Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, Vi ệt Nam luôn khẳng định vai trò tích cực trong các diễn
đàn đa phương vềnhiều vấn đềquốc tế, ủng hộhợp tác vềnhân quyền trong ASEAN. Việt Nam
luôn chủ động tranh thủ kinh nghiệm quốc tếtrong lĩnh vực quyền con người, nâng cao chất
lượng vềđối thoại nhân quyềnmang tính xây dựng với các đối tác quốc tế. Trong Báo cáo quốc
gia kiểm điểm định kỳviệc thực hiện quyền con người ởViệt Nam được trình bày tại Đại hội
đồng LHQ tại Geneva (Thụy Sĩ) ngày 8/5/2009, Việt Nam cũng có nhấn mạnh đến việc tham gia
vào các diễn đàn, trao đổi, đối thoại quốc tếtrong khuôn khốAsean liên quan đến các vần đề
nhân quyền. Ngoài ra, Việt Nam và Asean còn cùng tham gia đối thoại trên các diễn đàn quốc tế
đa phương cũng như gia nhập các điều ước quốc tếvềnhân quyền
20 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2767 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p lệnh về Kí kết và Thực hiện
điều ước quốc tế. Pháp lệnh đã quy định cụ thể về nguyên tắc ký kết, phê chuẩn, phê duyệt, gia
nhập, bảo lưu và thẩm quyền quyêt định việc ký kết các điều ước quốc tế và quy định rõ “ Nhà
nước Việt Nam nghiêm chỉnh thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham
gia”. Thực hiện điều này, Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu để thực hiện các công ước trên và
nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia thành viên. Việt Nam đã trình và bảo vệ thành
công tất cả các báo cáo quốc gia liên quan các công ước quốc tế về quyền con người.
Cụ thể :
- Việt Nam đã trình bày và bảo vệ thành công báo cáo về việc thực hiện Công ước Chống
phân biệt Đối xử với Phụ nữ (CEDAW) vào ngày 11/7/2001
- Báo cáo về tình hình thực hiện Công ước Xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc
(CERD) ngày 15/8/2001.
- 2 báo cáo liên quan đến Công ước về quyền dân sự và chính trị (CCPR): báo cáo lần thứ
nhất bảo vệ ngày 12/7/1990; báo cáo gộp lần 2,3 bảo vệ ngày 14/7/2002.
- 2 báo cáo về Công ước quyền trẻ em (CRC) : báo cáo lần đầu tiên được trình và bảo vệ
ngày 20/1/1993; báo cáo gộp lần 2,3 bảo vệ ngày 12/1/2003.
- Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng xong Báo cáo quốc gia đối với tình hình thực hiện Công
ước về Chống phân biệt đối xử với Phụ nữ lần thứ 4 và bảo vệ Báo cáo tại trụ sở Liên hợp quốc
vào năm 2005.
Việc nộp và bảo vệ các Báo cáo thực hiện Công ước đã được các Ủy ban công ước
ghi nhận, đánh giá cao.
Ngày 8/5/2009, tại trụ sở của Liên Hợp Quốc ở Geneve (Thụy Sỹ), nhóm làm việc
của Hội đồng nhân quyền theo cơ chế kiểm điểm định kỳ (UPR) của Liên Hợp Quốc về tình hình
bảo vệ, thúc đẩy quyền con người ở các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc đã xem xét báo cáo
của Chính phủ Việt Nam. Bản báo cáo đã khẳng định chính sách nhất quán của Nhà nước Việt
Nam là tôn trọng các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội. Ở Việt
Nam, các dân tộc chưa từng có xung đột sắc tộc và các tôn giáo cùng chung sống hòa bình. Bảo
đảm quyền con người là nguyện vọng tha thiết của nhân dân Việt Nam vì đã từng bị tước bỏ
những quyền tự do cơ bản nhất khi phải làm người dân thuộc địa. Bản báo cáo cũng đề cập đến
những thành tựu của Việt Nam trong xây dựng hệ thống pháp luật toàn diện về đảm bảo, thúc
đẩy quyền con người và nhấn mạnh rằng hệ thống kiểm tra, giám sát và thực hiện pháp luật ở
Việt Nam không chỉ gồm các cơ quan Nhà nước mà còn có các tổ chức chính trị, xã hội, nghề
nghiệp với sự tham gia của nhân dân và không ngừng được đổi mới. Bản báo cáo cũng nhấn
mạnh rằng chính nhờ việc đảm bảo các quyền con người, các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội ở
Việt Nam đã có những bước tiến lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt ở mức cao
liên tục trên 7% / năm trong hơn một thập kỷ qua. Sau 20 năm đổi mới, thu nhập bình quân đầu
người đã tăng gấp 5 lần; tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn quốc gia giảm 4 lần … Tuy nhiên ở Việt
Nam vẫn còn những bất cập, khó khăn tồn tại cần giải quyết, trong đó hệ thống pháp luật còn
thiếu đồng bộ, có chỗ còn chồng chéo mâu thuẫn, chưa theo kịp thực tiễn dẫn đến khó khăn,
thậm chí hiểu sai làm ảnh hưởng đến việc đảm bảo tính hợp hiến, tính khả thi và minh bạch trong
quá trình đảm bảo quyền con người. Bản báo cáo đã nhận được sự đánh giá cao của các nước
thành viên. Các nước châu Phi bày tỏ sự cảm thông đối với những khó khăn của Việt Nam do
hậu quả chiến tranh, đất nước còn nghèo và đề cao kết quả mà Việt Nam đã đạt được. Các nước
khu vực Mỹ Latinh nêu đậm những nỗ lực của Việt Nam về việc thực hiện phát triển, cải cách tư
pháp, thúc đẩy bình đẳng giữa các dân tộc.Cuba đánh giá cao Việt Nam đạt được tiến bộ trên tất
cả các lĩnh vực quyền con người. Các nước ASEAN nhấn mạnh việc Việt Nam đã tham gia
nhiều điều ước quốc tế về quyền con người, tích cực tham gia hợp tác quốc tế về nhân quyền,
tăng cường sự phối hợp của Việt Nam để thành lập cơ chế nhân quyền ASEAN; ghi nhận thành
công của Việt Nam trong việc giữ vững ổn định xã hội. Trung Quốc đánh giá cao cách đề cập
xây dựng của Việt Nam đối với cơ chế UPR, chính sách phát triển cân bằng cả về kinh tế và xã
hội. Nga đánh giá cao khả năng nâng cao mức sống của Việt Nam, tận dụng các thành tựu thông
tin để phát triển quyền con người …
Trong khuôn khổ đa phương, Việt Nam đã tích cực phối hợp với các nước đóng góp
cho mục tiêu chung là thúc đẩy và bảo vệ quyền con người và những nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế về quyền con người. Việt Nam đã tham gia tích cực vào một số cơ chế của Liên hợp
quốc về quyền con người như Ủy ban nhân quyền nhiệm kỳ 2001-2003, Ủy ban phát triển xã hội
nhiệm kỳ 2001-2004, Hội đồng Kinh tế -Xã hội nhiệm kỳ 1998-2000. Tại các diễn đàn đa
phương này, Việt Nam đã tích cực phối hợp với các nước đóng góp cho mục tiêu chung là thúc
đẩy và bảo vệ quyền con người và những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế về nhân quyền.
