Bên cạnh các công trình, bảo tàng, rất nhiều tuyến đường được đầu tư hàng nghìn, chục nghìn tỷ đồng nhưng nhanh chóng xuống cấp sau khi đưa vào sử dụng.
Điển hình như cao tốc Hà Nội - Lào Cai chỉ chưa đầy 1 tháng sau khi thông xe toàn tuyến đã bắt đầu xuất hiện vết nứt dài 73m tại km 83. Cao tốc này có tổng mức đầu tư trên 30.000 tỷ đồng.
Trước khi thông xe vào ngày 18/5/2014, dự án nâng cấp và cải tạo QL 18 đoạn Uông Bí - Hạ Long có tổng mức đầu tư 2.888 tỷ đồng đã xuất hiện nhiều rãnh lún sâu 4-5cm so với mặt đường, vết nứt dài 3 - 5m.
21 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 712 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chất lượng của dự án đầu tư xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HÀ NỘI THÁNG 10 - 2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
------oOo------
TIỂU LUẬN
MÔN HỌC :
QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
Đề tài : Chất lượng của dự án đầu tư xây dựng
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
:
PGS.TS: LÊ HỒNG THÁI
LỚP
:
QLDA 1612-7
HỌC VIÊN THỰC HIỆN
:
HOÀNG VĂN VŨ
MÃ HỌC VIÊN
:
1612.123
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, khi nước ta bắt đầu hội nhập kinh tế quốc tế, diện mạo đất nước không ngừng đổi mới, đời sống kinh tế của người dân ngày càng được cải thiện, nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển. Tất nhiên cùng với sự phát triển và nâng cao không ngừng của các ngành nghề kinh tế, các lĩnh vực khác của đời sống, bộ mặt của đất nước ngày càng thay đổi. Đó là sự mọc lên của các công trình công nghiệp và dân dụng nhằm đáp ứng các yêu cầu của cuộc sống công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tất nhiên, với cùng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển không ngừng đó là sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong lĩnh vực xây dựng, nó không chỉ là quy mô, tính chất công trình mà còn là chất lượng công trình xây dựng. Đây là một nhân tố quan trọng, quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Bởi lẽ công trình xây dựng có đặc điểm là nguyên chiếc, đơn nhất, cố định không thể di rời cùng với sốvốn có hạn, do đó tầm quan trọng của công tác quản lý chất lượng là vô cùng quan trọng. Quản lý dự án là ngành khoa học nghiên cứu về việc lập kế hoạch, tổ chức và quản lý, giám sát quá trình phát triển của dự án nhằm đảm bảo cho dự án hoàn thành đúng thời gian, trong phạm vi ngân sách đã được duyệt, đảm bảo chất lượng, đạt được mục tiêu cụ thể của dự án và các mục đích đề ra. Mục tiêu cơ bản của việc quản lý dự án thể hiện ở chỗ các công việc phải được hoàn thành theo yêu cầu và bảo đảm chất lượng, trong phạm vi chi phí được duyệt, đúng thời gian và giữ cho phạm vi dự án không thay đổi.
Đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) là lĩnh vực quan trọng, giữ vai trò chủ yếu trong việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hàng năm, ngân sách nhà nước dành một tỷ lệ lớn chi cho đầu tư xây dựng cơ bản. Tuy nhiên chất lượng hoạt động đầu tư xây dựng còn hạn chế. Các dự án đầu tư còn tồn tại một số hạn chế. Để tìm ra những nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng, do đó nghiên cứu đề tài “Chất lượng của dự án đầu tư xây dựng” là hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Mỗi nghành mỗi đơn vị thực hiện luôn luôn phải chú trọng đặt việc quản lý chất lượng lên hàng đầu vì nó là điều kiện tiên quyết cũng như thể hiện đầy đủ năng lực, phẩm chất của người thực hiện.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CỦA DỰ ÁN
ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
1.1. Chất lượng công trình xây dựng
1.1.1. Khái niệm và các tính chất của chất lượng
Có nhiều định nghĩa về chất lượng, trong đó, trước hết phải kể đến các định nghĩa do những người đi trước của khoa học chất lượng đưa ra như Juran, Feigenbaun và Demig:
Ju ran năm 1992 ông đưa ra định nghĩa chất lượng là đặc tính của sản phẩm đáp ứng được các mong muốn của khách hàng và không khiếm khuyết.
Các tính chất của sản phẩm hoặc dịch vụ có vai trò rất quan trọng đối với sự thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng. Sản phẩm có tính chất vượt trội, có thể yêu cầu các vật liệu đắt đỏ hơn và hao phí lao động cao hơn. Sản phẩm không khiếm khuyết sẽ ít phải làm lại, ít phế liệu và ít yêu cầu về báo hành do đó yêu cầu chi phí thấp hơn. Đối với nhiều sản phẩm, khâu kiểm tra thiêt kế được thực hiện tốt thường có được các tinh chất tốt hơn và kiểm soát quá trình sản xuất cũng sẽ đưa lại ít khiếm khuyết hơn.
Feigebbaun (1991) cho rằng chat lượng là tập hợp các tính chất về marketing, thiết kế, chế tạo và duy tu sản phẩm và dịch vụ, qua đó sản phẩm và dịch vụ được sử dụng sẽ đạt được mong muốn của khách hàng. Tập hợp các tính chất của sản phẩm và dịch vụ là độ tin cậy lớn, độ an toàn cao, độ tiện lợi và bảo dưỡng dễ dàng, sự thu hút và nhiều tính chất khác của sản phẩm. Ông cho rằng những tập hợp đặc tính mà đáp ứng được các chức năng mong đợi và có tiết kiệm lớn chính là chất lượng.
Edwards Deming (1986) đưa ra nhiều quan điểm là 14 điểm về chất lượng mà với ý nghĩa rộng thì chất lượng có thể hiểu là khả năng đáp ứng một cách nhất quán các yêu cầu của khách hàng.
Các ý tưởng này được phát triển theo những cách khác nhau và do đó, ở những vùng miền, quốc gia khác nhau cơ chế tổ chức và phương pháp quản lý chất lượng có khác nhau.
