Tiểu luận Các công cụ phổ biến lưu thông trên thị trường tài chính Viêt Nam

Mục lục Lời nói đầu 3 Chương I:các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ 4 1. Tín phiếu kho bạc .4 2. Kỳ phiếu thương mại 7 3. Hợp đồng mua lại .12 Chương II: Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn 15 I .Khái niệm 15 II.Các công cụ chủ yếu lưu thông tại Viện Nam hiện nay 15 1. Trái phiếu . 16 2. Cổ Phiếu . . 22 3. Các khoản vay thế chấp . 25 4. Các khoản vay thương mại và tiêu dùng .28 Kết luận .32 Lời nói đầu Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, nhu cầu về vốn luôn là vấn đề quan trọng được ưu tiên hàng đầu trước khi bắt đầu vào một năm tài khóa mới. Đề cập đến vấn đề này để thấy rằng việc hình thành một thị trường vốn cho phát triển kinh tế xã hội là vô cùng quan trọng. Cho nên, việc tìm hiểu thị trường vốn hay thị trường tài chính là gì và có vai trò to lớn như thế nào đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay là điều hết sức cần thiết, nhưng chúng ta phải đặc biệt chú trọng các công cụ lưu thông trên thị trường này.Việt Nam hiện nay là một quốc gia có thị trường mới phát triển, các công cụ được du nhập vào trong nước,một số công cụ còn khá mới mẻ nhưng với tốc độ phát triển hiện này thì các công cụ này đã thể hiện được tầm quan trọng của nó trong việc cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất và tiêu dùng làm cho các dòng vốn được lưu thông một cách hiệu quả nhất. Nhằm làm rõ vấn đề này, tiểu luận tập trung phân tích Các công cụ tài chính chủ yếu lưu thông trên thị trường Việt Nam.

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2453 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các công cụ phổ biến lưu thông trên thị trường tài chính Viêt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hính (Kho bạc) phát hành để tài trợ cho những khoản chi tiêu tức thời, các thâm hụt ngắn hạn thường xuyên của chính phủ hoặc tài trợ các khoản nợ đến hạn. b. Kỳ hạn thanh toán Tín phiếu kho bạc có kỳ hạn thanh toán khoảng 1 năm hoặc ngắn hơn (thông thường có các kỳ hạn 3,6, 12 tháng).Tín phiếu kho bạc được bán theo định kỳ hàng tuần (Regular weekly T-bills) thường được phát hàn với thời hạn là 28 ngày ( tương đương 4 tuần hoặc 1 tháng), 91 ngày (tương đương 13 tuần hoặc 3 tháng), 182 ngày ( 26 tuần hoặc 6 tháng), 364 ngày (52 tuần hoặc 1 năm) thông qua các cuộc đấu giá đơn giá được tổ chức hàng tuần. c. Đặc điểm của tín phiếu kho bạc Tín phiếu kho bạc phát hành theo từng lô qua Ngân hàng Nhà nước được thực hiện dưới hình thức đấu thầu (Ngân hàng nhà nước đứng ra làm cơ quan tổ chức bán số tín phiếu ấy ra ngoài thông qua thị trường mở dưới hình thức đấu thầu) .Ngân hàng Nhà nước là cơ quan đại lý cho Bộ Tài chính trong việc phát hành, thanh toán tín phiếu khi đến hạn, tổ chức và quản lý đấu thầu tín phiếu Kho bạc.Việc tổ chức và giám sát thị trường thứ cấp (mua bán lại tín phiếu sau khi đấu thầu) do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện Tín phiếu Kho bạc phát hành qua Ngân hàng Nhà nước thông qua đấu thầu có hình thức và đặc điểm như sau Tín phiếu kho bạc thuộc loại chứng khoán chiết khấu. Giống như trái phiếu chiết khấu, đây là loại chứng khoán không được nhà phát hành trả lãi trước khi đáo hạn (interest prior to maturity) song lại được bán với giá chiết khấu tức là giá thấp hơn mệnh giá (par value hay face value). Khi đáo hạn, nhà đầu tư được nhận lại đủ mệnh giá vì vậy phần chênh lệch giữa mệnh giá chứng khoán và giá mua chứng khoán chính là lãi của nhà đầu tư (lợi tức tính đến ngày đáo hạn (Yield To Maturity). Lợi tức chiết khấu được tính theo công thức: Lợi tức chiết khấu (%) = (Mệnh giá – Giá bán)/Giá bán * (360/Số ngày đến khi đáo hạn)* 100% Thu và thanh toán bằng đồng Việt Nam. Có mệnh giá tối thiểu là 1.000.000 đồng (một triệu đồng ); các mệnh giá cụ thể cao hơn do Liên Bộ Ngân hàng Nhà nước - Tài chính quy định và công bố trong thông báo phát hành Tín phiếu được phát hành dưới hình thức ghi sổ và chứng chỉ tín phiếu. - Đối với hình thức ghi sổ: Do Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn và quản lý sổ sách. - Đối với hình thức chứng chỉ tín phiếu: Ngân hàng Nhà nước in theo mẫu do Bộ Tài chính quy định. Việc đấu thầu tín phiếu là đấu thầu lãi suất.- Tín phiếu Kho bạc đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước được thực hiện theo những nguyên tắc sau: -Bí mật mọi thông tin đấu thầu trước khi công bố kết quả đấu thầu. - Tổ chức đấu thầu công khai , bình đẳng về mọi quyền lợi và nghĩa vụ giữa các đơn vị đấu thầu -Đơn vị trúng đấu thầu có quyền hạn và trách nhiệm mua tín phiếu theo khối lượng và lãi suất trúng thầu được thông báo. Các Đối tượng tham gia đấu thầu tín phiếu Kho bạc bao gồm: Các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam: Các Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng đầu tư và phát triển; Ngân hàng liên doanh; chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và các Công ty tài chính; Các Công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư Xác định khối lượng và lãi suất tín phiếu Kho bạc trúng thầu: Việc xác định khối lượng và lãi suất tín phiếu Kho bạc trúng thầu căn cứ vào: -Khối lượng và lãi suất đặt thầu của các thành viên. -Khối lượng tín phiếu Kho bạc dự kiến huy động và lãi suất chỉ đạo. -Khối lượng tín phiếu Kho bạc trúng thầu được tính theo thứ tự tăng lên của lãi suất -đặt thầu trong phạm vi lãi suất chỉ đạo. -Tại mức lãi suất đặt thầu cao nhất trong phạm vi lãi suất chỉ đạo có khối lượng tín phiếu đặt thầu vượt quá khối lượng tín phiếu dự kiến huy động thì khối lượng tín phiếu trúng thầu sẽ được phân chia cho mỗi phiếu đặt thầu theo tỷ lệ thuận với khối lượng tín phiếu đặt thầu của từng phiếu tại mức lãi xuất đó. -Lãi xuất phát hành tín phiếu là lãi xuất trúng thầu cao nhất được áp dụng chung cho tất cả các đối tượng trúng thầu. Ngoài khối lượng tín phiếu Kho bạc được phát hành qua Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính còn được tiếp tục phát hành một khối lượng nhất định tín phiếu Kho bạc để bán lẻ trực tiếp cho dân chúng. Các loại tín phiếu Kho bạc do hệ thống Kho bạc trực tiếp phát hành phải có mẫu chứng chỉ khác với mẫu chứng chỉ tín phiếu Kho bạc phát hành qua Ngân hàng Nhà nước thông qua đấu thầu. Mức lãi suất tín phiếu Kho bạc bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước do Bộ Tài chính quy định sau khi có sự thống nhất của Ngân hàng Nhà nước và phù hợp với mặt bằng lãi suất thị trường. Như vậy ta có thể thấy được tín phiếu kho bạc không chỉ để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước mà còn là một công cụ quan trọng để ngân hàng nhà nước điều hành chính sách tiền tệ. 2 . Kỳ phiếu thương mại (Thương phiếu) Khái niệm Trong thực tế, do có sự khác biệt về chu kỳ sản xuất – kinh doanh giữa các doanh nghiệp, nên việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiếu vốn ở doanh nghiệp khác là hiện tượng phổ biến và có tính tất yếu. Trong điều kiện thành phẩm của doanh nghiệp thừa vốn lại là nguyên, nhiên, vật liệu của doanh nghiệp thiếu vốn, nếu quan hệ mua bán chịu được thực hiện trong một thời hạn nhất định thì cả hai đều có lợi. Đó chính là quan hệ tín dụng thương mại.  