Việt Nam cũng đã tham gia và đóng góp tích cực vào công việc của Nhóm các nước
có cùng quan điểm về Nhân quyền, nhóm Châu Á, góp phần vào việc khẳng định những quan
điểm và lập trường tích cực về nhân quyền tại Liên hợp quốc. Tại khóa họp lần thứ 42 của Ủy
ban Phát triển xã hội (2/2004), được sự hỗ trợ của một số nước trong khu vực, Việt Nam đã đưa
sáng kiến, kiến nghị chủ đề ưu tiên của khóa họp tiếp theo của Ủy ban là “Hợp tác quốc tế để
ngăn chặn và giải quyết các loại bệnh dịch nghiêm trọng”. Việt Nam cũng là một trong 3 nước
đang phát triển đã đưa ra dự thảo điều khoản quy định về “Hợp tác quốc tế” vào thành một điều
khoản chính trong nội dung dự thảo Công ước quốc tế về người tàn tật, làm cơ sở để các nước
đang phát triển thảo luận và đấu tranh trong các khóa họp hiện nay của Ủy ban đặc biệt dự thảo
công ước nêu trên.
II) Việt Nam tham gia đối thoại nhân quyền
Việc hợp tác và đối thoại giữa các quốc gia để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là một
yêu cầu cần thiết và khách quan. Việt Nam ủng hộ việc tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực quyền con người trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, vì mục tiêu chung là thúc đẩy và bảo vệ ngày
càng tốt hơn các quyền con người. Việt Nam cũng cho rằng không nước nào có quyền sử dụng
vấn đề quyền con người làm công cụ can thiệp công việc nội bộ của các quốc gia, gây đối đầu,
gây sức ép chính trị, thậm chị sử dụng vũ lực hoặc làm điều kiện trong quan hệ kinh tế, thương
mại… với các nước khác.
Thực tế trong những năm qua, Việt Nam đã tiến hành 13 vòng đối thoại với Hoa Kỳ (1994
– 2002), 4 vòng đối thoại với các nước Liên minh châu Âu (EU), 3 vòng đối thoại với Ô-xtrây-li-
a và một số vòng đối thoại khác với Na-uy, Thuỵ Điển, Thuỵ Sỹ..... Mục đích của Việt Nam
trong việc tăng cường đối thoại với các nước là nhằm giúp các quốc gia hiểu biết sâu sắc hơn về
những điều kiện đặc thù của từng nước như hệ thống chính sách, hoàn cảnh lịch sử, bản sắc văn
hoá,…với tinh thần chung là tìm kiếm điểm đồng, hạn chế bất đồng, nêu cao nguyên tắc khách
quan, không thiên vị, không chính trị hoá vấn đề quyền con người.
1. Đối thoại Việt- Mỹ
Sau 20 năm quan hệ bị gián đoạn và đầy khó khăn, ngày 11/7/1995 Tổng thống Clinton đã
tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam. Kể từ khi bình thường
hóa quan hệ chính trị, hợp tác giữa Việt- Mỹ ngày càng gia tăng và mở rông, tổ chức đối thoại
thường niên về nhân quyền nối lại năm 2006 sau hai năm bị gián đoạn.
Có thể thấy, Việt Nam đã đạt được một số tiến bộ về nhân quyền, nhất là trong việc mở
rộng quyền tự do tôn giáo, mặc dù vẫn còn nhiều quan ngại. Hai nước tiếp tục duy trì đối thoại
song phương về nhân quyền mang tính xây dựng, gồm cả những cam kết mới đây nhằm sửa đổi
Luật Hình sự của Việt Nam cho phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và cho phép báo chí nước
ngoài được mở văn phòng đại diện tại thành phố Hồ chí Minh.... Ghi nhận những tiến bộ này,
tháng 11/2006 Bộ Ngoại giao Mỹ đã đưa Việt Nam ra khỏi danh sách “các nước cần quan tâm
đặc biệt” vì cho rằng Việt Nam không còn là quốc gia vi phạm nghiêm trọng các quyền tự do tôn
giáo như quy định trong Đạo Luật Tự do Tôn giáo Quốc tế.
Trong cuộc đối thoại gần đây nhất, vòng 13 đối thoại giữa hai nước nhấn mạnh ”quan tâm
và thúc đẩy các quyền con người cho mọi người dân Việt Nam luôn là ưu tiên, nền tảng và tư
tưởng lớn xuyên suốt cho các chính sách luật pháp của Nhà nước Việt Nam”. Bên cạnh thông
báo về thành tựu trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biết trong phát triển kinh tế- văn hóa-
xã hội, cải cách pháp luật, đảm bảo và thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản của người dân, Việt
Nam cũng thẳng thắn phê phán việc một số giới ở Hoa Kỳ có cách nhìn sai lệch, thiếu khách
quan về những thực tế và tiến triển tích cực trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tôn giáo ở Việt
Nam, đi ngược lại chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ và xu thế của quan hệ hai nước, vẫn tìm
cách tiến hành nhiều hoạt động chống phá Việt Nam, cản trở sự tiến bộ của quan hệ hai nước.
Đoàn Hoa Kỳ ghi nhận các thành tựu mọi mặt của Việt Nam, kể cả những tiến triển tích
cực trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, và cho rằng đối thoại là thẳng thắn, xây dựng,
nghiêm túc, đạt kết quả tốt, giúp cho phía Hoa Kỳ hiểu thêm về tình hình nhân quyền tại Việt
Nam, bày tỏ cùng tiếp tục phối hợp để thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Qua
các cuộc đối thoại, hai bên đã đạt được sự nhất trí về quyết tâm tăng cường quan hệ giữa hai
nước, tiếp tục đối thoại để tăng cường hiểu biết, thu hẹp các khác biệt.
2. Đối thoại Việt Nam- EU
Nhìn chung, quan hệ chính trị giữa hai bên có những bước phát triển tốt đẹp trong thời
gian qua, Việt Nam vẫn tiếp tục giữ cơ chế đối thoại thường xuyên về dân chủ, nhân quyền bây
giờ mỗi năm 2 lần kể từ khi được khởi xướng năm 2001.
Nội dung chủ yếu của những cuộc đối thoại này vẫn là vấn đề tôn giáo, tự do hội họp, tư
do ngôn luận vẫn là những vấn đề được quan tâm và đưa ra thảo luận.
“Liên minh châu Âu chia sẻ mối quan ngại của công đồng quốc tế sau việc xét xử mới đây
một số nhà báo, những người đã đóng vai trò quan trọng trong việc phanh phui một vụ việc tham
nhũng, và e rằng công cuộc đấu tranh chống tham nhũng tại Việt Nam vì thế sẽ bị giảm sút.