Theo Hiệp hội Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO) thì chất lượng sản phẩm là sự không hỏng và những đặc tính của sản phẩm thoản mãn mong muốn của khách hàng.
Tiêu chuẩn GB/T 10300-1998 của Trung Quốc cho rằng chất lượng là tổng hòa các đặc trưng, đặc tính sản phẩm, hoặc dịch vụ thỏa mãn quy định hoặc đáp ứng được nhu cầu khách hàng.
Theo Hiệp hội mỹ về Kiểm soát chất lượng thì chất lượng là tập hợp các đặc tính của sản phẩm hay dịch vụ có khả năng thỏa mãn cac nhu cầu đã định sẵn hoặc có tiềm ẩn”.
Theo Tiêu chuẩn Quốc gia của Liên Xô GOCT15467-70 thì chất lượng sản phẩm là tập hợp các tính chất đảm bảo cho sản phẩm có khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng phù hợp với công năng của chúng.
Tại Việt Nam coi chất lượng là tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật hay sự việc làm cho sự vật và sự việc này phân biệt với sự vật hay sự việc khác.
* Khái niệm tính chất Tường và Ẩn của chất lượng sản phẩm:
Các ý kiến trên suy cho cùng chỉ là sự chi tiết hóa tư tưởng coi chất lượng là tổng hòa các đặc trưng và đặc tính phản ánh khả năng của sản phẩm hay dịch vụ đáp ứng nhu cầu “Tường” và nhu cầu “ẩn”. Tùy thuộc vào từng đối tượng từng thời điểm để tường và ẩn thể hiện ra khác nhau và mức độ tác động.
Tường là sự hiện hữu, sự cảm nhận thấy ngay từ các cảm nhận của con người thực tế về tư duy hiện thực tại một thời điểm 1 không gian 1 thời gian nhất định.
Tính chất tường là những kỳ vọng về các tính chất của SP có thể đánh giá được một cách trực quan những thế liên quan đến hình dạng, màu sắc, độ bền, độ vững chắc, an toàn.
Ẩn là những gì mà để có thể nhận biết thì con người phải trải qua quá trình tư duy hiện thực qua thời gian phát triển và vận động. Tính chất Ẩn là mong muốn của những người sử dụng: họ muốn phù hợp điều kiện sống và làm việc, điều kiện sinh thái, phù hợp sự phát triển xã hội, có mỹ thuật lại vừa đảm bảo chi phí (chi phí vừa đủ nhưng có giá trị nổi trội). Đây là những tính chất phản ánh tư tưởng sáng tạo ra sản phẩm (thiết kế).
Định nghĩa trên đây có phân biệt các khía cạnh một cách rõ ràng là các đặc trưng và tính chất của sản phầm, hơn nữa đặc trưng và đặc tính ấy có thể đã tường minh hoặc tiềm ẩn.
1.1.2. Đặc trưng và đặc tính:
Xét trên bình diện quản trị kinh doanh, có thể có coi đặc trưng và đặc tính là một đó là những tính chất riêng có của sự vật , là dấu hiệu đặc trưng cho sự vật. Nếu lấy thí dụ về một sản phẩm nào đó, chẳng hạn như loại gạch lát nền của mọi nhà sản xuất tung ra thị trường, trước hết bất cứ nhà sản xuất nào thì gạch lát nền cũng cần đảm bảo đúng thông số về kích thước, trọng lượng, độ bền, chống bám bẩn, có khả năng chịu tác động của môi trường như va đập, có độbột bả matit mà các nhà sản xuất đã tung ra thị trường. Đặc tính đầu thì phụ thuộc nhiều vào bí quyết của nhà sản xuất. Mức độ cao thấp về độ bền của loại gạch lát nền của một nhà sản xuất nhất định sẽ là đặc trưng chất lượng của sản phẩm của nhà sản xuất đó. Như vậy tính chất thể hiện chất lượng để đánh giá gạch lát nền là độ phẳng, nhẵn bóng đều màu, bền đẹp chống chịu mài mòn. Nếu có được những điểm nêu trên thì đánh giá gạch lát nền đạt chất lượng. Tùy thuộc vào các tiêu chí để đánh giá từng loại và chất lượng từng trường hợp đó. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng có nhiều ý kiến đã phân biệt đặc trưng và đặc tính, cho rằng đặc trưng là sự biểu hiện bên ngoài (hình thức) trong khi đó đặc tính thể hiện bản chất bên trong của sản phẩm hay dịch vụ.
1.2 Chất lượng công trình xây dựng.
Các công trình xây dựng là sản phẩm của quá trình sản xuất của ngành công nghiệp đặc thù, đó là ngành xây dựng, vì thế chất lượng của công trình xây dựng không khác gì hơn là tổng hợp các tính chất tiêu dùng được xác định trong sự tương quan giữa công trình xây dựng với các điều kiện sử dụng chúng được ấn định trước.
Sản phẩm xây dựng được hình thành qua nhiều gia đoạn, trong đó có hai giai đoạn quyết định ý tưởng và hiện thực hóa ý tưởng về công trình là giai đoạn thiết kế và giai đoạn thi công công trình. Các tính chất nói trên chỉ có thể đạt được nhờ việc thực thi đúng và đủ hàng loạt yêu cầu trên từng giai đoạn tạo nên công trình:
Các yêu cầu cụ thể là:
- Yêu cầu về công năng: thường là các yêu cầu hướng tới gia đoạn sử dụng công trình bao gồm các thông số kiến trúc quy hoạch của từng bộ phận công trình nói riêng và tổng hợp các bộ phận nói chung, giải pháp về hệ thống kỹ thuật công trình ( điện nước vệ sinh, điện thoại, mạng internet, phòng cháy) Các tính chất trên phải phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hôi, sự phát triển của cộng đồng.
- Yêu cầu về kết cấu như độ bền chắc, độ tin cậy của kết cấu trong công trình đảm bảo đáp ứng được các đòi hỏi cũng như phát triển khoa học kỹ thuật – công nghệ xây dựng.
