Do lịch sử để lại: Đất nước ta trải qua thời gian chiến tranh kéo dài, gây xáo trộn
lớn về nơi cư trú cùng với những chính sách đất đai, dẫn đến biến động lớn về chủ sử
dụng đất. Mặc dù Luật Đất đai 1993 và 2003 đã quy định: nhà nước không thừa nhận
việc đòi lại đất Nhà nước đã quản lý và giao cho người khác sử dụng nhưng nhiều
trường hợp vẫn xảy ra tranh chấp, khiếu nại đòi lại đất cũ.
- Hiện nay, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc thu hồi đất
để mở rộng đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng thực hiện các dự án đầu tư làm quỹ đất
canh tác ngày càng giảm. Trong khi đó, tỷ lệ gia tăng dân số vẫn ở mức cao, cơ cấu
kinh tế chưa đáp ứng được vấn đề giải quyết việc làm và cuộc sống người lao động.
Đặc biệt do tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường làm cho giá đất đai tăng, đã và
đang là những áp lực lớn gây nên tình trạng khiếu kiện, tranh chấp đất đai
18 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3651 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chấm dứt quyền sử dụng đất: thu hồi đất và giải quyết tranh chấp đất đai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
CHẤM DỨT QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT: THU HỒI ĐẤT VÀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
2
I. Lý thuyết : THU HỒI ĐẤT
1) Khái niệm thu hồi đất:
Điểm c, Khoản 2 Điều 5 Luật Đất đai 2003 quy định: “Nhà nước thực hiện quyền
định đoạt đối với đất đai :…Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất;…”.
Khoản 5, Điều 4 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra
quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ
chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này”.
2) Các trường hợp thu hồi đất: Điều 38, 39, 40 Luật Đất đai năm 2003 quy định:
2.1. Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng, phát triển kinh tế (Khoản 1 Điều 38):
Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng (Điều 39):
- Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng sau khi quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất được công bố hoặc khi dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng
đất phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xét duyệt.
Như vậy, diện tích đất do Nhà nước thu hồi bắt buộc phải nằm trong quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt (Căn cứ Khoản 3
Điều 36 NĐ 181/2004).
Các trường hợp thu hồi đất được quy định cụ thể hơn tại Nghị định 181/2004:
+ Sử dụng cho mục đích quốc phòng, an ninh – Điểm a Khoản 1, Điều 36 Nghị định
181/2004.
+ Cho mục đích lợi ích quốc gia: Điểm b, c, e Khoản 1 Điều 36 NĐ 181/2004.
+ Lợi ích công cộng: Điểm d, g, h Khoản 1 điều 36 NĐ 181/2004; Điều 38 NĐ
84/2007.
- Trước khi thu hồi đất, chậm nhất là chín mươi ngày đối với đất nông nghiệp và
một trăm tám mươi ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di
chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư.
- Sau khi có quyết định thu hồi đất và phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng,
tái định cư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, được công bố công
khai, có hiệu lực thi hành, người bị thu hồi đất phải chấp hành quyết định thu hồi đất.
Trường hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố có diện tích đất
phải thu hồi mà nhà nước chưa thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt
3
bằng thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng theo mục đích đã xác định trước khi
công bố quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; nếu người sử dụng đất không còn nhu cầu sử
dụng thì nhà nước thu hồi đất và bồi thường hoặc hỗ trợ theo quy định của pháp luật
(Khoản 2 Điều 29).
- Trường hợp người bị thu hồi đất không chấp hành quyết định thu hồi đất thì Ủy
ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế. Người
bị cưỡng chế thu hồi đất phải chấp hành quyết định cưỡng chế và có quyền khiếu nại.
Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế:
- Khoản 1 Điều 40, Khoản 1 Điều 90, Khoản 1 Điều 91, Khoản 1 Điều 92 Luật Đất
đai năm 2003 quy định:
+ Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế
trong trường hợp đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và
các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ.
+ Đất để đầu tư xây dựng khu công nghiệp gồm đất để xây dựng cụm công
nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất và các khu sản xuất, kinh doanh tập trung khác
có cùng chế độ sử dụng đất.
+ Đất sử dụng cho khu công nghệ cao theo quyết định thành lập của Thủ tướng
Chính phủ bao gồm các loại đất có chế độ sử dụng khác nhau phục vụ sản xuất, kinh
doanh sản phẩm công nghệ cao; nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ cao; đào
tạo nhân lực công nghệ cao.
+ Đất để đầu tư xây dựng khu kinh tế gồm đất để xây dựng khu kinh tế mở, khu kinh
tế cửa khẩu và các khu kinh tế khác được thành lập theo quyết định của Thủ tướng
Chính phủ. Đất sử dụng cho khu kinh tế bao gồm các loại đất có chế độ sử dụng khác
nhau trong khu vực riêng biệt nhằm khuyến khích đặc biệt cho các hoạt động đầu tư và
xuất khẩu.