Liên minh châu Âu mong muốn nhấn mạnh rằng các quyền dân sự và chính trị có tầm
quan trọng ngang nhau và các quyền này không thể bị tách rời”
3. Một số cuộc đối thoại khác
a. Việt Nam- Thụy sĩ
Việt Nam và Thụy Sĩ cũng có những cuộc đối thoại hàng năm về nhân quyền. Các vấn đề
nổi bật như liên quan đến luật hình sự và tố tụng hình sự, quyền bình đẳng giới, quyền của các
dân tộc được các quan chức cấp cao hai bên quan tâm và cùng mong muốn hợp tác trên các vấn
đề đó. Ngoài ra, những nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện Công ước về chống phân biệt
đối xử đối với phụ nữ, chương trình hành động quốc gia về phóng chống buôn bán trẻ em, phụ
nữ với hòa bình và an ninh được Thụy Sĩ ghi nhận.
b. Việt Nam- Na uy
Trong khuôn khổ hợp tác song phương, Việt Nam và Nauy đã thường niên tổ chức đối
thoại về quyền con người và sử dụng nó làm diễn đàn trung tâm trong đối thoại chính trị
Cuộc đối thoại nhân quyền lần thứ bảy này, được tổ chức tại Thủ đô Oslo của Nauy, trong
các ngày 14-15/5/2009, bao gồm cả 4 Hội thảo kỹ thuật về các chủ đề: bình đẳng giới, tội phạm
học, tiếp cận thông tin, nạn buôn bán người. ..
Trong quá trình đối thoại, phía Na Uy đã bày tỏ sự vui mừng về việc Việt Nam đã thông
qua Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng chống bạo lực gia đình. Những báo cáo của Việt Nam về
bình đẳng giới đã cho thấy quyết tâm xóa bỏ sự phân biệt đối xử về giới của Chính phủ và các
cấp, các ngành. Chúng ta cũng đã cung cấp thêm cho phía Na Uy những thông tin mới nhất về
quá trình kiện toàn bộ máy quốc gia về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ nhằm hướng
tới việc thực thi hiệu quả các luật và điều ước quốc tế về bình đẳng giới trên thực tế.
Nhìn chung, qua các cuộc đối thoại cho đến nay, việt Nam đã rất tích cực phối hợp với các
quốc gia khác trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, những nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế về quyền con người.Tuy nhiên có thể thấy, giữa việt nam và quốc tế vẫn còn khác biệt
một cách căn bản về tính phổ quát của nhân quyền.
III) Vấn đề nhân quyền trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
1) Khái quát chung về vấn đề xây dựng luật nhân quyền trong hệ thống pháp
luật Việt Nam
Xuất phát từ chủ trương không ngừng phát triển quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã
và đang xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm các quyền con người được tôn
trọng và thực hiện một cách đầy đủ nhất. Quyền con người, một khi đã được Hiến pháp và pháp
luật ghi nhận, sẽ trở thành ý chí chung của toàn xã hội, được xã hội tuân thủ và được pháp luật
bảo vệ.
Ngay sau khi giành được độc lập năm 1945, quyền con người, quyền công dân đã được
ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và sau đó tiếp tục
được khẳng định, mở rộng trong các Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 (sửa đổi năm 2001).
Hiến pháp Việt Nam năm 1992, văn kiện pháp lý cao nhất của Nhà nước Việt Nam, đã ghi nhận
một cách trang trọng, rõ ràng và toàn diện các quyền con người (tại các điều 2 và 50) và nội
dung các quyền này đã được thể hiện xuyên suốt trong các chương, mục của Hiến pháp, đặc biệt
được nêu tập trung tại Chương 5 về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Các quyền con người quy định trong Hiến pháp đã không ngừng được cụ thể hóa trong các
văn bản pháp quy của Việt Nam. Chỉ tính từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã ban hành 13.000
văn bản pháp luật các loại, trong đó có hơn 40 bộ luật và luật, trên 120 pháp lệnh, gần 850 văn
bản của Chính phủ và trên 3000 văn bản pháp quy của các bộ, ngành được thông qua và thực thi.
Riêng trong năm 2004, Quốc hội đã thảo luận và thông qua 13 luật và 8 pháp lệnh trong các lĩnh
vực khác nhau.
Như vậy, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã thể hiện đầy đủ tất cả các quyền cơ bản,
phổ biến của con người được nêu trong Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới năm 1948 và các công
ước quốc tế khác của Liên hợp quốc về quyền con người. Điều này chứng tỏ những tiến bộ vượt
bậc và những cố gắng rất lớn của Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm
quyền con người trong bối cảnh Việt Nam còn đang trong quá trình xây dựng một Nhà nước
pháp quyền, khi tình hình kinh tế, xã hội của đất nước còn nhiều khó khăn.
2) Bảo đảm quyền về dân sự chính trị
Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để cụ thể hóa nội dung quyền
con người quy định trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi, cũng như nội dung quyền con
người theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966. Trong số này, có những
đạo luật quan trọng, trực tiếp liên quan đến lĩnh vực dân sự chính trị như: Luật tổ chức Quốc hội,
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân,
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật tố tụng dân sự, Bộ Luật Hình sự, Bộ
Luật Tố tụng Hình sự, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân...
a) Quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà nước và xã hội
Hiến pháp Việt Nam nêu rõ: nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội
và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do
nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân; công dân có quyền tham gia quản lý Nhà
nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với
cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; công dân, không phân biệt
dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo... đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu
cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
b) Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin
Việt Nam tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin của
người dân. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 đã nêu rõ: "công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí; có quyền được thông tin theo quy định của pháp luật.” Hệ thống pháp luật Việt Nam về
báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình ngày càng được hoàn thiện theo hướng bảo đảm tốt
hơn quyền tự do ngôn luận của nhân dân. Luật Báo chí năm 1989, được sửa đổi và bổ sung ngày
12/6/1999, đã thể hiện đầy đủ chính sách của Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí của công dân nhằm tăng cường vị trí, vai trò và quyền hạn của báo
chí và nhà báo. Luật Báo chí qui định: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện
quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí. Không một tổ chức, cá nhân nào được
hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát
sóng". Luật Xuất bản cũng quy định công dân được quyền tự do công bố các tác phẩm cho công
chúng mà không bị kiểm duyệt. Luật Báo chí còn qui định: công dân được thông tin và phát biểu
ý kiến qua báo chí về tình hình đất nước và thế giới; quyền được tiếp xúc, cung cấp tin, bài, ảnh
và tác phẩm cho báo chí và nhà báo mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào;
quyền đóng góp ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật;
quyền phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí...
c) Quyền tự do hội họp và lập hội
Hiến pháp, Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Dân sự và nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam
quy định cụ thể các quyền của người dân được tự do hội họp và lập hội. Chính phủ cũng ban
hành một số Chỉ thị liên quan đến hiệp hội như Chỉ thị 01-CT/HĐBT năm 1989 về quản lý tổ
chức và hoạt động của các Hội quần chúng; Chỉ thị 202-CT/HĐBT năm 1990 về chấp hành các
quy định của Nhà nước về lập hội.
d) Quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo
Điều 70 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 nêu rõ: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những
nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ". Công dân theo hoặc không theo
tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 52 Hiến pháp). Nguyên tắc không phân
biệt đối xử vì lý do tôn giáo còn được thể hiện trên mọi lĩnh vực như quyền bầu cử và ứng cử
(Điều 54 Hiến pháp), trong các quan hệ dân sự, lao động, kết hôn (các Điều 8, 35, 45 Bộ Luật
Dân sự) và nhiều văn bản pháp quy khác như Bộ Luật Tố tụng Hình sự, Luật Đất đai, Luật Giáo
dục... Các tổ chức tôn giáo hợp pháp được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường
đào tạo chức sắc, xuất bản kinh sách, sửa chữa và xây dựng cơ sở thờ tự theo quy định của pháp
luật. Nhà nước chủ trương giao đất cho cộng đồng tín đồ sử dụng lâu dài và đất đai của tôn giáo
không phải chịu thuế như các loại đất khác (Điều 2 Nghị định 94/CP ngày 25/8/1994). Luật pháp
Việt Nam cũng nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân, cưỡng ép dân theo đạo, bỏ đạo hoặc phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn
giáo (Điều 8 Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo) và quy định các hình phạt thích đáng đối với các
tội danh này (các Điều 87 và 129 Bộ Luật Hình sự). Các quy định pháp lý trên hoàn toàn phù
hợp với tinh thần và nội dung về tự do tín ngưỡng và tôn giáo đã được nêu trong Tuyên ngôn
Nhân quyền và Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.
Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo, được Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam thông qua
ngày 18/6/2004 và có hiệu lực ngày 15/11/2004. Pháp lệnh đã cụ thể hóa các quy định của Hiến
pháp và thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo
trong thời kỳ đổi mới, đáp ứng đầy đủ hơn nguyện vọng và nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo, tâm
linh của nhân dân và bảo đảm sự tương thích với các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Điều 38 của Pháp lệnh nêu rõ: "Trong trường hợp
điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Pháp
lệnh này thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó”. Ngày 1/3/2005, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP hướng dẫn cụ thể việc thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo. Ngày 4/2/2005, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị 01/2005/CT-TTg về một số công tác
đối với đạo Tin lành, trong đó nghiêm cấm việc ép buộc đồng bào theo đạo hoặc bỏ đạo, tạo điều
kiện để các chi hội Tin lành xây dựng nơi thờ tự và đăng ký sinh hoạt tôn giáo…
e) Quyền bình đẳng của các dân tộc
Điều 5 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 nêu rõ: "Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc
có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập
quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về
mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc ít người".
Công dân Việt Nam không phân biệt dân tộc đều bình đẳng trước pháp luật, được hưởng các
quyền và thực hiện nghĩa vụ công dân như nhau (Điều 52 của Hiến pháp). Các quy định trên của
Hiến pháp đã được thể chế và cụ thể hóa trong các văn bản luật khác nhau.
Về mặt thể chế, Hội đồng Dân tộc do Quốc hội bầu ra theo quy định của Hiến pháp (Điều
94), bên cạnh các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của một cơ quan của Quốc hội. Hội đồng
có nhiệm vụ nghiên cứu và kiến nghị Quốc hội về các vấn đề dân tộc, giám sát việc thi hành
chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có
đồng bào dân tộc ít người. Chính phủ có trách nhiệm tham khảo ý kiến Hội đồng Dân tộc trước
khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc. Trong Chính phủ có một cơ quan cấp bộ là
Uỷ ban dân tộc, chuyên trách công tác dân tộc.
Các quyền chính trị của đồng bào dân tộc ít người được tôn trọng và bảo vệ. Công dân
Việt Nam thuộc các dân tộc ít người có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, ứng cử vào
Quốc hội và Hội đồng nhân dân như mọi công dân khác theo quy định tại Điều 53 và 54 của
Hiến pháp. Hiện nay có nhiều đại biểu của dân tộc ít người giữ các vị trí lãnh đạo, kể cả cấp cao
nhất trong bộ máy lãnh đạo của Quốc hội và Chính phủ Việt Nam. Số đại biểu Quốc hội khoá
XI, nhiệm kỳ 2002-2007 là người dân tộc ít người hiện có 86/498 người (chiếm 17,27% số đại
biểu Quốc hội, cao hơn tỷ lệ 13,8 % dân số là người dân tộc ít người). Tỷ lệ đại biểu dân tộc ít
người tại Hội đồng nhân dân các cấp cũng khá cao: 14% ở cấp tỉnh, thành phố; 17% cấp huyện
và 19% cấp xã, phường
g) Quyền sống, được tôn trọng về nhân phẩm và bất khả xâm phạm về thân thể
Quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được tôn trọng danh dự và nhân
phẩm, không bị tra tấn, nhục hình của mọi cá nhân đã được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam
và được cụ thể hóa trong nhiều văn bản luật, đặc biệt là các Bộ luật Hình sự và Tố tụng Hình sự.
Hiến pháp Việt Nam quy định mọi người dân đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu
không có quyết định của Toà án nhân dân hoặc của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp
phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người phải đúng pháp luật. Mọi hình thức truy bức, nhục
hình, đối xử vô nhân đạo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người dân đều bị nghiêm cấm.
Ngoài ra, mọi người dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; thư tín, điện thoại, điện tín của cá
nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam cũng được Nhà nước
Việt Nam bảo hộ các quyền trên.
Bộ luật Hình sự Việt Nam đã dành 18 điều luật quy định những mức án nghiêm khắc đối
với các tội trực tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm đến quyền sống của con người. Do yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm, nhất là tội phạm ma tuý, Việt Nam vẫn duy trì hình phạt tử hình.
Hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; không áp
dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi
con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Nhà nước Việt Nam đã và đang chủ trương thu hẹp dần phạm vi áp
dụng hình phạt tử hình và tiến tới xóa bỏ hình phạt này trong tương lai. Theo hướng đó, bộ Luật
Hình sự Việt Nam năm 1999 đã giảm thiểu việc áp dụng án tử hình từ 44 tội danh xuống còn 29
tội danh.
h) Quyền tự do đi lại và cư trú
Quyền tự do xuất, nhập cảnh của công dân Việt Nam đã được cụ thể hóa trong Nghị định
05/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 3/3/2000. Việt Nam cũng đã ký kết Hiệp định lãnh sự (với
17 nước), Hiệp định tương trợ tư pháp (với 15 nước), Hiệp định kiều dân, Hiệp định thoả thuận
miễn thị thực (với 41 nước), đơn phương miễn thị thực nhập cảnh cho công dân một số nước,
qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất nhập cảnh, cư trú của công dân và người nước ngoài,
tạo cơ sở pháp lý để thực hiện công tác bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài cũng như giải
quyết các vấn đề phát sinh từ việc cư trú, đi lại của công dân Việt Nam và người nước ngoài ở
Việt Nam. Với sự đổi mới của đất nước, với chính sách đại đoàn kết dân tộc, đã tạo nên một "làn
sóng người trở về" trong số những người Việt Nam định cư ở nước ngoài: nếu năm 1987 chỉ có
8.000 lượt đồng bào về thăm đất nước, thì đến năm 2004 con số này đã lên đến trên 430.000.
