Tiểu luận Các quy định chính về bảo vệ và thúc đẩy đầu tư trong Luật đầu tư quốc tế
          
        
            
               
            
 
            
                
                    - Trách nhiệm cung cấp “bảo vệ và an ninh đầy đủ”của nước nhận đầu tư
cho bên đầu tư được qui định trong Điều 2 khoản 2 của Hiệp định đâu tư
song phương giữa Sri Lanka và UK không thể hiểu như một trách nhiệm
pháp lý triệt để(strict liability)
- Các Hiệp Định đầu tư song phương không đưa ra cho nước nhận đầu tư
sự miễn trách nhiệm hoàn toàn trong trường hợp nhà đầu tư bị tổn thất vì
sự phá hủy c ủa nước nhận đầu tư xuất hiện trong hành động chống lại
phiếnquân của lực lượng an ninh chính phủ.
- Khi thất bại trong việc đưa ra sự bảo vệ và an ninh đầy đủ, trách nhiệm
của nước nhận đầu tư được thiết lập và sự bồi thườngtheo nhữngnguyê n 
tắc và tiêu chuẩn của LQT được phát triển trước đó liên quan đến sự thất
bại của QG tuân theo its “due diligence” theo tiêu chuẩn tối thiểu của
LuậtTQQT.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 12 trang
12 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2721 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các quy định chính về bảo vệ và thúc đẩy đầu tư trong Luật đầu tư quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
Tiểu luận 
Các quy định chính về bảo vệ và thúc 
đẩy đầu tư trong Luật đầu tư quốc tế 
Case 
Asian Agricultural Products Limited v.Sri Lanka 
Nhóm thực hiện : Nguyễn Minh Thịnh C33 
 Đỗ Duy Tuấn C33 
 Đoàn Lê Phương Thúy D33 
 Nguyễn Tuyết Nhung D33 
 2 
1. Nội dung vụ việc 
28/1/1987, trong một vụ mở rộng quân sự của lực lượng an ninh của 
Srilanka chống lại nhóm phiến quân địa. Theo báo cáo của công ty thực 
phẩm Á châu (AAPL) thì kết quả của cuộc tấn công quân sự trên đã làm cho 
công ty này hoàn toàn mất trắng vốn đầu tư, và yêu cầu từ Chính phủ 
Srilanka bồi thường cho những thiệt hại đó. Yêu cầu được chấp nhận ngày 
9/3/1987, còn tồn tại mà không có trả lời trong hơn 3 tháng và do đó, AAPL 
đệ đơn lên tòa trọng tài. 
- Ngày 9/7/1987, tổng thư ký của ICSID gửi thông báo đến AAPL và 
một bản coppy đến Srilanka. Ngày 20/7/1987, tổng thư ký thông qua 
yêu cầu của Phòng đăng ký trọng tài và thông báo cho các bên sau đó. 
- Ngày 30/9/1987, ICSID nhận được thông báo của AAPL đối với kết 
quả của việc Giáo sư Berthold Goldman đã được bổ nhiệm làm thành 
viên của Hội đồng xét xử phù họp với Nguyên tắc 5.(1) của Nguyên 
tắc Trọng tài. Bổ nhiệm được chấp nhận ngày 8/10/1987 
- Srilanka bổ nhiệm Tiến sĩ Samuel K.B. Asante. Ông này chấp nhận bổ 
nhiệm vào ngày 28/10/1987 
- Tiến sĩ Ahmed S.EL-Kosheri được bổ nhiệm làm trọng tài thứ ba và 
Chủ tịch hội đồng trọng tài vào 24/12/1987 bởi lãnh đạo Hội đồng 
quản trị ICSID. 
2. Yêu cầu của Nguyên đơn 
i. Trách nhiệm không điều kiện của việc “an ninh và bảo vệ đầy đủ” 
đưa ra trong điều 2 Hiệp định đầu tư song phương 
ii. Điều 4(2) của Hiệp định này yêu cầu sự đền bù đầy đủ cho thiệt 
hại tài sản của Nguyên đơn trong trường hợp không thể biện hộ bởi 
hoạt động giao tranh hoặc sự cần thiết của tình huống 
iii. Cuối cùng, Nguyên đơn đòi hỏi rằng trách nhiệm pháp lý của 
Chính phủ mở rộng ra trách nhiệm của Quốc gia gây ra thiệt hại 
dưới nguyên tắc tập quán của luật quốc tế. 
