Tiểu luận Các chính sách phát triển kinh tế

- Cần theo dõi, bám sát diễn biến thị trường để có sự điều chỉnh lãi suất cơ bản và biên độ phù hợp làm cho lãi suất cơ bản thực sự đóng vai trò là tín hiệu để điều tiết lãi suất thị trường. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bỏ biên độ của lãi suất cơ bản, tiến tới tự do hoá lãi suất đồng Việt Nam. - Thực hiện điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn phù hợp với diễn biến thị trường. Về nguyên tắc lãi suất tái cấp vốn phải là lãi suất cao nhất và lãi suất tiền gửi của các ngân hàng thương mại phải là lãi suất thấp nhất. Bên cạnh đó cần sử dụng linh hoạt lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất đấu thầu trái phiếu và tín phiếu. - Cần sử dụng một cách linh hoạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo tín hiệu thị tr ường nhằm tác động tới việc gia tăng tổng phương tiện thanh toán và kích thích tăng trưởng tín dụng tác động tới diễn biêns lãi suất thị trường theo định hướng điều hành chính sách tiền tệ. Thời gian tới ngân hàng nhà nước cần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với đồng ngoại tệ để tăng nguồn huy động ngoại tệ đối với các ngân hàng thương mại, nhằm giảm tình trạng găm giữ ngoại tệ trong dân và các tổ chức kinh tế.

pdf17 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2330 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các chính sách phát triển kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Các chính sách phát triển kinh tế Chính sách tài chính tiền tệ 1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ (CSTT) là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế. Tùy điều kiện các nước, CSTT có thể xác lập theo hai hướng: CSTT mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng –CSTT chống thất nghiệp) hoặc CSTT thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát –CSTT ổn định giá trị đồng tiền). 1.2 Mục tiêu chính sách tiền tệ Mục tiêu cuối cùng của CSTT là ổn định và tăng trưởng. Mục tiêu ổn định bao gồm: Ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định tỷ giá. Mục tiêu tăng trưởng bao gồm ổn định về công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế. 1.2.1 Nhóm mục tiêu ổn định Ổn định giá cả:Ổn định giá cả được coi là mục tiêu của chính sách kinh tế. Ổn định giá cả là điều ai cũng mong muốn bởi vì mức giá tăng lên (lạm phát) gây lên tình trạng bấp bênh trong kinh tế. Ví dụ, thông tin chứa đựng trong giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ khó giải thích hơn khi mức giá chung của giá cả đều thay đồi và do vậy những người tiêu dùng, các nhà kinh doanh và chính phủ trở nên khó ra quyết định. Ví dụ điển hình nhất của giá cả không ổn định là siêu lạm phát mà Đức đã trải qua những năm 1921 - 1923 Ổn định lãi suất:Mong muốn ổn định lãi suất vì biến động lãi suất làm cho nền kinh tế bấp bênh và càng khó lập kế hoạch cho tương lai. Biến động của lãi suất ảnh hưởng tới lượng dự trữ, mức chi tiêu của người dân và đồng thời ảnh hưởng tới khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Một lãi suất ổn định sẽ giúp các thành phần kinh tế hoạch định được kế hoạch tiêu dùng và sản xuất trong tương lai. Ổn định thị trường tài chính: Ổn định thị trường tài chính là vấn đề rất quan trọng của nền kinh tế. Bởi lẽ, thị trường tài chính là nơi giao dịch các nguồn lực tài chính, mà thực chất là giao dịch các khối tài sản của nền kinh tế, được thể hiện dưới hình thức tiền tệ và các công cụ có giá như tiền tệ, thường được gọi là công cụ tài chính hay hàng hóa tài chính. Ở đó, nó bao gồm việc chuyển giao các quyền sử dụng các khoản tài chính (các khoản vay nợ: tín dụng, trái phiếu, tín phiếu) hoặc chuyển giao các quyền sở hữu tài sản tài chính (các cổ phiếu, các phần vốn góp vào công ty, …) và các hợp đồng tài chính phái sinh (các quyền chọn, hợp đồng tương lai….) . Như vậy, ổn định thị trường tài chính, trước hết là sự ổn định sức mua của đơn vị tiền tệ quốc gia. Sự ổn định này có thể hiểu cả trên hai mặt. Thứ nhất, giá cả hàng hóa – dịch vụ không biến động. Thứ hai, tỷ giá của nội tệ so với ngoại tệ mạnh không biến động. Ổn định thị trường ngoại hối: Với tầm quan trọng của tỷ giá hối đoái trong thương mại quốc tế, ổn định tỷ giá trở thành mục tiêu quan trọng của CSTT. Ổn định tỷ giá mang lại cơ hội trao đổi ngoại thương cho các chủ thể của nền kinh tế, dễ dàng hơn trong việc hoạch định được hoạt động trao đổi trong tương lai. Việc phân nhỏ các mục tiêu ổn định trong mục tiêu cuối cùng nhằm mong muốn sự phối hợp hoạt động của các cơ quan, các sở ban ngành các cấp để có thể cùng hoàn thành mục tiêu một cách đúng đắn và chính xác nhất. 1.2.2 Nhóm mục tiêu tăng trưởng Tăng công ăn việc làm: Trong nền kinh tế thị trường, khi sức lao động trở thành hàng hóa thì hiện tượng thất nghiệp là hiện tượng tất yếu xảy ra. Do vậy, đảm bảo công ăn việc làm là một yêu cầu bức thiết và thường trực của các quốc gia. Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm, nói chung phụ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế được mở rộng và phát triển thì việc làm được tạo ra nhiều hơn, thất nghiệp giảm, và ngược lại khi nền kinh tế trì trệ thì công ăn việc làm giảm, thất nghiệp tăng. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cải tiến kỹ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm. Tăng trưởng kinh tế: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn chặt với mục tiêu việc làm cao. CSTT có thể tác động đồng thời hai mục tiêu này. Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, Nhà nước và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn, lãi suất tăng sẽ hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn, lãi suất tăng sẽ hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước và doanh nghiệp cầu ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại. Rõ ràng sự phối hợp của 2 muc tiêu ổn định và tăng trưởng là rất quan trọng. Bởi vì không phải cùng một lúc cả hai mục tiêu cùng được thực hiện được mà không có sự mâu thuẫn với nhau. Do vậy, khi đặt ra mục tiêu cho CSTT cần phải có sự dụng hòa. Cụ thể, phải tùy lúc, tùy thời tùy điều kiện mà sắp xếp thứ tự ưu tiên. Muốn vậy, NHNN phải luôn lắm bắt được thực tế diễn biến của quá trình thực hiện các mục tiêu, nhằm điều tiết chúng khi có sự thay đổi bằng những giải pháp thích hợp. 1.3 Các công cụ chính sách tiền tệ 1.3.1 Nghiệp vụ thị trường mở Khái niệm: Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua, bán giấy tờ có giá (GTCG) giữa một bên là NHNN với bên kia là các tổ chức tín dụng (TCTD) trong đó NHNN đóng vai trò là người điều hành hoạt động thị trường. Cơ chế tác động: Khi NHNN mua bán GTCG sẽ làm cho cơ số tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi). Đặc điểm nghiệp vụ: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối lượng giấy tờ có giá (GTCG) được mua bán tỷ lệ với quy mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn kém về chi phí. Tuy vậy, vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phải có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở: -NHNN vừa là thành viên vừa là người điều hành thị trường -Các thành viên khác là các TCTD thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng có đủ các điều kiện + Có tài khoản tiền gửi tại NHNN (Tại Sở Giao dịch hoặc chi nhánh NHNN tỉnh, TP). + Có đủ phương tiện cần thiết để tham gia nghiệp vụ TTM (yêu cầu hiện nay là máy tính, máy fax và điện thoại kết nối internet). + Có Đăng ký tham gia nghiệp vụ TTM. Các công cụ tài chính được giao dịch: Các công cụ tài chính được phép giao dịch trên nghiệp vụ TTM bao gồm các loại GTCG phát hành bằng đồng Việt Nam như: Tín phiếu NHNN, TPCP (tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư do Quỹ Hỗ trợ phát hành công trái) và trái phiếu chính quyền địa phương do Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh và TP Hà Nội phát hành. - Điều kiện chung để các công cụ tài chính được tham gia giao dịch nghiệp vụ TTM: Có thể giao dịch đươc; Được phát hành bằng đồng VN; Lưu ký tại NHNN; Thời hạn còn lại của GTCG tối đa là 91 ngày (Đối với trường hợp mua, bán hẳn) và phải dài hơn thời hạn mua, bán (Đối với trường hợp mua hoặc bán có kỳ hạn). - Điều kiện cá biệt đối với trái phiếu đầu tư do Quỹ Hỗ trợ và trái phiếu chính quyền địa phương do Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh, TP Hà Nội phát hành: + Là các trái phiếu thuộc quyền sở hữu hợp pháp của TCTD; TCTD phải chịu trách nhiệm thanh toán trong trường hợp trái phiếu bị rủi ro. + Các trái phiếu được bán trong trường hợp NHNN mua có kỳ hạn đồng thời bị hạn chế khối lượng giao dịch trong 1 lần (tối đa bằng 50% của giá trị giao dịch tái cấp vốn). + Số tiền TCTD được nhận khi bán trái phiếu: Tối đa bằng 80% (Đối với trái phiếu đầu tư do Quỹ Hỗ trợ phát hành) và tối đa bằng 70% (Đối với trái phiếu chính quyền địa phương do Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh và TP Hà Nội phát hành) giá trị trái phiếu tại thời điểm định giá. Phương thức giao dịch: - Mua hoặc bán hẳn GTCG (mua hoặc bán hết thời hạn còn lại của GTCG). - Bán