3) Đảm bảo thực hiện các quyền con người về kinh tế, xã hội và văn hóa
a) Quyền phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất của người dân
Hiến pháp Việt Nam năm 1992 đã khẳng định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bao gồm nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước;
kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Nhà nước Việt Nam tôn trọng các thành phần kinh tế; những người có
năng lực và điều kiện ở mọi thành phần kinh tế đều được Nhà nước tạo điều kiện để tham gia
vào quá trình phát triển. Đặc biệt, Luật Doanh nghiệp ban hành năm 2000 đã tạo ra một sức sống
mới cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Một trong những thành tựu nổi bật nhất của Việt Nam bảo đảm quyền con người là đạt
được những tiến bộ vượt bậc về xoá đói giảm nghèo, phát triển con người và chất lượng
cuộc sống. Xoá đói giảm nghèo được coi là mục tiêu chiến lược quan trọng trước mắt và
lâu dài với nhiều chương trình đặc biệt như Chương trình 143 và dự án hạ tầng cơ sở thuộc
Chương trình 135, hỗ trợ người nghèo bằng chính sách cho vay tín dụng ưu đãi. Với những
chính sách và chương trình mục tiêu, từ 1986 đến nay, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam liên tục giảm.
Từ 70% số hộ nghèo (theo tiêu chuẩn Việt Nam) cuối thập niên 1980 xuống 58% năm 1992 -
1993, 37% năm 1997 - 1998, năm 2004 còn khoảng 8%. Tính theo chuẩn nghèo của quốc tế đã
giảm 50% số người nghèo - đạt được mục tiêu 1 trong các Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp
quốc trước thời hạn năm 2015
b) Các quyền về xã hội
c) Quyền về y tế
Quyền được chăm sóc sức khỏe của con người luôn luôn là một mục tiêu ưu tiên trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước Việt Nam. Lấy dịch bệnh HIV làm ví dụ,
tháng 3/2004, Thủ tướng Chính phủ đã thông qua "Chiến lược phòng chống HIV/AIDS ở Việt
Nam cho đến năm 2010 và phương hướng tới 2020."
Và quyền của người sống với HIV ở Việt Nam được bảo vệ bởi một số văn bản
pháp lý và chính sách trong đó có :
Chỉ thị 54 của Ban Bí thư TW Đảng
Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS tới năm 2010 và tầm nhìn 2020
Luật phòng chống HIV/AIDS
Các chính sách và luật pháp trên đảm bảo các quyền của nguời sống với HIV:
Xét nghiệm tự nguyện và giữ bí mật kết quả xét nghiệm
Làm việc và không bị phân biệt đối xử trong tuyển dụng và tại nõi làm việc-
Được tham gia các cơ sở giáo dục và không bị phân biệt đối xử
Được tiếp cận bình đẳng tới chăm sóc sức khoẻ và các phương tiện giảm hại,
như bao cao su, và bơm kim tiêm sạch
Tham gia vào xã hội.
4) Đảm bảo quyền của phụ nữ, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, gia đình, người già,
người tàn tật
a) Đảm bảo quyền của phụ nữ, xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ
Nhà nước Việt Nam thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ thông qua các quy định cụ thể
trong Hiến pháp và pháp luật, đặc biệt là Bộ luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi) năm 2000.
Ngày 21/1/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 19/2002/QĐ-TTg về việc phê
duyệt Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đến 2010. Các văn bản pháp lý đã
cụ thể hoá quyền bình đẳng của phụ nữ với nhiều cơ hội tham gia các hoạt động chính trị, kinh
tế, văn hoá và xã hội.
b) Đảm bảo quyền trẻ em
Hiến pháp và pháp luật Việt Nam có nhiều điều khoản quy định riêng về bảo vệ quyền của
trẻ em như: Hiến pháp năm 1992; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (12/8/91); Luật Phổ
cập giáo dục tiểu học (12/8/91); Luật Bảo vệ môi trường (27/12/93); Luật Ngân sách nhà nước
(20/3/96); Luật Giáo dục (2/12/98); Bộ luật Hình sự (21/12/99); Luật Hôn nhân và gia đình
(9/6/2000) v.v... Uỷ ban thiếu niên nhi đồng của Quốc hội đã tích cực phối hợp với các cơ quan
chức năng bảo đảm thực hiện tốt nhất những chủ trương, chính sách nói trên. Để thực hiện việc
bảo đảm quyền của trẻ em, trong Chính phủ có một cơ quan cấp Bộ là Uỷ ban Bảo vệ và Chăm
sóc Trẻ em và Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách về chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em,
dinh dưỡng, chính sách giáo dục, phổ cập tiểu học, phúc lợi xã hội cho trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn và chính sách chăm lo phát triển văn hoá tinh thần cho trẻ em. Việt Nam đã trở
thành một trong những nước Châu Á đầu tiên và nước thứ 2 trên thế giới ký và phê chuẩn Công
ước Quốc tế về Quyền trẻ em, là nước tích cực thực hiện cam kết, hợp tác với quốc tế nhằm cải
thiện phúc lợi trẻ em trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp
c) Đảm bảo quyền của người tàn tật và nạn nhân chất độc màu da cam
Hiến pháp năm 1992 ghi rõ: "Người già, người tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa
được Nhà nước và xã hội giúp đỡ. Nhà nước và xã hội tạo mọi điều kiện cho trẻ em tàn tật được
học văn hoá và học nghề phù hợp". Năm 1998, Nhà nước ban hành Pháp lệnh về Nguời tàn tật
quy định: “Nhà nước khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho người tàn tật thực hiện bình đẳng
các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời
sống, hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội. Người tàn tật được Nhà nước và xã
hội trợ giúp, chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng tạo việc làm phù hợp và đuợc hưởng các
quyền lợi khác theo quy định của pháp luật”. Điều 31 của Pháp lệnh quy định lấy ngày 18-4 hàng
năm là Ngày bảo vệ, chăm sóc người tàn tật. Bộ Luật lao động Việt Nam đã quy định các doanh
nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam có trách nhiệm nhận lao động là người tàn tật vào làm việc với tỷ
lệ từ 2% đến 3% so với tổng số lao động. Doanh nghiệp nào không thực hiện được thì trích một
phần lợi nhuận để đóng góp vào quỹ hỗ trợ việc làm cho người tàn tật.
5) Đánh giá chung về mặt tích cực và hạn chế của Việt Nam trong việc thực thi
quyền con người
a) Thành tựu:
1. Để cụ thể hóa các quyền kinh tế hiến định của công dân, Quốc hội đã ban hành bộ
luật lao động, luật doanh nghiệp, luật khuyến khích đầu tư trong nước...Các quyền xã hội của
công dân được bảo đảm thực hiện theo cơ chế được quy định tại luật hôn nhân và gia đình, nghị
định của chính phủ về chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, luật giáo dục quy định quyền học
tập của công dân.
