những nguồn vốn vay để tạm hỗ trợ cho nền kinh tế. Điều đó
có nghĩa, Nhà nước phải gánh nhiều hơn thay vì đẩy gánh nặng cho dân chúng và thị
trường nhằm giúp cho chỉ số CPI giảm đi.
Bên cạnh đó, các nhà điều hành chính sách vĩ mô cần phải cẩn trọng với “gói” nới
lỏng định lượng QE3 của Fed (Mỹ). Với tốc độ “bơm” 40 tỉ USD/mỗi tháng (không giới
hạn thời gian), Việt Nam và các nền kinh tế trên thế giới đang đứng trước nguy cơ nhập
khẩu lạm phát. Kinh nghiệm từ những năm về trước, mỗi lần nước Mỹ “bơm” gói định
lượng QE, giá xăng dầu và hàng hóa thế giới lại “bùng phát”, tác động mạnh đến chỉ số
CPI của Việt Nam. Một nhân tố tác động mạnh là giá vàng thế giới có xu hướng tăng, nhu
cầu đầu tư vào vàng sẽ trở lại trong lúc nguồn cung vàng trong nước bị hạn chế. Nếu
NHNN cho phép nhập khẩu vàng hoặc gia tăng nguồn cung vàng từ các thương hiệu vàng
miếng khác trên thị trường thì tỷ giá sẽ bị ảnh hưởng do nhu cầu nhập khẩu vàng tăng
cao. Tất cả những điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ nhập khẩu lạm phát từ nước ngoài do
nguyên nhân từ “gói” định lượng QE3 vừa tung ra.
Trong bối cảnh đó, để chống giảm phát và suy thoái, Chính phủ quyết định tiếp
tục giải ngân khoảng 130.000 tỷ đồng từ vôn ngân sách và trái phiếu cho các công trình
đầu tư công trong cả nước. Tuy nhiên với mức giải ngân “ồ ạt” bình quân mỗi tháng
21.000 tỉ đồng (cao hơn 1,5 lần mức giải ngân vốn đầu tư công của 6 tháng đầu năm), sẽ
khó có thể kiểm soát được hiệu quả của dòng tiền. Việc bơm một khối lượng lớn đầu tư
công và tín dụng trong một thời gian quá ngắn có thể tạo ra vòng xoáy lạm phát và bất ổn
vĩ mô mới. Chính vì vậy, để chỉ số CPI đạt 1 con số với tỉ lệ 7%, vốn ngân sách phải
“bơm” đúng địa chỉ, tạo việc làm, kích thích tăng trưởng và ưu tiên các dự án hoàn thành
sớm. Nếu ngược lại, đầu tư tràn lan, không hiệu quả, lạm phát sẽ bùng phát trở lại là điều
tất nhiên. Và như thế, Chính phủ phải kiểm soát chặt chẽ, kiên quyết thanh tra để ngăn
chặn tình trạng “té nước theo mưa”, tăng giá hàng hóa thiết yêu vô tội vạ, tác động
nghiêm trọng đến đời sống của người dân.
21
III. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
(1) Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá cao nhưng chất lượng thấp. Trong giai đoạn 2008
-2009 tốc độ tăng trưởng tín dụng trung bình đạt mức 25 – 30%, đặc biệt năm 2009
khi Chính phủ thực hiện gói kích cầu trị giá gần 08 tỷ USD để đối phó với cuộc khủng
hoảng tài chính – tiền tệ trên thế giới, trong đó nổi bật là chương trình cho vay hỗ trợ
lãi suất 4% trị giá 17.000 tỷ VNĐ (01 tỷ USD), thì chỉ riêng gói HTLS này đã đưa hơn
400.000 tỷ VNĐ vào lưu thông. Đầu tư của toàn xã hội cũng duy trì mức trên 40%
GDP trong giai đoạn 2008 – 2011. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng tín dụng và đầu tư
toàn xã hội ở mức khá cao so với nhiều quốc giá khác tuy nhiên tăng trưởng GDP của
Việt Nam trong giai đoạn này chỉ trung bình ở mức 6 – 7%.
(2) Tình trạng đầu tư công dàn trải và thiếu hiệu quả. Theo thống kê mỗi năm Việt
Nam đầu tư công khoảng 17-20% GDP, trong khi các nước trong khu vực chỉ dưới 5%
như Trung Quốc 3,5%, Indonesia 1,6%; nghiên cứu mới đây nhất của ông Vũ Anh
Tuấn - Viện Kinh tế Việt Nam cho thấy quy mô vốn đầu tư công trong 10 năm qua đã
tăng tới 3,2 lần, trung bình mỗi năm tăng 13,9 % . Tuy nhiên hiệu quả đầu tư công của
Việt Nam hiện còn rất kém, điển hình như hoạt động thua lỗ của Vinashin, công ty cho
thuê tài chính VFII. Hệ số ICOR (đo lường số đơn vị đầu tư tính theo % GDP để tạo
ra một đơn vị tăng trưởng GDP) tại khu vực nhà nước là 7,8 – cao hơn mức trung
bình chung của nền kinh tế là 5,2.
(3) Tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại diễn ra trong thời gian
dài:Trong giai đoạn 2008 – 2010 liên tục gia tăng từ mức 7,1 nghìn tỷ 2008 lên mức
115.900 tỷ đồng năm 2009 và mức 69 nghìn tỷ năm 2010; nhập siêu cũng gia tăng
mạnh từ mức 4,3 ỷ USD lên mức 12,2 tỷ USD năm 2009 và ước xấp xỉ 12,4 tỷ USD
năm 2010. Nhập siêu trong đầu năm 2011 lên đến 6,4 tỷ USD. Tình trạng này nếu tiếp
tục kéo dài đến nay gây khó khăn cho việc hoạch định triển khai chính sách tỷ giá, nỗ
lực giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ và quá trình tăng trưởng bền vững của
nền kinh tế.
