Tiểu luận Các quyết định Hội đồng bảo an trước và sau chiến tranh Iraq 2003

Một vấn đề khác là theo NQ này, lực lượng này sẽ duy trì tại Iraq cho đến khi tiến trình chính trị ở Iraq kết thúc, Chính phủ Iraq yêu cầu rút quân hoặc HĐBA ra một nghị quyết yêu cầu rút quân. Ở đây có sự không rõ ràng về điều kiện rút quân vì tuy rằng NQ tuyên bốmột trong những cơ sở cho việc rút quân là yêu cầu từ phía Chính phủ Iraq nhưng việc duy trì lực lượng này lại được quyết định bằng một nghị quyết của HĐBA chiểu theo chương VII Hiến chương LHQ. Theo đó, NQ có tính ràng buộc tất cả các nước, trong đó có Iraq, do đó có phạm vi bao phủ lên trên quyết đ ịnh của chính phủ Iraq. Cụ thể hơn, NQ này cần phải được hủy bỏ bằng một NQ khác của HĐBA; yêu cầu của Iraq lúc ấy chỉ có tính bổ trợ, khuyến nghị cho HĐ.

pdf50 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3394 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các quyết định Hội đồng bảo an trước và sau chiến tranh Iraq 2003, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 25 quan nào đên việc cho phép sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết. Hội đồng biết rằng một cụm từ như vậy cho phép sử dụng vũ lực, đã chủ ý loại trừ cụm từ để ưu tiên thơng qua nghị quyết. Hơn nữa đoạn 12 (vừa được nhắc tới) cũng khơng được chèn vào. Nghị quyết 1441 được coi là văn kiện mở đầu cho hàng loạt sự kiện từ bùng nổ chiến sự ở Iraq cho tới việc hất cẳng Saddam Husein ra khỏi chiếc ghế quyền lực của ơng ta. Quá trình mà dẫn đến sự thơng qua nghị quyết này đã đề cập tới các vấn đề đã được thảo luận trước đĩ và cũng sử dụng rất nhiều dự thảo NQ trước đĩ. Tuy nhiên rõ ràng về mặt ngơn từ của của những đoạn trong nghị quyết 1441 áp đặt những nghĩa vụ đối với Iraq, và trao cho UNMOVIC những quyền hạn mà đã khơng tồn tại trong tất cả các nghị quyết trước đĩ của UN. Nhiều năm thất bại với sự lừa bịp và trì hỗn của Saddam cuối cùng HĐBA đã quy định những biện pháp nghiêm khắc và khơng khoan nhượng – zero-tolerance mà sẽ cung cấp cho Iraq một cơ hội cuối cùng để tuân theo những nghĩa vụ thanh sát vũ khí và giải trừ quân bị của mình. Đoạn 4 tuyên bố rằng Iraq sẽ được xem như tự ràng buộc với một sự vi phạm thực chất xa hơn những nghĩa vụ thanh sát vũ khí của mình trong trường hợp những tuyên bố hoặc sự bỏ sĩt sai nào dường như xuất hiện trong tuyên bố về vũ khí mà Iraq được yêu cầu cung cấp trong vịng 30 ngày kể từ khi thơng qua nghị quyết 1441. Đoạn 4 này cịn yêu cầu Iraq báo cáo tất cả sự thật về những chươg trình hĩa học, sinh học và hạt nhân khác, bao gồm cả bất cứ chương trình bị cáo buộc nào cho mục đích khơng liên quan đến nguyên liệu và việc sản xuất vũ khí…”. Tuy nhiên, nghị quyết 1441 khơng cĩ ý định thay thế chế độ thanh sát mà đã cĩ trước nĩ. Ít nhất 2 nhiệm vụ và quyền hạn kết nối với việc thanh sát vũ khí và xuất hiện trong nghị quyết 1441 đáng được quan tâm. Nhiệm vụ và quyền hạn thứ nhất bao gồm yêu cầu của UN rằng UNMOVIC được đảm bảo tiếp cận khơng chỉ những vị trí cĩ vũ khí mà cịn tất cả những cá nhân liên kết với các hoạt động liên Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 26 quan đến vũ khí hĩa học, sinh học hoặc hạt nhân. Đặc biệt, mục 4 của đoạn 7 của nghị quyết bắt buộc Iraq cung cấp cho UNMOVIC và IAEA tên của các cơng chức hiện tại và trước đây liên kết với các hoạt động liên quan đến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Hơn nữa, tất cả các cơng chức đĩ được yêu cầu phải cĩ thể sẵn sàng để thẩm vấn bao gồm cả việc thẩm vấn bên ngồi Iraq. Nhiệm vụ và thẩm quyền khác đáng được quan tâm bao gồm việc việc sử dụng của UN hay các lực lượng an ninh khác để bảo vệ những thanh sát viên và sự bắt tơn trọng những khu vực khơng bay qua, khơng lái xe qua. Những từ ngữ cĩ ý nghĩa nhất xuất hiện ở mục 5 và 6 của đoạn 7. Trong ngữ cảnh (văn cảnh) nĩi về căn cứ của đội điều tra thì ý nhỏ nằm trong đoạn 5 cho phép việc sử dụng vũ lực nhằm bảo vệ những phương tiện (xe cộ, máy mĩc) của đội điều tra, khác với trường hợp ngũ cảnh nĩi về khu vực bị phong tỏa (Freezing sites), khơng hề cĩ bất cứ mối liên hệ cụ thể nào giữa các ý nhỏ của đoạn 5 và 6 với nhau mặc dù một vài bản nháp trước đĩ đã khảng định cĩ mối liên quan giữa chúng . Tuy nhiên dựa vào một số bản nháp đĩ cĩ thể ngầm luận ra rằng từ “facility” ở đây nên được hiểu là khả năng sử dụng các lực lượng an ninh để phong tỏa khu vực điều tra. 1.4 Tĩm lại Nguyên tắc cơ bản được tin cậy bởi liên minh vũ lực để hợp pháp hĩa sự can thiệp vào Iraq là một sự cho phép phát sinh ra ngồi ảnh hưởng được liên kết từ nghị quyết 678, 687 và 1441. Tuy nhiên một luận điểm như vậy về cơ bản là thiếu sĩt. Nghị quyết 678 khơng cĩ mối liên hệ với mâu thuẫn hiện tại vì nĩ liên quan riêng đến sự can thiệp quân sự bởi Iraq chống lại Kuwait, và hịa bình ở khu vực trong bối cảnh mâu thuẫn giữa hai quốc gia đĩ. Tương tự, trong khi nghị quyết 687 thì thích đáng với phạm vi mà nĩ áp đặt các nghĩa vụ đối với Iraq liên quan đến vũ khí hủy diệt hàng loạt, nĩ khơng chứa đựng bất cứ sự cho phép sử dụng vũ lực nào trong phạm vi mà nghị quyết này liên quan đến việc đồng ý giải trừ quân bị giữa Iraq và Kuwait sau cuộc xâm lược Kuwait do Iraq tiến hành. Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 27 Nghị quyết 1441 yêu cầu Iraq thực hiện những nghĩa vụ của nĩ theo nghị quyết 687 về vũ khí hủy diệt hàng loạt. Tuy nhiên, chúng khơng biểu lộ khả năng sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết để bắt tơn trọng, thi hành những quy định của chúng, cũng khơng đưa ra một sự ủy quyền để các thành viên UN suy ra từ đĩ một quyền như vậy. Do đĩ, viện dẫn nghị quyết số 678 của Hội đồng Bảo an về vấn đề sử dụng vũ lực buộc Iraq rút khỏi Kuwait để biện minh cho hành động tấn cơng quân sự vào lãnh thổ Iraq của Mỹ hiện nay là khơng cĩ căn cứ pháp lý quốc tế. Lập trường của Nga, Pháp và Trung Quốc và nhiều nước khác đã chỉ rõ rằng, chừng nào chỉ cĩ một nghị quyết mới, rõ ràng của Hội đồng Bảo an cho phép sử dụng vũ lực, lúc đĩ hành động quân sự của Mỹ và Anh mới cĩ cơ sở pháp lý. Khơng quan tâm đến những cách nhìn của nhiều người về giá trị của sự xĩa bỏ chế độ trị vì Hussein ở Iraq, việc