2. Ngoài các bộ luật quy định quyền công dân nói chung, luật pháp Việt Nam cũng
đã chú trọng tới quyền lợi của từng nhóm công dân đặc thù, những nhóm người dễ bị tổn thương,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Điều 63, HP 92 quy định các luật bảo vệ quyền của công dân nữ,
trên nguyên tắc bình đẳng về giới, đồng thời quy định những đặc thù và những ưu tiên đối với
phụ nữ. Điều này thể hiện rõ trong BLDS, BLLĐ...Bên cạnh đó là Luật phổ cập giáo dục, luật
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nhằm bảo vệ các quyền của trẻ em. Quy chế pháp lý đặc biệt
của người chưa thành niên còn được quy định cụ thể, chi tiết trong các luật như BLDS, BLHS,
BLLĐ...
Các quyền và tự do cơ bản của con người quy định trong các Công ước quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia được pháp luật Việt Nam tôn trọng trên cơ sở nhà nước Việt Nam chấp nhận
quan điểm về giá trị ưu thế của chúng so với luật pháp trong nước. Việc chuyển hóa các công
ước mà Việt Nam đã tham gia thành quy phạm luật pháp quốc gia đã trở thành một nguyên tắc.
Như vậy, bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và đặc biệt là công tác lập pháp
của các cơ quan nhà nước, các quyền con người được thực hiện trên cơ sở một mặt bảo đảm tính
phổ quát của các quyền, mặt khác thể hiện nét đặc thù của chúng trong thực tiễn Việt Nam.
b) Hạn chế:
Mặc dù đã dạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng
tình hình thực hiện quyền con người ở Việt Nam trong thời gian qua cũng đã bộc lộ nhiều mặt
hạn chế.
Thứ nhất, hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung, trong lĩnh vực quyền con người nói
riêng, còn chưa đồng bộ, có chỗ còn chồng chéo, mâu thuẫn dẫn tới khó khăn, thậm chí hiểu sai,
trong quá trình vận dụng và thực thi pháp luật ở cơ sở. Đây chính là vật cản lớn nhất đối với sự
phát triển của xã hội cũng như trong việc thực thi các quyền con người. Nhận diện thách thức đó,
Chính phủ Việt Nam đang triển khai Chiến lược Xây dựng và Hoàn thiện Hệ thống Pháp luật
Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, trước mắt là rà soát lại toàn bộ hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật nhằm loại bỏ các văn bản luật mâu thuẫn, chồng chéo hoặc
không còn phù hợp với thực tiễn; bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất, tính khả thi, công khai,
minh bạch, dễ tiếp cận và dễ thực hiện của các văn bản quy phạm pháp luật này.
Quyền con người được Hiến pháp và Luật quy định. Tuy nhiên do Hiến pháp là văn bản
có tính trừu tượng và khái quát nên nhiều quy định của Hiến pháp muốn được đưa và chính sách
một cách hiệu quả cần có luật hướng dẫn thi hành. Trong lĩnh vực quyền con người, một số quy
định của hiến pháp còn chưa kịp thời cụ thể hóa bằng các văn bản pháp luật khác. Dân chủ trực
tiếp là biện pháp hữu hiệu trong việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Một trong những biểu hiện của hình thức dân chủ trực tiếp được ghi nhận
trong Điều 53 HP là quyền của công dân tham gia biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý
dân. Trên thực tế, người dân có không ít cơ hội tham gia quản lý nhà nước và xã hội và hình thức
phổ biến được áp dụng là đóng góp ý kiến về những vấn đề lớn, quan trọng trước khi cơ quan
nhà nước ra quyết sách. Tuy nhiên, những ý kiến này chỉ có giá trị tham khảo chứ chung không
giống với ý nghĩa của kết quả trưng cầu dân ý.
Một số quyền tự do cá nhân chưa được cụ thể hóa ở tầm văn bản lập pháp. Ví dụ như
quyền lập hội của công dẫn vẫn được thực hiện theo quy định của Luật số 102 ban hành từ năm
1957. Từ đó đến nay, với sự thay đổi của tình hình kinh tế, xã hội, chắc chắn Luật 102 có những
điều khoản lỗi thời và không đáp ứng nhu cầu điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các Hội
trong hoàn cảnh hiện nay.
Hiến pháp xác định tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền cơ bản của con người. Tuy nhiên,
cho đến nay, những chính sách của Đảng và Nhà nước về tự do tín ngưỡng, tôn giáo chưa được
thể chế hóa bằng một đạo luật. Chính vì vậy, có nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động tôn giáo
chưa được điều chỉnh một cách kịp thời: cơ chế bảo đảm sự bình đẳng của các tôn giáo trước
pháp luật, địa vị pháp lý của các tôn giáo ở Việt Nam, quyền và nghĩa vụ của các tín đồ, chức
sắc...việc bảo hộ cơ sở thờ tự của các tổ chức tôn giáo, trách nhiệm của các cơ quan tổ chức
trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Một số quan hệ khác trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội cũng chưa được quy
định bằng văn bản pháp luật
Thứ hai, đất nước Việt Nam trải dài hơn 2.000 km từ Bắc xuống Nam, trong đó địa hình
núi đồi chiếm ba phần tư diện tích đất nước. Dân cư sống phân tán trên các vùng miền với ngôn
ngữ, phong tục, tập quán và điều kiện sinh hoạt rất khác nhau. Đặc biệt, những người dân sống ở
vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, do hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ xã
hội như y tế, giáo dục, thông tin... nên trình độ học vấn còn thấp, sự hiểu biết về pháp luật, chính
sách cũng như năng lực tuân thủ pháp luật còn hạn chế. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho các
cơ quan chính quyền, từ trung ương tới địa phương, trong việc xây dựng và triển khai các chính
sách cụ thể nhằm đảm bảo các quyền của người dân, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của
đồng bào cũng như thu hẹp khoảng cách phát triển giữa miền núi và đồng bằng, nông thôn và
thành thị. Việc thi hành pháp luật cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Dù tầm quan trọng của
việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được thừa nhận ở Việt Nam nhưng chất lượng của
cong tác này còn chưa cao, phương pháp và hình thức tiến hành còn khô khan, đơn điệu, và
mang tính hình thức cao.
Thứ ba, tuy đạt tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định trong các năm qua, Việt Nam vẫn là
một nước nghèo, xuất phát điểm thấp, đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng núi,
vùng sâu, vùng thường bị thiên tai, còn nhiều khó khăn. Mặc dù Chính phủ đã dành nhiều ưu tiên
cho phát triển các vùng đặc biệt khó khăn thông qua các Chương trình 134, 135... nhưng do
nguồn lực của đất nước còn hạn chế nên ở nhiều địa phương, cơ sở vật chất của các ngành y tế,
giáo dục, khoa học, văn hóa, thông tin, thể thao... còn nhiều thiếu thốn, ảnh hưởng đến việc
hưởng thụ đầy đủ các quyền của người dân.