- Yêu cầu về vận hành bao gồm tính hiện đại, sự tiện lợi, tính dễ sửa chữa, bảo trì
- Yêu cầu về môi trường – cảnh quan thể hiện ở giải pháp bố cục mặt bằng hình khối công trình, phù hợp với khung cảnh không gian nơi công tình tọa lạc cũng như mức độ phát triển ở nơi đó.
Việc phân công quản lý cũng được các quốc gia luật hóa với nguyên tắc: Những nội dung “phù hợp” (tức là vì lợi ích của xã hội, lợi ích cộng đồng) do Nhà nước kiểm soát và các nội dung “đảm bảo” do các chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình đầu tư xây dựng (chủ đầu tư và các nhà thầu) phải có nghĩa vụ kiểm soát.
Những tiêu chí ẩn mà chất lượng sản phẩm xây dựng phải đáp ứng được đó là mong muốn của những người sử dụng công trình: họ muốn điều kiện sinh hoạt phù hợp điều kiện sinh thái phù hợp với sự phát triển xã hội, có mỹ thuật lại đảm bảo chi phí hiện có hoặc chi phí vừa đủ nhưng có giá trị nổi trội.
Các tiêu chuẩn này được xác định cơ bản từ giai đoạn thiết kế. Vì vậy nhiều nhà nghiên cứu các chuyên gia chất lượng đã phân biệt chất lượng thiết kế và chất lượng sản xuất. Theo họ thiết kế đặt ra các tiêu chuẩn và dung sai, thiết kế yêu cầu độ chính xác cao tức là dung sai bé), thiết kế có thể cho giá đầu vào rẻ để phù hợp với mong đợi của khách hàng, còn chất lượng thực hiện các công tác xây lắp lại chính là mức độ phù hợp của kết quả với công việc đó so với tiêu chí đã được xác định theo chất lượng thiết kế.
Đối với các sản phẩm xây dựng yêu cầu khách hàng được đảm bảo lớn ở giai đoạn thiết kế, ở đó mọi tiêu chí như mẫu mã, kích thước, bố cục màu sắc được thiết kế xuất phát từ yêu cầu phù hợp với công năng sử dụng – hay chính là khách hàng. Các tiêu chí này được coi như là chất lượng của công trình (khi thiết kế), như vậy giai đoạn thi công – là giai đoạn chuyển công trình từ trên giấy thành hiện thực – sẽ là giai đoạn thực hiện chất lượng tổng hợp. Chất lượng của giai đoạn thực hiện chất lượng tổng hợp chính là mức độ đấp ứng của sản phẩm đối với từng yêu cầu đã nêu ra trong thiết kế.
Các yêu cầu tường
Các yêu cầu ẩn
Ý nghĩa chung
Đảm bảo cái chỉ ra trước đó
Phù hợp mong muốn của khách hàng
Đối với thiết kế
Đúng tiêu chuẩn, quy phạm
Thiết kế phù hợp kỹ - mỹ thuật, môi trường, giá, văn hóa (có kỹ năng)
Đối với thi công
Đúng thiết kế, hợp đồng
Thi công đẹp, đường nét hoàn hảo
Tóm lại, chất lượng của công trình xây dựng, một mặt là tính chất phù hợp với công năng sử dụng độ bền công trình, an toàn kết cấu cảnh quan môi trường kỹ thuật, công nghệ thi công và phù hợp với mức chi phí chấp nhận được, mặt khác là những nét đặc trưng cho công trình ở mức độ hoàn hảo các tính chất nói trên. Các tính chất và đặc trưng này đạt được dần trong các giai đoạn thiết kế và thi công xây lắp. Giải pháp thiết kế tốt có được nhờ đầu óc tư duy, sáng tạo, sự lao động, cống hiến của các kỹ sư thiết kế. Trong giai đoạn thi công, chúng đạt được nhờ quá trình thi công được tổ chức một cách khoa học, có kỹ thuật, có quán triệt được các yêu cầu về kỹ thuật, mỹ thuật đối với quá trình sản xuất và sản phẩm xây dựng, nhờ lao động hiệu quả với kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp của mọi người lao động trên công trường.
1.3 Các tiêu chí và chỉ tiêu chất lượng
Xuất phát từ tư tưởng cho rằng chất lượng là sự đáp ứng các yêu cầu của mọi phía và đưa lại lợi ích cho mọi bên như nhà sản xuất, khách hàng và xã hội, nhiều tác giả đã đề cập đến các đại lượng đặc trưng cho chất lượng của sản phẩm. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng chất lượng có thể được đánh giá qua nhiều đặc tính khác nhau, đó là sự vận hành suôn sẻ của sản phẩm, độ tin cậy và độ bền; sự phù hợp với những đặc tính nêu sẵn; sự thuận tiện trong sử dụng, sửa chữa và bảo hành; kiểu dáng, âm thanh và mùi vị; và cuối cùng là sự nhìn nhận chất lượng nhờ uy tín của nhà sản xuất, phương pháp quảng cáo Xét trong diện hẹp của sản phẩm lấy sản phẩm xây dựng làm thí dụ chất lượng của các sản phẩm xây dựng - các công trình xây dựng – có thể được nhìn nhận qua một số tiêu chí như: công năng độ tin cậy , tính phù hợp, tính an toàn, tính kinh tế và thời gian. Cũng có cách tập hợp khác, đó là tính không hỏng (tức là tính chất của kết cấu, bộ phận công trình hay toàn bộ công trình duy trì được khả năng làm việc trong suốt thời gian nhất định tại những điều kiện vận hành nhất định); tính bảo toàn (là sản phẩm xây dựng giữ được các chỉ tiêu vận hành trong và sau thời gian bảo quản, vận chuyển); sự cố là sự mất khả năng làm việc của công trình hay bộ phận của nó mà không thể sửa chữa lại được. Dù tiếp cận cách nào thì tiêu chí chất lượng của sản phẩm xây dựng đều được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau trên nhiều giai đoạn hình thành (thực hiện) chất lượng. Tiêu chí chất lượng bao quát các giải pháp được quyết định trong thiết kế (như cấu tạo, vật liệu, công nghệ thi công) cũng như các biện pháp kỹ thuật – công nghệ và tổ chức sản xuất được thực hiện trong quá trình thi công.