Để đảm bảo người mua chịu trả nợ khi đúng hạn, bên cạnh sự tin tưởng, người bán chịu còn đòi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó chính là tờ giấy chứng nhận quan hệ mua bán chịu nêu trên, tờ giấy chứng nhận này có thể do chủ nợ lập để đòi tiền, hoặc do con nợ lập để cam kết trả tiền, nó được gọi là “kỳ phiếu thương mại” hay “thương phiếu”.   Vì vậy, thương phiếu ra đời trên cơ sở quan hệ mua bán chịu giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, thương phiếu dần dần biến đổi tính chất, từ một giấy chứng nhận nợ thông thường đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng có thể thực hiện được chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt trong nền kinh tế.  Vậy thương phiếu là những giấy nhận nợ ngắn hạn do các công ty lớn phát hành để vay vốn ngắn hạn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh Phân loại Thương phiếu tồn tại dưới 2 hình thức là hối phiếu và lệnh phiếu:  Hối phiếu là chứng chỉ có giá do người bán chịu lập, yêu cầu người mua chịu trả một số tiền xác định vào một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.  Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người mua chịu lập, cam kết trả một số tiền xác định trong một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.  Như vậy, hối phiếu là lệnh đòi tiền do chủ nợ lập và chỉ sử dụng trong quan hệ thương mại, còn lệnh phiếu thì do người mua chịu lập, được sử dụng không chỉ trong quan hệ thương mại mà còn trong các quan hệ dân sự khác.  Tính chất của thương phiếu Thương phiếu có 3 tính chất:  tính trừu tượng: Trên thương phiếu không ghi cụ thể nguyên nhân phát sinh khoản nợ mà chỉ ghi các thông tin về số tiền phải trả, thời hạn trả tiền và người trả tiền.  tính bắt buộc: Qui định người trả tiền phải thanh toán cho người thụ hưởng đúng hạn, không được phép từ chối hoặc trì hoãn việc trả tiền.  tính lưu thông: Thương phiếu được chuyển nhượng từ người thụ hưởng sang người khác bằng phương pháp ký hậu, nó có thể chuyển hoá ra tiền khi mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. tính chất này khiến thương phiếu trở thành một loại phương tiện thanh toán thay cho tiền trong thời gian hiệu lực và mệnh giá thương phiếu.  Ích lợi và nhược điểm của thương phiếu Những ích lợi của thương phiếu khi vận dụng vào thực tế:  Có thể kể ra một số lợi ích kinh tế chủ yếu của thương phiếu:  Thứ nhất, nhờ vào tính chất lưu thông, thương phiếu đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng thay thế tiền mặt, tiết kiệm tiền mặt và góp phần ổn định tiền tệ,  Thứ hai, nó còn là một cơ sở pháp lý trong quan hệ mua bán chịu, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong tín dụng thương mại, loại bỏ được tình trạng nợ nần dây dưa giữa các doanh nghiệp.  Thứ ba, thương phiếu là loại tài sản đảm bảo chắc chắn khi ngân hàng nhận chiết khấu hay nhận cho vay cầm cố. Hơn thế nữa, tài sản đảm bảo này lại có tính thanh khoản cao vì ngân hàng có thể mang đi tái chiết khấu hoặc tái cầm cố tại NHNN để khôi phục nguồn vốn của mình.   Thứ tư, thương phiếu bổ sung hàng hoá cho thị trường mở, tạo điều kiện cho ngân hàng trung ương thực hiện tốt công tác điều hoà khối tiền trong lưu thông.  Thứ năm, trong trường hợp người đi vay vốn ngân hàng nhận nợ bằng lệnh phiếu, khi cần thiết, ngân hàng có thể bán khoản nợ này để thu nợ trước hạn bằng cách chuyển nhượng lệnh phiếu cho ngân hàng khác. Đây là một giải pháp chứng khoán hoá các khoản cho vay của ngân hàng.  Và cuối cùng, thông qua nghiệp vụ bảo lãnh và thu hộ thương phiếu, sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập nhưng không tăng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.  Tuy nhiên, thương phiếu khi vận dụng vào thực tế cũng có những nhược điểm nhất định như:  Nhược điểm thứ nhất, do tính trừu tượng của thương phiếu, sẽ dẫn đến tình trạng hai doanh nghiệp thông đồng nhau lập ra thương phiếu khống (thương phiếu không phát sinh từ quan hệ mua bán chịu) để mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều này đã làm cho cơ sở đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn tại, số tiền cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo.  Nhược điểm thứ hai, với những nhược điểm sẳn có của tín dụng thương mại, khó có thể mở rộng qui mô (khối lượng) và thời gian mua bán chịu hàng hoá trong trường hợp nhu cầu mua chịu quá lớn và thời gian quá lâu.  Nhược điểm thứ ba, quan hệ mua bán chịu này chỉ có thể phát sinh giữa những doanh nghiệp tín nhiệm, có giao dịch thường xuyên với nhau.  Tuy vậy, do tín dụng thương mại tồn tại song song với tín dụng ngân hàng nên những khiếm khuyết nêu trên của tín dụng thương mại và của sự vận dụng thương phiếu sẽ giảm đến mức xem như không đáng kể.  Những ích lợi kinh tế nêu trên khi đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế thì đã quá rõ, thế nhưng trong thời gian qua, thương phiếu và các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu vẫn chưa đi vào đời sống kinh tế ở Việt Nam vì những lý do chủ yếu như sau:   - Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ thương phiếu (Người bán chịu hàng hoá, người được chuyển nhượng thương phiếu, ngân hàng bảo lãnh…) chưa thật sự có lòng tin đối với thương phiếu và khả năng chuyển hoá ra tiền của thương phiếu khi đến hạn.  - Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có những thông tư hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu, chưa ban hành mẫu biểu cụ thể cho thương phiếu để nó có thể trở thành một công cụ lưu thông tín dụng pháp định có thể thay thế cho tiền mặt trong lưu thông  - Pháp lệnh thương phiếu vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng nên tính khả thi vẫn còn kém.  