Thứ tư, sự phát triển của kinh tế thị trường kéo theo những vấn nạn xã hội đáng lo ngại.
Thất nghiệp gia tăng; sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng miền
còn lớn; những tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS có chiều
hướng lan rộng; tai nạn giao thông ngày càng tăng; môi trường sống bị ô nhiễm... Bên cạnh đó,
những phong tục, tập quán và định kiến mang tính địa phương vẫn còn nặng nề tạo nên khoảng
cách về giới, nhất là trong nhận thức. Tư tưởng trọng nam khinh nữ; nạn ngược đãi phụ nữ, bạo
lực trong gia đình vẫn tồn tại, nhất là ở những nơi trình độ dân trí còn thấp. Những vấn nạn này
không chỉ ảnh hưởng đến từng người dân trong việc hưởng thụ các quyền, đặc biệt là quyền sống
và quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, mà còn là thách thức đối với các cơ quan chính quyền
trong việc xây dựng và triển khai các chính sách nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của
người dân.
Thứ năm, những biến động của môi trường quốc tế đang có những tác động tiêu cực tới
Việt Nam. Các loại bệnh, dịch bệnh chưa được giải quyết dứt điểm và tiếp tục diễn biến phức tạp,
đi cùng với biến đổi khí hậu mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng đã và
đang làm cho thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng nặng nề hơn. Những thách thức này
không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới mỗi người dân mà còn làm phân tán nguồn lực của đất nước,
làm giảm hiệu quả của các chính sách khuyến khích và thúc đẩy phát triển con người.
Thứ sáu, trình độ và nhận thức của một bộ phận cán bộ Nhà nước, kể cả ở trung ương và
địa phương về quyền con người còn nhiều hạn chế: không chỉ không nắm được các quy định của
luật pháp quốc tế, nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên của các công ước
quốc tế về quyền con người, mà đôi khi còn nắm không chắc các quy định của luật pháp và chủ
trương chính sách của Nhà nước, do vậy có nơi có lúc còn để xảy ra các vụ việc vi phạm, làm
hạn chế và ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền của người dân. Tình trạng một số cơ quan nhà
nước là những người thi hành công vụ làm trái pháp luật, tham nhũng, quan liêu, có nhiều trường
hợp vi phạm nghiêm trọng quyền con người, quyền công dân. Các vụ việc tham nhũng xảy ra tập
trung ở một số lĩnh vực như tài chính, tín dụng, thương mại và thậm chí là ở ngay trong các cơ
quan bảo vệ pháp luật. Sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, công chức đã làm cho
nhân dân bất bình và giảm lòng tin.
c) Yêu cầu đặt ra trong việc bảo vệ quyền con người
Trong thời kỳ đổi mới, quá độ lên CNXH của nước ta hiện nay, nội dung, nhu cầu và điều
kiện bảo đảm thực hiện quyền con người rất đa dạng và có sự khác biệt giữa các tầng lớp người,
giữa các vùng. Để đảm bảo thực hiện những yêu cầu mới về quyền con người thì ngoài điều kiện
tiên quyết là độc lập dân tộc thì cần phải có những điều kiện cụ thể nhất định khác.
Quyền con người phải được bảo vệ bằng một chế độ pháp luật. Có thể nói, quyền con
người và pháp luật, có mối quan hệ khó có thể tách rời:
- Pháp luật chính là phương tiện ghi nhận hay pháp lý hoá giá trị xã hội, quyền tự nhiên
của con người. Nếu coi quyền con người là cơ sở tự nhiên, mỗi người sinh ra đã được thụ hưởng,
nắm giữ và sử dụng, vì đơn giản họ là con người, thì trên thực tế, như đã phân tích, quyền tự
nhiên đó, không tự động đến với mỗi con người và mỗi dân tộc. Và chuyển trạng thái từ quyền tự
nhiên sang quyền pháp lý, nghĩa là phải được ghi nhận dưới một hình thức pháp luật thực định
của Nhà nước thì quyền tự nhiên đó mới là quyền. Pháp luật vừa là công cụ của nhà nước, vừa
là công cụ của nhân dân trong việc bảo vệ quyền con người.
- Pháp luật quốc gia còn là phương tiện chứa đựng các điều kiện đảm bảo khác về chính
trị - tư tưởng, văn hoá, kinh tế, xã hội và thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người Do
đó, việc hoàn thiện pháp luật về quyền con người phải được đặt ở thứ tự ưu tiên. Tuy vậy, quyền
và nghĩa vụ của công dân không chỉ được quy định trong Hiến pháp và luật mà còn được chứa
đựng trong các văn bản dưới luật như pháp lệnh, các nghị định của Chính phủ. Nhưng từ nguyên
tắc hiến định, các văn bản dưới luật, không được quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản mà chỉ là cụ thể hoá, chi tiết hoá các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của
công dân trong Hiến pháp và luật. Do đó, đòi hỏi đặt ra đối với các văn bản dưới luật không được
ràng buộc và hạn chế việc thực hiện các quyền hiến định và luật định, mà phải tạo cơ sở thuận
lợi, quy định cách thức, biện pháp cụ thể để công dân dễ dàng thực hiện được các quyền hiến
định và luật định.
Để đảm bảo những yêu cầu về quyền con người thì quốc gia phải ổn định và phát triển về
mặt kinh tế, mà trước hết là xóa đói, giảm nghèo, giảm thất nghiệp, tiếp theo là phải đảm bảo
quyền sở hữu tài sản của cá nhân, quyền tự do kinh doanh, phát triển kinh tế hoàng hóa nhiều
thành phần.
Một điều kiện khác không thể thiểu là việc nâng cao dân trí của công dân. Quyền con
người, quyền công dân được đảm bảo thực hiện phụ thuộc rất lớn vào trình độ dân trí của mỗi
quốc gia. Người dân có hiểu biết và có ý thức tôn trọng và thực hiện pháp luật thì họ mới tự giác
đấu tranh bảo vệ và thực hiên các quyền của mình. Đồng thời cũng trên cơ sở đó, con người mới
điều chỉnh được hành vi của mình theo yêu cầu của pháp luật.
IV) VIỆT NAM HỢP TÁC VỚI ASEAN VỀ NHÂN QUYỀN VÀ NHỮNG ĐÓNG
GÓP, XÂY DỰNG CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI CƠ CHẾ NHÂN QUYỀN CỦA ASEAN
Trước hết, phải khẳng định chính sách chung của Việt Nam trong hợp tác với Asean về
vấn đề nhân quyền nói riêng cũng giống như chính sách chung của Việt Nam về vấn đề nhân
quyền nói chung đã nêu ở mục 1 phần I. Việt Nam luôn coi hợp tác trong khu vực Đông Nam Á
và ASEAN là một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa,
đa phương hóa và láng giềng hữu nghị của mình. Là một thành viên năng động và tích cực của
Asean, Việt Nam đã có những đóng góp nhất định cho sự tồn tại, phát triển của ASEAN và cũng
đã đạt được những thành quả nhất định trên nhiều lĩnh vực: chính trị, ngoại giao, an ninh, kinh tế,
văn hóa xã hội, giáo dục. Và hiện nay, khi vấn đề nhân quyền đang trở thành một vấn đề đáng
quan tâm trên toàn cầu nói chung cũng như khu vực Asean nói riêng, thì Việt Nam cũng thể hiện
tiếng nói quan điểm của mình cũng như có những đóng góp và hợp tác với Asean trong vấn đề
nhân quyền. Trong việc hợp tác với Asean về nhân quyền, Việt Nam đã có những đóng góp tích
cực như sau:
Trước hết là những thành tựu trong việc Việt Nam thực hiện những cam kết về bảo vệ và
thúc đẩy quyền con người.