Tiêu chí đặc trưng cho từng giai đoạn hình thành chất lượng sản phẩm.
Phản ánh chất lượng của giai đoạn thiết kế có các tiêu chí chất lượng thiết kế, đó là các giải pháp kiến trúc, kết cấu phù hợp với mục đích sử dụng, với môi trường cảnh quan ở khu vực xây dựng. Vật liệu xây dựng được lựa chọn để xây lắp công trình có thể là tiêu chí chất lượng: vật liệu bền, đẹp, sang trọng mà thông dụng dễ kiếm. Về giải pháp công nghệ thi công (trong nhiều trường hợp là để quyết định giải pháp kết cấu) – cái được coi như tiêu chí của chất lượng – đó là tính tiên tiến, tính phổ biến, tính hiện đại nhưng khả thi về kỹ thuật, phương pháp và nguồn lực.
Ở giai đoạn thi công thì do thi công là thực hiện chất lượng của thiết kế nên các tiêu chí chất lượng, trước hết xét về lượng, phải phản ánh được sự thực thi đúng và đủ các quy định mà thiết kế chỉ ra, và xét về mặt định tính thì phải kể đến quá trình thực hiện các quy định đúng theo yêu cầu (quy trình, quy phạm kỹ thuật), sản phẩm đẹp đến mức nào về đường nét, kích cỡ, bề mặt
Yếu tố vô cùng quan trọng có tính chất quyết định đối với chất lượng của các tiêu chí chất lượng trên đây là người lao động. Tiêu chí lao động có thể dùng nhiều trong kế hoạch đánh giá hoạt động của đơn vị thi công
Tiêu chí chất lượng cho thấy những khía cạnh mà chất lượng của sản phẩm xây dựng phản ánh. Mỗi tiêu chí được định dạng nhiều chỉ tiêu:
Bảng tiêu chí và chỉ tiêu chất lượng sản phẩm xây dựng:
Tiêu chỉ chất lượng
(Cái cần phản ánh)
Chỉ tiêu chất lượng
(Cái có khả năng phản ánh)
Chất lượng thiết kế:
- Giải pháp thiết kiến trúc, kết cấu;
- Vật liệu;
- Công nghệ thi công;
- Kinh tế.
- Kết cấu định hình;
- Vật liệu sang trọng nhưng dễ tìm;
- Hiện đại nhưng khả thi;
- Chi phí phù hợp.
Chất lượng thi công:
- Đúng quy định, đúng quy phạm;
- Đúng thiết kế;
- Đúng thời hạn;
- Đẹp, rẻ.
- Mức độ sai lệch về kích thước, độ cứng so với thiết kế (bền);
- Mức độ sai lệch với định mức, quy phạm;
- Mức độ đẹp (phẳng, sắc nét);
- Số sản phẩm hỏng, phải làm lại.
Chất lượng lao động:
- Mức độ làm đúng yêu cầu (không lỗi) nhờ kỹ năng.
- Chất lượng được hoàn thiện nhờ đạo đức nghề nghiệp
- Số người làm sai, làm hỏng sản phẩm;
- Số lượng sản phẩm làm hỏng do tay nghề;
- Số lượng sản phẩm hỏng do kỹ thuật lao động.
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm xây dựng.
Lý thuyết về chất lượng đã chỉ rõ các yếu tố quy định chất lượng của sản phẩm. Qua trình thi công trong xây dựng thường dài, trải qua nhiều giai đoạn và có nhiều thành phần tham gia. Trên mỗi giai đoạn, từng thành phần sản xuất (tham gia vào quá trình) đóng vai trò nhất định và có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng của sản phẩm.
- Cách tiếp cận hệ thống thể hiện ở thuyết 5M, lấy từ các chữ viết tắt bằng tiếng Anh:
+ Con người (Men);
+ Vật liệu (Materials) gồm tính năng, thành phần , hình thức;
+ Máy móc (Machines) gồm chủng loại, mức độ tiên tiến;
+ Phương pháp sản xuất (Methods) là quy trình thao tác, công nghệ, phương pháp kiểm tra;
+ Môi trường (Medium) như nhiệt độ, độ ẩm, độ sạch, biện pháp an toàn.
Trong các yếu tố trên, con người là yếu tố đầu tiên và số một được thể hiện qua các mặt như năng lực lãnh đạo, trình độ kỹ thuật và ý thức lao động của con người.
- Theo cách tiếp cận quản lý, các yếu tố chất lượng công trình xây dựng có thể phân thành 2 nhóm chính là chất lượng của khâu chuẩn bị, chất lượng của vật liệu và chất lượng của hoạt động xây lắp.
+ Chất lượng của công tác chuẩn bị thi công, phản ánh chất lượng của quá trình chuẩn bị thi công như lựa chọn và huy động lao động (tay nghề, kỹ năng), chất lượng của bản vẽ thi công (đúng, khoa học), chất lượng của máy móc, thiết bị thi công được lựa chọn (làm việc tốt, lựa chọn máy hợp lý)
+ Chất lượng của vật liệu thể hiện ở chỗ là tính chất của vật liệu đảm bảo được các yêu cầu trong hoạt động cung ứng, tuân thủ đúng theo tiêu chuẩn vật liệu như quy phạm đặt ra.
+ Chất lượng của quá trình tác nghiệp xây lắp – đó là trình độ tổ chức sản xuất, tổ chức công trường và khả năng kỹ thuật của nhà thầu. - Cách tiếp cận duy vật là nhóm gộp lại những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thành 2 nhóm là các yếu tố khách quan – phát sinh từ môi trường kinh doanh và các yếu tố chủ quan do chính doanh nghiệp gây ra.
+ Nhóm yếu tố khách quan: Trong nhóm yếu tố khách quan có thể kể đến các yếu tố thiên nhiên như điều kiện thời tiết, khí hậu, các yếu tố kỹ thuật như độ chính xác trong khảo sát nền đất, mức điều hòa trong cung cấp điện nước cho quá trình thi công trong công tác cung ứng nói chung các loại vật tư, thiết bị cho xây dựng. Cũng nên lưu ý là trong các yếu tố kỹ thuật nói trên cũng có vai trò của con người.