3. Lập luận của các bên 
Cả 2 bên đều viện dẫn BIT giữa UK và Sri Lanka.Tuy nhiên mỗi bên đã 
phân tích những điều khoản liên quan của ĐƯ theo cách khác nhau dẫn 
đến những kết luận khác nhau. 
 3 
a) AAPL 
Quan điểm của AAPL được thể hiện ở những điểm sau: 
- Bên đầu tư “sẽ được hưởng an ninh và bảo vệ đầy đủ trong lãnh thổ 
của bên nhận đầu tư”. Theo Nguyên đơn, “ý nghĩa nguyên bản của 
những từ ngữ “an ninh và bảo vệ đầy đủ” chỉ ra sự chấp nhận trách 
nhiệm pháp lý triệt để bởi quốc gia nhận đầu tư”. 
- Với “ngữ cảnh” của toàn bộ “chủ thể và mục đích” của Hiệp định, và 
xem xét ngôn ngữ “đồng thuận và rất giống nhau” được sử dụng trong 
toàn bộ Hiệp định Đầu tư song phương bao gồm Srilanka và quốc gia 
thứ ba, phân tích so sánh với các mô hình khác thể hiện rằng thuật 
ngữ “an ninh và bảo vệ đầy đủ” được xem là “ tự do về đặc điểm, độc 
lập về liên hệ đối với luật tập quán uốc tế” 
- Bằng việc loại bỏ lý thuyết “bảo hộ ngoại giao” sử dụng rộng rãi bởi 
thuật ngữ của US “hữu nghị, thương mại và hàng hải” (FCN) về bảo 
vệ gián tiếp, nhà đầu tư nước ngoài được “bảo hộ” bởi “Hiệp định đầu 
tư song phương” (BITs), một phương pháp bảo vệ trực tiếp. 
- Trong sự thi hành của điều khoản Tối huệ quốc trong điều 3 Hiệp định 
đầu tư song phương giữa Srilanka và UK, và thực tế rằng Hiệp định 
giữa Srilanka và Switzerland không đưa ra một “điều khoản chiến 
tranh” hay “nhiễu loạn dân sự” nào cho s ự miễn trừ từ tiêu chuẩn an 
ninh và bảo vệ, Nguyên đơn khẳng định rằng: “tiêu chuẩn của điều 
ước trong Hiệp định Thụy Sỹ cái mà tối ưu hơn điều khoản của Hiệp 
định SL và UK, áp dụng cho các dự án đầu tư của Anh. Điều này có 
nghĩa là tiêu chuẩn của trách nhiệm pháp lý triệt để phải được bảo 
đảm bởi Srilanka giống như đối với các dự án đầu tư Anh quốc”. 
“ As states above, Article 4(2) of the SL/UK Treaty provides for an 
exemption from the strict liability rule of Article 2(2). Article 4(2) 
provides for restitution and freely transferable compensation if the 
destruction of propertiy in situation of war or civil disturbances was not 
required by the necessity of the situation. This standard of compensation 
goes beyond the duty of granting “restitution”, “indemnification”, or 
“compensation” or “other settlement” provided for by Art 4(1) of the 
Treaty, which remains the foll-back provision in cacses of war 
destruction”. 
 Lý do để tranh cãi rằng sự thay đổi có thể được áp dụng trong điều 4.(2) 
có thể được giải thích như sau: 
- Hành động bị lên án “không bị gây ra do giao tranh”, nhưng những gì 
Nguyên đơn miêu tả lại là “sự phá hoại không thương tiếc tài sản của 
AAPL và sự giết hại lạnh lùng người quản lý trang trại cũng như các 
 4 
nhân viên” cái mà “rõ ràng không theo đúng kế hoạch của bất cứ hoạt 
động giao tranh nào”. 
- Tài sản bị “trưng thu” bởi quân đội Srilanka và bị phá hoại bởi “chính 
những nhà quân sự đó”. 
- Hơn thế nữa, Nguyên đơn chắc chắn rằng “sự phá hoại và giết chóc 
toàn bộ bởi lực lượng an ninh của Chính phủ hoàn toàn không tương 
xứng với những gì cần thiết để đáp ứng nhu cầu cấp bách cụ thể của 
tình huống hiện hành tại phương tiện của SSL. 
- Dựa vào câu chữ của Điều 4(2), quan điểm của Nguyên đơn là: “quy 
trách nhiệm cho Bị đơn để chứng tỏ rằng sự phá hoại tài sản của 
Nguyên đơn là yêu cầu cần thiết của tình huống. 
b) Srilanka 
Tranh cãi chủ yếu của Chính phủ có thể kết luận như sau: 
- Ngôn từ “an ninh và bảo vệ đầy đủ” là thông thường trong các hiệp 
định đầu tư song phương, và nó kết hợp chặt chẽ với tiêu chuẩn pháp 
lý quốc tế tập quán của trách nhiệm. Tiêu chuẩn pháp lý quốc tế này 
đối hỏi sự cố gắng thích đáng của Quốc gia và sự biện minh hợp lý 
cho bất kỳ sự phá hủy tài sản, nhưng không phải trách nhiệm pháp lý. 