Bởi lẽ, vấn đề nhân quyền Việt Nam khả quan và diễn biến tốt đẹp mới có thể đóng góp
vào sự ổn định chung của khu vực trong vấn đề nhân quyền. Đó là những thành tựu của Việt
Nam trong việc xây dựng hệ thống pháp luật toàn diện về đảm bảo, thúc đẩy quyền con người,
hệ thống kiểm tra, giám sát và thực hiện pháp luật ở Việt Nam gồm không chỉ các cơ quan Nhà
nước mà cả các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp với sự tham gia của nhân dân và không
ngừng được đổi mới theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền. Các chính sách và các biện pháp
đều nhằm bảo đảm việc tôn trọng, thực hiện và phát huy đầy đủ các quyền con người trên thực tế.
Theo đó là sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về các loại hình thông tin đại chúng, đời
sống tín ngưỡng sinh động và phong phú trong xã hội Việt Nam cũng như việc đảm bảo quyền
của phụ nữ, trẻ em và người tàn tật, Chính nhờ việc đảm bảo các quyền con người; các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam đã có những bước tiến lớn… Những đóng góp quan trọng
của Việt Nam được thể hiện cụ thể bằng pháp luật, trong đó có những nỗ lực xây dựng luật pháp
trong những năm gần đây, các chương trình đưa đến kết quả tích cực về tăng cường các cơ chế
đảm bảo dân chủ cho người dân và tiến bộ nổi bật về phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã
hội, bình đẳng giới, chăm lo đời sống văn hóa, tôn trọng quyền tín ngưỡng của nhân dân, đẩy
mạnh xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ cho đồng bào thiểu số và các nhóm dân cư dễ bị tổn thương
như trẻ em, người tàn tật.
Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, Việt Nam luôn khẳng định vai trò tích cực trong các diễn
đàn đa phương về nhiều vấn đề quốc tế, ủng hộ hợp tác về nhân quyền trong ASEAN. Việt Nam
luôn chủ động tranh thủ kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực quyền con người, nâng cao chất
lượng về đối thoại nhân quyền mang tính xây dựng với các đối tác quốc tế. Trong Báo cáo quốc
gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam được trình bày tại Đại hội
đồng LHQ tại Geneva (Thụy Sĩ) ngày 8/5/2009, Việt Nam cũng có nhấn mạnh đến việc tham gia
vào các diễn đàn, trao đổi, đối thoại quốc tế trong khuôn khố Asean liên quan đến các vần đề
nhân quyền. Ngoài ra, Việt Nam và Asean còn cùng tham gia đối thoại trên các diễn đàn quốc tế
đa phương cũng như gia nhập các điều ước quốc tế về nhân quyền… Có thể nói rằng mặc dù
hiện nay, Asean vẫn chưa chính thức thành lập một cơ chế giải quyết các vấn đề nhân quyền
trong khu vực, và vấn đề nhân quyền mới chỉ thực sự có được sự quan tâm đặc biệt của các nước
trong khu vực trong thời gian gần đây, nên vai trò của Việt Nam trong việc hợp tác với Asean về
nhân quyền chưa có thể đưa ra được nhiều dẫn chứng cụ thể. Tuy nhiên, các nước ASEAN cũng
đã nhấn mạnh và công nhận việc Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc tế về quyền con
người (công ước về quyền dân sự chính trị, công ước về quyền kinh tế văn hóa xã hội, công ước
về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử vứi phụ nữ, công ước về xỏa bỏ mọi hình thức phân
biệt chủng tộc, công ước quyền trẻ em, nghị định thư bổ sung về trẻ em trong xung đột vũ trang
và chống sử dụng trẻ em trong các hoạt động mại dâm và tranh ảnh khiêu dâm, công ước về ngăn
ngừa và trừng phạt các tội ác Apacthai, công ước về không áp dụng những hạn chế luật pháp đối
với tội phạm chiến tranh và diệt chủng nhân loại), tích cực tham gia hợp tác quốc tế về nhân
quyền, tăng cường sự phối hợp của Việt Nam để thành lập cơ chế nhân quyền ASEAN; ghi nhận
thành công của Việt Nam trong việc giữ vững ổn định xã hội. Có thể nói rằng, là một thành viên
năng động tích cực của Asean, Việt Nam đã ủng hộ việc đẩy mạnh hợp tác ASEAN trên tất cả
các lĩnh vực, trong đó có hợp tác về nhân quyền.
Hiện nay, việc thiết lập Cơ chế nhân quyền ASEAN (AHRB) đang được nhân dân trong
và ngoài khu vực quan tâm theo dõi. Việt Nam nhận định rằng, là một cơ quan thuộc ASEAN,
thành lập cơ quan Nhân Quyền ASEAN là nhằm thăng tiến và bảo vệ nhân quyền cho người dân
các nước trong khối ASEAN. AHRB sẽ có nhiệm vụ thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, đồng thời
đóng góp vào mục tiêu chung xây dựng cộng đồng ASEAN hướng tới người dân. Trong hoạt
động của mình, AHRB sẽ tuân thủ các mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương ASEAN,
trong đó có nguyên tắc đồng thuận và không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, cũng
như phải chú ý tới những đặc điểm riêng, đa dạng của khu vực về văn hoá, kinh tế, xã hội, phong
tục tập quán của mỗi nước, theo đó, AHRB cần được khuyến khích thúc đẩy hợp tác, xây dựng
một chiến lược và cách tiếp cận chung của khu vực về nhân quyền, tạo cơ sở tăng cường hợp tác
bảo đảm và thực hiện quyền con người một cách tốt nhất và phù hợp với các điều kiện của khu
vực và từng nước. Vì vậy, Việt Nam luôn sẵn sàng ủng hộ và có những hành động phối hợp,
đóng góp trong việc thiết lập một cơ chế nhân quyền nói trên của Asean. Bởi vậy, với tiếng nói
cân bằng, xây dựng, Việt Nam đã tích cực cùng các nước ASEAN xử lý những khác biệt về một
số vấn đề phức tạp trong soạn thảo Quy chế hoạt động của cơ quan nhân quyền ASEAN; góp
phần quan trọng trong việc xây dựng các văn kiện pháp lý để thực hiện Hiến chương ASEAN.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_nhan_quyen_nhom_14_15_3045.pdf