+ Nhóm yếu tố chủ quan của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố kỹ thuật như phương pháp tổ chức sản xuất, phương pháp cung ứng, cách thức triển khai các khâu chuẩn bị, sản xuất chính,và các yếu tố liên quan đến con người từ lãnh đạo đến công nhân sản xuất trực tiếp.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHẤT LƯỢNG CỦA DỰ ÁN
ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
Chất lượng công trình xây dựng không những có liên quan trực tiếp đến an toàn sinh mạng, an toàn cộng đồng, hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng công trình mà còn là yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Do có vai trò quan trọng như vậy nên luật pháp về xây dựng của các nước trên thế giới đều coi đó là mục đích hướng tới. Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, trong đó chất lượng công trình xây dựng cũng là nội dung trọng tâm, xuyên suốt.
2.1 - Đối với Chủ đầu tư:
Chưa có tính chịu trách nhiệm toàn bộ về chất lượng của công trình xây dựng thuộc dự án đầu tư do mình quản lý. Thực trạng trên do việc thành lập Ban quản lý dự án, lãnh đạo Ban Quản lý dự án chưa có đầy đủ điều kiện năng lực theo quy định. Khi được ký hợp đồng giao nhận thầu đối với những tổ chức tư vấn doanh nghiệp xây dựng còn thiếu và chưa đủ điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, theo quy định hiện hành. Quyền yêu cầu những đơn vị liên quan, theo hợp đồng, giải trình về chất lượng vật liệu, thiết bị, công việc và có quyền từ chối nghiệm thu đang còn chưa làm hết trách nhiệm của mình. Khi Chủ đầu tư không đủ điều kiện năng lực theo quy định, Việc thuê tổ chức Tư vấn có đủ năng lực thực hiện các công việc liên quan đến quá trình đầu tư xây dựng như: Giám sát thi công xây lắp và lắp đặt thiết bị, đặc biệt đối với công tác quản lý chất lượng tại công trường, công tác nghiệm thu (cấu kiện, giai đoạn, hoàn thành) và việc đưa ra quyết định đình chỉ thi công trong những trường hợp cần thiết đang còn rất lỏng lẻo, chưa chặt chẽ.
2.2 - Đối với đơn vị tư vấn:
- Do việc quản lý còn chồng chéo, tính chịu trách nhiệm về những quy định pháp lý đã nêu trong hợp đồng, đặc biệt là chất lượng sản phẩm và thời gian thực hiện chưa đảm bảo nghiêm túc thực hiện như:
+ Phải sử dụng cán bộ có đủ năng lực cho mỗi công việc thực hiện theo quy định.
+ Phải có hệ thống quản lý chất lượng để kiểm soát chất lượng sản phẩm thiết kế của đơn vị.
- Công tác đảm bảo sản phẩm được thực hiện còn chưa đúng nội dung các bước thiết kế đã quy định; phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng được áp dụng và nhiệm vụ thiết kế, hợp đồng giao nhận thầu thiết kế với chủ đầu tư.
+ Người chủ nhiệm đồ án thiết kế và các chủ trì thiết kế phải chịu trách nhiệm cá nhân về chất lượng sản phẩm do mình thực hiện.
+ Tổ chức tư vấn thiết kế phải có hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm thiết kế để kiểm soát chất lượng sản phẩm thiết kế.
+ Tổ chức tư vấn lập thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế kỹ thuật thi công phải thực hiện giám sát tác giả trong quá trình thi công xây lắp theo quy định.
+ Tổ chức tư vấn thiết kế không được giao thầu lại toàn bộ hợp đồng hoặc phần chính của nội dung hợp đồng cho một tổ chức tư vấn thiết kế khác.
+ Việc nghiệm thu sản phẩm thiết kế phải lập biên bản theo mẫu quy định, trong đó có nêu rõ những sai xót (nếu có), thời gian khắc phục, bổ sung và kết luận về chất lượng.
2.3 - Đối với doanh nghiệp xây dựng:
- Phải đảm bảo chất lượng, an toàn, môi trường xây dựng tốt, cho công trình đang thi công, những công trình khác xungh quanh và khu vực lân cận.
- Chỉ được phép nhận thầu thi công những công trình thực hiện đúng thủ tục đầu tư và xây dựng, phù hợp với năng lực của mình; thi công đúng thiết kế được duyệt, áp dụng đúng các tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng đã được quy định và chịu sự giám sát, kiểm tra thường xuyên về chất lượng công trình của chủ đầu tư, tổ chức thiết kế và cơ quan giám định Nhà nước theo phân cấp quản lý chất lượng công trình xây dựng;
- Chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư và trước pháp luật về thi công xây lắp công trình, kể cả những phần việc do nhà thầu phụ thực hiện theo quy định của hợp đồng giao nhận thầu xây lắp.
- Vật liệu thành phẩm hoặc bán thành phẩm, cấu kiện xây dựng sử dụng vào công trình phải có chứng nhận về chất lượng gửi cho chủ đầu tư để kiểm soát trước khi sử dụng theo quy định; tổ chức hệ thống bảo đảm chất lượng công trình để quản lý sản phẩm xây dựng, quản lý công trình trong quá trình thi công.
Chất lượng thi công Xây - Lắp:
+ Doanh nghiệp phải tổ chức hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với hợp đồng giao thầu, trong đó cần có bộ phận giám sát chất lượng riêng của doanh nghiệp.
+ Lập đầy đủ, đúng quy định nhật ký thi công xây dựng công trình.
+ Chỉ được phép thay đổi, bổ sung vật liệu, khối lượng khi được Chủ đầu tư chấp thuận.
+ Báo cáo đầy đủ quy trình tự kiểm tra chất lượng vật liệu, cấu kiện, sản phẩm xây dựng.
+ Báo cáo thường xuyên với chủ đầu tư về tiến độ, chất lượng, khối lượng, an toàn và môi trường xây dựng.
2.4 - Đối với đơn vị Khảo sát xây dựng:
- Bao hàm khảo sát địa chất, thủy văn, khảo sát hiện trạng, đo đạc địa hình, đo đạc lún, nghiêng, chuyển dịch, của công trình đang có.