- Tiêu chuẩn của trách nhiệm pháp lý dưới Điều 2(2) và 4(2) là giống 
nhau. Trong cả hai trường hợp, một yêu cầu của sự hợp lý là dựa vào 
hành động của Chính phủ., dưới tiêu chuẩn luật quốc tế thể hiện trong 
điều 2.(2), Chính phủ gánh chịu trách nhiệm pháp lý nếu nó thất bại 
trong việc xử lý với việc bồi thường xứng đáng. Dưới điều 4.(2), 
Chính phủ chịu trách nhiệm pháp lý nếu các hành động của mình 
không cần thiết. 
- Trách nhiệm của bằng chứng phải được đảm bảo bởi Nguyên đơn, bằng 
việc chứng minh rằng “ thông qua bồi thường thích đáng, Chính phủ 
có thể ngăn chặn Batticalon khỏi sự thất bại dưới sự kiểm soát của 
những kẻ khủng bố, do đó cần thiết phải có những hành động chống 
lại những kẻ nổi loạn. Nếu AAPL không chứng minh được hành động 
an ninh là có thể tránh được thì trách nhiệm của AAPL là phải chứng 
minh Chính phủ gây ra sự hủy hoại trong đợt mở rộng quân sự ngày 
28/1/1987 
- Đối với phạm vi bị phá hủy lớn, Chính phủ Srilanka sẵn sàng bồi 
thường AAPL cho những gì thuộc về AAPL. Tuy nhiên thật đáng để 
đặt ra câu hỏi “ liệu Hội đồng có thể quyết định rằng đã có sự phá hủy 
lớn hay không, nếu không có những quyết định chiến thuật dự phòng 
của những người chỉ huy trong cuộc chiến. 
 5 
- Đầu tư vào khu vực được biết là tồn tại một vấn đề nóng hổi, có khả 
năng diễn ra bạo lực, phân lập, AAPL nhận trách nhiệm về nguy hiểm 
mà nó có thể gặp phải trong cuộc nội chiến ở Srilanka. 
Lời đáp lại của Chính phủ tập trung chủ yếu vào những tranh tụng diễn 
tiến bởi sự đáp trả của Nguyên đơn bằng việc chắc chắn rằng: 
- Cáo buộc của AAPL “lý thuyết về trách nhiệm pháp lý hoàn toàn” dựa 
vào điều 2.(2) bao gồm thiệt hại gia tăng trong hoàn cảnh và gây ra 
bời các bên hơn ai khác ngoài những bên có liên quan đến điều 4.(2). 
Về bản chất, theo Bị đơn, Điều 2.(2) “thiết lập những tiêu chuẩn thông 
thường của việc bảo vệ tài sản của nhà đầu tư nước ngoài đối với 
những thiệt hại gây ra bởi bên thứ ba”; nhưng Điều 4.(2) “áp dụng cho 
những thiệt hại gây ra do Chính phủ” 
- Ngược lại với thông báo của Nguyên đơn rằng Điều 4.(2) thiết lập 
một sự “miễn trừ” đói với tiêu chuẩn dền bù chặt chẽ theo Điều 2.(2), 
Điều 4.(2) “tạo ra hơn là hạn chế sự đền bù”. 
- Không có bất kỳ nhà cầm quyền nào đề nghị rằng điều khoản “an ninh 
và bảo về đầy đủ” là “thuộc những điều khoản tiến bộ của BITs”, và 
không có “sự ủng hộ có tính lịch sử nào cho lý thuyết đền bù tuyệt đối 
của AAPL” 
- Sự thiếu vắng điều khoản thiết lập sự đền bù đối với Điều 4 của Hiệp 
định trong BITs khác của Srilanka, ví dụ như Hiệp định với Thụy 
Điển, có nghĩa là chỉ có dưới những hiệp định đó sự đầu tư mất vì sự 
phá hủy bởi Chính phủ do nội chiến, bất chấp có cần thiết hay không, 
được bảo hộ bởi “điều khoản công bằng và hợp lý” thông thường 
Cuối cùng, đáng chú ý là qua các phiên tòa trọng tài, Chính phủ Srilanka cho 
rằng: 
- Sự hủy hoại không thể quy cho lực lượng an ninh của chính phủ mà 
do những tên khủng bố 
- Đã có một cuộc chiến hiệu quả giữa Lực lượng an ninh Đặc biệt của 
Chính phủ và nhóm những Con hổ; và 
- Không có bằng chứng nào về việc phá hủy tài sản “không được yêu 
cầu bởi sự cần thiết của tình cảnh” 
Do đó, từ quan điểm của Bị đơn, sự bồi thường được đưa ra trong Điều 
4(1) không thể áp dụng do sự thiếu sót của 3 trong số các điều kiện tối 
cần thiết. Do vậy, khả năng áp dụng điều 4.(1) không thể giải thích một 
cách hợp lý. 