và cam kết mua lại GTCG (giao dịch có kỳ hạn), bao gồm: + NHNN bán GTCG và cam kết mua lại sau một thời gian nhất định. +TCTD bán GTCG và cam kết mua lại sau một thời gian nhất định theo yêu cầu của NHNN. Phương thức đấu thầu - Đấu thầu khối lượng: NHNN thông báo cho TCTD mức lãi suất đấu thầu và có thể thông báo hoặc không thông báo trước khối lượng GTCG cần mua hoặc bán trong từng phiên đấu thầu. -Đấu thầu lãi suất: NHNN có thể thông báo hoặc không thông báo trước khối lượng GTCG cần mua hoặc cần bán trong từng phiên đấu thầu. 1.3.2 Chính sách chiết khấu Khái niệm: Chiết khấu, tái chiết khấu GTCG của các ngân hàng là nghiệp vụ NHNN mua các GTCG còn thời hạn thanh toán, mà các GTCG này được các ngân hàng mua trên thị trường sơ cấp hoặc mua lại trên thị trường thứ cấp. Sau đây gọi tắt là nghiệp vụ chiết khấu. Cơ chế tác động: Khi NHNN tăng (giảm) lãi suất chiết khấu sẽ hạn chế (khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại NHNN làm cho khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng). Đặc điểm nghiệp vụ: Chính sách chiết khấu giúp NHNN thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh toán và có thể kiểm soát được hoạt động tín dụng của các NHTM đồng thời có thể tác động tới việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể. Tuy vậy, hiệu quả của công cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các NHTM, mặt khác mức lãi suất chiết khấu có thể làm méo mó, sai lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trường. Đối tượng và điều kiện được tham gia nghiệp vụ chiết khấu: Các ngân hàng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng đáp ứng đủ các điều kiện sau: - Có tài khoản tiền gửi và lưu ký GTCG tại Sở Giao dịch NHNN. - Có đăng ký chữ ký của lãnh đạo và giới thiệu các cán bộ thực hiện nghiệp vụ chiết khấu với NHNN. Hình thức chiết khấu: - Chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của GTCG (Thời hạn còn lại của GTCG tối đa không quá 90 ngày). - Chiết khấu có kỳ hạn (thời hạn còn lại của GTCG lớn hơn thời hạn giao dịch). Các loại GTCG được chiết khấu: - Tín phiếu NHNN, Tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình TW, công trái (Được sử dụng trong cả hai hình thức chiết khấu). - Trái phiếu đầu tư do Quỹ Hỗ trợ phát triển phát hành, Trái phiếu chính quyền địa phương do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội, Tp Hồ Chí Minh phát hành (được sử dụng trong hình thức chiết khấu có kỳ hạn). Phương thức chiết khấu: - Phương thức trực tiếp: Các ngân hàng đem “Giấy đề nghị chiết khấu GTCG” trực tiếp đến Sở Giao dịch NHNN. - Phương thức gián tiếp: Các ngân hàng giao dịch thông qua mạng vi tính hoặc qua Fax tới Sở Giao dịch NHNN (trường hợp qua Fax, gửi bản chính theo đường bưu điện). 1.3.3 Dự trữ bắt buộc Khái niệm: Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng phải giữ lại do NHNN quy định, gửi tại NHNN, không hưởng lãi, không được dùng để đầu tư, cho vay mà thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ trong cơ chế tạo tiền của NHTM. Mặt khác, khi tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng) làm lãi suất cho vay tăng (giảm) từ đó làm cho lượng tiền cung ứng giảm (tăng). Đặc điểm nghiệp vụ: Đây là công cụ mang nặng tính quản lí nhà nước nên giúp NHNN chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện chậm chạp, phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM. 1.3.4 Hạn mức tín dụng Khái niệm: Hạn mức tín dụng là việc NHNN quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định (thường là một năm) để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình. Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trưởng, lạm phát…) sau đó NHNN sẽ phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHNN quy định. Cơ chế tác động: Đây là một công cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng tiền cung ứng, việc quy định pháp lí đối với khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với quy mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHNN. Đặc điểm nghiệp vụ: Giúp NHNN điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt là tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế. Song nhược điểm của nó cũng rất lớn, đó là triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM, làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nền kinh tế, dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoài sự kiểm soát của NHNN và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên. 1.3.5 Cơ chế điều hành lãi suất Khái niệm: NHNN đưa ra