Giải pháp  Những giải pháp để đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế ở Việt Nam trong thời gian trước mắt:  Giải pháp thứ nhất, nhanh chóng tạo dựng một hành lang pháp lý cho sự tồn tại và cho việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu được an toàn và thuận lợi. Mặc dù Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh thương phiếu có hiệu lực thi hành từ ngày 1.7.2000 và Chính Phủ đã ban hành nghị định 32/2001/NĐ -CP ngày 5.7.2001 hướng dẫn thi hành pháp lệnh trên nhưng vẫn còn nhiều bất cập như chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế…  Giải pháp thứ hai, tổ chức tuyên truyền, phổ biến, thảo luận về thương phiếu và ích lợi của thương phiếu đến các doanh nghiệp, là những chủ thể chủ yếu trong quan hệ thương phiếu.  Giải pháp thứ ba, nâng cao hiệu lực hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) dể có thể cung cấp chính xác và kịp thời năng lực chi trả, uy tín của các doanh nghiệp có nghĩa vụ thanh toán thương phiếu, đảm bảo quyền lợi của người thụ hưởng.  Giải pháp thứ tư, trong thời gian đầu Nhà nước cần có những ưu đãi hợp lý cho các doanh nghiệp cũng như các Tổ chức tín dụng có tham gia vào quan hệ thương phiếu.  Và cuối cùng, Ngân hàng Nhà nước phải gấp rút ban hành các thông tư hướng dẫn để các ngân hàng có thể mạnh dạn thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu như bảo lãnh, chiết khấu và cầm cố thương phiếu. ngân hàng Nhà nước cũng phải nhanh chóng ban hành mẫu biểu cho thương phiếu, ban hành Luật về các công cụ chuyển nhượng…   Trên đây chỉ là một số giải pháp cơ bản được đưa ra, tuy nhiên, nếu thực hiện được, thì việc đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế ở Việt Nam chắc chắn sẽ trở thành hiện thực 3. Hợp đồng mua lại a.. Khái niệm Hợp đồng mua lại (repurchase agreement hay repo hay Sale and Repurchase Agreement) cho phép người đi vay sử dụng một số chứng khoán tài chính như vật thế chấp cho 1 khoản vay tiền mặt với 1 mức lãi suất nhất định. Trong một hợp đồng mua lại, người đi vay thoả thuận sẽ bán cho người cho vay một số chứng khoán và kèm theo điều khoản mua lại số chứng khoán trên sau 1 khoảng thời gian nhất định(thường không quá 2 tuần) tại một mức giá cố định (cao hơn mức giá bán đi) . Một hợp đồng mua lại tương đương với một sự chuyển giao tiền mặt cộng với 1 hợp đồng kỳ hạn (forward contract).Kết quả của việc chuyển giao này la việc tiền mặt được chuyển đến người đi vay và việc chuyển chứng khoán hợp pháp đến người cho vay trong khi hợp đồng kỳ hạn đảm bảo việc hoàn trả khoản vay tới người cho vay và trả lại tái sản thế chấp cho người đi vay(là sốchứng khoán đã bán đi). Điểm khác biệt giữa giá giao sau (forward price) và giá chi trả ngay lập tức (spot price) là lãi suất của khoản vay, trong khi ngày chi trả của hợp đồng kỳ hạn chính là ngày đáo hạn của khoản vay. b. Cấu trúc và thuật ngữ Về phương diện kinh tế, một hợp đồng mua lại tương tự như một khoản vay được bảo đảm, với việc người mua nhận được một số chứng khoán như vật thế chấp khi người đi vay không có khả năng thanh toán khoản nợ. Trong hợp đồng mua lại hầu hết các loại chứng khoán đều có thể dùng làm vật thế chấp chẳng hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty, cổ phiếu (là những khoản vay không có thế chấp).Tuy nhiên, quyền sở hữu lại chuyển trực tiếp từ người bán đến người mua (nhà đầu tư).Cu-pon (khoản tiền thanh toán định kỳ trả cho người chủ sở hữu của chứng khoán) vẫn được trả trực tiếp cho người bán. Điều này có lẽ ngược so với trực giác thông thường khi quyền sở hữu chứng khoán thuộc về người mua trong suốt thời gian của thoả thuận.Để thay cho việc cupon chuyển đến người bán thì 2 bên có thể thoả thuận về khoản tiền thanh toán khi kết thuc hợp đồng khi đó cupon có thể được chuyển đến người mua. Mặc dù bản chất bên trong của việc chuyển giao chứng khoán này chính là một khoản vay nhưng repo vẫn khác biệt so với khoản vay thông thường bởi vì người bán sẽ thực sự mua lại quyền sỡ hữu hợp pháp của số chứng khoán đó sau khi kết thúc hợp đồng. Vì vậy mặc dù tác dụng của toàn bộ việc chuyển giao này giống hệt như của 1 khoản vay tiền mặt thế nhưng điều được chú trọng ở đây chính là việc chuyển quyền sở hữu hợp pháp hiện thời của chứng khoán thế chấp bởi các bên tương ứng (thông qua việc sử dụng thuật ngữ “mua lại”) Phân biệt giữa hợp đồng mua lại (Repo) và hợp đồng mua lại đảo ngược (Reverse repo) Repo Reverse repo Người tham gia Người đi vay Người bán Người nhận tiền Người cho vay Người mua Người cung tiền Giai đoạn đầu Bán chứng khoán Mua chứng khoán Giai đoạn sau Mua chứng khoán Bán chứng khoán (Trong hợp đồng mua lại đảo ngược, người cho vay sẽ đề nghị mua một số chứng khoán với 1 mức giá cho trước và có thoả thuận bán lại số chứng khoán đó với mức giá cao hơn ) c. Các loại hợp đồng mua lại Có 3 loại thời gian đáo hạn của hợp đồng mua lại : qua đêm, theo định kỳ và đáo hạn mở. Đáo hạn qua đêm có thời gian đáo hạn của việc chuyển giao là 1 ngày. Đáo hạn theo định kỳ ứng với hợp đồng mua lại có ngày đáo hạn nhất định được định sẵn . Đáo hạn mở không có ngày kết thúc hợp đồng. Mặc dù hợp đồng đáo hạn thông thường là trong ngắn hạn (thường không quá 2 tuần), nhưng cũng có những hợp đồng đáo hạn với thời hạn khoảng 2 năm. Việc giao dịch hợp đồng đáo hạn thường xảy ra dưới các dạng sau: cung ứng trên danh nghĩa, hợp đồng đáo hạn qua đêm và hợp đồng đáo hạn được uỷ thác trong đó loại thứ 3 khá ít thấy trong những thị trường đang phát triển vì rủi ro cao. Các +) 1 Hợp đồng mua lại được giám hộ (Due bills, held in custody bills) Trong hợp đồng mua lại được uỷ thác, vật thế chấp được cầm cố bởi người mua không trực tiếp được chuyển giao tới người cho vay mà được chuyển vào một tài khoản nội bộ (held in custody) bởi người đi vay dành cho người cho vay trong suốt quá trình của hợp đồng. Tuy nhiên khi thị trường càng phát triển thì hình thức này ngày càng ít trở nên phổ biến +) Hợp đồng mua lại có sự tham gia của bên thứ 3 ( Tri-party Repo) Đặc trưng của hợp đồng mua lại có sự tham gia của bên thứ 3 đó chính là có sự tham gia của 1 ngân hàng hoặc tổ chức quốc tế đóng vai trò là người giám hộ, như một trung gian giữa 2 bên của hợp đồng (bên bán và bên mua). Trách nhiệm của bên thứ 3 là quản lý việc chuyển giao bao gồm việc phân phối tài sản thế chấp, đưa ra thị trường và thay thế vật thế chấp. +) Hợp đồng mua lại toàn bộ khoản vay Hợp đồng mua lại toàn bộ khoản vay là loại hợp đồng mua lại mà sự chuyển giao được thế chấp bằng 1 khoản vay hoặc 1 nghĩa vụ khác (như văn tự cầm cố) hơn là dùng chứng khoán để thế chấp +) Hợp đồng mua lại vốn Chứng khoán được ưu tiên sử dụng trong việc thực hiện hợp đồng mua lại hầu hết là ở dạng trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu công ty (hoặc tín phiếu Kho bạc). Hợp đồng mua lại vốn là hợp đồng mua lại dựa trên vật thế chấp là chứng khoán vốn như các cổ phiếu phổ thông. Điều này có thể dẫn đến 1 số rắc rối do sự phức