- Các trường hợp thu hồi đất được hướng dẫn cụ thể tại Khoản 2 Điều 36 NĐ
181/2004; Điều 34, 35, 36, 39, 40 NĐ 84/2007:
+ Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch
thuộc nhóm A theo quy định của pháp luật về đầu tư đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xét duyệt hoặc cho phép đầu tư mà dự án đó không thể đầu tư trong khu công
nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
+ Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư có nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA).
+ Sử dụng đất để thực hiện dự án có một trăm phần trăm (100%) vốn đầu tư nước
ngoài đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt hoặc cho phép đầu tư mà dự
án đó không thể đầu tư trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
- Việc thu hồi đất được thực hiện theo quy định tại Điều 39 của Luật Đất đai năm
2003.
4
- Đối với dự án sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được
xét duyệt thì nhà đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp
vốn bằng quyền sử dụng đất của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân mà không
phải thực hiện thủ tục thu hồi đất.
Các trường hợp thu hồi đất theo Khoản 1 Điều 38 Luật đất đai có thể được bồi
thường hoặc không được bồi thường.
Trường hợp tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà
nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách
nhà nước; được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm; đất nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất mà tiền trả cho việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước thì sẽ không được bồi thường (căn cứ Khoản 2
Điều 7 NĐ 197/2004NĐ-CP).
2.2. Người sử dụng đất không có nhu cầu, khả năng tiếp tục sử dụng đất (Khoản
2, Khoản 7, Khoản 8 Điều 38 Luật Đất đai năm 2003):
- Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao
đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước
hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác,
giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất.
- Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế.
- Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất.
2.3. Hết hạn sử dụng đất mà không được gia hạn (Khoản 10 Điều 38 Luật Đất đai
năm 2003): Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi
hết thời hạn.
2.4. Vi phạm pháp luật về đất đai (quy định tại Khoản 3, 4, 5, 6, 9, 11, 12 Điều 38
Luật Đất đai năm 2003):
- Sử dụng đất không đúng mục đích, không có hiệu quả (Khoản 3 Điều 38).
- Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất (Khoản 4 Điều 38).
- Đất được giao không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền (Khoản 5 Điều
38).
- Đất bị lấn, chiếm (Khoản 6 Điều 38).
- Người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước (Khoản 9
Điều 38).
- Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời
hạn (Khoản 10 Điều 38).
- Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền;
đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn mười tám tháng liền; đất
5
trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn hai mươi bốn tháng liền (Khoản 11 Điều
38).
- Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử
dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn hai mươi
bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực
địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất
đó cho phép (Khoản 12 Điều 38).
Căn cứ Điều 43 Luật Đất đai năm 2003, Điều 7 NĐ 197/2004 thì những trường
hợp thu hồi đất được quy định từ Khoản 2 đến Khoản 12 Điều 38 Luật đất đai năm 2003
là những trường hợp thu hồi đất không bồi thường. Việc xử lý tiền sử dụng đất, tiền
thuê đất, tài sản đã đầu tư trên đất đối với các trường hợp thu hồi đất này được thực
hiện theo quy định tại khoản Điều 34 và Điều 35 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP.
Ngoài ra còn có một số trường hợp thu hồi đất không được bồi thường sau đây:
+ Người sử dụng đất không đủ điều kiện theo quy định tại Điều 8 của Nghị định
197/2004/NĐ-CP.
+ Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao
đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm; đất nhận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất mà tiền trả cho việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có nguồn gốc
từ ngân sách nhà nước.
+ Đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng
công trình sự nghiệp; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất giao thông,
thủy lợi; đất xây dựng các công trình văn hoá, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao
và các công trình công cộng khác không nhằm mục đích kinh doanh; đất làm nghĩa
trang, nghĩa địa.
+ Trường hợp không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quy định
tại Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003.
+ Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng.
+ Đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.
Khi Nhà nước thu hồi đất, người bị thu hồi đất không được bồi thường về tài sản
gắn liền với đất trong các trường hợp sau đây (Khoản 2 Điều 43 Luật Đất đai năm
2003):
a) Tài sản gắn liền với đất được tạo ra tại khu vực đất bị thu hồi sau khi quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư
nông thôn đã được công bố mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
b) Tài sản gắn liền với đất được tạo ra trước khi có quyết định thu hồi đất mà trái với
mục đích sử dụng đất đã được xác định trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại thời
điểm xây dựng công trình đó.
6
c) Đất bị thu hồi thuộc các trường hợp quy định tại các Khoản 4, 6, 7 và 10 Điều 38
của Luật Đất đai năm 2003.
Người bị thu hồi đất quy định tại Khoản 1 nhưng không thuộc Khoản 2 Điều 43 Luật
Đất đai năm 2003 được bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi.
3) Thẩm quyền thu hồi đất (Điều 44 Luật Đất đai năm 2003) :
Thẩm quyền thu hồi đất được xác định như sau:
Cấp có thẩm quyền Đối tượng được áp dụng
UBND cấp tỉnh (Khoản 1 Điều 44)
Đối với người SDĐ là tổ chức, cơ sở tôn
giáo, người VN định cư ở nước ngoài, tổ
chức, cá nhân nước ngoài.
UBND cấp huyện (Khoản 2 Điều 44)
Đối với người SDĐ là hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng dân cư, người VN định
cư ở nước ngoài thuộc Khoản 1 Điều 121
Luật đất đai 2003 (đã sửa đổi theo Luật
số 34/2009).
Ban quản lý khu công nghệ cao, khu
kinh tế (Điều 36 NĐ 84/2007)
Đối với người sử dụng đất được Ban
quản lý KCNC, KKT giao hoặc cho thuê
theo quy định tại Điều 36 NĐ 84/2007.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất không được ủy quyền (Khoản 3
Điều 44 Luật Đất đai năm 2003).
Việc thu hồi đất và quản lý quỹ đất đã thu hồi (Điều 41 Luật Đất đai năm
2003) :
- Nhà nước quyết định thu hồi đất và giao đất cho tổ chức phát triển quỹ đất do Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập để thực hiện việc thu
hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng và trực tiếp quản lý quỹ đất đã thu hồi đối
với trường hợp sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được công bố mà chưa có
dự án đầu tư (Khoản 1).
- Nhà nước thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng và giao đất cho nhà đầu tư
để thực hiện dự án đối với các trường hợp đã có dự án đầu tư được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền xét duyệt (Khoản 2).
- Cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất thực hiện việc thu hồi đất đối với các trường
hợp quy định tại các Khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 38 của Luật này
thì đất đã thu hồi thuộc khu vực nông thôn được giao cho Uỷ ban nhân dân xã quản
lý, thuộc khu vực đô thị và khu vực đã được quy hoạch để phát triển đô thị được giao
cho tổ chức phát triển quỹ đất quản lý (Khoản 3).
7
Trình tự, thủ tục thu hồi đất được quy định từ điều 49 đến điều 60 NĐ
84/2007/NĐ-CP được tóm tắt như sau:
4) Chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất:
4.1. Bồi thường về đất và tài sản trên đất:
Hết thời hạn bàn
giao mà vẫn chưa
bàn giao
TH ko có
tranh chấp
TH có
tranh chấp
1. Xác định và công bố
chủ trương thu hồi đất.
2. Chuẩn bị hồ sơ địa
chính cho khu đất bị
thu hồi.
3. Lập, thẩm định và xét
duyệt phương án tổng
thể về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư.
4. Thông báo về việc thu
hồi đất.
5. Quyết định thu hồi đất.
6. Giải quyết khiếu
nại đối với việc thu
hồi đất.
7. Kê khai, kiểm kê và
xác định nguồn gốc
đất đai.
8. Lập, thẩm định và xét
duyệt phương án bổi
thường, hỗ trợ và tái
định cư.
9. Công khai phương án bổi
thường, hỗ trợ và tái định
cư.
10. Thực hiện chi trả tiền
bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư.
11. Bàn giao đất đã bị thu
hồi.
12. Cưỡng chế thu hồi đất.
8
a. Khái niệm bồi thường:
- Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất là việc nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng
đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất (Khoản 6 Điều 4 Luật đất
đai 2003) → Bồi thường đất.
- Ngoài bồi thường giá trị quyền sử dụng đất, có thể có bồi thường tài sản gắn liền
với đất và chi phí đã đầu tư vào đất bị thu hồi (theo Điều 5 NĐ 69/2009), vật nuôi
(Điều 24, 26 NĐ 197/2004) → Bồi thường tài sản.
b. Nguyên tắc bồi thường:
Nguyên tắc bồi thường đất: Căn cứ Điều 14 Nghị định 69/2009/NĐ-CP:
- Chỉ bồi thường cho người đang sử dụng đất bị thu hồi có đủ các điều kiện theo
quy định của pháp luật đất đai (Khoản 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9. 10, 11 Điều 8 NĐ 197/2004;
Điều 44, 45, 46 NĐ 84/2007).
- Bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng của đất bị thu hồi,
nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị QSDĐ.
- Trường hợp đất bị thu hồi chưa được thực hiện nghĩa vụ tài chính, thì phải trừ đi
khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường.
- Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ lớn hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua nhà ở
tại khu tái định cư thì người tái định cư được nhận phần chênh lệch.
- Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ nhỏ hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua nhà
ở tái định cư thì người tái định cư phải nộp phần chênh lệch, trừ trường hợp theo quy
định của pháp luật.
- Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi nhà nước thu hồi đất mà chưa
thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với nhà nước theo quy định của pháp luật
thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi
thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách nhà nước.
Nguyên tắc bồi thường tài sản trên đất: Căn cứ Điều 18 Nghị định 197/2004/NĐ-
CP :
- Chỉ bồi thường khi có thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi và tài sản
thuộc sở hữu của người được bồi thường hoặc do nhà nước giao quản lý, sử dụng.