- Nhiệm vụ khảo sát do đơn vị thiết kế lập, được chủ đầu tư phê duyệt phải phù hợp với quy mô, các bước thiết kế, tính chất công trình, điều kiện tự nhiên của khu vực xây dựng; đặc biệt khảo sát phải đủ, phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn áp dụng, tránh lãng phí.
- Công việc khảo sát phải phù hợp nhiệm vụ đã phê duyệt, trong báo cáo phải kiến nghị về việc xử lý nền móng công trình xây dựng.
2.5- Đối với đơn vị Giám sát thi công xây lắp:
Khâu giám sát thi công xây lắp rất quan trọng trên thực địa để có một sản phẩm xây dựng được hoàn hảo và phù hợp giữa bản vẽ trên giấy và thực tế nếu không tuân thủ những điều sau đây thì sẽ gây ra những vấn đề lớn trong quản lý để có một sản phẩm chất lượng:
- Phải có bộ phận chuyên trách (có thể là doanh nghiệp tư vấn) đảm bảo duy trì hoạt động giám sát một cách có hệ thống toàn bộ quá trình thi công xây lắp, từ khi khởi công đến khi nghiệm thu, bàn giao.
- Phải phân định nhiệm vụ, quyền hạn của giám sát trưởng, các giám sát viên chuyên trách cho từng công việc và thông báo công khai tại công trường và đảm bảo việc giám sát được thường xuyên, liên tục.
- Lập hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với yêu cầu của dự án.
- Kiểm tra các điều kiện khởi công; điều kiện về năng lực các nhà thầu, thiết bị thi công (phù hợp hồ sơ dự thầu), phòng thí nghiệm của nhà thầu hay những cơ sở sản xuất, cung cấp vật liệu xây dựng (khi cần thiết); kiểm tra chứng chỉ xuất xưởng, chứng chỉ chất lượng thiết bị công trình.
- Lập đề cương, kế hoạch và biện pháp thực hiện giám sát.
- Kiểm tra chất lượng, khối lượng, tiến độ, an toàn, môi trường của công trình, hạng mục công trình.
- Tổ chức kiểm định sản phẩm xây dựng khi cần thiết
- Kiểm tra và xác nhận bản vẽ hoàn công.
- Giúp chủ đầu tư tập hợp, kiểm tra và trình đơn vị quản lý Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng kiểm tra hồ sơ, tài liệu nghiệm thu, trước khi tổ chức nghiệm thu (giai đoạn, chạy thử, hoàn thành).
- Giúp chủ đầu tư lập báo cáo thường kỳ về chất lượng công trình xây dựng theo quy định.
CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP CẢI THIỆN CHẤT LƯỢNG CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ
3.1. Quản lý nhà nước (QLNN) về chất lượng công trình xây dựng
Liên quan trực tiếp đến an toàn sinh mạng, an toàn cộng đồng, chất lượng công trình xây dựng là yếu tố quan trọng đảm bảo tính hiệu quả, sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, chất lượng công trình xây dựng cũng được nêu rõ, cụ thể trong Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 và các văn bản hướng dẫn Luật. Kế thừa những nền tảng trước đó, nhằm đảm bảo tính thống nhất, Nghị định 46/NĐ-CP về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng vừa được Chính phủ ban hành sẽ có những quy định cụ thể hơn về công tác quản lý, bảo trì đã được nêu cụ thể trong Luật Xây dựng (sửa đổi).
Theo Nghị định này, nguyên tắc chung trong quản lý chất lượng công trình xây dựng là công trình xây dựng phải được kiểm soát chất lượng theo quy định từ chuẩn bị, thực hiện đầu tư xây dựng đến quản lý, sử dụng công trình nhằm đảm bảo an toàn cho người, tài sản, thiết bị, công trình và các công trình lân cận.
Theo đó, hạng mục công trình, công trình xây dựng hoàn thành chỉ được phép đưa vào khai thác, sử dụng sau khi được nghiệm thu bảo đảm yêu cầu của thiết kế xây dựng, tiêu chuẩn áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật cho công trình, các yêu cầu của hợp đồng xây dựng và quy định của pháp luật có liên quan.
Trách nhiệm của nhà thầu, chủ đầu tư đối với công trình cũng được phân định rõ. Cụ thể, nhà thầu khi tham gia hoạt động xây dựng phải có đủ điều kiện năng lực theo quy định, phải có biện pháp tự quản lý chất lượng các công việc xây dựng do mình thực hiện. Nhà thầu chính hoặc tổng thầu có trách nhiệm quản lý chất lượng công việc do nhà thầu phụ thực hiện.
Chủ đầu tư sẽ có trách nhiệm tổ chức quản lý chất lượng công trình phù hợp với hình thức đầu tư, hình thức quản lý dự án, hình thức giao thầu, quy mô và nguồn vốn đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư xây dựng công trình...
Các cơ quan chuyên môn về xây dựng sẽ có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra công tác quản lý chất lượng của các tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng công trình; thẩm định thiết kế, kiểm tra công tác nghiệm thu công trình xây dựng, tổ chức thực hiện giám định chất lượng công trình xây dựng; kiến nghị và xử lý các vi phạm về chất lượng công trình xây dựng theo quy định của pháp luật.
Đảm bảo hiệu quả trong giám sát thi công.
Thực tế tại một số công trình trọng điểm thời gian qua cho thấy, công tác kiểm tra, giám sát trong quá trình giám sát thi công còn hạn chế đã dẫn đến nhiều sự cố đáng tiếc xảy ra như việc chiếc cần cẩu đang phục vụ thi công thuộc dự án metro Nhổn - Ga Hà Nội bất ngờ đổ sụp, đè vào hai căn nhà trên đường Cầu Giấy; vụ sập giàn giáo công trường Formosa (Hà Tĩnh)
Do vậy, chất lượng thi công xây dựng công trình được quy định trong Nghị định 46 sẽ phải được kiểm soát từ công đoạn mua sắm, sản xuất, chế tạo các sản phẩm xây dựng, vật liệu xây dựng, cấu kiện và thiết bị được sử dụng vào công trình cho tới công đoạn thi công xây dựng, chạy thử và nghiệm thu đưa hạng mục công trình, công trình hoàn thành vào sử dụng.