tạp trong các điều khoản thuế đối với cổ tức cũng như đối với cupon. Tín phiếu kho bạc, thương phiếu và hợp đồng mua lài là 3 công cụ lưu thông rất phổ biến trên thị trường tiền tệ . Nhờ các công cụ này mà việc lưư chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn được thực hiện dễ dàng nhanh chóng hơn và có độ rủi ro thấp cùng tính thanh khoản cao. Chương II Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn I.Khái niệm Công cụ thị trường vốn là công cụ nợ và cổ phần với kỳ hạn thanh toán trên 1 năm. Chúng có dao động giá rộng hơn nhiều so với công cụ thị trường tiền tệ và được coi là những đầu tư thực sự có rủi ro nhưng mức sinh lời cao hơn vì chứng khoán dài hạn thường đem lại lợi tức lớn.Nhìn chung, các công cụ trên thị trường vốn giờ đây đã trở lên khá phổ biến trên trị trường Việt Nam, các công cụ được sử khá linh hoạt phù hợp với tình hình phát triển của thị trường.Các công cụ trên thị trường dụng này đã phát triển rõ nét trở thành một kênh huy động vốn không thể thiếu trong nền kinh tế cũng như là một giải pháp để chính phủ cân bằng ngân sách của mình. II. Các công cụ phổ biến lưu thông trên thị trường vốn ở Việt Nam hiện nay Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu một số loại công cụ lưu thông trên thị trường vốn phổ biến ở Việt Nam hiện nay: 1.Trái phiếu Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian vừa qua đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 8%/năm. Để đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy, thì yếu tố nguồn vốn phục vụ cho việc phát triển kinh tế chiếm giữ vai trò quan trọng. Việc huy động nguồn vốn trong và ngoài nước của Việt Nam đã đạt được kết quả hết sức khả quan. Nếu như nguồn vốn trong nước, gồm nguồn vốn huy động từ dân cư, cá tổ chức kinh tế,... giữ vai trò chủ đạo thì nguồn vốn nước ngoài, gồm vốn FDI, ODA, FPI,... là động lực và cơ sở để thay đổi công nghệ. Điều này thể hiện chính sách, thể chế, luật pháp của Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới kịp thời nhằm phù hợp hơn với xu thế quốc tế hóa. Tuy nhiên, việc huy động vốn trong nước cũng chưa thật sự phát triển mạnh, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn. Do đó, để đẩy nhanh việc huy động nguồn huy động dài hạn thì việc phát triển thị trường vốn trong thời gian sắp tới là rất cần thiết. Đặc biệt là phát triển thị trường chứng khoán, đây là kênh dẫn vốn quan trọng để phát triển nhanh nền kinh tế đất nước. Vừa qua, thị trường chứng khoán đã có những bước phát triển đáng kể cả về quy mô và chất lượng hàng hóa trên thị trường. Tuy nhiên, hiện nay chỉ tập trung phát triển thị trường cổ phiếu mà chưa đặc biệt quan tâm đến việc phát triển thị trường trái phiếu. Do vậy, thị trường trái phiếu là thị trường hết sức tiềm năng, cần có cơ chế, chính sách để đẩy mạnh phát triển thị trường này trong tương lai. a.Định nghĩa Trái phiếu là một chứng thư xác nhận nghĩa vụ trả những khoản lãi theo định kỳ và vốn gốc đến hạn của tổ chức phát hành.Nó có bản chất là một công cụ nợ, phản ánh mối quan hệ vay mượn giữa người đi vay là nhà phát hành và người cho vay là các nhà đầu tư. Các đặc tính kỹ thuật của trái phiếu cần lưu ý khi giao dịch là: 1.Thời hạn của trái phiếu (ngày phát hành, ngày đáo hạn) 2. Mức lãi được trả (coupon) 3. Kỳ trả lãi (nửa năm hay một năm, hay một lần duy nhất) 4. Địa điểm và loại mệnh giá phát hành 5. Có được niêm yết và chuyển nhượng dễ dàng hay không (tính thanh khoản) b. Các phương thức phát hành trái phiếu VN hiện nay - Phát hành thông qua hình thức bảo lãnh phát hành: bao gồm các hình thức bảo lãnh từng phần, đồng bảo lãnh, tổ hợp bảo lãnh và bảo lãnh toàn bộ. - Phát hành thông qua Đại lý phát hành. - Phát hành thông qua phương thức đấu thầu: Đấu thầu cạnh tranh lãi suất và không cạnh tranh lãi suất. Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết. Đại lý phát hành là việc tổ chức phát hành uỷ thác cho các tổ chức khác thực hiện bán trái phiếu cho các nhà đầu tư. Trường hợp không bán hết, tổ chức đại lý phát hành được trả lại số trái phiếu còn lại cho tổ chức phát hành. Tổ hợp bảo lãnh phát hành là nhóm các tổ chức bảo lãnh phát hành có từ hai tổ chức trở lên cùng tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu trên cơ sở hợp đồng giữa các tổ chức bảo lãnh phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành chính là tổ chức đại diện về quyền lợi và nghĩa vụ cho tổ hợp bảo lãnh trong hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu với tổ chức phát hành. Đồng bảo lãnh phát hành chính là các tổ chức bảo lãnh phát hành chính đồng đại diện về quyền lợi và nghĩa vụ cho tổ hợp bảo lãnh trong hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu với tổ chức phát hành. Đồng bảo lãnh là các tổ chức bảo lãnh phát hành trong tổ hợp bảo lãnh phát hành có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu với tổ chức phát hành. c.Các loại trái phiếu thông thường -Trái phiếu chính phủ: - Trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc Nhà nước: Hàng hoá giao dịch trên thị trường trái phiếu chủ yếu là Trái phiếu Chính phủ nên chưa tạo được sức hấp dẫn cho nhà đầu tư. Trong khi thị trường CP có nhiều phát triển vượt bậc thì thị trường TP đang "bò đi" từng bước. Nhiều đợt đấu giá TP CP gần đây mặc dù khối lượng đăng ký đấu thầu tương đối cao, bình quân gấp 3 lần khối lượng gọi thầu, nhưng tỉ lệ thành công lại có xu hướng giảm dần. Gần đây nhất là chính phủ đã thất bại việc chào bán 1 tỷ USD trái phiếu khi chào bán lần 2 ra công chúng. Nguyên nhân chủ yếu do việc đưa ra  mức lãi suất trần thấp,như với lần thất bại trên là do trái phiếu kỳ hạn 3 năm chính phủ chỉ trải lãi là 9% trong khi nhà đầu tư yêu cầu 9,5% còn kỳ hạn 5 năm là 9,1% trong khi đó họ yêu cầu là 10%.Cùng với sự ra đời của hai trung tâm giao dịch chứng khoán là tại Tp.HCM và Hà Nội, các trái phiếu chính phủ phát hành bằng đồng nội tệ cũng bắt đầu được giao dịch một cách rộng rãi hơn so với trước đây nhưng vẫn chưa tạo được sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư có tổ chức, do đó, khối lượng giao dịch rất ít.