một khung lãi suất hay ấn định một trần lãi suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng tới quy mô tín dụng của nền kinh tế và NHNN có thể quản lí mức cung tiền của mình. Cơ chế tác động: Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo. Đặc điểm nghiệp vụ: Giúp cho NHNN thực hiện quản lí lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời kì, điều này phù hợp với các quốc gia khi ch]a có điều kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp. Song nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn, do vậy có phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Mặt khác, việc thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho các NHTM bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình. 2. Thực trạng chính sách tiền tệ tại Việt Nam hiện nay 2.1 Các công cụ chính sách tiền tệ được áp dụng tại Việt Nam hiện nay Công cụ lãi suất Chính sách, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN được định hướng theo nguyên tắc đảm bảo các mục tiêu của CSTT:kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Theo cơ chế điều hành lãi suất hiện nay, NHNN trực tiếp quyết định các mức lãi suất như: Lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất OMO, trần lãi suất huy động ngắn hạn và trần lãi suất cho vay ngắn hạn thuộc 4 đối tượng ưu tiên đối với nền kinh tế của các TCTD.Các TCTD được quy định lãi suất thỏa thuận đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên; lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các đối tượng khác ngoài 4 đối tượng ưu tiên; lãi suất cho vay trung dài hạn cho tất cả các đối tượng khách hang. Từ tháng 6/2011 đến nay, các lãi suất chủ chốt của NHNN được điều hành theo cơ chế: “trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất chiết khấu, biên độ giao động +/- 2% để điều tiết thị trường, lãi suất cơ bản và lãi suất thị trường mở được ấn định biến động trong biên độ giữa lãi suất tái cấp vốn(trần) và lãi suất chiết khấu(sàn). Các lãi suất điều hành của NHNN và lãi suất huy động vốn của NHTM được điều chỉnh giảm xuống theo xu hướng giảm thấp của CPI (3/2012-10/2012), đảm bảo nguyên tắc thực dương, nguồn vốn huy động 10 tháng tăng +14.2%, thanh khoản của hệ thống Ngân hành được cải thiện bằng nguồn vốn hút vào từ nền kinh tế chứ không phải từ nguồn tái cấp vốn như năm 2011. Từ tháng 6/2011-10/2012:Mối quan hệ giữa các loại lãi suất được điều chỉnh hợp lý hơn thời kỳ trước đó, theo nguyên tắc: Lãi suất tái chiết khấu< lãi suất huy động vốn dưới 12 tháng < lãi suất tái cấp vốn; “sàn” là lãi suất tái chiết khấu; “Trần” là lãi suất tái cấp vốn; Biên độ 1-2%, lãi suất huy động vốn của TCTD biến động trong biên độ nói trên. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Từ năm 2009 -2012, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD đối với tiền gửi VND cố định 3% và không thay đổi. Việc NHNN cố định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND trong suốt thời gian dài từ 2009-2012 trong cả quá trình lạm phát cao năm 2011 và xu hướng thiểu phát 6 tháng 2012. Công cụ tỷ lệ DTBB không phát huy tác dụng điều chỉnh nguồn vốn thanh toán và cho vay của TCTD.Vì vậy hạn chế vai trò, tác dụng của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay, lượng tiền cung ứng và hệ số tạo tiền của hệ thống TCTD. Chính sách dự trữ bắt buộc áp dụng một mức chung cho tất cả các NHTM, không căn cứ vào quy mô vốn và tài sản, chất lượng hoạt động và mức độ an toàn của từng ngân hàng,chưa phù hợp với quy mô và trình độ phát triển không đồng đều của các NHTM VN, làm cho công cụ dự trữ bắt buộc hoàn toàn trở thành vô tác dụng. 3. Tái cấp vốn Theo quy định hiện hành, NHNN sử dụng công cụ Tái cấp vốn để cấp tín dụng cho các TCTD theo các hình thức: cho vay có đảm bảo bằng giấy tờ có giá, chiết khấu giấy tờ có giá và cho vay lại hồ sơ tín dụng, nhằm mục đích: cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành được hệ thống các văn bản pháp lý đầy đủ và đồng bộ về chính sách, cơ chế nghiệp vụ tái cấp vốn phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, làm cơ sở để điều hành của NHNN và thực hiện đối với các TCTD. Thông qua các hình thức tái cấp vốn:cho vay đảm bảo giấy tờ có giá, chiết khấu giấy tờ có giá và cho vay lại hồ sơ tín dụng, công cụ tái cấp vốn của NHNN đã phát huy được vai trò chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề rủi ro thanh khoản cho các NHTM trong thời gian qua. Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) Trong thời gian qua, nghiệp vụ thị trường mở phát triển nhanh, quy mô ngày càng được mở rộng, góp phần giải quyết khó khăn về nguồn vốn thanh toán và kinh doanh cho các TCTD, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến tổng lượng tiền cung ứng (M2) trong nền kinh tế, theo mục tiêu của chính sách tiền tệ. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, NHNN tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng tiền tệ cung ứng và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường theo mục tiêu giảm lãi suất huy động và cho vay của TCTD, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp. Kiểm soát hạn mức tín dụng Năm 2011, NHNN đưa ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng chung cho toàn hệ thống các TCTD, không phân bổ hạn mức theo từng TCTD Năm 2012 là lần đầu tiên NHNN quyết định phân bổ hạn mức tín dụng cho từng NHTM theo các tiêu chí: chất lượng tài sản nợ, tài sản có, quy mô vốn, năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro, chất lượng nhân lực và tuân thủ các quy định.Theo đó, các nhóm được phân loại bởi NHNN được áp dụng các hạn mức như sau: Nhóm thứ 1 tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 17%; nhóm thứ 2 tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 15%; nhóm 3 được tăng trưởng 8%; nhóm 4 thuộc diện phải cơ cấu lại, không được tăng trưởng tín dụng. 2.2 Các tác động của chính sách tiền tệ tại Việt Nam hiện nay Những thành công đạt được từ việc thực hiện chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ được Ngân hàng Nhà nước áp dụng thời gian qua đã góp phần kiểm soát thành công lạm phát và ổn định giá trị tiền đồng. Không dễ dàng gì khi đưa lạm phát từ mức 23% xuống còn 6,5% như hiện tại, đồng thời, giảm lãi suất từ mức 15% xuống 7%. Có thể thấy, tỷ giá cũng đã được giữ ổn định, dự trữ ngoại hối đang ngày càng gia tăng. Đó là những nhiệm vụ khó khăn nhưng Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã làm được. Những thành tựu đó đã giúp cải thiện niềm tin của các nhà đầu tư cũng như của dân chúng về sự ổn định của nền kinh tế. Không ai kỳ vọng lạm phát sẽ dừng lại ở mức 0%, khi cảm thấy chắc chắn rằng lạm phát sẽ được kiểm soát ở mức 6- 8%, các nhà đầu tư sẽ có cơ sở thực tế để đưa ra các quyết định. Như vậy, sự ổn định là một yếu tố rất quan trọng. Tuy nhiên, điều quan trọng hiện nay là làm sao để sự ổn định tạo tác động lên nền kinh tế. Khi nói đến vấn đề tăng trưởng tín dụng và khả năng hấp thụ vốn tại Việt Nam hiện nay, chúng ta cần chú ý đến 2 khía cạnh, cung và cầu. Về khía cạnh nguồn cung, mặc dù thanh khoản của các ngân hàng đã dồi dào, nhưng họ vẫn khá dè dặt khi cho các doanh nghiệp cũng như cá nhân vay vốn do lo ngại những khoản vay đó sẽ trở thành nợ xấu. Do đó, họ chạy đua tìm kiếm những nhóm khách hàng “chất lượng” để chào mời những khoản vay lớn. Trong khi đó, các nhóm còn lại phải gồng mình tìm kiếm nguồn vốn. Về phía nguồn cầu, nền kinh tế vẫn còn phải đối mặt với vấn đề niềm tin. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế chỉ đạt 5%, thấp hơn nhiều so với mức 7% hay 7,5% mà người ta kỳ vọng. Sự gia tăng của nhu cầu nội địa không được mạnh mẽ như tại các thị trường xuất khẩu. Do đó, niềm tin trên thị trường không đủ để khuyến khích người dân và doanh nghiệp tiếp tục đầu tư ở thị trường nội địa hay vay vốn để đầu tư. Trong hai năm qua NHNN đã đạt được rất nhiều bước tiến đáng kể trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Hai năm trước, Việt Nam trải qua giai đoạn kinh tế không ổn định, đồng tiền liên tục mất giá, tỷ lệ lãi suất cao cản trở việc vay tiền Việt Nam đồng cũng như việc đưa ra các kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp. Cho đến nay, lãi suất giảm xuống mức hợp lý tạo điều kiện cho người dân có thể vay tiền mua nhà hoặc đầu tư cho việc kinh doanh. Tỷ lệ lạm phát được kiểm soát tốt cho phép doanh nghiệp hoạch định kế hoạch kinh doanh lâu dài. Một điểm quan trọng nữa đó là tỷ giá hối đoái được điều chỉnh từ tháng 8- 2011 giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vững tin hơn. Trong khi một số lĩnh vực của nền kinh tế chững lại, nhu cầu vay vốn giảm, doanh nghiệp thậm chí phải đóng cửa thì nhiều lĩnh vực khác vẫn phát triển với tốc độ nhanh như nông nghiệp, các ngành liên quan đến xuất nhập khẩu và tiêu dùng nội địa. Trong thời gian gần đây, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ hết sức linh hoạt và cẩn trọng với việc điều chỉnh trần lãi suất và các mức lãi suất cơ bản. Nỗ lực hạ lãi suất điều hành của NHNN và việc tiên phong của các ngân hàng quốc doanh, ngân hàng cổ phần lớn trong việc hạ các mức lãi suất huy động và cho vay đã được thị trường đánh giá cao nhất là ở góc độ tâm lý. Các doanh nghiệp hào hứng hơn khi động thái này có mục tiêu nhằm giảm bớt gánh nặng chi phí vốn cho doanh nghiệp nhưng vẫn theo sát tín hiệu lạm phát của thị trường. Lãi suất cho vay đã giảm mạnh từ mức trên 20% vào đầu năm 2012 xuống chỉ còn khoảng 10%-12% trong thời điểm hiện tại. Các ngân hàng “đầu tàu” cũng đã chủ động giảm mạnh lãi suất cho vay cho các khách hàng có chất lượng tín dụng tốt nhằm chia sẻ và tháo gỡ những khó khăn với các doanh nghiệp. Giảm lãi suất vừa là yếu tố kích cầu vừa là yếu tố kích thích đầu tư cùng với giảm thuế giúp doanh nghiệp được thành lập và mở rộng kinh doanh, thu hút việc làm, làm tăng tổng cầu nền kinh tế. NHNN điều hành linh hoạt các kênh cung ứng tiền để kiểm soát tiền tệ hợp lý theo mục tiêu kiểm soát lạm phát trong điều kiện mua một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước. Rất nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài đánh giá rất cao nỗ lực của NHNN trong việc duy trì tỷ giá ổn định trong năm 2012 và những tháng đầu năm 2013. Niềm tin của người dân vào tiền đồng tăng cao được thể hiện qua sự chuyển dịch tiền gửi tiết kiệm từ vàng và ngoại tệ sang tiền đồng. NHNN đã theo sát thị trường ngoại hối và can thiệp ngay khi thị trường có các biến động nhỏ như việc sử dụng dữ trữ ngoại hối Nhà nước để nhập khẩu vàng nguyên liệu, sản xuất vàng miếng tăng cung, can thiệp bình ổn thị trường vàng. Chính cách thức này đã giúp han chế sự biến động mạnh của thị trường mà lại không tốn dự trữ quốc gia cho việc can thiệp. Những hạn chế của chính sách tiền tệ hiện nay Tuy NHNN đã thực hiện các công cụ của CSTT một cách linh hoạt, kịp thời giúp thị trường tiền tệ đi vào bình ổn nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số mặt hạn chế: Luật NHNN 2010 đã quy định mục tiêu duy nhất của CSTT là ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, nhưng trong các văn bản chỉ đạo, điều hành CSTT thể hiện phải đồng thời thực hiện nhiều mục tiêu có mức ưu tiên như nhau như: mức cung tiền M2, tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD.Do đó các giải pháp và công cụ điều hành CSTT nhiều khi phải ưu tiên giải quyết các mục tiêu trước mắt nhằm hỗ trợ tăng trưởng để ổn định kinh tế vĩ mô, nên kết quả chưa đảm bảo được tính bền vững và mục tiêu trung dài hạn Mục tiêu kiểm soát lạm phát đã đạt được kết quả khi chỉ số lạm phát xuống mức thấp dưới 1 con số nhưng kết quả chỉ mang tính thời điểm, chưa ổn định và bền vững.Khả năng kiểm soát lạm phát theo mục tiêu còn nhiều thách thức và khó khăn dài hạn. Những yếu tố và nguyên nhân cơ bản từ nội tại nền kinh tế làm cho lạm phát bùng phát trở lại vẫn chưa được giải quyết;nhiều biến số tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông vượt ra khỏi tầm kiểm soát của NHNN;nguồn lực tài chính của Nhà nước chưa đủ mạnh để can thiệp điều chỉnh có hiệu quả quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ. Việc lựa chọn sử dụng các công cụ của CSTT chưa phân định được rõ ràng theo chức năng, vai trò chủ yếu của từng công cụ; làm triệt tiêu hoặc hạn chế phát huy tác dụng của một số công cụ, giảm hiệu quả thực hiện mục tiêu CSTT. Công cụ lãi suất còn một số bất cập về phương pháp xác định các và cơ chế điều hành.Lãi suất huy động và cho vay của các TCTD mang nặng tính hành chính, nhiều khi chưa sát với CPI và chưa điều chỉnh kịp thời với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Lãi suất tín dụng tuy đã giảm nhiều so với 2011 nhưng vẫn còn ở mức cao vượt quá khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.Hệ thống chính sách và cơ chế tín dụng chưa thực hiện được chức năng phân bổ vốn tín dụng cho khu vực hiệu quả, chưa giải quyết được tình trạng “suy kiệt tín dụng”, tác động tiêu cực đến phát triển trung dài hạn của nền kinh tế. Mức độ điều chỉnhcắt giảm cung tiền, tăng trưởng tín dụng, cơ cấu tín dụng đột ngột và quá giảm thấp trong năm 2011, so với mức thực hiện bình quân của thời kỳ trước đó, vượt quá khả năng điều chỉnh thích ứng của nền kinh tế;làm phát sinh thêm những khó khăn chưa từng có đối với SXKD, suy giảm tín dụng, đóng băng và sụt giá tài sản trên thị trường bất động sản và chứng khoán, tăng bất ổn hệ thống tài chính tiền tệ vốn đã ốm yếu. 3. Giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính tiền tệ tại Việt Nam hiện nay Để hoàn thiện chính sách tiền tệ phải thực hiện đồng thời nhiều giải pháp và ta có thể chia thành hai nhóm sau. 3.1. Nhóm