Theo đó, công tác giám sát thi công xây dựng công trình phải được giám sát trong quá trình thi công xây dựng theo quy định tại khoản 1 Điều 120 Luật Xây dựng, bao gồm: “a) Thông báo về nhiệm vụ, quyền hạn của các cá nhân trong hệ thống quản lý chất lượng của chủ đầu tư, nhà thầu giám sát thi công xây dựng công trình, cho các nhà thầu có liên quan biết để phối hợp thực hiện; b) Kiểm tra các điều kiện khởi công công trình xây dựng theo quy định tại Điều 107 của Luật Xây dựng; c) Kiểm tra sự phù hợp năng lực của nhà thầu thi công xây dựng công trình so với hồ sơ dự thầu và hợp đồng xây dựng, bao gồm: Nhân lực, thiết bị thi công, phòng thí nghiệm chuyên ngành xây dựng, hệ thống quản lý chất lượng của nhà thầu thi công xây dựng công trình; d) Kiểm tra biện pháp thi công xây dựng của nhà thầu so với thiết kế biện pháp thi công đã được phê duyệt;”
Đối với các công trình đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và vốn nhà nước ngoài ngân sách, việc tổ chức giám sát thi công xây dựng công trình phải độc lập với các nhà thầu thi công xây dựng và các nhà thầu chế tạo, sản xuất, cung ứng vật liệu, sản phẩm, cấu kiện, thiết bị sử dụng cho công trình. Để đảm bảo tính khách quan, việc tổ chức giám sát thi công xây dựng cũng không được tham gia kiểm định chất lượng công trình xây dựng do mình giám sát.
Nhà thầu chế tạo, sản xuất, cung ứng vật liệu, sản phẩm, cấu kiện, thiết bị sử dụng cho công trình không được tham gia kiểm định chất lượng sản phẩm có liên quan đến vật tư, thiết bị do mình cung cấp.
Nghị định cũng quy định cụ thể về thực hiện bảo trì công trình xây dựng. Đối với hạng mục công trình, công trình xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, thời gian bảo hành tối thiểu là 24 tháng từ khi nghiệm thu (đối với công trình, hạng mục công trình cấp đặc biệt và cấp I); không ít hơn 12 tháng đối với các công trình, hạng mục công trình cấp còn lại. Riêng đối với nhà ở, thời gian bảo hành thực hiện theo quy định của pháp luật về nhà ở, cụ thể, không ít hơn 60 tháng với nhà chung cư từ 09 tầng trở lên và các loại nhà ở khác được đầu tư xây dựng bằng ngân sách Nhà nước; không ít hơn 36 tháng đối với chung cư từ 04 - 08 tầng và tối thiểu 24 tháng với nhà ở còn lại.
Ngoài ra, Nghị định cũng có quy định chi tiết về mức tiền bảo hành tối thiểu với công trình sử dụng vốn Nhà nước. theo đó, với công trình xây dựng cấp đặc biệt và cấp I, mức tiền bảo hành tối thiểu bằng 3% giá trị hợp đồng; với công trình xây dựng cấp còn lại, mức tiền bảo hành ít nhất bằng 5% giá trị hợp đồng. Đối với các công trình sử dụng vốn khác, có thể tham khảo các mức bảo hành tối thiểu nêu trên để áp dụng.
Cũng theo Nghị định này, chủ sở hữu hoặc người quản lý sử dụng công trình xây dựng phải kiểm tra công trình thường xuyên, định kỳ và đột xuất nhằm phát hiện kịp thời các dấu hiệu xuống cấp, những hư hỏng của công trình, thiết bị lắp đặt vào công trình làm cơ sở cho việc bảo dưỡng công trình; việc bảo dưỡng công trình phải được thực hiện theo kế hoạch bảo trì hàng năm và quy trình bảo trì công trình xây dựng đã được phê duyệt..
Trọng tâm của kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XIII tới đây sẽ tập trung vào việc xây dựng thể chế pháp luật. Việc ban hành Nghị định 46/NĐ-CP về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng là việc làm phù hợp, kịp thời để Luật Xây dựng (sửa đổi) được áp dụng và đi vào cuộc sống. Với những quy định cụ thể, kỳ vọng Nghị định sẽ góp phần nâng cao công tác quản lý chất lượng, đảm bảo công trình đưa vào sử dụng sẽ đáp ứng được nhu cầu xã hội thiết yếu đề ra.
3.2 Xã hội hóa công tác quản lý chất lượng công trình
Vì vậy, để thực hiện mục tiêu xã hội hóa công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng, cần đề nghị Luật Xây dựng sửa đổi cần làm rõ các nội dung sau đây:
a. Điều kiện năng lực
Hoạt động xây dựng là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Vấn đề là các quy định đó có phù hợp với lợi ích của xã hội, người dân hay không? Đặc biệt việc triển khai có đúng như mong đợi hay là gây nhũng nhiễu để tham nhũng của những người được giao thực hiện công việc này. Vì vậy, việc cấp giấy phép hành nghề để thị trường xây dựng thêm trong sạch, minh bạch là việc nên đưa vào Luật Xây dựng sửa đổi lần này.
b. Chế tài trong xử lý các vi phạm về chất lượng công trình
Hoạt động xây dựng là hoạt động dân sự thông qua hợp đồng kinh tế. Những sai phạm gây thiệt hại vật chất phải tìm được nguyên nhân của sai phạm. Chủ thể nào gây ra nguyên nhân đó phải “đền bù thiệt hại do lỗi của mình gây ra”. Trường hợp nhẹ hơn thì xử lý theo vi phạm hành chính và nặng hơn (gây chết người, thông đồng, cố ý làm trái) phải xử lý theo Luật Hình sự. Như vậy, Luật Xây dựng trước hết phải tuân thủ Luật Dân sự tránh “hình sự hóa” sai phạm gây chất lượng công trình kém và phải tôn trọng kết quả kiểm định, giám định.