Điều này có thể bắt nguồn từ quy mô của thị trường, cơ sở vừa yếu vừa thiếu của hạ tầng thanh toán trong hệ thống tài chính Việt Nam. Cụ thể bao gồm một số điểm sau:Trước hết, quy mô của trái phiếu nói chung và trái phiếu chính phủ nói riêng hiện chiếm tỉ lệ rất thấp trong tổng tài sản tài chính cả nước với chỉ bằng 8% so với GDP, con số này khoảng 5 tỷ USD rất nhỏ bé nếu so với mức đủ để đạt tính thanh khoản 100-200 tỷ USD.Huy động vốn thông qua loại hình trái phiếu hiện chưa phải là kênh phổ biến mà chủ yếu là thông qua hệ thống ngân hàng với tổng tài sản chiếm đến 80% cơ cấu tài sản tài chính. Điều này tạo sự bất cân xứng trong kỳ hạn huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng, thiếu một kênh huy động vốn dài hạn để phục vụ cho các mục tiêu phát triển lâu dài. Cả hai yếu tố này đều góp phần làm tăng chi phí vốn cho nền kinh tế. Mặt khác, lượng trái phiếu phát hành bằng đồng nội tệ hiện chủ yếu được giao dịch hoặc nắm giữ bởi các ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính tương đương cũng làm cản trở sự phát triển của thị trường trải phiếu. Điều này tạo sự đơn điệu trong danh mục đầu tư, dẫn đến giá trái phiếu có mức biến động đáng kể khi các nhà đầu tư này thực hiện bán ra hoặc mua vào. Khối lượng phát hành mỗi đợt tương đối nhỏ chỉ khoảng 20 - 30 triệu USD/đợt khó thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư có tổ chức và vì vậy cũng làm giảm sức hấp dẫn của trái phiếu chính phủ. Thể chế pháp luật còn thiếu các qui định cần thiết nên hạn chế sử dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro như hoán đổi lãi suất, mua bán kỳ hạn hay tái mua lại nhằm giúp nhà đầu tư có thể bảo vệ rủi ro cho mình. Hệ thống thanh toán chưa có sự liên thông giữa các thị trường trong khu vực, dẫn đến nhà đầu tư gặp khó khăn khi giao dịch xuyên biên giới và điều này cũng làm cho nhà đầu tư không mặn mà mấy với loại hình chứng khoán này. Tuy vậy, những đợt phát hành vừa qua cho thấy nhu cầu của nhà đầu tư đang rất quan tâm đến thị trường trái phiếu chính phủ phát hành bằng đồng nội tệ, khối lượng đặt mua thường từ 2000 - 3000 tỷ VND, gấp 4 - 5 lần mức phát hành. Rất may là xu hướng này đang dần được khắc phục (với lãi suất trái phiếu phát hành đang giảm dần trong những đợt gần đây. Điều này có thể thấy rõ qua định mức tín nhiệm quốc gia được các tổ chức trên thế giới nâng lên cao hơn so với trước. Tính đến này,đã có hàng trăm nghìn tỉ đồng trái phiếu được niêm yết giao dịch trên Sở GDCK TPHCM (HOSE) và Trung tâm GDCK Hà Nội (HASTC), tăng gấp nhiều lần so với giá trị niêm yết năm 2000. Bên cạnh trái phiếu Chính phủ niêm yết với tỷ trọng trên 90% tổng giá trị trái phiếu niêm yết còn có trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, mức vốn hóa thị trường trái phiếu hiện nay khoảng 8% GDP là khá thấp nếu như so sánh với thị trường trái phiếu của các nước trong khu vực (bình quân khoảng 50-70%, trừ Nhật Bản trên 100% GDP ). Điều đó có nghĩa là kênh huy động vốn của Chính phủ thông qua thị trường trái phiếu để đáp ứng nhu cầu đầu tư của ngân sách còn hạn chế và vì vậy cần có sự đầu tư thích đáng hơn cho thị trường này. Trên thị trường trái phiếu Chính phủ hiện nay, được chào đón và thu hút nhiều nhất các nhà đầu tư là trái phiếu phát hành bằng ngoại tệ trên thị trường quốc tế.VN đã tăng gấp rưỡi lượng trái phiếu phát hành, lên 750 triệu USD trị giá trái phiếu thay vì 500 triệu USD như dự tính ban đầu được giao dịch ở thị trường này. Lãi suất trái phiếu Chính phủ trong đợt phát hành này đã được điều chỉnh giảm xuống mức 7,125%, thay cho mức dự tính ban đầu là 7,250%. Lãi suất này cao hơn so với Trái phiếu kho bạc Mỹ là 4,561%/trái phiếu 10 năm.Đây là bước đầu tiên giúp VN bước chân vào thị trường tài chính quốc tế. Điều đáng mừng là cầu trái phiếu này cao hơn mong đợi rất nhiều. Các nhà đầu tư quốc tế đã đưa ra các đề nghị đặt mua với tổng số lên tới 4,5 tỷ USD, cao gấp 6 lần trị giá chào, để dành quyền mua số trái phiếu nói trên.Theo thống kê ban đầu của Ngân hàng Credit Suisse First Boston, các nhà đầu tư đặt mua lớn trái phiếu VN chủ yếu đến từ châu Á, châu Âu và tại nước Mỹ. Một nửa trong số đó là các hãng quản lý tài sản. Các ngân hàng và hãng bảo hiểm cũng chiếm phần lớn.Sự đón nhận nhiệt tình đến bất ngờ đó được nhận định là do nhiều nguyên nhân từ chính VN. Thứ nhất, các nhà đầu tư quốc tế tin tưởng vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế VN sau khi chứng kiến hơn 10 năm đổi mới vừa qua. Đến nay, hầu như toàn thế giới biết đến công cuộc cải cách đổi mới ở VN. UNDP còn coi VN là một trong những ví dụ thành công nhất về chuyển đổi kinh tế trong lịch sử đương đại, đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt của cuộc sống kinh tế. Thứ hai, các nhà đầu tư tỏ ra lạc quan với việc VN được coi là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thứ hai châu Á, chỉ sau Trung Quốc. Bên cạnh đó, phải kể đến việc sụt giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với trái phiếu cùng loại của Indonesia và Phillipines do tình hình kinh tế chính trị các nước này thời gian qua không ổn định lắm.Thứ ba, việc các tổ chức định mức tín nhiệm quốc tế như gần đây liên tiếp nâng mức xếp hạng của VN cũng là một nguyên nhân quan trọng. S&P đã nâng mức tín nhiệm của VN từ BB- lên BB. Moody cũng nâng lên mức Ba3 trong khi một tổ chức định mức tín nhiệm quốc tế nổi tiếng khác là Fitch cũng xếp VN hạng BB-. Số tiền thu được sẽ được bơm thêm vào nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh với tốc độ trung bình từ 7 – 8% của Việt Nam, cùng với việc đầu tư nước ngoài đang tăng nhanh tại đây. - Trái Phiếu chính quyền địa phương: Chủ yếu cho các địa phương huy động vốn phục vụ cho việc xây dựng các công trình cơ sở vật chất hạ tầng tại địa phương của mình, chủ yếu phát hành thông qua công chúng của chính địa phương đó thông qua KBNN. Hiện nay, chỉ có hai địa phương là Hà nội và TP.HCM là thực hiện phát hành trái phiếu chính quyền địa phương thường xuyên, với số lượng lớn nhằm huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi tại địa phương. -Trái Phiếu doanh nghiệp: Sau khi Chính phủ ban hành nghị định 120/CP ngày 17/9/1994 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp nhà nước, thị trường trái phiếu bắt đầu manh nha hình thành. Tuy nhiên, phải đến năm 1996, thị trường trái phiếu doanh nghiệp mới có những bước đột phá mới, khởi đầu bằng việc Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE) huy động được 5 triệu USD. Năm 1998, Công ty Cổ phần Công nghệ thông tin EIS huy động được 10 tỷ. Năm 2003, Tổng công ty Dầu khí huy động được 300 tỷ; Tổng công ty Xi măng được 200 tỷ đồng; EVN được 300 tỷ. Việc huy động vốn trên thị trường trái phiếu trong giai đoạn này hầu như chưa phát triển. Các tổ chức phát hành chủ yếu là các tổ chức tín dụng và rất ít các doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Năm 2006 đánh dấu một bước ngoặc mới cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam khi Nghị định 52/2006/NĐ-CP chính thức được ban hành. Theo đó, chủ thể phát hành trái phiếu không chỉ là các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây mà còn có