4) Phân tích của Tòa 
 6 
- 2 bên đồng ý dùng BIT giữa Sri Lanka và UK là nguồn của Luật.2 bên bất đồng 
trong việc giải thích các điều khoản. 
- Điều đầu tiên Tòa phải làm là xác định nội dung của những điều ước liên quan 
mà 2 bên bất đồng trong viêc giải thích ĐƯ , dựa trên Đ31 –CƯ Viên về Luật 
ĐƯ. 
- Những nguyên tắc khác giúp Tòa xác định vấn đề diễn giải ĐƯ : 
 a) Khi nghĩa của một điều khoản đã rõ ràng từ câu chữ thì không có lý do nào để 
từ chối nghĩa thực tế của điều khoản đó. (theo Vattel’s Chapter on Interpretation of 
Treaties-chapter 17) 
 b) Dựa vào cách sử dụng phổ biến mà tập quán đã gắn cho những từ ngữ đó 
 c) Dựa vào tinh thần và những mục đích của Điều ước 
 d) Việc dịch điều khoản là để đưa ra ý nghĩa chứ không phải lấy đi ý nghĩa của 
điêu khoản. 
 e) Xem xét các tranh cãi tương tự trong các điều ước trước đó. 
- Để quyết định trách nhiệm của nước nhận đầu tư đối với những tổn thất của nhà 
đầu tư như sự phá hoại tài sản, Tòa xem xét 4 nội dung cơ bản của BIT giữa Sri 
Lanka và UK : 
- Điều 2 khoản 2 qui định nghĩa vụ của nước nhận đầu tư ,theo đó nước nhận đầu 
tư bảo đảm cho đầu tư nước ngoài sẽ được hưởng sự bảo vệ và an ninh đầy đủ trên 
lãnh thổ của nước đầu tư. 
- Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc trong điều 3 có thể được viện dẫn làm tăng trách 
nhiệm pháp lý của nước nhận đầu tư trong trường hợp mức cao hơn của sự bảo vệ 
quốc tế gắn với Quốc gia thứ 3. 
- Điều 4 khoản 1 đưa ra những hậu quả hợp pháp của những tổn hại của nhà đầu tư 
nước ngoài “do chiến tranh hay xung đột vũ trang,cách mạng,cuộc nổi loạn hay 
bạo động” trên lãnh thổ của nước nhận đầu tư 
- Đ4 khoản 1: đưa ra 2 dạng của sự thiệt hại : 
 + Việc trưng thu tài sản bởi lực lượng hay nhà cầm quyền của nước đầu 
tư 
 + Việc phá hủy tài sản bơi lực lượng hay những người có quyền của nước 
nhận đầu tư mà không phải bị gây ra trong cuộc chiến hay không được đòi hỏi bơi 
sự cân thiết của tình hình. 
- Điều 4 khoản 2 qui định sự bồi thường 
- ĐƯ đưa ra những trường hợp khác nhau theo đó sự bảo vệ được viên dẫn trong 
trường hợp có sự phá hủy đầu tư ,và các giải pháp cho mỗi trường hợp. 
+ Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài tuyên bố rằng sự phá hủy tài sản là không cần 
thiết bởi lực lượng an ninh chính phủ đã hành động không phải trong trận chiến. 
Đ4 khoản 2 
+ Trong trường hợp nhà đầu tư không chỉ ra được sự phá hủy là do lực lượng an 
ninh của chính phủ, vậy điều 4 khoản 2 sẽ không thích hợp. 