- Thiệt hại về tài sản gắn liền với đất không thuộc đối tượng được bồi thường thì
được xem xét bồi thường hoặc hỗ trợ tài sản.
- Tài sản gắn liền với đất được tạo lập trái với quy định của pháp luật thì không
được bồi thường (trái phép, sai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc sau khi có
quyết định thu hồi đất).
- Các tài sản có thể tháo dời và di chuyển được thì chỉ bồi thường đối với chi phí
tháo dời, di chuyển, lắp đặt và thiệt hại liên quan. Mức bồi thường do UBND cấp
tỉnh quy định.
9
Các trường hợp bồi thường tài sản được quy định cụ thể tại Điều 20, 21, 22, 23,
24, 25, 26 NĐ 197/2004, Điều 24 Nghị định 69/2009.
c. Phương thức bồi thường:
- Giao đất mới có cùng mục đích sử dụng.
- Bồi thường bằng nhà ở, đất ở đối với trường hợp phải tái định cư.
- Bồi thường bằng tiền khi không bồi thường bằng đất, nhà ở hoặc phải thanh toán
phần chênh lệch.
d. Mức bồi thường:
Giá đất tính bồi thường:
Giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích sử dụng tại thời điểm có quyết
định thu hồi đất do UBND cấp tỉnh công bố theo quy định của Chính phủ (theo Điều 56
Luật đất đai và Điều 9 NĐ 197/2004). Việc áp dụng giá đất bồi thường theo quy định
của Luật đất đai và NĐ 197/2004 dẫn đến việc giá đất bồi thường bị giới hạn bởi khung
giá và bảng giá đất do NN ban hành.
Căn cứ Điều 4 Nghị định 17/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
197/2004/NĐ-CP, Khoản 1 điều 11 NĐ 69/2009: trường hợp tại thời điểm có quyết định
thu hồi đất mà giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên
thị trường trong điều kiện bình thường thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để
xác định lại giá đất cụ thể cho phù hợp.
Giá đất cụ thể được xác định lại theo quy định tại Khoản 1 Điều này không bị giới
hạn bởi các quy định tại Khoản 5 Điều 1 Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng
7 năm 2007 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về phương pháp xác định giá đất và
khung giá các loại đất (sau đây gọi là Nghị định số 123/2007/NĐ-CP).
Theo như chúng ta được biết, thị trường bất động sản Việt Nam hiện tại đang tồn
tại hai mức giá: Giá đất do nhà nước ban hành và giá chuyển nhượng thực tế trên thị
trường, chênh lệch giữa hai mức giá này khá lớn. Quy định về việc xác định lại giá đất
bồi thường sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thực tế rất phù hợp trong
bối cảnh hiện nay. Tránh tình trạng khi nhà nước bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng
đất cho người dân theo giá của nhà nước, người dân phải bù lỗ để mua lại quyền sử
dụng đất ở nơi khác bằng một giá cao hơn rất nhiều.
Chi phí đầu tư vào đất còn lại:
Quy định tại Khoản 3 Điều 9 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP là các chi phí
thực tế hợp lý mà người sử dụng đất đã đầu tư vào đất để sử dụng theo mục đích
được phép sử dụng mà đến thời điểm Nhà nước thu hồi đất còn chưa thu hồi được
(Khoản 2, Điều 5 Thông tư 14/2009).
4.2. Hỗ trợ:
10
a. Khái niệm:
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông
qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới
(Khoản 7 Điều 4 Luật đất đai 2003).
b. Các trường hợp được hỗ trợ:
- Trường hợp không đủ điều kiện được bồi thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
xem xét để hỗ trợ để hạn chế thiệt hại, ổn định xã hội (Khoản 1, Điều 14, NĐ
69/2009).
- Mức bồi thường chưa phù hợp với thực tế, gây bức xúc trong xã hội.
- Hỗ trợ các thiệt hại và chi phí gián tiếp là hệ quả của thu hồi đất, không đưa vào
diện bồi thường được: Chi phí di chuyển, chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm… nhằm
ổn định đời sống xã hội.
Hỗ trợ có thể thực hiện đồng thời hoặc không đồng thời với bồi thường.
Các trường hợp hỗ trợ được quy định cụ thể tại Điều 5, 28, 29, 30, 32 Nghị định
197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004, Khoản 3 Điều 4 Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày
27/01/2006, Nghị định 69/2009, Thông tư 14/2009 như sau:
- Hỗ trợ di chuyển: Đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ chức (Điều 18 NĐ 69/2009).
- Hỗ trợ tái định cư: Đối với cá nhân, hộ gia đình, phải chuyển chỗ ở (Điều 19 NĐ
69/2009).
- Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất: Đối với cá nhân, hộ gia đình bị mất
hoàn toàn hoặc 1 phần thu nhập từ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản trên đất bị thu hồi; đối với tổ chức, hộ sản xuất kinh doanh có đăng ký kinh
doanh bị ngừng sản xuất kinh doanh (Điều 20 NĐ 69/2009, Điều 14 Thông tư
14/2009).
- Hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư; đất vườn, ao không được công
nhận là đất ở: Ngoài phần được bồi thường theo giá đất nông nghiệp thì được hỗ trợ
thêm tiền (Điều 21 NĐ 69/2009, Điều 15 TT 14/2009).
- Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và việc làm: Đối với hộ gia đình, cá nhân trực tiếp
sản xuất nông nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường (Điều 22 NĐ
69/2009, Điều 16 TT 14/2009).
- Hỗ trợ cho người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu nhà nước: Điều 21 NĐ
197/2004, Điều 11 TT 14/2009.
- Hỗ trợ cho người thuê nhà không thuộc sở hữu nhà nước: Điều 30 NĐ 197/2004,
Điều 1 TT 14/2009.
- Hỗ trợ khác: Các trường hợp không thuộc các trường hợp nêu trên, do UBND cấp
tỉnh quyết định (Điều 23 NĐ 69).
c. Thẩm quyền quyết định:
11
- UBND cấp tỉnh có tính chủ động rất lớn đối với quyền quyết định phương thức,
mức hỗ trợ.
- UBND cấp tỉnh cũng có quyền quyết định đối tượng được hỗ trợ đối với một số
trường hợp (hỗ trợ khác).
UBND TP.HCM đã ban hành Quyết định số 156 ngày 27/10/2006 (gọi tắt là Quỹ
156) nhằm hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi để thực
hiện các dự án.
4.3. Tái định cư:
a. Khái niệm:
Tái định cư là hình thức tạo điều kiện cho người sử dụng đất phải di chuyển chỗ ở
khi bị thu hồi đất bằng cách: Bồi thường bằng nhà ở hoặc bồi thường bằng giao đất ở
mới hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới.
b. Đối tượng tái định cư:
Đối tượng được tái định cư: Hộ gia đình, cá nhân không có chỗ ở nào khác trong
cùng địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi.
c. Các trường hợp được bố trí tái định cư (Điều 18 Thông tư 14/2009):
- Bị thu hồi hết đất.
- Phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của
UBND cấp tỉnh
- Tái định cư đối với dự án đặc biệt (Điều 38 Luật đất đai 2003).
d. Bố trí tái định cư:
Theo Điều 34 Nghị định 197/2004: “Cơ quan được UBND cấp tỉnh giao trách
nhiệm bố trí tái định cư phải thông báo từng hộ gia đình bị thu hồi đất, phải di chuyển
chỗ ở về dự kiến phương án bố trí tái định cư và niêm yết công khai phương án này tại
trụ sở của đơn vị, tại trụ sở UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi và tại nơi tái định cư
trong thời gian 20 ngày trước khi cơ quan có nhà nước có thẩm quyền phê duyệt
phương án bố trí tái định cư”.
II. Lý thuyết : TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
1) Khái nhiệm tranh chấp đất đai :
12
Căn cứ Khoản 26. Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 : “Tranh chấp đất đai là tranh chấp
về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất
đai”.
2) Các dạng tranh chấp đất đai và nguyên nhân:
2.1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất:
a) Tranh chấp giữa những người sử dụng với nhau về ranh giới giữa các vùng đất
được phép sử dụng và quản lý: Tranh chấp này thường do một bên tự ý thay đổi ranh
giới hoặc hai bên không xác định được với nhau về ranh giới. Những trường hợp tranh
chấp này thường xảy ra do ranh giới đất giữa những người sử dụng đất liền kề không rõ
ràng, đất này từ xa xưa để lại hoặc thường sang nhượng chuyển đổi nhiều lần mà bàn
giao cấm mốc không rõ ràng.
Ngoài ra, việc tranh chấp ranh giới xảy ra nhiều khi do lỗi của các cơ quan nhà
nước, Đó là khi cấp đất, cơ quan cấp đất có ghi diện tích, nhưng không đo đạc cụ thể
khi giao đất mà chỉ căn cứ vào đơn kê khai diện tích của đương sự. Sau này khi đương
sự đo lại phát hiện có sự khác biệt giữa giấy tờ và thực tế. Dẫn đến tranh chấp giữa các
hộ liền kề nhau.
b) Tranh chấp QSDĐ, tài sản gắn liền với QSDĐ:
- Tranh chấp QSDĐ, tài sản gắn liền với QSDĐ khi vợ chồng ly hôn: Các dạng
tranh chấp có thể là giữa vợ chồng với nhau hoặc giữa một bên ly hôn với hộ gia
đình vợ hoặc chồng hoặc có thể xảy ra khi bố mẹ cho con đất, đến khi con ly hôn thì
cha mẹ đòi lại...