Đề nghị nên có một chương về “Xử lý vi phạm” với các chế tài phạt khi không tuân thủ Luật này gây hậu quả về xã hội, kinh tế, sinh mạng. Trước khi đưa ra bất kỳ mức độ xử phạt nào, đều phải tuân thủ một trình tự điều tra khách quan và minh bạch.
KẾT LUẬN
Nâng cao chất lượng dự án đầu tư xây dựng là mục tiêu chung của toàn xã hội, là mục đích chính trị của đất nước. Chính vì vậy, phải tìm mọi biện pháp quản lý cho chặt chẽ tránh chồng chéo, đầu tư phát triển vào khoa học công nghệ, phương pháp xây dựng tiên tiến nhằm giảm chi phí lao động. Ngoài ra cần tích cực hợp tác đầu tư nâng cao năng lực, thường xuyên trau dồi kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ của cán bộ, công nhân viên. Đề tài này sẽ góp phần định hướng nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng qua đó nâng cao hiệu quả đầu tư. Do năng lực và thời gian nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn./
TÀI LIỆU THAM KHẢO
{1} Giáo trình Quản lý chất lượng công trình xây dựng và bài giảng của thầy Lê Hồng Thái trường Đại học Xây Dựng.
{2} Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 ngày 18/6/2014 của Quốc Hội.
{3} Nghị định 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 của Chính phủ.
{4}Bài viết thu thập qua Internet.
Được đầu tư hàng trăm, thậm chí hàng chục nghìn tỷ đồng nhưng chỉ thời gian ngắn sau khi đưa vào sử dụng, các công trình này đã xuống cấp.
Một tuần sau lễ khánh thành hoàng tráng, công trình tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng với mức đầu tư hơn 410 tỷ đồng đặt tại xã Tam Phú, TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam đã bị hỏng một phần nền gạch trước mặt tượng đài.
Nhiều du khách đến tham quan ngạc nhiên khi thấy nhiều công nhân đang hì hụi bóc những phần gạch vỡ thay bằng những viên gạch mới.
Theo Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng tỉnh Quảng Nam (chủ đầu tư dự án), nguyên nhân khiến nền gạch bị bong tróc là do trong quá trình tổ chức lễ khánh thành, lượng người quá đông và xe chở vật liệu làm sân khấu gây co giãn ở khe nhiệt dẫn đến hư hỏng chứ không phải do chất lượng công trình kém.
Công nhân đang hì hụi sửa lại phần gạch vỡ. Ảnh: Người lao động.
Còn nhớ, vào tháng 6/2004, khi tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ (có tổng kinh phí giai đoạn 1 là 37 tỷ đồng, giai đoạn 2 trên 20 tỷ đồng) vừa được lắp ráp, người dân còn chưa được chiêm ngưỡng trọn vẹn sự tráng lệ của nó thì đoạn kè dài 20m trong khuôn viên tượng đã bị nghiêng ra phía ngoài, có chỗ còn lệch ra so với chân kè.
Và chỉ sau một trận mưa lớn đầu tháng 7/2004, 10m kè bằng đá bị đổ, kéo theo đó là nhiều điểm trên sân nền xung quanh tượng đài và một phần đường dành cho xe lăn của người khuyết tật đi lại bị sụt lún xuống. Không chỉ vậy, bức tượng bằng đồng xuất hiện những vết rỗ, gỉ và hãm màu.
Nguyên nhân phía đơn vị thi công là Công ty Mỹ thuật trung ương đưa ra là do bị ép tiến độ nên làm vội, làm tạm.
Năm 2007, Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng, Bộ Công an đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam 5 đối tượng gồm trưởng, phó ban quản lý dự án, đơn vị thi công, đơn vị đúc đồng... về tội Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng; Tham ô tài sản...
Một trong những công trình bị xuống cấp, hư hỏng không lâu sau khi đưa vào sử dụng là Bảo tàng Hà Nội. Công trình được đầu tư hơn 2.000 tỷ đồng này là dự án quan trọng trong chương trình kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Đưa vào sử dụng từ tháng 10/2010 thì đến giữa năm 2011, giàn lạnh tại kho khu D (tầng 4) bị rò nước, thiết bị của hệ thống báo cháy và chữa cháy bị lỗi, trần thạch cao tại một số phòng bị nứt... Ngoài ra, một số mẫu vật trưng bày tại bảo tàng bị hư hại do nấm mốc.
Bảo tàng Hà Nội. Ảnh: Vnexpress.
Bên cạnh các công trình, bảo tàng, rất nhiều tuyến đường được đầu tư hàng nghìn, chục nghìn tỷ đồng nhưng nhanh chóng xuống cấp sau khi đưa vào sử dụng.
Điển hình như cao tốc Hà Nội - Lào Cai chỉ chưa đầy 1 tháng sau khi thông xe toàn tuyến đã bắt đầu xuất hiện vết nứt dài 73m tại km 83. Cao tốc này có tổng mức đầu tư trên 30.000 tỷ đồng.
Trước khi thông xe vào ngày 18/5/2014, dự án nâng cấp và cải tạo QL 18 đoạn Uông Bí - Hạ Long có tổng mức đầu tư 2.888 tỷ đồng đã xuất hiện nhiều rãnh lún sâu 4-5cm so với mặt đường, vết nứt dài 3 - 5m.
Hố sâu trên cao tốc TP HCM - Trung Lương. Ảnh: Người lao động.
Đại lộ được xem là hiện đại nhất TP HCM - Mai Chí Thọ phải liên tục sửa chữa trong hơn 3 năm đưa vào sử dụng do mặt đường lún, trồi nhựa, có đoạn lên tới 10cm khiến các phương tiện đi lại vô cùng khó khăn.
Được đầu tư gần 10.000 tỷ đồng và đưa vào sử dụng tháng 2/2010 nhưng chỉ thời gian ngắn sau đó, mặt đường cao tốc TP HCM - Trung Lương đã bị sụt lún, nứt thành rãnh dài gần 10km, nhiều hố sâu rộng hơn 30cm, dài hơn 1m xuất hiện gây nguy hiểm cho người đi đường...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_chat_luong_cua_du_an_dau_tu_xay_dung.doc