 7 
 + Article 3 của ĐƯ giữa Sri Lanka và UK cung cấp chế độ tối huệ quốc 
+ Điều 4 khoản 1 và điều 2 khoản 2 
- Đệ trình của bên nguyên đơn dựa trên giả định rằng “Sự bảo vệ và an ninh 
đầy đủ” trong điều 2 khoản 2 đã tạo ra một trách nhiệm pháp lý chặt chẽ mà chính 
phủ Sri Lanka phải chịu cho bất cứ sự phá huỷ đầu tư thậm chí gây bởi những 
người gây ra hành động mà không phải là người của chính phủ nước nhận đầu tư 
và trong bất kỳ trường hợp ngoài tầm kiểm soát của nước nhận đầu tư. 
- Tranh cãi của Nguyên đơn dựa vào 2 thuật ngữ sau trong ĐƯ : “hưởng”( enjoy) 
và “đầy đủ” (full).Theo Nguyên đơn, các bên có ý định cung cấp cho nhà đầu tư sự 
bảo đảm cho tất cả những thiệt hại họ phải chịu do sự phá hủy đầu tư vì bất cứ lý 
do gì và không cần biết ai là người đã gây ra thiệt hại đó,dưới bất cứ trường hợp 
nào. 
  Quan điểm của Tòa: sự giải thích Điều 2 khoản 2 như trên không phù hợp với 
bất cứ quy tắc của việc dịch các điều khoản đã được nêu trên. 
Thực tế, những cách diễn đạt tương tự như vậy đã được sử dụng từ thế kỷ trước 
trong nhiều ĐƯ song phương để thúc đẩy sự trao đổi kinh tế và để cung cấp cho 
công dân cũng như các công ty của một quốc gia đầu tư ở quốc gia khác có được 
sự đối xử thỏa đáng trên lãnh thổ của quốc gia nhận đầu tư,về bản thân họ cũng 
như tài sản của họ. 
- Tranh cãi về việc hiểu thuật ngữ: “full protection and security” có phải được 
hiểu như một trách nhiệm bảo đảm các nhà đầu tư không chịu một thiệt hại 
nào trên lãnh thổ của nước nhận đầu tư ? 
- Tòa đưa ra case Sambiaggio mà có tranh cãi tương tự.( ĐƯ 1861 giữa Ý và 
Venezuela ,việc dịch những thuật ngữ tương tự cũng trở thành tranh cãi chính của 
2 bên) 
- Ý tranh cãi rằng : theo Đ4 của ĐƯ 1861 chính phủ Venezuela bảo đảm 
(guarantee) cho nhà đầu tư Ý ở Venezuela . 
“The protection and security ….which the Venezuelan Government guarantees by 
Article 4 of the Treaty of 1861 to Italians residing in Venezuela” 
- Venezuela phản bác lại rằng : “Chính phủ cung cấp (afford)sự bảo vệ chứ không 
bảo đảm nó . “Government are constituted to afford protection, not to guarantee 
it” 
- Trọng tài đã kết thúc cáo buộc của người Ý khi nhấn mạnh rằng : 
“If it had been the contract between Italy and Venezuela, understood and consented 
by both , that the latter should be held liable for the acts or revolutionists –
something in derogation of the general principles of international law – this 
agreement would naturally have found direct expression in the protocol itself and 
would not have been left to doubtful interpretation” 
 8 
- Trong case gần đây liên quan đến Electronica Sicula S.P.A giữa Mỹ và Ý được 
phân xử bởi Hội thẩm của ICJ . Chính phủ Mỹ viện dẫn điều V khoản 1 của HĐ 
song phương Mỹ- Ý ,theo đó thiết lập trách nhiệm cung cấp “ the most constant 
protection and security” 
- Phán quyết của hội thẩm ICJ : liên quan đến điều 5 “constant protection and 
security” không thể được hiểu như việc đưa ra sự bảo đảm rằng tài sản sẽ không 
bao giờ trong bất cử trường hợp nào bị chiếm giữ . 
 Cả 2 tiền lệ trên đều xác định rằng việc áp đặt ngôn ngữ lên nước nhận đầu 
tư một trách nhiệm cung cấp “sự bảo vệ và an ninh” hay “bảo vệ và an ninh 
đầy đủ theo luật QT” không thể được hiểu theo nghĩa tự nhiên của những từ 
tạo ra một trách nhiệm pháp lý triệt để. “strict liability” 
- Quan điểm của Tòa, việc thêm những từ “full” hay “constant” không đủ để thiết 
lập các bên có ý định chấp nhận một trách nhiệm pháp lý triệt để. 
- Theo qui tắc c: việc dịch điều khoản phải tính đến những mục tiêu và tinh thần 
chung của ĐƯ, mà ở trong case này đó là sự khuyến khích đầu tư thông qua việc 
cung cấp môi trường đủ sự bảo vệ hợp pháp. 