- Tranh chấp về quyền thừa kế QSDĐ, tài sản gắn liền với QSDĐ: Đây là dạng
tranh chấp do người có QSDĐ, tài sản gắn liền với đất chết mà không để lại di chúc,
hoặc để lại di chúc không phù hợp với quy định của pháp luật và những người hưởng
thừa kế không thỏa thuận được với nhau về phân chia thừa kế hoặc không am hiểu về
pháp luật dẫn đến tranh chấp.
c) Tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất:
Thực chất đây là dạng tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với đất có nguồn
gốc trước đây thuộc quyền sở hữu của họ hoặc người thân của họ mà do nhiều nguyên
nhân khác nhau họ không còn quản lý, sứ dụng nữa.. có các dạng sau:
- Đòi lại đất, tài sản của họ, của người thân trong các giai đoạn khác nhau trước đây
qua các cuộc điều chỉnh đã chia, cấp cho người khác: Sau cải cách ruộng đất bước
vào thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp. Đặc biệt từ năm 1958, phong trào hợp tác hóa
nông nghiệp theo mô hình sản xuất tập thể, quản lý tập trung. Ruộng đất và các tư
liệu sản xuất của nông dân được tập trung vào hợp tác xã. Đến khi thực hiện Nghị
quyết Trung ương 10/TW năm 1988, đất đai được phân chia đến hộ gia đình, cá nhân
để sản xuất. Chính vì việc phân chia đất đai không hợp lý một số cán bộ xã, huyện,
một số hộ dân trước khi vào tập đoàn, hợp tác xã họ có đất, đến khi giải thể họ không
có đất để canh tác hoặc diện tích đất ít hơn trước… nên dẫn đến tranh chấp.
13
- Ngoài ra, một số người bỏ đi nơi khác ở, ra nước ngoài sinh sống cũng trở về đòi
lại đất đai, tài sản trước đây của họ đã được giao cho người khác quản lý, sử dụng.
- Tranh chấp đòi lại đất, tài sản của nhà thờ, các dòng tu, chùa chiền, miếu mạo, nhà
thờ họ. Trước đây do hoàn cảnh lịch sử, chính quyền địa phương đã mượn đất của
các cơ sở nói trên để sử dụng hoặc tịch thu một số cơ sở để làm trụ sở cơ quan,
trường học... đến nay các cơ sở đó đòi lại nên dẫn đến khiếu kiện của các cơ sở đó.
- Tranh chấp đòi lại nhà, đất cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ: Dạng tranh chấp này
phát sinh khi một bên cho bên kia mượn đất, thuê đất hoặc cho ở nhờ mà trong nhiều
trường hợp không làm hợp đồng, chỉ giao kết bằng miệng, dẫn đến khi hết hạn hợp
đồng bên thuê mượn, ở nhờ đã xây dựng nhà kiên cố, chiếm hữu sử dụng không trả
lại cho chủ cũ. Thậm chí một số được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
việc tranh chấp này càng trở nên phức tạp.
2.2. Tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất:
Đây là loại tranh chấp chỉ phát sinh trong quá trình người sử dụng đất hợp pháp
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình như thực hiện các giao dịch về dân sự, hoặc do
chủ trương, chính sách của Nhà nước như giải tỏa, trưng dụng, trưng mua hoặc do
người khác gây thiệt hại, hoặc bị hạn chế về quyền và nghĩa vụ SDĐ của mình mà dẫn
đến tranh chấp. Có các dạng sau:
a) Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền
SDĐ, thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền SDĐ.
b) Tranh chấp do người khác gây thiệt hại hoặc hạn chế quyền và nghĩa vụ phát
sinh trong quá trình SDĐ.
c) Tranh chấp về giải toả mặt bằng phục vụ các công trình công cộng, lợi ích quốc
gia và mức đền bù khi thực hiện giải tỏa.
Trong tranh chấp loại này chủ yếu là khiếu kiện về giá đất đền bù, diện tích đất được
đền bù, giá cả đất tái định cư và đền bù không đúng người, giải tỏa quá mức quy định
để chừa đất cấp cho các đối tượng khác. Trong tình hình hiện nay, việc quy hoạch mở
mang đường sá, đô thị quá lớn đẫn đến việc tranh chấp loại này rất gay gắt, phức tạp và
có nhiều người, tập thể đồng loạt khiếu kiện.
2.3. Tranh chấp về mục đích sử dụng đất:
Tranh chấp về mục đích sử dụng, đặc biệt là tranh chấp về đất nông nghiệp với đất
lâm nghiệp, giữa đất trồng lúa với đất nuôi tôm, giữa đất trồng cao su với đất trồng cà
phê, giữa đất nông nghiệp với đất thổ cư trong quá trình phân bố và quy hoạch sử dụng.
Trong thực tế trường hợp tranh chấp này xảy ra như sau: Do mục đích SDĐ nên
Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng để giao cho người khác sử dụng với mục
đích khác, dẫn đến người đang SDĐ khiếu kiện việc chuyển mục đích SDĐ hay khiếu
kiện việc thu hồi hoặc khiếu kiện người được giao đất sử dụng với mục đích khác. Mặt
khác, người được Nhà nước giao đất chuyển mục đích sử dụng khiếu kiện người đang
sử dụng đất phải giao đất cho mình theo quyết định giao đất.