giải pháp liên quan đến thể chế Tiếp tục hoàn thiện hệ thống ngân hàng Việc hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian tới không thể tách rời quá trình hoàn thiện hệ thống ngân hàng nói chung và bộ máy tổ chức, điều hành của ngân hàng nhà nước nói riêng. Bởi lẽ, hệ thống ngân hàng trước hết là bộ máy tổ chức ngân hàng trung ương tương đối độc lập, lành mạnh và vững chắc, là yếu tố đầu tiên đảm bảo tính hiệu lực của chính sách tiền tệ. Mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng những năm cuối thế kỷ XX đầu tư thế kỷ XXI là “phải tạo lập được một hệ thống ngân hàng đủ mạnh cả về năng lực hoạch định và thực thi chính sách, năng lực quản lý, năng lực điều hành kinh doanh, đủ mạnh về trình độ công nghệ và kỹ thuật hiện đại để thích ứng với cơ chế thị trường, trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước và sớm hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế. - Trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ, ngân hàng nhà nước cần tìm ra điểm dung hòa giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ, để đi đến chỗ kết hợp hài hòa các mục tiêu kinh tế vĩ mô.Do giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô: Tăng trưởng, lạm phát và công ăn việc làm đôi khi có mâu thuẫn với nhau. Vì vậy trong quá trình điều hành kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng, không nên cực đoan một phía, nhấn mạnh một chiều. Nếu có sự ổn định giá cả, ổn định tiền tệ mà nền kinh tế chỉ dậm chân tại chỗ, không phát triển được thì sự ổn định đó coi nh vô nghĩa, lại rất mong manh và sẽ mất đi nhanh chóng. Ngược lại, nếu tăng trưởng mà không ổn định thì sẽ mất đi điều kiện để phát triển, sẽ dẫn đến tình trạng kinh tế hỗn loạn và thậm chí còn thụt lùi. Vì vậy tìm ra điểm dung hòa giữa các mục tiêu không chỉ là kỹ thuật, mà còn là nghệ thuật điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước. -Việt Nam là một nước nghèo quá độ lên sản xuất lớn. Tăng trưởng nhanh và bền vững là lối thoát duy nhất để tránh nguy cơ tụt hậu, nhưng bên cạnh đó nền kinh tế Việt Nam vừa đi qua cuộc khủng hoảng, còn nhiều bất ổn và tiềm ẩn lạm phát cao, thì ổn định cũng là mục tiêu rất quan trọng. Vấn đề đặt ra là trong quá trình thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ, ngân hàng nhà nước phải tìm ra điểm dung hòa để vừa đảm bảo kiềm chế lạm phát, vừa đa nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ cao.Để tìm được điểm dung hòa thì cần phải có sự điều chỉnh của ngân hàng nhà nước ở bình diện vĩ mô. Tùy từng thời gian, hoàn cảnh cụ thể mà sự điều chỉnh từng mục tiêu là cần thiết và không đồng đều nhau. Nhưng phải quán triệt nguyên tắc: Các mục tiêu ngắn hạn phải phục vụ cho mục tiêu dài hạn, còn mục tiêu dài hạn phải chi phối các mục tiêu ngắn hạn. Ngân hàng nhà nước phải tập trung vào việc nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế và toàn dụng nhân công, tuy nhiên vẫn chú ý đến việc kiềm chế lạm phát. Đây chính là điểm dung hòa giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Điều này chứng tỏ nghệ thuật điều hành chính sách tiền tệ là làm sao tạo ra sức tác động tối đa đến mục tiêu chủ yếu nhất, trong khi không làm tổn hại quá mức đến mục tiêu khác của toàn bộ hệ thống kinh tế vĩ mô. - Sử dụng linh hoạt và mềm dẻo các công cụ điều tiết của chính sách tiền tệ. Nói đến công cụ của chính sách tiền tệ thì dù ở nước nào cũng đều có các công cụ giống nhau, cũng là: Lãi suất, cho vay chiết khấu, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở. Sự khác nhau chỉ là ở cách sử dụng các công cụ linh hoạt và mềm dẻo ở mức độ nào để đối phó với những biến động bất thường của nền kinh tế. Mục đích chủ đạo, lâu dài của Việt Nam trong kinh tế vĩ mô là hướng tới sự tăng trưởng cao và bền vững.Các công cụ của chính sách tiền tệ thường được sử dụng là: Duy trì nguyên tắc lãi suất thực dương, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc phù hợp đối với các tổ chức tín dụng, duy trì chế độ tỷ giá hối đoái ổn định. Tuy nhiên nếu những công cụ trên được sử dụng một cách cứng nhắc sẽ gây tác động xấu đối với những mục tiêu ngắn hạn và những biến động bất thường có thể xảy ra. Vì vậy, lãi suất dương đến mức độ nào để hiệu quả chống lạm phát không ảnh hưởng đến đầu tư của đất nước hoặc tỷ giá hối đoái ổn định nhưng khi cần thiết thì phải phá giá để tạo động lực kích thích xuất khẩu là thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Làm được như vậy, ngân hàng nhà nước sẽ thực sự thành công trong vai trò ngời điều tiết kinh tế