-> Không thể xác định được liệu Sri Lanka và UK trong khi đàm phán có tính đến 
việc thiết lập một trách nhiệm pháp lý triệt để có lợi cho nhà đầu tư nước ngoài 
như một trong những mục tiêu của sự bảo vệ nói đến trong điều ước? 
Nói cách khác, chẳng có bên nào tuyên bố rằng việc bảo vệ như trong ĐƯ nghĩa là 
trách nhiệm pháp lý triệt để đối với nước nhận đầu tư trong trường hợp việc đầu tư 
chịu những thiệt hại do sự phá hoại tài sản. 
- Theo đó việc viện dẫn đến tinh thần và những mục tiêu của ĐƯ không 
làm thay đổi kết luận của Tòa trong việc từ chối xem xét Điều 2 khoản 2 áp 
đặt trách nhiệm pháp lý triệt để “strict liability” đối với nước nhận đầu tư khi 
nước nhận đầu tư thất bại trong việc bảo vệ và an ninh đầy đủ cho bên đầu 
tư. 
- Lý lẽ của Nguyên đơn là Đ2 khoản 2 thông qua một tiêu chuẩn của trách nhiệm 
pháp lý chặt chẽ sẽ dẫn tới kết luận rằng Đ4 sẽ là thừa , với nghĩa là theo cách dịch 
ĐƯ của Nguyên đơn , các bên không nghiêm túc trong việc thêm vào ĐƯ của họ 2 
điều khoản mà không bị mắc trong thực tế.Việc dịch ĐƯ như vậy bị bác bỏ trong 
ứng dụng của Nguyên tắc (d).Theo (d) Điều 2 khoản 2 phải được hiểu mà không 
bỏ đi Điều 4. 
- Qui tắc (e) , những tiền lệ được thiết lập bởi Tòa trọng tài trong vụ Sambiaggio 
và bởi hội thẩm ICJ trong Elettronica Sicula case đã ủng hộ sự từ chối của Tòa 
trong việc phân tích những từ “bảo vệ và an ninh đầy đủ” như một “trách nhiệm 
 9 
pháp lý triệt để” đối với nước nhận đầu tư cho bất cứ thiệt hại nào nhà đầu tư phải 
chịu do sự phá hủy ở nước nhận đầu tư như điều khoản bảo vệ đầu tư trong ĐƯ. 
 Từ những lý do trên Tòa tuyên bố không tìm được lời biện hộ nào của bên 
Nguyên đơn nhằm vào việc xem xét chính phủ Sri Lanka có chịu một trách 
nhiệm pháp lý triệt để theo điều 2 khoản 2 của BIT mà không cần chứng 
minh sự thiệt hại được qui cho là do nước nhận đầu tư. 
- Tương tự , Tòa bác bỏ tranh cãi của Nguyên đơn dựa trên chế độ đối xử Tối 
huệ quốc theo điều 3 của BIT giữa Sri Lanka và UK. 
-Viện dẫn sự thiếu nội dung tương tự Đ4 trong Hiệp định giữa Sri 
Lanka/Switzerland cung cấp điều khoản chiến tranh …Tranh cãi của Nguyên đơn 
dựa trên giả định sau: 
+ ĐƯ Sri Lanka và Switzerland cung cấp tiêu chuẩn “trách nhiệm pháp lý triệt để” 
của việc bảo vệ trong trường hợp thiệt hại do phá hoại tài sản. 
 Tòa không có lý do gì để tin rằng Sri Lanka /Switzerland đã thông qua tiêu 
chuẩn “trách nhiệm pháp lý triệt để” 
Do đó , việc ĐƯ Sri Lanka/Switzerland bao gồm những nguyên tắc có lợi hơn 
những nguyên tắc trong ĐƯ Sri LanKa/UK không được chứng minh vì vậy Điều 3 
của ĐƯ Sri Lanka/UK không thể được viện dẫn một cách chính đáng trong case 
này. 
 Liên quan đến việc dịch Điều 4,mối quan hệ giữa điều 4 khoản 1 và điều 4 
khoản 2. 
 Tòa dựa trên những nguyên tắc tương tự (a), (b), (c), (d), (e) 
Thêm các nguyên tắc sau: 
 (g) Bên nguyên đơn có trách nhiệm dẫn chứng 
 (h) Dẫn chứng dựa trên những cáo buộc của bên Nguyên về các thực tế 
 (i) Bên có trách nhiệm dẫn chứng không chỉ đưa ra dẫn chứng mà còn phải 
thuyết phục Tòa về tính đúng đắn của dẫn chứng đó 
 (j) Trách nhiệm QT của một nước không được bị lạm dụng.Bên cáo buộc 
một sự vi phạm luật QT đưa ra vấn đề trách nhiệm QT có trách nhiệm chứng minh 
khẳng định đó. 