14
2.4. Tranh chấp về địa giới hành chính:
Loại tranh chấp này thường xảy ra giữa người ở hai tỉnh, hai huyện hoặc hai xã với
nhau, tập trung ớ những nơi có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, ở
những vị trí dọc theo triền sông lớn, những vùng có địa giới không rõ ràng, không có
mốc giới nhưng là vị trí quan trọng, ở những nơi có nguồn lâm, thổ sản quý. Cùng với
việc chia tách các đơn vị hành chính tỉnh, huyện, xã thì tranh chấp đất đai liên quan đến
địa giới hành chính tương đối nhiều.
3) Nguyên nhân phát sinh tranh chấp đất đai:
3.1. Nguyên nhân khách quan:
- Do lịch sử để lại: Đất nước ta trải qua thời gian chiến tranh kéo dài, gây xáo trộn
lớn về nơi cư trú cùng với những chính sách đất đai, dẫn đến biến động lớn về chủ sử
dụng đất. Mặc dù Luật Đất đai 1993 và 2003 đã quy định: nhà nước không thừa nhận
việc đòi lại đất Nhà nước đã quản lý và giao cho người khác sử dụng nhưng nhiều
trường hợp vẫn xảy ra tranh chấp, khiếu nại đòi lại đất cũ.
- Hiện nay, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc thu hồi đất
để mở rộng đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng thực hiện các dự án đầu tư làm quỹ đất
canh tác ngày càng giảm. Trong khi đó, tỷ lệ gia tăng dân số vẫn ở mức cao, cơ cấu
kinh tế chưa đáp ứng được vấn đề giải quyết việc làm và cuộc sống người lao động.
Đặc biệt do tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường làm cho giá đất đai tăng, đã và
đang là những áp lực lớn gây nên tình trạng khiếu kiện, tranh chấp đất đai.
3.2. Nguyên nhân chủ quan:
- Hệ thống pháp luật về khiếu nại, tố cáo thiếu đồng bộ và chưa hoàn chỉnh. Mặc dù
đã được sửa đổi nhiều lần nhưng đến nay Luật khiếu nại tố cáo, và luật đất đai vẫn
không thống nhất về nội dung giải quyết khiếu nại. Ví dụ: Luật khiếu nại tố cáo
không có quyết định hành chính giải quyết cuối cùng mà mọi khiếu nại đều được
khởi kiện ra TAND; trong khi Luật Đất đai lại có quyết định hành chính giải quyết
cuối cùng, sau đó không được khởi kiện ra TAND. Ngoài ra, đến nay vẫn chưa có
một hướng dẫn cụ thể về mối quan hệ trong giải quyết khiếu nại, tranh chấp giữa cơ
quan hành chính và TAND, giữa Bộ quản lý chuyên ngành và Thanh tra Chính phủ.
- Việc quản lý đất đai chưa tốt. Việc thực thi pháp luật về đất đai còn nhiều bất cập,
quy hoạch sử dụng đất đai chưa đủ và chất lượng chưa cao, hệ thống tài chính về đất
đai còn nhiều khiếm khuyết, bộ máy hành chính trong quản lý đất đai chưa phục vụ
tốt nhân dân. Tham nhũng trong quản lý đất đai, lãng phí trong sử dụng đất đai đã
giảm nhưng vẫn còn nhiều.
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu kiện của UBND và TAND các cấp chưa
đáp ứng yêu cầu của dân. Trước hết là trình tự, thủ tục chưa theo đúng quy định, vượt
quá thời gian quy định của pháp luật, người giải quyết chưa có đủ tận tâm. Bên cạnh
đó, còn một số không ít trường hợp quyết định giải quyết cuối cùng của UBND hoặc
bản án của TAND không phù hợp pháp luật.
15
- Nhận thức pháp luật của người dân còn thấp nhưng Nhà nước chưa hỗ trợ đủ để
nâng cao nhận thức này. Bộ máy hành chính chưa làm tốt công tác tiếp dân, chưa kết
hợp tiếp dân với hướng dẫn pháp luật cho dân. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật đất đai chưa được coi trọng. Nhiều văn bản pháp luật đất đai chưa thực sự đi vào
cuộc sống.
4) Mục đích, ý nghĩa và nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai:
4.1. Mục đích và ý nghĩa giải quyết tranh chấp đất đai:
- Việc giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung quan trọng trong hoạt động
quản lý nhà nước đối với đất đai và là những biện pháp để pháp luật đất đai phát huy
vai trò trong cuộc sống.
- Điều chỉnh quan hệ đất đai phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của xã hội, và của
người sử dụng đất.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị xâm hại, đồng thời bắt buộc bên vi
phạm phải gánh chịu hậu quả pháp lý do hành vi của họ gây ra.
- Giáo dục ý thức pháp luật cho công dân để ngăn ngừa những hành vi vi phạm
pháp luật có thể xảy ra. Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất
đai.
4.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai:
- Đảm bảo đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước thực hiện vai trò là người đại
diện cho chủ sở hữu.
- Bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất nhất là lợi ích kinh tế, khuyế khích việc tư
hoà giải, thương lượng trong nội bộ quần chúng nhân dân.
- Việc giải quyết tranh chấp đất đai phải nhằm mục đích ổn định tình hình kinh tế xã
hội, gắn việc giải quyết tranh chấp đất đai với việc tổ chức lại sản xuất, tạo điều kiện
cho lao động ở nông thôn có việc làm phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu sử
dụng đất và cơ cấu kinh tế theo hướng côn nghiệp hoá, hiện đại hoá.
5) Thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai:
5.1. Hòa giải tranh chấp đất đai:
a) Trình tự hòa giải:
- Tự hòa giải hoặc hòa giải cơ sở (khuyến khích, không bắt buộc – Khoản 1, Điều
135, Luật đất đai).
- Hòa giải tại UBND cấp xã (bắt buộc - Khoản 2, Điều 135, Luật đất đai).
Nếu các bên không hòa giải được thì gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hoà
giải tranh chấp đất đai.
16
Thời hạn hoà giải là 30 ngày làm việc, kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nhận được đơn.
b) Kết quả hòa giải: Điều 159 Nghị định 181/2004/NĐ-CP
Kết quả hoà giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản có chữ ký của các
bên tranh chấp và xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.
Trường hợp kết quả hoà giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, chủ sử
dụng đất thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn gửi biên bản hoà giải đến Phòng Tài
nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường
hợp khác.
Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường trình Uỷ ban nhân
dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
5.2. Giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan hành chính hoặc cơ quan xét xử:
Tranh chấp đất đai đã được giải quyết tại UBND cấp xã mà một bên hoặc các bên
đương sự không nhất trí thì được giải quyết theo sơ đồ sau :
Lưu ý :
Giấy tờ được hiểu là Giấy chứng nhận quyền sử đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 2 và
5 Điều 50 của Luật đất đai.
Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm
quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì
thẩm quyền giải quyết theo sự lựa chọn của người khởi kiện. (Khoản 1, Điều 31 Luật
Tố tụng hành chính).
Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực, người
khiếu nại đã thực hiện việc khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về
quản lý đất đai đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ ngày 01 tháng 6
năm 2006 đến ngày Luật này có hiệu lực, nếu khiếu nại không được giải quyết hoặc đã
được giải quyết nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu
nại thì có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của Luật Tố tụng hành
chính (Điều 3 Nghị quyết 56/2010/QH12).
Sơ đồ giải quyết tranh chấp đất đai
17
Diễn giải :
STT NỘI DUNG CĂN CỨ
1
Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự :
Có giấy tờ, hoặc
Tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do
TAND giải quyết
Khoản 1, Điều 136 Luật đất
đai 2003.
2
Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết tranh chấp
đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân
cư với nhau.
Khoản 1, Điều 160 NĐ
181/NĐ-CP 2004
3
Trường hợp Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết
mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý
với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại
đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh.
Điểm a, Khoản 2 Điều 136
Luật đất đai, được sửa đổi
bổ sung bởi Luật Tố tụng
hành chính 2011.
4
Trường hợp Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết
mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý
với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện
theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Điểm a, Khoản 2 Điều 136
Luật đất đai, được sửa đổi
bổ sung bởi Luật Tố tụng
hành chính 2011.
5
Trường hợp Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết
mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý
với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện
Điểm b, Khoản 2 Điều 136
Luật đất đai, được sửa đổi
bổ sung bởi Luật Tố tụng
18
STT NỘI DUNG CĂN CỨ
theo quy định của Luật tố tụng hành chính. hành chính 2011.
6
Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết đối với tranh
chấp đất đai giữa tổ chức, cơ sở tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước
ngoài, cá nhân nước ngoài với nhau hoặc giữa tổ
chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước
ngoài với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư.
Khoản 2, Điều 160 NĐ
181/NĐ-CP 2004.
7
Trường hợp Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết
mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý
với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại
đến Bộ trưởng Bộ TNMT.
Điểm b, Khoản 2 Điều 136
Luật Đất đai, được sửa đổi
bổ sung bởi Luật Tố tụng
hành chính 2011.
8
Trường hợp Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết
mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý
với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện
theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Điểm b, Khoản 2 Điều 136
Luật đất đai, được sửa đổi
bổ sung bởi Luật Tố tụng
hành chính 2011.
5.3. Giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính (Điều 137,
Luật đất đai 2003):
Tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới giữa các đơn vị hành chính do UBND
của đơn vị đó cùng phối hợp giải quyết. Nếu giải quyết không được thì :
Liên quan đến địa giới của đơn vị cấp tỉnh thì do Quốc hội giải quyết.
Liên quan đến địa giới của đơn vị cấp xã thì do Chính phủ giải quyết.
Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm cung cấp các tài liệu cần thiết và
phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết các tranh chấp đất đai liên quan
đến địa giới hành chính.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_thuyet_trinh_de_tai_4_nhom_7_1__5804.pdf