Bước sang giai đoạn chiến lược mới, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục coi bảo đảm an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nhiệm vụ chủ yếu thường xuyên. Dự thảo Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định: Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài
hoà với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của
nhân dân; phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tạo
cơ hội bình đẳng hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Đồng thời đề ra mục
tiêu đến năm 2020, trong đó GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3000
- 3200 USD; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; thực
hiện bảo hiểm y tế toàn dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2% - 3%/năm; phúc lợi, an
sinh xã hội và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được bảo đảm; thu nhập thực tế của dân cư
gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và
nhóm dân cư.
48 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 9959 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều thành tựu nổi bật, được nhân dân
đồng tình, quốc tế đánh giá cao: số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn khoảng
10% (năm 2010); chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần (năm
1999) xuống còn 2 lần (năm 2008). Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng lên rõ rệt17.
Hệ thống pháp luật về ASXH ngày càng được hoàn thiện hơn, đã trở thành căn cứ
pháp lý quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Hệ thống BHXH được quan tâm phát triển với nội dung và hình thức ngày càng phong
phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người tham gia. BHXH được
triển khai đồng bộ với 3 loại hình là: bảo hiểm bắt buộc (BHXH và BHYT), bảo hiểm tự
nguyện và BHTN. Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ 4,8 triệu (năm
2001) lên 9,4 triệu (năm 2009), chiếm 18% tổng số lao động. Sau gần 3 năm triển khai
BHXH tự nguyện, đến năm 2010 có khoảng 96,6 nghìn người tham gia. Dự kiến đến hết
năm 2010 có khoảng 5,8 triệu người tham gia BHTN. BHYT tế tăng nhanh từ 13,4% dân
số (năm 2000) lên khoảng 62% (năm 2010)18. Đặc biệt, đã thực hiện chính sách BHYT
miễn phí cho trẻ em đến 6 tuổi, một số đối tượng chính sách, người nghèo và hỗ trợ
BHYT cho các hộ cận nghèo.v.v.
Các chính sách ưu đãi đối với người có công không ngừng được hoàn thiện. Mức trợ
cấp ưu đãi năm 2009 tăng 2,1 lần so với năm 2006. Thực hiện chính sách ưu đãi thường
17 Nguyễn Tấn Dũng, Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, Tạp chí Cộng sản, Số 285 (9/2010), tr4
18 Sđd, tr4
26
xuyên cho hơn 1,4 triệu người có công. Đến nay, hơn 90% gia đình người có công có mức
sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn19.
Các chính sách trợ giúp xã hội (cả thường xuyên và đột xuất) được thực hiện rộng hơn
về quy mô, đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng. Kinh phí trợ giúp
thường xuyên từ ngân sách nhà nước và số người được thụ hưởng tăng nhanh, từ 113 tỷ
đồng cho hơn 180 nghìn người (năm 2001) tăng lên 4.500 tỷ đồng cho hơn 1,6 triệu người
(năm 2010). Hàng năm Nhà nước còn trợ cấp đột xuất hàng nghìn tỷ đồng (riêng năm
2009 là 5.000 tỷ đồng) và hàng chục nghìn tấn lương thực, chủ yếu là để trợ giúp khắc
phục thiên tai. Từ đầu năm 2008, Chính phủ đã có nhiều chính sách và giải pháp kịp thời,
thiết thực nhằm hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Các phong trào “tương thân tương ái”, “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”
được tổ chức thường xuyên và được sự hưởng ứng tham gia của nhiều thành phần trong
xã hội, đóng góp đáng kể vào việc nâng cao ASXH cho mọi người, nhất là những người
nghèo, vùng nghèo.
*Hạn chế và thách thức
Việc thực hiện ASXH ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém: giảm nghèo chưa
bền vững, người dân ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, phân hoá giàu
nghèo ngày càng lớn. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hoá và thất
nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực để thực hiện ASXH còn hạn chế, chủ yếu dựa
vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ còn thấp, chưa theo kịp với sự
phát triển của nền KTTT, định hướng XHCN. Các hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng được
nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn thấp, vẫn còn
không ít tiêu cực, phiền hà.
Tất cả những hạn chế này đã đặt hệ thống ASXH của nước ta trước nhiều thách thức
lớn cần phải tiếp tục được nghiên cứu, hoàn chỉnh chính sách để vượt qua, cụ thể là:
Thứ nhất: Trong quá trình đổi mới kinh tế, nhiều vấn đề ASXH bức xúc, mới phát sinh
chưa được giải đáp một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Hệ thống chính sách, luật
19
Nguyễn Tấn Dũng, Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, Tạp chí Cộng sản, Số 285 (9/2010), tr5
27
pháp về ASXH theo mô hình hiện nay không theo kịp với đòi hỏi của nền KTTT định
hướng XHCN và xu hướng hội nhập quốc tế.
Thứ hai: Cùng với sự phát triển thì các nguy cơ, rủi ro kinh tế và xã hội ngày càng có
xu hướng tăng. Là nước đang phát triển lại có đặc điểm địa - tự nhiên, địa – kinh tế đặc
thù nên Việt Nam rất dễ gặp phải rủi ro, ảnh hưởng đến sinh kế và thu nhập. Đây là một
trong những thách thức khách quan buộc các nhà hoạch định chính sách phải tính đến để
có thể xây dựng được hệ thống ASXH phù hợp.