sử dụng vũ lực chống lại Iraq là phi lý theo luật quốc tế. HĐBA đã khơng cho phép sự can thiệp nào cũng khơng cĩ bất cứ cơ sở rõ ràng nào được ngụ ý từ một quyền hành cĩ thể được suy ra., HĐBA chịu trách nhiệm duy trì hịa bình và an ninh quốc tế như được quy định trong Hiến chương UN, và nĩ khơng cho phép bất cứ cá nhân quốc gia thành viên nào được phá vỡ quyền hành đĩ bằng cách hành động mà khơng cĩ sự mệnh lệnh được thể hiện của HĐBA. 2. Nghị quyết 1483 2.1 Hồn cảnh ra đời Chiến tranh Iraq cơ bản kết thúc vào ngày 01/5/2003 theo thơng báo của Tổng thống Mỹ G. W. Bush. Tuy nhiên, Iraq vẫn trong tình trạng bất ổn nghiêm trọng. Do đĩ, Hội đồng Bảo an LHQ đã nhĩm họp ngày 22/5/2003 để xem xét dư thảo nghị quyết về các vấn đề hậu chiến của Iraq do Tây Ban Nha, Anh và Mỹ soạn thảo, trong đĩ khẳng định tình hình ở Iraq dù đã được cải thiện vẫn là mối đe dọa đối với an ninh và hịa bình quốc tế. Nghị quyết đã được đưa ra tham khảo các nước thành viên HĐBA trước khi được trình chính thức. Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 28 Nghị quyết được thơng qua bởi 14 thành viên HĐBA (Syria vắng mặt). 2.2 Nội dung nghị quyết - Nghị quyết quyết dỡ bỏ cấm vận đối với Iraq, đồng thời chấp dứt dần Chương trình Đổi dầu lấy lương thực trong vịng 6 tháng cùng với việc cung cấp đầy đủ các nhu cầu thiết yếu cho người dân Iraq. - Tái khẳng định tầm quan trọng của việc giải trừ các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt. - Khẳng định nguyên tắc quyền tự quyết chính trị của người dân Iraq. - Xác nhận chính quyền tạm thời của lực lượng liên quân sẽ quản lý Iraq cho tới khi bầu cử được tiến hành nhằm thiết lập một chính quyền đại diện được quốc tế cơng nhận của chính người dân Iraq. - 95% doanh thu từ xuất khẩu dầu mỏ sẽ được chuyển vào Quỹ Phát triển Iraq dưới sự điều hành của lực lượng liên quân. - Kêu gọi cộng đồng quốc tế hỗ trợ tái thiết Iraq. 2.3 Phản ứng của các nước Nghị quyết được thơng qua với sự đồng thuận của HĐBA do đĩ tất cả các nứơc đều ủng hộ nghị quyết này dù rằng cĩ một số khác biệt về quan điểm vẫn cịn tồn tại. - Đại diện Mỹ cho rằng nghị quyết này mở đường cho viẹc giúp đỡ nhân đạo và tái thiết Iraq và ủng hộ LHQ đĩng vai trị quan trọng ở Iraq. - Đại diện của Pháp cho rằng Nghị quyết này tuy khơng hồn hảo như nĩ đã mở đường cho cộng đồng quốc tế hỗ trợ cho Iraq và tiến trình giải giáp vũ khí của nứơc này; và ủng hộ vai trị mạnh mẽ hơn của LHQ ở Iraq. - Đại diện Anh xem Nghị quyết thể hiện một sự đồng thuận quan trọng đối với một trong những vấn đề chính sách đối ngoại khĩ khăn nhất hiện nay. Nghị quyết đã trao cho LHQ vai trị quan trọng và độc lập Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 29 trong tình hình hậu chiến ở Iraq. Tuy vậy, nghị quyết, theo ơng, cũng chưa bao quát tồn bộ vấn đề mà một trong số đĩ là vấn đề thanh sát của IAEA. - Đại diện Đức: Nghị quyết này quan trọng vì nĩ mang lại một viễn cảnh cho người dân Iraq về việc thành lập một chính phủ ổn định và dân chủ, chung sống hịa bình với những nước láng giềng và tơn trọng các quốc gia khác. Nghị quyết mà một thõa thuận đạt được một cách khĩ khăn trong vấn đề tăng cường vai trị của LHQ. - Đại diện Tây Ban Nha cho rằng HĐBA đã nhận thức được rằng đã đến lúc nhìn nhận tình hình một cách thực tế; và Nghị quyết đã cung cấp một cơng cụ quan trọng để giải quyết tình hình khĩ khăn hiện nay của Iraq. - Đại diện của Mexico cho rằng Nghị quyết thơng qua sau quá trình đàm phán căng thẳng đã thể hiện sự tái đồn kết và hịa giải giữa các bên nhằm quay trở lại với những mục đích của HĐBA. Thách thức của LHQ hiện nay là đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của tổ chức này và đĩng vai trị khĩ khăn trong tiến trình tái thiết. Và ơng cho rằng vai trị của LHQ sẽ phụ thuộc vào những cam kết và sự linh hoạt của HĐBA cũng như và khả năng chuyên mơn của Đại diện đặc biệt. - Đại diện của Nga cho rằng Nghị quyết đạt được nhờ sự nhượng bộ từ tất cả các bên và do đĩ khẳng định những vấn đề khĩ khăn chỉ cĩ thể được giải quyết trên nền tảng tập thể. Nghị quyết tuy khơng đưa ra câu trả lời cho mọi vấn đề liên quan nhưng nĩ cũng đã xác lập các nguyên tắc cơ bản cho lực lượng chiếm đĩng cũng như dành một vị trí quan trọng cho LHQ. - Đại diện của Bulgari cho rằng Nghị quyết thể hiện tầm quan trọng của LHQ trong tình hình hiện nay và đi xa hơn nữa, khẳng định LHQ là tổ chức quan trọng khơng thể thiếu trong tiến trình tồn cầu hĩa hiện nay. Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 30 - Đại diện của Trung Quốc cho rằng nghị quyết đĩng gĩp vào việc giữ tính đúng đán và thẩm quyền của LHQ; và nước này ủng hộ nghị quyết dù nĩ chưa thể hiện hết quan điểm của Trung Quốc trong vấn đề này. - Đại diện Cameroon ủng hộ nghị quyết này như một tính hiệu tính cực đối với cộng đồng quốc tế và nhân dân Iraq. - Đại diện Guinea cho rằng nghị quyết là bằng chứng về khả năng của LHQ trong các tình huống khĩ khăn và khả năng nhận trách nhiệm hàng đầu trong bảo đảm hịa bình an ninh thế giới. - Đại diện Angola cho rằng Nghị quyết thể hiện sự đồn kết cần thiết của HĐBA sau những chia rẽ trong thời gian xảy ra chiến tranh Iraq. LHQ đĩng vai trị quan trọng trong tình hình hậu chiến ở Iraq. - Đại diện Pakistan phát biểu rằng Pakistan ủng hộ Nghị quyết này và mong rằng trong thời gian tới LHQ sẽ đĩng vai trị quan trọng hơn trong việc tái thiết Iraq vì sự cần thiết của một mơi trường khu vực ổn định và hịa bình. 2.4 Đánh giá Nghị quyết 1483 về tái thiết Iraq cơ bản được các nước ủng hộ. Tuy nhiên, Nghị quyết 1483 gây ra nhiều tranh cãi về hậu quả pháp lý từ Nghị quyết này mà chủ yếu tập trung vào việc liệu cĩ thể rút ra sự cơng nhận tính hợp pháp của cuộc chiến này từ Nghị quyết hay khơng, vì nếu cĩ, nĩ sẽ tạo ra tiền lệ tiêu cực cĩ thể dẫn đến sự bất ổn định trên thế giới. Thứ nhất, Nghị quyết xác nhận sự quản lý của lực lượng chiếm đĩng như một chính quyền tạm thời và đồng thời trao quyền cho Đại diện đặc biệt của LHQ tại Iraq nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan quốc tế khác và lực lượng này trong việc ổn định và giúp đỡ Iraq thời hậu chiến. Việc này dẫn đến một tranh cãi rằng HĐBA đã ngầm đồng