các công ty TNHH, công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với một nguyên tắc chung là các doanh nghiệp phải tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm và công khai minh bạch thông tin. Trong năm 2006, Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) huy động được 800 tỷ đồng, Tập đoàn EVN: 5.000 tỷ đồng. Đến tháng 7/2007, Vinashin phát hành thêm được 3.000 tỷ đồng, Vilexim được 5 tỷ, Tổng công ty thép được 400 tỷ đồng, Vinaconex huy động được 1.000 tỷ đồng. Hiện nay Nhà nước rất ưu ái trong việc phát hành TP DN nên chỉ mất khoảng 6 đến 8 tuần DN có thể hoàn tất hồ sơ phát hành. Tuy nhiên, nếu đi vay NH hay phát hành CP, DN sẽ mất nhiều thời gian hơn cho khâu chuẩn bị và xét duyệt hồ sơ. Phát hành TP cho phép DN huy động được lượng vốn lớn. Nếu DN có nhu cầu trên 1.000 tỉ đồng thì họ có thể tiếp cận nguồn vốn từ phát hành TP dễ dàng hơn so với việc đi vay hay phát hành CP. Tuy nhiên tính đến thời điểm hiện nay, thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn được đánh giá là hầu như chưa phát triển. Các nhà đầu tư chủ yếu “mua” và “giữ” trái phiếu tới khi đáo hạn. Các dịch vụ liên quan nhằm hỗ trợ thị trường hầu như chưa có. Một số chuẩn mực kế toán quốc tế quan trọng chưa được ban hành. 2. Cổ phiếu Với hàng trăm đợt phát hành cổ phiếu (CP) của các doanh nghiệp trên cả nước trong thời gian qua, gồm cả phát hành lần đầu và phát hành bổ sung, phát hành công khai và phát hành nội bộ (phát hành riêng lẻ), về cơ bản có thể nói, các hoạt động và các phương án phát hành CP của các doanh nghiệp đã diễn ra hợp pháp và mang lại hiệu quả tích cực cho đời sống kinh doanh của doanh nghiệp – tổ chức phát hành nói riêng, cũng như cho toàn bộ nền kinh tế nói chung. Điều này có thể thấy và được minh chứng qua những cải thiện rõ rệt a.Khái niệm Cổ phiếu là những chứng thư hay bút toán ghi sổ xác nhận trái quyền về vốn( quyền được hưởng lợi) đối với thu nhập và tài sản ròng của một công ty cổ phần. Đây có bản chất là một công cụ góp vốn cả chỉ do các công ty cổ phần phát hành. Khi cần huy động vốn, công ty chia cổ phần thành nhiều phần nhỏ bằng nhau, gọi đó là các cổ phần. Người mua cổ phần này được gọi là cổ đông. Với số cổ phần đã mua, các cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu, giấy này được ọi là cổ phiếu. Vốn mà công ty cổ phần cần huy động được từ phát hành cổ phiếu là vốn thuộc sở hữu của công ty, nhưng cổ đông trở thành những người đồng sở hữu công ty, tỷ lệ sở hữu phụ thuộc vào vào số cổ phần họ lắm giữ. b. Tác dụng của việc phát hành Cổ phiếu: Đối với Công ty phát hành: Việc phát hành Cổ phiếu sẽ giúp cho Công ty có thể huy động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh. Nguồn vốn huy động này không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu công ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng ...thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên, mỗi phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng và nhà quản lý công ty phải cân nhắc, lựa chọn tùy từng thời điểm và dựa trên những đặc thù cũng như chiến lược kinh doanh của công ty để quyết định phương thức áp dụng thích hợp. Đối với nhà Đầu tư Cổ phiếu: Các nhà đầu tư trên thị trường sẵn sàng mua Cổ phiếu được công ty phát hành. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần được phát hành dưới dạng chứng thư có giá và được xác định thông qua việc chuyển dịch, mua bán chúng trên thị trường chứng khoán giữa các chủ thể đầu tư và được pháp luật bảo vệ. Mặt khác, người mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn họ đầu tư được các nhà quản lý công ty sử dụng có hiệu quả, tạo ra nhiều lợi nhuận hoặc đánh giá hoạt động cũng như tiềm năng phát triển, sinh lợi của công ty dự định đầu tư là cao, và đương nhiên họ sẽ được hưởng một phần từ những thành quả đó thông qua việc thanh toán cổ tức cho các cổ đông, đồng thời giá trị cổ phần sở hữu cũng sẽ gia tăng trên cơ sở thực tại và triển vọng phát triển của công ty mình đã chọn. Thông thường, khả năng sinh lợi, thu hồi vốn đầu tư cổ phiếu tỷ lệ thuận với giá cả giao dịch cổ phiếu trên thị trường. Nhưng nhìn chung thì việc phát hành cổ phiếu phải đảm bào được tính minh bạch và công khai: Một là, xét trên góc độ kế toán, một trong những nguyên tắc quan trọng của kế toán là tính liên tục nên kết quả ghi trên báo cáo tài chính của từng niên độ chỉ mang tính chính xác tương đối, vì nó phụ thuộc vào các phương pháp hạch toán như: Phương pháp khấu hao, phương pháp hạch toán xuất nhập kho, phương pháp phân bổ chi phí... Chưa nói, bên cạnh kết quả "lãi" được hạch toán trong niên độ này, có thể đang tiềm ẩn "lỗ" cho niên độ sau (lãi giả lỗ thật), rất thường xảy ra đối với hoạt động tín dụng của NH. Từ đó, việc chia cổ tức theo tháng là việc làm thiếu chính xác, thiếu minh bạch và không có căn cứ khoa học. Hai là, một trong những khác biệt cơ bản của CP và trái phiếu hoặc CP ưu đãi (preferred stock) là ở chỗ lãi tức của trái phiếu gắn liền với thời gian tồn tại của nó còn cổ phiếu thì không có. Ngoài ra, người sở hữu CP là chủ DN kể từ thời điểm họ có quyền sở hữu và các chủ DN chịu rủi ro như nhau trong phạm vi số vốn họ đầu tư vào DN, không kể họ đã nắm CP trong thời gian bao lâu. Họ cùng là chủ của khoản vốn chủ sở hữu, bao gồm: vốn, thặng dư vốn và lợi nhuận chưa chia. Ba là, một trong những đặc tính quan trọng của Cty cổ phần là tính chất đối vốn, không phải đối nhân. Từ đó, không có sự phân biệt giữa các cổ đông nắm giữ cùng một loại CP (thí dụ CP phổ thông), tức không có sự phân biệt về khoản lãi (không chỉ là tỉ lệ cổ tức mà còn là số tuyệt đối) nhận được của từng CP cùng loại. Bốn là, khi phát hành CP mới, DN phải thực hiện cáo bạch và định giá trị DN. Giá trị CP mới phát hành được đánh giá trên cơ sở số liệu kế toán vào thời điểm báo cáo; nghĩa là trong giá trị này có tính đến kết quả kinh doanh đã được ghi nhận trước đó, thu nhập chưa chia và thặng dư vốn. b.Tình hình thị trường cổ phiếu hiện nay Hiện nay các cổ phiếu được niêm yết ở 2 nơi là sở GDCK Hà Nội ( HNX index-có 202 mã) và sở GDCK Hồ Chí Minh ( VN index-có 168 mã và 4 chứng chỉ quỹ niêm yết) Thông thường các cổ phiếu được các công ty phát hành lần đầu tiên thông qua các công ty chứng khoán trên thị trường sơ cấp. sau đó chúng được mua đi bán lại trên thị trường thứ cấp bởi các nhà đầu tư. Các công ty sẽ có vốn từ thị trường sơ cấp nhưng ko phải trên thị trường thứ cấp thì họ không còn được lợi nữa, khi cổ phiếu của họ tăng giá thì sẽ làm cho các lần phát hành sau của họ sẽ dễ dàng hơn làm cho họ có thể dễ dàng huy động được vốn hơn.Hiện nay, cổ phiếu là kênh