vĩ mô. - Nâng cao hơn nữa tính độc lập tương đối của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. - Thể hiện ở sự thống nhất và đồng bộ của các bộ luật, văn bản pháp quy có liên quan mà chính phủ đã ban hành, từ đó đảm bảo tính hiệu lực của hai Bộ luật ngân hàng cũng như toàn bộ hệ thống văn bản pháp quy của ngành. - Việc xây dựng và ban hành các văn bản dới luật bổ sung cho hai luật cần được thực hiện nhanh chóng và kịp thời. Điều này cũng không kém phần quan trọng, bởi lẽ sau khi hai Bộ luật ngân hàng có hiệu lực thì không những hai pháp lệnh ngân hàng mà cả một số văn bản pháp luật kèm theo cũng hết hiệu lực. Tuy ngân hàng đã có nhiều văn pháp quy mới ban hành nhưng chưa đầy đủ. Vì vậy, hiện nay trong hệ thống văn bản pháp luật ngân hàng vẫn có nhiều chỗ bị “bỏ ngỏ” bởi chưa có văn bản thay thé hoặc nếu có thì cũng chưa có nghị định, hướng dẫn cụ thể.Khi hành lang pháp lý chưa đầy đủ thì hoạt động tiền tệ - ngân hàng nói chung và quá trình thực thi chính sách tiền tệ nói riêng vẫn nằm trong thế bất ổn. Vì vậy, trong những năm trước mắt, việc hoàn thiện bổ sung triển khai có hiệu quả hệ thống văn bản pháp luật của ngành ngân hàng là những việc cần làm ngay, góp phần nâng cao hiệu lực điều tiết vĩ mô của chính sách tiền tệ quốc gia. 3.2. Nhóm giải pháp liên quan đến việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ Yêu cầu nâng cao hiệu lực và chất lợng của quá trình thực thi chính sách tiền tệ đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ. Những năm trước mắt, phải tạo ra được hệ thống công cụ bám sát và phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới chính sách tiền tệ. Để thực hiện được việc này, nhà nước cần kiên trì với chủ trương sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo định hướng thị trường, tức điều tiết các hoạt động kinh tế qua thị trường hay nói cách khác là nhà nước can thiệp thị trường để thị trường điều tiết các hoạt động kinh tế. - Cần theo dõi, bám sát diễn biến thị trường để có sự điều chỉnh lãi suất cơ bản và biên độ phù hợp làm cho lãi suất cơ bản thực sự đóng vai trò là tín hiệu để điều tiết lãi suất thị trường. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bỏ biên độ của lãi suất cơ bản, tiến tới tự do hoá lãi suất đồng Việt Nam. - Thực hiện điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn phù hợp với diễn biến thị trường. Về nguyên tắc lãi suất tái cấp vốn phải là lãi suất cao nhất và lãi suất tiền gửi của các ngân hàng thương mại phải là lãi suất thấp nhất. Bên cạnh đó cần sử dụng linh hoạt lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất đấu thầu trái phiếu và tín phiếu. - Cần sử dụng một cách linh hoạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo tín hiệu thị trường nhằm tác động tới việc gia tăng tổng phương tiện thanh toán và kích thích tăng trưởng tín dụng tác động tới diễn biêns lãi suất thị trường theo định hướng điều hành chính sách tiền tệ. Thời gian tới ngân hàng nhà nước cần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với đồng ngoại tệ để tăng nguồn huy động ngoại tệ đối với các ngân hàng thương mại, nhằm giảm tình trạng găm giữ ngoại tệ trong dân và các tổ chức kinh tế. - Cần hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở bằng việc rà soát lại quy chế về nghiệp vụ thị trường mở nhằm mở rộng thời hạn còn lại của các chứng từ có giá, từ đó tạo điều kiện để cung ứng vốn cho các tổ chức tín dụng, qua đó các tổ chức tín dụng có điều kiện can thiệp tốt hơn vào thị trường để ổn định tỷ giá. Mặt khác, ngân hàng nhà nước cũng cần thay đổi quy chế để mở rộng đối tợng nhằm tăng số lợng thành viên tham gia, đa dạng hoá hàng hoá được mua-bán trên thị trường để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động sôi động hơn. - Theo dõi sát các diễn biến trên thị trường tiền tệ để có biện pháp xử lý kịp thời. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ cần hướng tới: “phối hợp hài hòa các công cụ trực tiếp và gián tiếp theo hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, có tác động tích cực tới thị trường nhằm hạn chế những tác động tiêu cực do ảnh hưởng của thị trường tài chính quốc tế”. Như vậy, từ thực tế hoạt động của chính sách tiền tệ Việt Nam, với những định hướng và giải pháp đồng bộ, có hiệu quả nhằm giúp ngân hàng nhà nước điều hành, thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển. Từ đó bảo đảm cho sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính - tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchinh_sach__2125.pdf
Luận văn liên quan