 (k) Quyết định của tòa án dựa trên sự thuyết phục của bằng chứng. 
- Điều 4(2) quy định một tình trạng cụ thể mà trở nên thích hợp trong trường hợp 
được mô tả bởi sự tồn tại của 3 yếu tố : 
 10 
+ Sự phá hủy tai sản không chỉ xuất hiện trong thời gian chiến tranh mà chính xác 
hơn chứng minh được sự phá hủy đó do lực lượng của chính phủ 
+ Sự phá hủy không bị gây ra trong trận chiến, vì tiêu chuẩn cao hơ của trách 
nhiệm pháp lý (bồi thường đầy đủ,) gắn liền với giả định việc phá hủy phi lý được 
thực hiện không trong cuộc chiến 
+ Việc phá hủy không phải yêu cầu của tình trạng cần thiết.(chứng minh lực lượng 
an ninh đã vượt qua giới hạn hợp lý khi thực hiện sự phá hủy không cần thiết) 
- Hơn nữa, Nhà đầu tư viện dẫn Điều 4 (2) phải chứng minh : 
 +lực lượng chính phủ gây ra sự phá hủy chứ không phải nhóm phiến 
quân 
 + Sự phá hủy này xuất hiện không phải trong một cuộc chiến 
 + Chính phủ đã có thể tránh không phá hủy vì tính không cần thiết của nó. 
 Tòa đánh giá bằng chứng của 2 bên phù hợp với qui tắc (g) ,(h) ,Tòa cho rằng : 
- Sự phá hủy tài sản ở trại Serendib’s diễn ra ngày 28/1/1987 trong suốt thời gian 
giao tranh và thiệt hại xuất hiện trong suốt thời gian lực lượng an ninh chính phủ 
Sri Lanka chiếm giữ trại 
- Không có bằng chứng thuyết phục sự cáo buộc của bên Nguyên rằng việc đốt 
cháy gây ra sự thiệt hại tài sản là do quân đội của chính phủ và không có bằng 
chứng nào chứng tỏ rằng Tôm bị thiệt hại do hành động của lực lượng an ninh. 
- Không có bằng chứng nào chứng tỏ cáo buộc của bên Bị rằng việc đốt cháy gây 
ra sự phá hủy tài sản là do nhóm phiến quân khi kháng cự lại lực lượng an ninh. 
Vì vậy , Tòa tìm ra rằng điều kiện đâu tiên của điều 4 (2) không thể được thoả mãn 
trong case này do sự thiếu bằng chứng thuyết phục rằng những tổn hại bị gây ra do 
những hành động của lực lượng chính phủ 
- Xem xét điều kiện thứ 2 
 sự thiệt hại bị gây ra trong một trận chiến “in combat action” , cân phải hiểu thế 
nào là “combat action ”? và liệu rằng những thiệt hại có bị gây ra trong “combat 
action” 
Theo Tòa : a “combat action” chính phủ thực hiện các hoạt động để chống lại 
những nhóm phiến quân trên một vùng rộng lớn. 
 Xem xét bằng chứng của các bên : quan điểm của Tòa rằng hoạt động “Day 
Break” được thực hiện 28/1/1987 chống lại nhóm “Tiger” Tamil để giành lại quyền 
kiểm soát của vùng Manmunai , có thể coi như là “combat action” 
Vì vậy những thiệt hại bị gây ra không thuộc phạm vi điều 4 (2) của Sri 
Lanka/UK BIT. 
 11 
- Điều kiện thứ 3 theo điều 4 (2) liên quan đến “necessity of the situation” có 
nghĩa là : bên Nguyên chỉ có thể quy trách nhiệm cho nước bên Bị khi bên Nguyên 
chứng minh được sự thiệt hại của mình không bị gây ra trong sự cần thiết của tình 
huống “necessity of the situation” 
- Trong thực tế, rất nhiều án xử bằng trọng tại đã từ chối bồi thường cho những sự 
phá hủy diễn ra trong suốt thơi kỳ giao tranh với giả định là những sự phá hủy đó 
là bắt buộc bởi sự cấp bách của chiến tranh 
Trong case này, không bên nào có thể đưa ra được bằng chứng đáng tin cậy để giải 
thích những điều kiện mà sự phá hủy và những thiệt hại đã diễn ra.Do đó khó có 
thể xác định được liệu sự phá hủy và thiệt hại bị gây ra là kết quả của tình trạng 
cần thiết . 