đầu tư hấp dẫn bậc nhất trong các danh mục đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam cũng như trên thế giới. Trong một báo cáo mới nhất phân tích về thị trường chứng khoán Việt Nam với chủ đề: “Triển vọng trong năm 2009: Thời kỳ bùng nổ?” vừa được công bố hồi đầu năm 2009 này, nhóm nghiên cứu và phân tích của Công ty Chứng khoán Thăng Long (TSC) đã đưa ra đánh giá khá lạc quan rằng: cổ phiếu Việt Nam hiện là món hời với tiềm năng tăng trưởng tốt vào năm 2009, căn cứ vào hệ số P/E thấp và vốn hóa thị trường thấp/GDP. Trong thời gian qua thị trường chứng khoán VN gần như hòa nhịp với thị trường Mỹ. Dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế Mỹ đã thúc đẩy thị trường đi lên mạnh mẽ. Một trong những yếu tố tích cực hỗ trợ ngành ngân hàng đó là lãi suất đang được duy trì ở mức 0% và Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) tiếp tục bơm tiền vào hệ thống ngân hàng, nền kinh tế thông qua việc mua lại các trái phiếu chính phủ. Nhiều người còn cho rằng cho rằng so với năm ngoái các ngân hàng năm nay chú trọng hoạt động quản trị, đặc biệt là quản trị rủi ro nhiều hơn. Vì vậy, kết quả kinh doanh của ngân hàng cũng chất lượng và an toàn hơn. Cùng với tín hiệu tăng trưởng khả quan của nền kinh tế, ngân hàng là lĩnh vực tăng tốc trước các ngành khác. 3.Các khoản vay thế chấp( Mortgages ) Vay thế chấp là khoản tiền cho các cá nhân hoặc công ty vay đầu tư( mua hoặc xây dựng) vào nhà, đất, hoặc những bất động sản khác , các bất động sản và đất đó sau đó lại trở thành vật thế chấp để đảm bảo cho chính các khoản vay. Ở Việt Nam hiện nay, thị trường các khoản vay thế chấp có qui mô khá lớn( các khoản vay thế chấp thương mại và nông nghiệp), đặc biệt là thị trường các khoản vay thế chấp bằng bất động sản( nhà ở). Các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm nhân thọ là những tổ chức cung cấp các khoản vay thế chấp tương mại và nông nghiệp chủ yếu. Còn các khoản vay thế chấp nhà ở thì thường do các hiệp hội cho vay và tiết kiệm, và các ngân hàng tiết kiệm tương trợ cung cấp.Ngoài ra chính phủ cũng hình thành các tổ chức chuyên hỗ trợ cho thị trường các khoản vay thế chấp này. Hiện nay, để tận hưởng sự linh hoạt khi sử dụng nguồn vốn của chính bạn, các ngân hàng áp dụng cho vay thế chấp nhà theo hạn mức tín dụng. Định mức tín dụng giúp bạn tận dụng được giá trị tài sản trong ngôi nhà của mình và cho phép bạn được rút tiền vay trong một hạn mức đã được đồng ý. Bạn sẽ biết rõ hạn mức vay của mình là bao nhiêu và có thể sử dụng hạn mức vay này hoàn toàn theo ý bạn. Sản phẩm này thật thích hợp với những ai không muốn gặp những phiền phức của các thủ tục giấy tờ phức tạp của các khoản vay cá nhân khác. Với sản phẩm Cho vay thế chấp nhà theo hạn mức tín dụng, khách hàng có thể Được vay tới 50% giá trị tài sản Hưởng mức lãi suất cạnh tranh Bạn sẽ cần chứng minh được mức thu nhập và chi tiết về việc làm của mình. Tùy từng trường hợp, ngân hang sẽ yêu cầu các giấy tờ sau: Thư xác nhận công tác của công ty hay bản sao hợp đồng lao động Báo cáo tài chính hoặc báo cáo thuế của 2 năm gần nhất (nếu là chủ doanh nghiệp) Chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc bằng sáng chế Bằng chứng chứng minh về các thu nhập khác Báo cáo của ngân hàng Thẻ chứng minh thư nhân dân, sổ Hộ khẩu, Sổ đỏ hoặc sổ hồng Chứng nhận đăng ký nhà Hợp đồng mua bán Hợp đồng cho thuê và chứng minh sở hữu có thể yêu cầu một số thông tin khác để đánh giá khả năng cho vay của bạn Sau khi triển khai chương trình vay tín chấp qua mạng, đầu tháng 11.2007, ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) tiếp tục triển khai chương trình vay thế chấp qua mạng dành cho các sản phẩm tín dụng cá nhân có thế chấp (có tài sản đảm bảo) tại khu vực TP.HCM. Chương trình này giúp người có nhu cầu vay thế chấp thuận tiện hơn trong quá trình vay vốn tại ACB. Chương trình vay qua mạng của ACB được xây dựng và phát triển trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại, cho phép khách hàng truy cập vào website ACB tham khảo thông tin chi tiết về sản phẩm. Khách có thể sử dụng công cụ trên mạng để tính toán số tiền trả nợ phù hợp số tiền vay; thời hạn vay; phương thức trả nợ và thực hiện đăng ký vay vốn qua mạng. Với chương trình này, khách hàng chỉ cần kết nối internet là có thể đăng ký vay vốn có tài sản đảm bảo tại ACB ở bất cứ nơi nào, bất kỳ thời điểm nào người vay cảm thấy thuận tiện nhất, chỉ bằng động tác nhấp chuột vào địa chỉ website: www.acb.com.vn/vayquamang/thechap. Tại địa chỉ này, khách hàng sẽ được giải đáp thắc mắc cũng như tìm thấy những câu hỏi thường gặp về chương trình và sản phẩm, hỗ trợ tối ưu cho quy trình vay vốn. Khảo sát về thực tiễn hoạt động cho vay gần đây nhất của Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho thấy 93% các ngân hàng đều muốn nhận bất động sản làm tài sản thế chấp cho các khoản vay thương mại. Song do phần lớn tài sản của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tồn tại dưới dạng các động sản như hàng tồn kho và các khoản phải thu mà có thể có trị giá tới hàng tỷ đô la nên việc tiếp cận tín dụng với nhiều doanh nghiệp trở nên khó khăn. Bên cạnh đó, còn một điều đáng lo ngại là bất động sản thế chấp lên tới 50% tổng tài sản hệ thống ngân hàng, trong khi thị trường bất động sản đang “xì hơi”. Ông Lê Xuân Nghĩa, vụ trưởng vụ Chiến lược phát triển ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cho biết: “ Xét về định tính, cho vay kinh doanh bất động sản chỉ bằng 10% tổng tài sản ngân hàng. Tuy nhiên, bất động sản thế chấp lên tới khoảng 50% tổng tài sản ngân hàng, nghĩa là bằng GDP Việt Nam. Vì vậy, nếu thị trường bất động sản sụp đổ là nguy hại ngay toàn bộ hệ thống tài chính. Vì vậy, chính phủ đã đưa ra một gói giải pháp cương quyết không để thị trường bất động sản tiếp tục bong bóng, mà cũng không để cho nó sụp đổ. Nó phải xì hơi từ từ.” Nhằm khắc phục vấn đề này, Bộ Tư pháp với sự trợ giúp kỹ thuật của IFC-MPDF và FIAS trong năm qua đã nỗ lực cải thiện khuôn khổ pháp lý về giao dịch bảo đảm và hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm. Nghị định số 163 về giao dịch đảm bảo là một biểu hiện cụ thể, giúp hoàn thiện khuôn khổ luật pháp về cho vay có bảo đảm.Trong thập kỷ vừa qua, một loạt các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Anbani, Bosnia, Trung Quốc, Romania, Slovakia đã tiến hành đổi mới luật pháp về giao dịch bảo đảm và đã tăng được đáng kể hoạt động cho vay. Việt Nam cũng là một trong những nước theo xu hướng này và kỳ vọng sẽ đạt những thành quả tương tự. 4.Các khoản vay thương mại và tiêu dùng( Consumer and bank commercial loans ): Đây là các khoản vay dành cho các công ty kinh doanh và ngườ tiêu dung, chủ yếu là do các ngân hàng cung cấp. Riêng các khoản vay tiêu dùng cũng có thể do các công ty tài chính cung cấp. Các khoản vay này thường không chuyển nhượng được nên chúng kém lỏng nhất trong các công cụ tài chính trên thị trường vốn. Thủ tướng vừa có Quyết định 457/QĐ-TTg ngày 9/4/2009 phê duyệt kế hoạch vay và trả nợ nước ngoài năm 2009. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hạn mức vay thương mại trung dài hạn nước ngoài của quốc gia năm 2009 là 4.700 triệu USD. Cụ thể, hạn mức vay thương mại trung dài hạn nước ngoài của quốc gia năm 2009 trong tổng số 4.700 triệu USD thì vay thương mại nước ngoài của Chính phủ là 1.100 triệu USD. Ngoài ra, theo quyết định này hạn mức vay bảo lãnh Chính phủ đối với vay thương mại nước ngoài của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng là 1.300 triệu USD (tương ứng với số ký vay mới trong năm 2009 là 3.500 triệu USD) và 600 triệu USD cho hạn mức vay nước ngoài của các doanh nghiệp thuộc khu vực công theo phương thức tự vay tự trả (tương ứng với số ký vay mới trong năm 2009 là 900 triệu USD) Đồng thời, dự báo mức vay nước ngoài của khu vực tư nhân là 1.700 triệu USD (trong đó số giải ngân của các khoản vay mới trong năm 2009 khoảng 1.000 triệu USD), tương ứng với số ký vay mới trong năm 2009 là 3.000 triệu USD. Mới đây Thủ tướng đã phê duyệt Thư bảo lãnh vay tín dụng xuất khẩu và Thư bảo lãnh vay thương mại, để Vietnam Airlines mua 4 chiếc máy bay Airbus A321. Bộ Tài chính sẽ thay mặt Chính phủ ký thư bảo lãnh cho các giao dịch này. Hiện nay trong vay tiêu dùng, người dân chủ yếu vay để mua, xây, sửa nhà ở. Các ngân hàng đang có nhiều hình thức cho vay tiêu dùng, như: tín chấp, thế chấp, vay thông qua thẻ tín dụng. Lãi suất cao hay thấp còn tùy thuộc cách trả nợ và cách tính lãi vay của bên cho vay. Trong năm 2008, dịch vụ cho vay tiêu dùng được các ngân hàng thắt chặt do cơ chế trần lãi suất, cùng với độ rủi ro, chi phí thẩm định của loại hình này cao hơn các dịch vụ khác.  Kể từ đầu tháng 2/2009, Thông tư 01 của NHNN cho phép các ngân hàng được thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, mức độ tín nhiệm khách hàng vay. Điều này đồng nghĩa với việc ngân hàng có thể cho vay tiêu dùng vượt quá trần lãi suất 10,5%/năm, người dân tiếp cận vốn vay của ngân hàng dễ dàng hơn. Cùng với cho vay tiêu dùng mua nhà, sửa nhà, mua ô tô có thế chấp, nhiều ngân hàng còn cho vay tín chấp (không cần tài sản bảo đảm) hoặc vay qua thẻ ghi nợ, với hạn mức cao nhất lên tới 500 triệu đồng và thời hạn trả góp kéo dài từ 5 - 15 năm. Với loại hình dịch vụ này, khách hàng chỉ cần chứng minh có thu nhập ổn định từ lương (3 tháng gần nhất), có hộ khẩu thuộc khu vực 3 sẽ được vay khoản tiền tùy thuộc vào mức lương của khách hàng và hạn mức tín dụng của ngân hàng. Điển hình như: LienVietBank với sản phẩm cho vay tiêu dùng tín chấp với hạn mức vay lên đến 500 triệu đồng và thời hạn cho vay tối đa là 36 tháng; SeABank cho vay với hạn mức tối đa từ 300 - 500 triệu đồng/khách hàng, thời gian giải quyết hồ sơ tối đa chỉ 2 ngày; SHB cho vay với hạn mức tối đa 300 triệu đồng hoặc 12 lần thu nhập hàng tháng, thời hạn vay lên đến 48 tháng... Lãi suất cho vay tín chấp của các ngân hàng thương mại đang dao động quanh khoảng 10 - 15%/năm, cá biệt có ngân hàng lên tới 18%/năm. Tên ngân hàng Hạn mức tín dụng Lãi suất LienVietBank 500 triệu đồng (18 tháng lương) thấp nhất 12%/năm Eximbank 500 triệu đồng (đảm bảo bằng BĐS) Lãi tính trên dư nợ thực tế Seabank 300 - 500 triệu đồng 14%/năm SHB 300 triệu đồng Lãi suất ưu đãi ACB 250 triệu đồng 15,5%/năm VIBank 200 triệu đồng 12 - 15%/năm  Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) vừa thông báo sẽ dành 2.000 tỷ đồng cho các nhu cầu về vay mở rộng sản xuất kinh doanh, vay phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, vay mua nhà, sửa chữa nhà để ở. 2.000 tỷ đồng cũng là con số mà Ngân hàng Ngoài quốc doanh (VPBank) dự kiến dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân vay mua nhà, mua ô tô trả góp. Theo đại diện VPBank, ngân hàng này sẽ tiến hành thẩm định kỹ lưỡng đối với các khoản vay, ưu tiên những khoản vay có độ an toàn cao. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng như: Techcombank, DongAbank, Eximbank… cũng đang triển khai cho vay tiêu dùng bằng cách liên kết với các trung tâm mua sắm lớn. Giới chuyên gia nhận định, nhu cầu về các khoản vay tiêu dùng trong năm nay sẽ còn tăng, và cao hơn nhiều năm trước. Kết luận Ngày nay, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, vấn đề xây dựng một thị trường tài chính vững mạnh, ổn định và phát triển cần phải được tổ chức và có những bước đi thích hợp. Chính phủ với vai trò quản lý và là người xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường tài chính phát triển, cần phải có những chính sách thông thoáng để thị trường tài chính phát huy hết vai trò của nó, giúp cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển bền vững, nhất là khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Thị trường tài chính ngày nay mang tính toàn cầu, vượt ra khỏi ranh giới giữa các quốc qia, tính hội nhập cũng rất mạnh mẽ nên rất khó trong quản lý, đặc biệt là cơ chế giám sát, sao cho vừa mang tính đặc thù riêng theo những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước vừa mang tính hội nhập quốc tế, vừa đảm bảo an toàn cho thị trường tài chính trong nước vừa mang tính chất tự do hóa. Để xây dựng thị trường tài chính ổn định và phát triển, việc hiểu rõ và sử dụng có hiệu quả các công cụ của thị trường tài chính là điều hết sức quan trọng bởi chính các chứng khoán này giúp thị trường tài chính lưu chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn , giúp thị trường tài chính hoạt động và đi lên. Các công cụ của thị trường tài chính ngày càng phát triển với tốc độ rất nhanh, thị trường chứng khoán ngày càng sôi động , vì vậy không chỉ các thể chế kinh tế lớn như ngân hàng, các tổ chức tín dụng …mà ngay cả từng người dân Việt Nam cũng cần có những hiểu biết về thị trường tài chính, đặc biệt là về các chứng khoán. Chỉ có hiểu biết về các công cụ tài chính này mới có thể khiến đất nước ta không ngày càng tụt hậu so với các nước khác trên thế giới, thu nhập của người dân mới có thể cao lên và khi đó nước ta mới có thể thoát khỏi tình trạng một trong những nước nghèo nhất thế giới như hiện nay. Tài liệu tham khảo:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác công cụ phổ biến lưu thông trên thị trường tài chính viêt nam.doc
Luận văn liên quan