ý và cơng nhận tính hợp pháp của cuộc chiến Iraq. Tuy nhiên, khơng cĩ bất kỳ nội dung nào trong Nghị quyết thể hiện điều này, Nghị quyết chỉ đơn giản là việc HĐBA xem xét và đưa ra giải pháp cho tình hình hiện Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 31 thời lúc đĩ tại Iraq như một hành động khắc phục những hậu quả gây ra đối với Iraq và nhân dân nước này bởi cuộc chiến xâm lược của Mỹ và đồng minh. Việc dính líu vào Iraq của LHQ khơng chỉ do Iraq là thành viên của tổ chức này mà cịn vì mục đích tơn chỉ là duy trì hịa bình và an ninh thế giới, theo đĩ việc ổn định tình hình ở nước này đĩng vai trị quan trọng đối với sự ổn định của cả khu vực. Vấn đề thứ hai là việc xác nhận vai trị quản lý của lực lượng chiếm đĩng cĩ thể coi như một hành động hợp thức hĩa việc xâm phạm chủ quyền của Iraq tạo nên tiền lệ cho các nước khác cĩ hành động tương tự và đặt LHQ vào tình thế “chuyện đã rồi.” Theo đĩ, một quốc gia khi bị đặt dưới sự quản lý của nước khác thì đương nhiên chủ quyền đối nội của quốc gia này khơng cịn. Tuy nhiên, chủ quyền của Iraq với tư cách là một chủ thể quốc tế vẫn được giữ thơng qua sự tồn tại de facto của đất nước Iraq trên thế giới và trong các tổ chức quốc tế. Lực lượng chiếm đĩng khi thực hiện những quyền và nghĩa vụ của Iraq trong thời gian chiếm đĩng vẫn thực hiện trên danh nghĩa quốc gia và nhân dân Iraq. Vì vậy, chủ quyền của Iraq chỉ tạm thời bị giới hạn một phần chứ khơng mất đi; và theo Nghị quyết, nguyên tắc tự quyết được tái khẳng định tạo nền tảng cho việc thành lập một nhà nứơc của chính người dân Iraq qua đĩ nắm lại tồn bộ chủ quyền. Vấn đê thứ ba, HĐBA bày tỏ ý định thiết lập một chính quyền đại diện được quốc tế cơng nhận. Song song với việc khẳng định quyền tự quyết của nhân dân Iraq đối với tương lai chính trị của đấy nước mình, HĐBA đã đưa ra điều kiện rằng chính phủ đại diện phải được sự cơng nhận từ cộng đồng quốc tế. Do đĩ, trong trường hợp này LHQ đã cĩ ý định can thiệp vào quá trình tự quyết của nhân dân Iraq trong việc thành lập nên chính quyền của riêng mình. Tĩm lại, Nghị quyết 1483 về tái thiết Iraq khơng đưa ra bất cứ ý kiến nào về tính hợp pháp của hành động xâm lược Iraq của Mỹ và đồng minh và cũng chưa đưa ra câu trả lời cho một số vấn đề quan trọng. Nghị quyết thể hiện trách nhiệm của LHQ trong bình ổn tình hình ở Iraq để duy trì và đảm bảo hịa bình và an ninh khu vực và quốc tế. Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 32 3. Nghị quyết 1511 3.1 Hồn cảnh ra đời Nghị quyết Ngày 22/5/2003, gần 2 tháng sau khi Liên minh làm chủ được Baghdad, Hội đồng Bảo an thơng qua Nghị quyết 1483 xác nhận vai trị của các thế lực chiếm đĩng và giao cho họ quản lý những lợi nhuận từ việc xuất khẩu dầu mỏ của Iraq. Ngày 14/8/2003, Hội đồng Bảo An tiến thêm một bước nữa trong việc thừa nhận sự chiếm đĩng này. Nghị quyết 1500 quy định về việc thành lập Hội đồng trung ương của Iraq cũng như thiết lập một Phái đồn cứu trợ của Liên Hiệp Quốc tại Iraq. Tuy nhiên, cũng trong thời gian này, các vụ ném bom khủng bố vào Đại sứ quán của Jordan ngày 7/8/2003, vào trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Baghdad ngày 19/8/2003, vào nhà thờ Hồi giáo Imam Ali ở Najaf ngày 29/8/2003, vào Đại sứ quán Thổ Nhĩ Kỳ ngày 14/10/2003, vụ ám sát Dr. Akila al-Hashimi vào hơm 25/9/2003 và vụ sát hại một nhà ngoại giao Tây Ban Nha ngày 9/10/2003 là những vụ tấn cơng vào người dân Iraq, Liên Hiệp Quốc và cộng đồng quốc tế đã dấy lên hồi chuơng về nạn khủng bố đang bùng phát ở Iraq. Trong bối cảnh đĩ, Mỹ và Anh đã đề xuất 3 bản dự thảo cho Nghị quyết 1511 về vấn đề Iraq vào các ngày 4/9, 1/10 và 13/10/2003. Bản dự thảo đầu tiên được Pháp, Đức và Syria đề nghị sửa đổi. Một số đề xuất của Pháp và Đức đã được ghi nhận trong văn bản chính thức cuối cùng của Nghị quyết 1511. Nghị quyết 1511 ra đời nhắc lại lần nữa các Nghị quyết trước đĩ về vấn đề Iraq, bao gồm cả Nghị quyết 1483 (22/5/2003) và Nghị quyết 1500 (14/8/2003) và về các mối đe dọa đến hịa bình và an ninh gây ra bởi các hoạt động khủng bố, bao gồm Nghị quyết 1373 (28/9/2001) và các Nghị quyết khác. Nghị quyết xác định tình trạng ở Iraq mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn tiếp tục hình thành một mối đe dọa đến hịa bình và an ninh thế giới. Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 33 3.2 Nội dung Nghị quyết 3.2.1 Mục đích ra đời của Nghị quyết Nghị quyết 1511 được Hội đồng Bảo an nhất trí thơng qua vào ngày 16 tháng 10 năm 2003. Nghị quyết này kêu gọi cộng đồng quốc tế viện trợ quá trình tái kiến thiết đất nước của Iraq, và thơng qua một tiến trình thành lập chính phủ hợp hiến của Iraq. Nghị quyết này ra đời phù hợp với nội dung Chương VII Hiến chương Liên Hiệp Quốc. (Trích văn bản Nghị quyết) Nghị quyết nhấn mạnh rằng chủ quyền của Iraq thuộc về nhà nước Iraq, xác nhận lại lần nữa quyền của người dân Iraq tự do quyết định tương lai chính trị của họ và quản lý chính các nguồn tài nguyên thiên nhiên của họ. Nhắc lại quyết tâm rằng ngày mà những người Iraq được cầm quyền trên chính đất nước của họ phải đến sớm. Thừa nhận tầm quan trọng của sự ủng hộ quốc tế, đặc biệt là của những quốc gia trong khu vực, các nước láng giềng của Iraq và các tổ chức khu vực để thúc đẩy tiến trình này diễn ra nhanh chĩng. Thừa nhận rằng sự ủng hộ quốc tế đối với sự phục hồi các điều kiện cho sự ổn định và an ninh là cần thiết đối với sự hạnh phúc của người dân Iraq cũng như khả năng của các bên liên quan hồn thành trách nhiệm để giúp đỡ người dân Iraq và tiếp nhận sự đĩng gĩp của các quốc gia thành viên về mặt này theo như Nghị quyết 1483 (2003). Tiếp nhận quyết định của Hội đồng Chính phủ của Iraq về việc tổ chức một Hội đồng lập pháp để chuẩn bị cho một hội thảo về vấn đề lập pháp nhằm dự thảo một Hiến pháp để bày tỏ nguyện vọng của người dân Iraq. Thúc đẩy tiến trình này đi đến chỗ hồn thiện một cách nhanh chĩng. Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 34 3.2.2 Những điều khoản đáng lưu ý trong Nghị quyết Các vấn đề chủ yếu được quan tâm đề cập trong Nghị quyết 1511 bao gồm: - Thúc đẩy tiến trình thành lập một chính phủ đại diện của những người dân Iraq được quốc tế cơng nhận. - Chuyển giao chủ quyền của Iraq vào tay chính những người dân Iraq. - Yêu cầu Hội đồng trung ương Iraq cùng với Chính quyền lâm thời giải trình với Hội đồng Bảo antrước ngày 15/12/2003 về việc xem xét lại lịch trình và chương trình cho việc dự thảo một Hiến pháp mới cho Iraq và cho việc tổ chức một cuộc bầu cử dân chủ theo Hiến pháp này. 7. Invites the Governing Council to provide to the Security Council, for its review, no later than 15 December 2003, in cooperation with the Authority and, as circumstances permit, the Special Representative of the Secretary-General, a timetable and a programme for the drafting of a new constitution for Iraq and for the holding of democratic elections under that constitution; (UNSCR 1511, 16 Oct 2003 – para.7) - Tăng cường vai trị của Liên Hiệp Quốc tại Iraq bao gồm việc cung cấp viện trợ nhân đạo, thúc đẩy việc tái kiến thiết nền kinh tế và các điều kiện phát triển cho Iraq, và nỗ lực giúp khơi phục và thiết lập các thể chế quốc gia và địa phương cho chính quyền đại diện. 8. Resolves that the United Nations, acting through the Secretary-General, his Special Representative, and the United Nations Assistance Mission in Iraq, should strengthen its vital role in Iraq, including by providing humanitarian relief, promoting the economic reconstruction of and conditions for sustainable Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 35 development in Iraq, and advancing efforts to restore and establish national and local institutions for representative government; (UNSCR 1511, 16 Oct 2003 – para.8) - Xác định cần thiết lập một lực lượng đa quốc gia (multinational forces – MNF) dưới một sự điều khiển chung để tiến hành tất cả các biện pháp cần thiết gĩp phần duy trì an ninh và ổn định tại Iraq, bao gồm mục đích bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thực thi đầy đủ lịch trình và chương trình chuyển giao quyền lực ở Iraq, gĩp phần bảo vệ an ninh của phái đồn cứu trợ của Liên Hiệp Quốc tại Iraq, Hội đồng trung ương Iraq và các cơ quan khác của chính quyền lâm thời Iraq, và cơ sở hạ tầng kinh tế và nhân đạo chủ yếu. Đồng thời kêu gọi các thành viên Liên Hiệp Quốc đĩng gĩp viện trợ dưới sự ủy thác của Liên Hiệp Quốc, bao gồm các lực lượng quân sự, vào lực lượng đa quốc gia được nhắc ở trên. Yêu cầu Mỹ thay mặt cho lực lượng đa quốc gia báo cáo với Hội đồng Bảo an về những kết quả và sự phát triển của lực lượng này khơng ít hơn 6 tháng một lần. 13. Determines that the provision of security and stability is essential to the successful completion of the political process as outlined in paragraph 7 above and to the ability of the United Nations to contribute effectively to that process and the implementation of resolution 1483 (2003), and authorizes a multinational force under unified command to take all necessary measures to contribute to the maintenance of security and stability in Iraq, including for the purpose of ensuring necessary conditions for the implementation of the timetable and programme as well as to contribute to the security of the United Nations Assistance Mission for Iraq, the Governing Council of Iraq and other institutions of the Iraqi interim administration, and key humanitarian and economic infrastructure; Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 36 14. Urges Member States to contribute assistance under this United Nations mandate, including military forces, to the multinational force referred to in paragraph 13 above; (UNSCR 1511, 16 Oct 2003 – para. 13-14) 25. Requests that the United States, on behalf of the multinational force as outlined in paragraph 13 above, report to the Security Council on the efforts and progress of this force as appropriate and not less than every six months; (UNSCR 1511, 16 Oct 2003 – para. 25) - Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập lực lượng an ninh và cảnh sát Iraq cĩ hiệu quả để duy trì luật, trật tự và an ninh cũng như chống lại chủ nghĩa khủng bố được đề cập trong đoạn 4 của Nghị quyết 1483, đồng thời kêu gọi các thành viên Liên Hiệp Quốc và các tổ chức khu vực và quốc tế gĩp phần vào quá trình huấn luyện và trang bị cho các lực lượng cảnh sát và an ninh Iraq. 16. Emphasizes the importance of establishing effective Iraqi police and security forces in maintaining law, order, and security and combating terrorism consistent with paragraph 4 of resolution 1483 (2003), and calls upon Member States and international and regional organizations to contribute to the training and equipping of Iraqi police and security forces; (UNSCR 1511, 16 Oct 2003 – para. 16) - Kêu gọi các thành viên Liên Hiệp Quốc và các tổ chức tài chính quốc tế tăng cường nỗ lực để giúp đỡ người dân Iraq tái kiến thiết và phát triển nền kinh tế, cung cấp những khoản vay và những viện trợ tài chính khác cho Iraq, bao gồm các cam kết chắc chắn tại Hội thảo cứu trợ tồn cầu tổ chức tại Madrid trong hai ngày 23 và 24/10/2003. Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 37 20. Appeals to Member States and the international financial institutions to strengthen their efforts to assist the people of Iraq in the reconstruction and development of their economy, and urges those institutions to take immediate steps to provide their full range of loans and other financial assistance to Iraq, working with the Governing Council and appropriate Iraqi ministries; 21. Urges Member States and international and regional organizations to support the Iraq reconstruction effort initiated at the 24 June 2003 United Nations Technical Consultations, including through substantial pledges at the 23-24 October 2003 International Donors Conference in Madrid; 22. Calls upon Member States and concerned organizations to help meet the needs of the Iraqi people by providing resources necessary for the rehabilitation and reconstruction of Iraq’s economic infrastructure; (UNSCR 1511, 16 Oct 2003 – para. 20-22) 24. Reminds all Member States of their obligations under paragraphs 19 and 23 of resolution 1483 (2003) in particular the obligation to immediately cause the transfer of funds, other financial assets