22
IV. CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT VIỆT NAM.
1. Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt theo tín
hiệu thị trường; kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để bảo
đảm tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng dư nợ tín dụng hằng năm không vượt quá
mức đề ra trong Nghị quyết 11. Giữ mặt bằng lãi suất hợp lý. Ðiều hành tỷ giá chủ động,
phù hợp, không để biến động lớn. Giám sát chặt chẽ hoạt động tín dụng của các ngân
hàng thương mại; bảo đảm vốn cho sản xuất; kiểm soát chặt cho vay bất động sản và kinh
doanh chứng khoán; kiểm soát nợ xấu, bảo đảm thanh khoản và an toàn hệ thống ngân
hàng.
2. Tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, giảm sâu hơn bội chi ngân
sách; tăng cường tiết kiệm chi thường xuyên; rà soát, sắp xếp lại danh mục đầu tư
công, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và chuyển một phần đầu tư nhà nước sang đầu tư từ
các nguồn vốn khác. Kiểm soát chặt chẽ hiệu quả đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước. Bảo đảm nợ công trong giới hạn an toàn.
3. Tăng cường quản lý nhà nước về giá; xử lý nghiêm khắc các hành vi tăng giá
bất hợp lý, nhất là đối với các nguyên vật liệu quan trọng và các mặt hàng tiêu dùng thiết
yếu; công khai, minh bạch và tăng cường cơ chế thị trường đối với giá các hàng xăng dầu,
điện và những mặt hàng nhạy cảm khác chưa có cạnh tranh thị trường đầy đủ.
4. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền và quản lý thị trường để hạn chế
thấp nhất các tác động tăng giá do yếu tố tâm lý và đầu cơ. Các bộ và địa phương hữu
quan phải chủ động, kịp thời can thiệp thị trường hoặc trình cấp có thẩm quyền các giải
pháp ứng phó trong trường hợp cần thiết để bảo đảm không xảy ra tình trạng khan hiếm
hàng hóa, gây tăng giá đột biến, ảnh hưởng sản xuất và đời sống của nhân dân, nhất là rà
soát cân đối cung - cầu các loại hàng hóa thiết yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước
như: gạo, xăng, dầu, phân bón, xi-măng, sắt thép.
5. Kiểm soát chặt chẽ hơn việc nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích để giảm
nhập siêu và cải thiện cán cân thanh toán. Ðẩy mạnh xuất khẩu, tăng hàm lượng nội địa và giá
trị gia tăng của sản phẩm; phát triển sản xuất thay thế có hiệu quả hàng nhập khẩu; tiếp tục
khuyến khích thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn ODA và FDI (đặc biệt trong
phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp phụ trợ và nông nghiệp), cùng với việc kiểm soát, ngăn
chặn việc chuyển giá, trốn thuế. Tăng cường quản lý các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
(FII). Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút khách du lịch quốc tế và nguồn kiều hối.
Thứ sáu, thúc đẩy trên thực tế quá trình tái cấu trúc kinh tế vĩ mô và vi mô, gắn với các đột phá
chiến lược theo một chương trình tổng thể; đồng thời, chủ động giảm thiểu các tác động mặt trái
của quá trình này. Chủ động điều chỉnh cơ cấu đầu tư công theo hướng giảm dần tỷ trọng và nâng
cao hiệu quả; kiên quyết khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và tăng cường quản lý đầu tư từ
nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ và kiểm soát chặt chẽ đầu tư của doanh nghiệp
nhà nước. Ðẩy nhanh quá trình cổ phần hóa và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Phải rà
23
soát đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty. Tái cơ cấu
các ngân hàng thương mại và các định chế tài chính, tín dụng theo hướng tăng hợp lý về quy mô,
giảm nhanh số lượng các ngân hàng và tổ chức tín dụng yếu kém; nâng cao chất lượng tín dụng
và phát triển các dịch vụ ngân hàng.
Thứ bảy, cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất,
kinh doanh và mở rộng thị trường; bảo đảm đủ vốn, đủ ngoại tệ với lãi suất hợp lý cho sản xuất
các ngành hàng, các sản phẩm trọng điểm mà thị trường trong nước và xuất khẩu đang có nhu cầu
lớn. Hoàn thiện cơ chế chính sách để huy động các nguồn lực cho phát triển và nâng cao hiệu quả
đầu tư; đa dạng các hình thức đầu tư theo các cơ chế BOT, BT, BTO...; đẩy mạnh hình thức hợp
tác công - tư (PPP) để phát triển hạ tầng có quy mô lớn nhằm tạo bước đột phá trong lĩnh vực
quan trọng này.
Thứ tám, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và tăng cường công tác phòng, chống
tham nhũng. Cần tạo đột phá về nhận thức lý luận và chủ thuyết phát triển, củng cố giá trị chuẩn
và tạo đồng thuận xã hội chung, tăng cường cơ chế bảo vệ lợi ích quốc gia và đổi mới công tác
cán bộ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực hiện có hiệu quả chương trình cải cách
hành chính, chú trọng cải cách thể chế và thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và
nhân dân.
24
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- k10404a_n_5388.pdf