 Tòa kết luận trách nhiệm quốc tế của một nước không bị lạm dụng 
 cả 3 điều kiện cần thiết của khoản 2 điều 4 được chứng minh không tồn tại. 
Đ4 khoản 1 trở thành phần duy nhất đưa ra giải pháp cho bên Nguyên. 
- Xem xét Điều 4 khoản 1 
Điều kiện duy nhất của Điều 1 là : “losses suffered ” - đủ để đưa ra sự ứng dụng 
của Điều 4 khoản 1 mà không cần phải chứng minh bên nào chịu trách nhiệm cho 
sự phá hủy, hay cho vấn đề liệu việc phá hủy là cân thiết hay không? Phạm vi của 
việc áp dụng Đ4 (1) không gặp bất cứ một giới hạn hợp pháp nào. 
Theo điều 4(1) , nhà đầu tư đã hưởng “full security ” theo điều 2(2) của Sri 
Lanka/UK IBT sẽ được đối xử thỏa đáng không ít hơn so vơi những công ty của 
nước nhận đầu tư hoặc công ty của nước khác. “no less favourable treatment” bảo 
đảm bao gồm tất cả các trường hợp mà nhà đầu tư chịu tổn thất vì những lí do như 
“tình trạng khẩn cấp của Quốc gia, bạo động,..” cùng với việc liên quan đến những 
phương pháp được liệt kê trong điều 2 khoản 2 “bồi thường” 
Tòa khẳng định rằng BIT đã không đưa ra cho nước nhận đầu tư sự miễn trách 
nhiệm hoàn toàn trong trường hợp nhà đầu tư bị tổn thất vì sự phá hủy của nước 
nhận đầu tư xuất hiện trong hành động chống lại phiến quân của lực lượng an ninh 
chính phủ. 
Khi thất bại trong việc đưa ra sự bảo vệ và an ninh đầy đủ , trách nhiệm của nước 
nhận đầu tư được thiết lập và sự bồi thường theo những nguyên tắc và tiêu chuẩn 
của LQT được phát triển trước đó liên quan đến sự thất bại của QG tuân theo its 
“due diligence” theo tiêu chuẩn tối thiểu của Luật TQQT. 
Vì vậy , bất cứ nhà đầu tư nào thậm chí trong BIT của Quốc gia của nhà đầu tư đó 
với Sri Lanka không bao gồm điều khoản tương tự như Đ2 (2) sẽ vẫn được bảo vệ 
 12 
do trách nhiệm “due diligence” của nước nhận đầu tư. Trách nhiệm này được ngụ 
ý bởi Luật TQQT đưa ra trách nhiệm của nước nhận đầu tư. 
5) Quyết định của Tòa 
 - Sri Lanka phải trả cho Asian Agricultural Products Ltd một khoản là 460000$ Mỹ 
- Tòa bác bỏ tất cả các đệ trình khác của các bên 
- Sri Lanka sẽ phải chịu một khoản 5497249 $ tương đương với 1/3 lệ phí của 
AAPL phải chuẩn bị cho vụ kiện 
- Sri Lanka sẽ phải chịu 60% của phí xử lý vụ kiện 
- AAPL sẽ phải chịu 40 % của phí xử lý vụ kiện 
6) Kết luận 
- Trách nhiệm cung cấp “bảo vệ và an ninh đầy đủ” của nước nhận đầu tư 
cho bên đầu tư được qui định trong Điều 2 khoản 2 của Hiệp định đâu tư 
song phương giữa Sri Lanka và UK không thể hiểu như một trách nhiệm 
pháp lý triệt để (strict liability) 
- Các Hiệp Định đầu tư song phương không đưa ra cho nước nhận đầu tư 
sự miễn trách nhiệm hoàn toàn trong trường hợp nhà đầu tư bị tổn thất vì 
sự phá hủy của nước nhận đầu tư xuất hiện trong hành động chống lại 
phiến quân của lực lượng an ninh chính phủ. 
- Khi thất bại trong việc đưa ra sự bảo vệ và an ninh đầy đủ , trách nhiệm 
của nước nhận đầu tư được thiết lập và sự bồi thường theo những nguyên 
tắc và tiêu chuẩn của LQT được phát triển trước đó liên quan đến sự thất 
bại của QG tuân theo its “due diligence” theo tiêu chuẩn tối thiểu của 
Luật TQQT. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 asian_agricultural_proucts_limited_v_7775.pdf asian_agricultural_proucts_limited_v_7775.pdf