and economic resources to the Development Fund for Iraq for the benefit of the Iraqi people; (UNSCR 1511, 16 Oct 2003 – para. 24) 3.3 Ý kiến phản hồi 3.3.1 Ý kiến của Mỹ Mỹ cho rằng Nghị quyết 1511 về vấn đề Iraq đã phản ánh được một cách tiếp cận đa phương. Mỹ cũng tuyên bố rằng Mỹ bỏ phiếu thơng qua Nghị quyết Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 38 này là vì tương lai của Iraq. Bằng việc nhất trí thơng qua Nghị quyết này, cộng đồng quốc tế đã bày tỏ sự ủng hộ hồn tồn đối với người dân Iraq. Mỹ đã lắng nghe phản hồi từ tất cả các thành viên của Hội đồng Bảo an và ghi nhận những ý kiến đĩng gĩp cho các bản dự thảo của Nghị quyết. Kết quả cuối cùng của việc này là sự ra đời của một Nghị quyết gia tăng khả năng của cộng đồng quốc tế tham gia vào việc tái kiến thiết và ổn định lại tình hình ở Iraq. Mỹ cho rằng việc chú trọng vào tình hình ở một quốc gia đĩng vai trị quan trọng tại một khu vực chiến lược là phù hợp với những mối quan tâm chung về các vấn đề hịa bình và an ninh thế giới. Mục tiêu nhất quán của cộng đồng quốc tế là ủng hộ những người Iraq và tất cả những người tham gia vào nỗ lực phục hồi, tái kiến thiết và ổn định Iraq chưa từng cĩ tiền lệ trước đĩ. Bằng việc tập trung vào ba vấn đề trọng yếu là chính trị, kinh tế và an ninh, Nghị quyết này đưa ra một cơ sở chắc chắn cho một cam kết quốc tế sâu rộng. Mỹ hoan nghênh và kêu gọi sự tham gia của tất cả các nước nhằm tìm kiếm phương thức gĩp phần vào nỗ lực giúp Iraq hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Mỹ tuyên bố nếu phải giúp đỡ Iraq thì thời điểm này là phù hợp nhất. Và vì vậy, việc thành lập một lực lượng đa quốc gia dưới sự ủy thác của Liên Hiệp Quốc là một hành động hết sức cần thiết để ổn định lại tình hình căng thẳng ở Iraq. 3.3.2 Ý kiến của Anh Anh cho rằng việc Nghị quyết 1511 được thơng qua với tổng số phiếu thuận 15/15 tại Hội đồng Bảo an là một bước đi quan trọng trong tiến trình thành lập một đất nước Iraq tự do dưới sự điều hành của chính những người dân Iraq lần đầu tiên trong lịch sử hàng mấy thế kỷ qua. Anh đã nỗ lực cùng với Mỹ đề xuất Nghị quyết này và tìm kiếm sự đồng thuận tại Hội đồng Bảo an. Anh cho rằng điều mà Nghị quyết này làm được đầu tiên là đảm bảo cĩ một tầm nhìn khái quát về việc chuyển giao chủ quyền một cách nhanh chĩng vào tay người dân Iraq. Nghị quyết này thiết lập một định mức thời gian cho Hội đồng trung ương Iraq để đưa ra bản báo cáo về chi tiết của quá trình chuyển giao và tổ Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 39 chức một hội nghị về vấn đề lập pháp trước ngày 15/12/2003. Theo đánh giá của Anh, Nghị quyết cũng cĩ vai trị tổ chức một lực lượng đa quốc gia và tạo ra tính hợp pháp cho lực lượng này, đồng thời Anh cũng hy vọng Nghị quyết sẽ khuyến khích được nhiều hơn nữa sự gĩp quân từ các nước. 3.3.3 Ý kiến của Nga Ngay từ khi khởi thảo Nghị quyết mới, Nga đã chú trọng việc giúp đỡ người dân Iraq giành lại chủ quyền và ngăn chặn cuộc khủng hoảng về vấn đề Iraq làm mất ổn định tình hình khu vực. Nga cho rằng xu hướng tiếp diễn khủng hoảng ở Iraq khơng phải là mối quan ngại của riêng quốc gia nào nên một nỗ lực tồn cầu nhằm thiết lập một nền chính trị ổn định và lâu dài với một chính phủ hợp hiến ở Iraq là hết sức cần thiết. Nga tuyên bố sẵn sàng chủ động hướng sự quan tâm vào quá trình ổn định lâu dài tại Iraq và việc chuyển giao quyền lực sớm nhất cĩ thể cho người dân Iraq. Tuy nhiên Nga khơng khẳng định việc sẽ tham gia vào lực lượng đa quốc gia tại Iraq. Nga chỉ tập trung nhấn mạnh đến việc hợp tác đầu tư vào các dự án kinh tế và nhu cầu nhân đạo. 3.3.4 Ý kiến của Đức Nghị quyết này đĩng vai trị quan trọng trong việc thiết lập lại trật tự ở Iraq, phát triển hơn so với hai Nghị quyết 1483 và 1500 trước đĩ về vấn đề Iraq. Đức cho rằng họ đã tìm được những mục đích chung trong Nghị quyết này, chẳng hạn như việc gĩp phần ổn định tình hình ở Iraq, ủng hỗ tiến trình tái thiết kinh tế và chính trị ở Iraq, thúc đẩy việc phục hịi chủ quyền của người dân Iraq thơng qua một chính phủ được bầu củ dân chủ. Và Đức cho rằng việc này chỉ cĩ thể thành cơng khi cĩ sự hiện diện của Hội đồng Bảo an như một thể thống nhất, do vậy Đức khơng muốn ngăn cản sự thống nhất của Hội đồng Bảo an. Mặc dù Đức đánh giá Nghị quyết là một bước đi quan trọng để đạt đúng mục tiêu nhưng Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 40 cũng duy trì ý kiến rằng những sự chỉnh sửa đồng đưa ra bởi Pháp và Nga cũng cĩ thể dẫn tới một Nghị quyết tốt hơn. 3.3.5 Ý kiến của Pháp Pháp ủng hộ Nghị quyết này với hy vọng sự đồn kết thế giới và bất cứ hành động nào nhằm tới một sự chuyển giao chủ quyền nhanh chĩng cho những người dân Iraq sẽ giúp làm dịu tình hình căng thẳng ở khu vực Trung Đơng. Phát biểu với tờ Le Monde, Bộ trưởng ngoại giao Pháp, ơng Dorminique de Villepin tuyên bố: “Đối mặt với tình trạng gia tăng bạo lực, khủng bố và căng thẳng bao trùm khu vực Trung Đơng thì rõ ràng việc mở rộng tinh thần đồn kết quốc tế là quan trọng”. * Đức, Pháp và Nga mặc dù bỏ phiếu cho Nghị quyết 1511 nhưng cũng nĩi rằng họ sẽ khơng tham gia vào lực lượng đa quốc gia và sẽ khơng đĩng gĩp cho ngân quỹ dành cho Iraq nhiều hơn mức các nước này đã đồng ý. Điểm bất đồng chủ yếu giữa 3 quốc gia này với Mỹ là về lịch trình trao trả chính quyền về tay người dân Iraq và vai trị chính xác của Liên Hiệp Quốc tại Iraq. 3.3.6 Ý kiến của Trung Quốc Trung Quốc ủng hộ việc Hội đồng Bảo an đưa ra một Nghị quyết mới về vấn đề Iraq nhằm tăng cường vai trị của Liên Hiệp Quốc trong việc tìm kiếm sự ổn định tại Iraq và cũng nhằm mục đích thiết lập một chính quyền Iraq của người Iraq. Trung Quốc thơng qua Nghị quyết với một thái độ mang tính xây dựng và tham gia chủ động vào cuộc hội đàm nhằm soạn thảo Nghị quyết và cũng đã đề xuất một vài sự chỉnh sửa. Trung Quốc bỏ phiếu đồng ý thơng qua Nghị quyết sau khi xem xét nhu cầu thực tế và lợi ích lâu dài của người dân Iraq. Trung Quốc hy vọng Hội đồng Bảo an sẽ duy trì sự thống nhất và hợp tác, quan tâm chặt chẽ đến tình hình Iraq và phải tính đến yêu cầu chung của cộng đồng quốc tế về việc sớm khơi phục lại chủ quyền ở Iraq. Trung Quốc cho rằng Liên Hiệp Quốc cần phát huy vai trị của mình để giúp đỡ Iraq trở lại với hịa bình, ổn định và phát triển; Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 41 đồng thời tuyên bố Trung Quốc sẵn sàng nỗ lực tham gia vào tiến trình này đến cùng. 3.3.7 Phản ứng của Iraq Đại diện của Hội đồng Trung ương Iraq cho hay trước khi Nghị quyết 1511 được thơng qua, Iraq đã bày tỏ quan điểm rằng chủ quyền của Iraq nên được trao cho Hội đồng trung ương Iraq. Cuối cùng, Nghị quyết đã được các nước trong Hội đồng Bảo an nhất trí thơng qua, theo đĩ, Hội đồng trung ương Iraq và các Bộ trưởng đại diện cho chủ quyền của đất nước Iraq. Nhưng chính xác thì thế nào gọi là “đại diện”? Điều này cĩ thể bị suy diễn theo nhiều cách khác nhau, nhưng vẫn chưa cĩ định nghĩa nào là tốt nhất. Iraq hứa sẽ tuân thủ yêu cầu phải trình bày một lịch trình và kế hoạch về việc xây dựng Hiến pháp trước ngày 15/12/2003 được nêu ra trong Nghị quyết này. Tuy nhiên, Iraq cũng lên tiếng rằng khơng thể biết chắc là họ cĩ thể giữ đúng lịch trình này hay khơng vì việc ban hành một Hiến pháp khơng phải là vấn đề dễ dàng. Iraq thừa nhận rằng tình hình an ninh ở Iraq thật sự phức tạp, trong khi lực lượng cảnh sát ở Iraq thì chưa đủ và vẫn cịn cần phải được huấn luyện và trang bị nhiều hơn nữa. Do đĩ, Iraq “hoan nghênh” khả năng lực lượng đa quốc gia được sự ủy quyền của Liên Hiệp Quốc sẽ triển khai tại một số phần nhất định trên lãnh thổ Iraq. Tuy nhiên Iraq vẫn muốn chính người dân Iraq sẽ gánh vác phần chính trách nhiệm này. Iraq khơng từ chối chấp nhận cho quân đội nước ngồi vào nước mình trong một khoảng thời gian ngắn cho đến khi tình hình được ổn định nhưng cũng nhấn mạnh rằng quân đội các nước khơng nên vào Iraq mà khơng cĩ sự chấp thuận rõ ràng của Hội đồng trung ương Iraq. 3.4 Đánh giá Nghị quyết 1511 được coi là sự khởi nguồn cho việc ủy quyền cho Lực lượng đa quốc gia. Nghị quyết này là một sự thỏa hiệp mà trong đĩ Mỹ và Anh đã Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 42 gây áp lực lên Pháp, Đức và các nước khác để thiết lập một thể chế chính trị ở Iraq, bao gồm ban hành Hiến pháp và bầu cử một Nghị viện. Tuy nhiên sự đĩng quân này phải kết thúc sớm, ngay khi một thể chế chính trị được thành lập ở Iraq. Nghị quyết 1511 bổ sung cho Nghị quyết 1483 ra đời trước đĩ. Nghị quyết 1483 cũng ra đời vào năm 2003 và giải quyết được nhiều sự nhập nhằng giữa tính luật và tính chính trị của hành động xâm lược Iraq của Mỹ và Anh năm 2003. Nghị quyết 1511 được thơng qua với hy vọng là khoảng cuối năm 2005 – đầu năm 2006, Iraq sẽ thành lập được một chính phủ riêng trên cơ sở hiến pháp. Theo bài báo của Chris Manrsden đăng trên website World Socialist (www.wsws.org) ngày 18/10/2003 với tiêu đề “UN vote on Iraq: Paris, Berlin and Moscow bow before Bush”, việc Tổng thống Bush đề nghị Hội đồng Bảo an hỗn ngày bỏ phiếu thơng qua nghị quyết chậm lại 1 ngày để thuyết phục Pháp và Đức lên tiếng ủng hộ cho bản dự thảo của Mỹ là biểu hiện cố gắng hợp thức hĩa cuộc chiến Mỹ đã phát động trên lãnh thổ Iraq. Những bản sửa đổi bổ sung của Pháp, Đức và Syria là nhằm nỗ lực thay thế lực lượng quân đội Mỹ bằng lực lượng quân đội của Liên Hiệp Quốc và thậm chí cả những lực lượng quân đội và cảnh sát của chính quyền bù nhìn Iraq lúc đĩ, miễn là hạn chế sự cĩ mặt của quân đội Mỹ. Điều này cho thấy mối lo ngại của các nước Châu Âu về khả năng Mỹ tăng cường sự cĩ mặt của quân đội nước này, cùng hai đồng minh thân cận là Anh và Tây Ban Nha trên đất nước Iraq. Câu hỏi đặt ra là tại sao Nghị quyết 1511 vẫn được thơng qua với 15 phiếu thuận? Chắc hẳn là nguồn dầu mỏ trong tình hình Iraq biến động và giá dầu tại thị trường EU chao đảo là nguyên nhân để các nước châu Âu địi hỏi phải cĩ một lực lượng quân đội chung dưới sự điều hành của Liên Hiệp Quốc cĩ mặt gìn giữ hịa bình cho Iraq. Cĩ thể lý giải cho việc Nga, Pháp và Đức quyết định nhượng bộ trước những áp lực của Mỹ liên quan tới Nghị quyết 1511 là vì ba cường quốc này muốn cải thiện mối quan hệ đang xấu đi của họ với Mỹ liên quan đến những ý kiến khác nhau đối với vấn đề Iraq. Nga cũng thay đổi quan điểm vì họ muốn tìm kiếm một thỏa thuận với Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 43 Mỹ về các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở khu vực trung tâm châu Á, và đạt được sự ủng hộ của Mỹ đối với các vấn đề ở Chechnya. Tuy nhiên, sự tham gia của những nước này trong Lực lượng đa quốc gia sẽ được cân nhắc thận trọng, bởi những người thuộc trường phái chống chiến tranh như Tổng thống Pháp Jacques Chirac và Thủ tướng Đức Gerhard Schrưder muốn tránh sa lầy ở Iraq và tránh gia tăng sự bất bình của những người dân yêu chuộng hịa bình trước quyết định gửi quân đến Iraq của chính phủ. Tương tự, Chính phủ Nga cũng khơng ngừng quan tâm đến tình hình thương vong hàng ngày của binh lính ở Iraq, coi đĩ là thiệt hại mang tính dân tộc, khơng thể xem nhẹ. Một mặt bỏ phiếu thuận cho nghị quyết 1511 của Hội đồng Bảo an mà thực chất là của Mỹ, một mặt vẫn lên án Mỹ đưa quân với số lượng lớn vào Iraq, các nước Châu Âu chắc chắn sẽ xem xét rất kỹ việc tham gia vào liên minh quân sự, mà hướng sự tập trung chủ yếu cho những trợ giúp về tài chính hơn. Cĩ nhận định rằng Hội đồng Bảo an đã hoạt động khơng cĩ hiệu quả trong việc kiềm chế tầm ảnh hưởng của quân đội Mỹ trên lãnh thổ Iraq và một lần nữa gián tiếp làm gia tăng sức mạnh quân sự của Mỹ trên đất nước Iraq đầy bất ổn bằng việc thơng qua Nghị quyết này. Bàn về sự thay đổi vai trị của Liên hợp quốc sau khi thành lập lực lượng quân đội theo nghị quyết 1511, bài viết “Threading the Needle: UN Resolution 1511 and the Iraqi Occupation” của Ian Williams trên website Foreign Policy in Focus (www.fpif.org) đặt ra câu hỏi là liệu sau khi nghị quyết 1511 ra đời, liên minh quân đội của Liên Hiệp Quốc cĩ tạo ra một liên minh chiếm đĩng (a multinational occupation) trên đất nước Iraq hay khơng? Thơng qua nghị quyết 1511, Liên Hiệp Quốc đã cố gắng phát huy hiệu quả nhất vai trị và thẩm quyền của mình trong việc duy trì hịa bình và giữ gìn an ninh ở Iraq, phù hợp với tơn chỉ hoạt động và theo chương 7 Hiến chương của tổ chức này. Theo như nhiều ý kiến bình luận, Nghị quyết 1511 thể hiện rõ quyết tâm của Hội đồng Bảo an muốn chứng minh cho nhân dân Iraq thấy rằng cộng đồng quốc tế thực sự mong muốn giúp đỡ Iraq sớm ổn định và tin tưởng quyền lực sẽ sớm được giao lại cho người dân nước này. Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 44 Với tuyên bố tăng cường vai trị thiết yếu của Liên Hiệp Quốc ở Iraq, Tổng thư ký Koffi Annan được yêu cầu phải trực tiếp điều hành hoạt động của các quan chức Liên Hiệp Quốc tại Iraq và ơng tuyên bố sẽ làm hết sức mình vì nhiệm vụ. Vấn đề ở đây là Nghị quyết nhằm tăng cường vai trị của Liên Hiệp Quốc trong việc hỗ trợ Iraq tái thiết đất nước nhưng việc thực thi những mục tiêu này đã đạt hiệu quả hay chưa? Nghị quyết kêu gọi một Lực lượng quân đội đa quốc gia tham gia vào cơng cuộc gìn giữ hịa bình và bảo vệ an ninh cho Iraq nhưng như phân tích ở trên, khả năng huy động, kêu gọi của Liên Hiệp Quốc được đánh giá ra sao khi cĩ xu hướng rằng trong tương lai số lượng quân đội nước ngồi ở Iraq tăng với lực lượng lớn là quân đội Mỹ? Trong nghị quyết 1483 trước đĩ, Liên Hiệp Quốc đã khẳng định Iraq khơng hề cĩ vũ khí hủy diệt hàng loạt, nguyên cớ phát động chiến tranh Iraq của chính quyền tổng thống Bush là khơng cịn cơ sở nữa. Thế nhưng Mỹ, với vai trị dẫn đầu Liên minh quân sự sẽ vẫn ở lại Iraq trong một năm, sau đĩ, tùy điều kiện, Liên Hiệp Quốc sẽ tiến hành rút quân trao quyền lại cho chính quyền mới được quốc tế cơng nhận của Iraq, hoặc cĩ thể gia hạn thời gian tái thiết. Tuy mục đích ra đời Nghị quyết 1511 là nhằm tìm kiếm những giải pháp tích cực và hữu hiệu hơn cho vấn đề Iraq nhưng thực tế việc thực thi Nghị quyết này bị xem là thất bại trong việc bảo đảm những mục tiêu đề ra. Đơn cử là việc Pakistan, một đồng minh thân cận của Mỹ, mặc dù đã bỏ phiếu thơng qua Nghị quyết nhưng cũng đã tuyên bố sẽ khơng đưa quân tham gia vào lực lượng đa quốc gia được gửi tới Iraq trừ khi lực lượng này được chứng minh rõ ràng khơng phải là một lực lượng chiếm đĩng. Thậm chí cũng ngay trong ngày Nghị quyết được thơng qua, người phát ngơn của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốccũng xác nhận rằng: “Tình hình an ninh ở Iraq chưa cho phép chúng ta gửi thêm bất cứ nhân viên nào tới Iraq vào thời điểm này”. 5 quốc gia cĩ đa số quân trong lực lượng đa quốc gia là Mỹ, Anh, Hàn Quốc, Úc, Phần Lan. Cịn lại, tính đến ngày 1/6/2004, cĩ khoảng 26 nước gĩp quân vào lực lượng này nhưng nhiều nước trong số đĩ tuyên bố rằng họ sẽ rút quân trong thời gian ngắn dù vẫn tiếp tục tham gia các cuộc diễn tập. Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 45 Nghị quyết 1511 thực chất đã khơng thay đổi được tình hình chung ở Iraq. Nĩ hợp pháp hĩa việc Mỹ đưa quân vào Iraq và tạo ra một vỏ bọc cho những đất nước bất đắc dĩ phải tham gia liên quân này. Tuy nhiên, Nghị quyết cũng khơng tạo ra thay đổi chủ yếu nào trong vai trị của Liên Hiệp Quốchay của Hội đồng trung ương Iraq. Mặc dù Nghị quyết kêu gọi Hội đồng Bảo an xem xét lại những tiêu chuẩn và sứ mệnh của lực lượng đa quốc gia trong vịng 1 năm kể từ ngày thơng qua Nghị quyết nhưng nĩ lại hầu như khơng chỉ ra cách để Hội đồng Bảo an giám sát các hoạt động của lực lượng này. Nghị quyết dường như cĩ sự nhượng bộ khá nhiều cho Mỹ khiến người ta dễ dàng nghi ngờ tính hiệu quả của Lực lượng đa quốc gia được sự ủy thác của Liên Hiệp Quốc. Chính vì những hạn chế cơ bản như trên mà sau Nghị quyết 1511 vẫn cịn các Nghị quyết khác được Hội đồng Bảo antiếp tục thơng qua, trong đĩ cĩ cả các Nghị quyết đề cập cụ thể hơn về “sứ mệnh” của Lực lượng đa quốc gia như các Nghị quyết 1546 (2004), Nghị quyết 1637 (2005), Nghị quyết 1732 (2006). 4. Nghị quyết 1546 4.1 Hồn cảnh ra đời Nghị quyết được thơng qua với sự đồng thuận của tất cả các thành viên của HĐBA ngày 8 tháng 6 năm 2004. Nghị quyết xem xét những chuyển biến tình hình ở Iraq và đưa ra hướng giải quyết tiếp theo. Iraq tại thời điểm đĩ đã thành lập được một Chính phủ tạm thời của người Iraq. Trong khi đĩ, Iraq hiện vẫn đặt dưới sự quản lý của Chính quyền tạm thời của Lực lượng liên quân. Nghị quyết 1546 được thơng qua với sự bảo trợ của Anh, Mỹ và Romania. 4.2 Nội dung Nghị quyết - HĐBA cho rằng tình hình ở Iraq vẫn là mới đe dọa đến hịa bình và an ninh quốc tế. - Quyết định tình trạng chiếm đĩng và việc chuyển giao trách nhiệm và thẩm quyền đầy đủ cho Chính phủ lâm thời Iraq vào ngày Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 46 30/6/2004. Đồng thời, Hội đồng Quản lý Iraq (Governing Council of Iraq) sẽ giải tán mở đường cho tiến trình chuyển đổi chính trị ở nước này theo NQ 1511. - Ghi nhận rằng việc thi hành thành cơng nghị quyết sẽ đĩng gĩp vào sự ổn định ở khu vực. - Ghi nhận việc Thủ tướng Iraq yêu cầu lực lượng đa quốc gia tiếp tục ở lại Iraq và cơng nhận rằng sự hiện diện của lực lượng này cũng như sự hợp tác của lực lượng với Chính phủ Iraq phải dựa trên sự đồng ý của Chính phủ Iraq. - Lực lượng đa quốc gia hiện diện ở Iraq cĩ nhiệm vụ duy trì an ninh và ổn định ở Iraq, ngăn chặn khủng bố, hỗ trợ cho tiến trình chuyển đổi chính trị, đặc biệt là cuộc bầu cửa sắp tới; lực lượng này cũng cĩ nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho hoạt động của LHQ ở nước này; đồng thời, hỗ trợ xây dựng lực lượng an ninh hco Chính phủ Iraq. Mọi lực lượng duy trì an ninh và ổn định ở Iraq cam kết hành động phù hợp với luật pháp quốc tế và cĩ thẩm quyền theo quyết định trong NQ 1511. - Để thức hiện những nhiệm vụ trên, lực lượng đa quốc gia cĩ quyền tiến hành tất cả biện pháp cần thiết phù hợp với yêu cầu của phía Iraq. - Thẩm quyền của lực lượng đa quốc gia được tái xem xét theo yêu cầu của Chính phủ Iraq hoặc sau khi NQ được thơng qua 12 tháng; thẩm quyền sẽ chấm dứt trong trường hợp tiến trình chính trị hồn thành hoặc sớm hơn theo yêu cầu từ phía Iraq. - Mỹ với tư cách đại diện cho lực lượng đa quốc gia báo cáo lên HĐBA trong vịng 3 tháng liên quan đến hoạt động của lực lượng này, và sau đĩ mỗi 4 tháng một lần. - Lập thời gian biểu cho quá trình chuyển đổi chính trị ở Iraq. Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 47 4.3 Phản ứng của các nước - Tổng thống Mỹ cho rằng đây là thắng lợi của nhân dân Iraq và cho thấy cộng đồng quốc tế luơn sát cánh bên Iraq. - Tổng thống Nga xem đây là một bước tiến quan trọng. - Bộ trưởng Ngoại giao Czech cho rằng NQ đã làm rõ tương lai của lực lượng đa quốc gia cũng như xác định quan hệ hợp tác giữa lực lượng này với chính phủ Iraq. NQ đã đặt LHQ vào vị trí chủ chốt, đặc biệu là trong việc chuẩn bị cho cuộc bầu cử tự do ở Iraq. - Đại diện của Nam Phi cho rằng việc chuyển giao đầy đủ chủ quyền cho chinh phủ Iraq sẽ đĩp gĩp vào sự ổn định và hịa bình bền vững ở Iraq. - Bộ trưởng Ngoại giao Ukraina phát biểu rằng quyết định cuối cùng về thời gian và những điều kiện theo đĩ lực lượng đa quốc gia hiện diện ở Iraq theo yêu cầu của Chính phủ lâm thời Iraq phải được đưa ra để giúp đỡ Chính phủ lâm thời và tuân thủ theo NQ này. - Đại diện Trung Quốc phát biểu rằng NQ là kết quả của nhữn gnổ lực chung của tất cả các thành viên của HĐBA, và nhiều ý kiến đã được đưa ra, trong đĩ cĩ Trung Quốc, đã được xem xét trong NQ này đã đưa đến sự tiến bộ quan trọng so với những dự thảo trước. Từ ngày 30/06/2004, chủ quyền của Iraq sẽ được trao lại cho Chính phủ và nhân dân Iraq. - Bộ trưởng Ngoại giao Nhật trong thơng báo sau khi NQ được thơng qua cho rằng NQ đã mở ra một thời kỳ mới cho Iraq khi thể hiện sự ủng hội đối với Chính phủ Lâm thời Iraq và sự kết thúc tình trạng chiếm đĩng, trao chủ quyền đầy đủ lại cho Iraq, làm rõ vai trị của LHQ và nhiệm vụ của lực lượng liên quân. NQ chỉ ra rõ ràng rằng một chính phủ cĩ chủ quyền ở Iraq đã được thành lập. Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 48 - Đại diện của Pakistan cho rằng đây là bước đi quan trọng nhất kế từ sau cuộc chiến Vùng Vịnh lần thứ nhất hướng tới việc bình thường hĩa hồn tồn tình hình ở Iraq. - Bộ trưởng Ngoại giao Iraq cho rằng NQ này quan trọng ở chổ nĩ loại bỏ khái niệm chiếm đĩng, nguyên nhân của nhiều khĩ khăn mà Iraq đã phải trãi qua kể từ sau khi được giải phĩng năm 2003. NQ củng cố tính hợp pháp của chính phủ Iraq. Ơng nĩi thêm rằn Iraq cần lực lượng đa quốc gia ở lại nước này vì nếu lực lượng này rút đi, một khoảng trống sẽ tạo khả năng hco sự trở lại của Saddam Hussein trong khi Iraq chưa sẵn sàng lấp khoảng trống đĩ. Hậu quả sẽ là một thảm họa. 4.4 Đánh giá NQ mở đường cho việc trao lại đầy đủ chủ quyền cho Chính phủ của người Iraq, đồng thời chấm dứt thời kỳ bị chiếm đĩng và quản lý của lực lượng nước ngồi, khẳng định vai trị trung tâm của LHQ trong giai đoạn hậu chiến ở Iraq. NQ cũng hợp thức hĩa việc duy trì lực lượng đa quốc gia ở Iraq theo yêu cầu từ phía nước này và sự đồng ý của Mỹ. Ngồi những mặt tích cực trên, NQ vẫn gây ra nhiều tranh luận về thơng điệp được gửi đi từ HĐBA. NQ chứa đựng một mâu thuẫn liên quan đến duy trì sự hiện diện của lực lượng đa quốc gia tại Iraq. NQ xác nhận sự hiện diện này được dựa trên yêu cầu của Chính phủ lâm thời Iraq. Tuy nhiên, cĩ một vấn đề là tại thời điểm thơng qua NQ thì chính phủ này chưa cĩ thẩm quyền để đưa ra quyết định này vì Chính phủ này chỉ nắm quyền từ ngày 30/6/2004 khi Chính quyền tạm thời của Liên quân chuyển giao cho nĩ đầy đủ trách nhiệm và thẩm quyền. trước ngày này, chủ quyền của Iraq được thể hiện thơng qua Hội đồng Quản lý Iraq, và cơ quan này cũng đã giải tán theo quyết định của NQ này. Theo đĩ, từ ngày thơng qua NQ 8/6/2004 đến ngày 30/6/2004, xuất hiện một lỗ hổng pháp lý về thực hiện chủ quyền của Iraq. Vì vậy, yêu cầu duy trì lực lượng đa quốc gia của Iraq khơng cĩ cơ sở pháp lý. Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 49 Một vấn đề khác là theo NQ này, lực lượng này sẽ duy trì tại Iraq cho đến khi tiến trình chính trị ở Iraq kết thúc, Chính phủ Iraq yêu cầu rút quân hoặc HĐBA ra một nghị quyết yêu cầu rút quân. Ở đây cĩ sự khơng rõ ràng về điều kiện rút quân vì tuy rằng NQ tuyên bố một trong những cơ sở cho việc rút quân là yêu cầu từ phía Chính phủ Iraq nhưng việc duy trì lực lượng này lại được quyết định bằng một nghị quyết của HĐBA chiểu theo chương VII Hiến chương LHQ. Theo đĩ, NQ cĩ tính ràng buộc tất cả các nước, trong đĩ cĩ Iraq, do đĩ cĩ phạm vi bao phủ lên trên quyết định của chính phủ Iraq. Cụ thể hơn, NQ này cần phải được hủy bỏ bằng một NQ khác của HĐBA; yêu cầu của Iraq lúc ấy chỉ cĩ tính bổ trợ, khuyến nghị cho HĐ. Tĩm lại, NQ 1546 là một bước tiến nhằm bình thường hĩa tình hình ở Iraq sau cuộc chiến năm 2003 và sự chiếm đĩng của lực lượng nước ngồi trong hơn một năm sau đĩ. Tuy rằng, NQ cĩ thể chỉ là sự hợp thức hĩa về mặt pháp lý tình hình Iraq nhưng nĩ cũng đã khởi động quá trình chính trị của chính người Iraq. III. KẾT LUẬN Cuộc chiến ở Iraq đã làm suy yếu đi quyền lực của Hội đồng Bảo an và đặt ra câu hỏi về giá trị pháp lý của lệnh cấm của Liên Hiệp Quốc về việc cho phép sử dụng vũ lực. Một vài quan sát viên đã nhanh chĩng gạt bỏ các lệnh cấm sử dụng vũ lực của Liên Hiệp Quốc vì chúng khơng cịn phù hợp và cĩ giá trị sau khi xem xét trong mơi trường an ninh sau vụ 11/9 và và cuộc chiến của Mỹ chống lại Iraq. Liên Hiệp quốc tiếp tục đưa ra các quy định chung mà các quốc gia cần xác nhận tính hợp lệ của những hành động của họ dưới sự giám sát của người dân và cộng đồng quốc tế. Ngày càng cĩ nhiều quốc gia tiếp tục địi hỏi quyền sử dụng vũ lực chính đáng trong khuơn khổ Liên Hiệp Quốc. Hiến chương Liên Hiệp Quốc đã đối mặt với nhiều sự vi phạm trong quá khứ và Hội đồng Bảo an đã cĩ kinh nghiệm về những thách thức lớn vẫn cịn tồn tại này. Hiến chương Liên Hiệp Quốc cĩ thể tiếp tục vượt qua những khủng hoảng Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhĩm Lê Thị Thương Mơn Liên Hiệp Quốc Page 50 này nhưng cũng cần đánh giá lại vai trị của Liên Hiệp Quốc trong mơi trường thế giới cĩ nhiều biến động cĩ vẻ ngày càng nghiêm trọng như hiện nay. Vấn đề Iraq chỉ là một trong số các trường hợp mà Hội đồng Bảo an khơng thực sự phát huy được vai trị kiềm chế xung đột giữa các quốc gia. Hội đồng Bảo an hiếm khi viện dẫn Chương VII của Hiến chương Liên Hiệp Quốc để bắt buộc các quốc gia ngừng chiến sự, hay thậm chí cĩ viện dẫn đi chăng nữa thì các bên cũng sẵn sàng tuân thủ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfq_2003_3043.pdf
Luận văn liên quan