Thứ ba: Hiện tượng già hoá dân số cũng đặt ra nhiều khó khăn cho hệ thống ASXH
hiện hành và trong tương lai. Theo ước tính của Uỷ ban quốc gia Người cao tuổi, tỷ lệ
người cao tuổi ở Việt Nam sẽ là 16% vào năm 2020 và tiếp tục gia tăng những năm sau đó.
Thư tư: Mức hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế giữa các nhóm dân cư còn nhiều bất cập
nhất là với nhóm người nghèo, người dân tộc ít người sống ở vùng sâu, vùng xa. Hệ thống
dịch vụ xã hội chưa hiệu quả. Các chính sách thị trường lao động, chính sách BHXH, trợ
giúp xã hội có phạm vi bao phủ còn thấp. Mức đóng, mức hưởng BHXH còn chưa hợp l ý,
chưa đảm bảo đời sống cho các nhóm đối tượng thụ hưởng. Mức độ bền vững về tài
chính, tính liên kết giữa các chế độ, chính sách ASXH còn nhiều bất cập.
Thứ năm: Các rủi ro kinh tế, xã hội trên toàn cầu ngày càng đa dạng, phức tạp và có
diện ảnh hưởng rộng. Tác động tiêu cực của những cú sốc khó lường trước từ bên ngoài
đến quốc kế dân sinh ngày càng nhanh và mạnh. Trong khi đó chúng ta lại chưa có nhiều
kinh nghiệm phòng, chống rủi ro trong bối cảnh toàn cầu hóa và còn hạn chế về nguồn lực
giành cho các hoạt động phòng chống rủi ro.
Thứ sáu: Các nhóm yếu thế ngày càng trở nên yếu thế và dễ bị tổn thương hơn do
hạn chế về khả năng cạnh tranh, về phòng ngừa rủi ro trên thương trường. Các dòng di
chuyển việc làm, di chuyển lao động từ nông thôn ra đô thị, từ vùng này sang vùng khác,
từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại, v.v… diễn ra với cường độ ngày càng mạnh.
Xu hướng này tạo áp lực trong việc đảm bảo quyền và cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản, quyền thụ hưởng các chính sách an sinh của người dân, nhất là các nhóm đối
tượng dễ bị tổn thương.
Như vậy, các nhóm đối tượng của ASXH sẽ ngày càng đa dạng, đòi hỏi phải có
một hệ thống chính sách ASXH đa tầng, đa lớp, linh hoạt và có khả năng hỗ trợ lẫn nhau
28
kịp thời để đảm bảo cho “…mọi người dân và hộ gia đình đều có quyền có một mức tối
thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội bao gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế, dịch vụ xã hội
thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa
bụa, tuổi già… hoặc các trường hợp bất khả kháng khác” theo tinh thần của Điều 25,
Hiến chương Liên hiệp quốc năm 1948 về quyền con người.
Trong Chiến lược ASXH thời kỳ 2011 - 2020 , Đảng và Nhà nước ta tiếp tục coi bảo
đảm ASXH là một nhiệm vụ chủ yếu thường xuyên với quan điểm “tăng trưởng kinh tế
kết hợp hài hoà với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao không ngừng chất lượng cuộc
sống của nhân dân; phát triển hệ thống ASXH đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả".
Mục tiêu chủ yếu đến năm 2020 trở thành nước có mức sống trung bình cao của thế giới;
thực hiện BHYT toàn dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2% - 3%/năm; phúc lợi, ASXH
và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được bảo đảm; thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng
3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư...
2.2. Hệ thống phúc lợi xã hội ở Việt Nam
2.2.1. Bảo hiểm y tế
2.2.1.1. Sự ra đời và phát triển của chính sách bảo hiểm y tế ở Việt Nam
Bảo hiểm y tế là loại bảo hiểm đặc biệt, mang ý nghĩa nhân đạo, thực hiện chế độ
BHYT sẽ góp phần ổn định và thực hiện công bằng xã hội. Chính vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm và coi trọng đến lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân bởi
quan niệm “lấy dân làm gốc”.
Tháng 12/1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở
ra bước ngoặt trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực y tế,
với chủ trương đổi mới lĩnh vực y tế theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng
làm” nhằm bổ sung nguồn kinh phí và từng bước đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của
dân cư ngày một tăng, ngày 24/4/1989 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số
45/HĐBT cho phép các cơ sở khám chữa bệnh thu một phần viện phí. Ngày 15/6/1989
liên Bộ Y tế-Tài chính đã ban hành Thông tư số 14 hướng dẫn thực hiện Quyết định số
45/HĐBT nêu rõ: “ở những nơi có điều kiện, có thể áp dụng thử chế độ bảo hiểm sức
khỏe hoặc k ý hợp đồng khám chữa bệnh với các tổ chức y tế trong quốc doanh và ngoài
29
quốc doanh, lập các quỹ bảo trợ y tế địa phương hoặc y tế cơ sở giúp đỡ người bệnh
không có khả năng trả một phần viện phí”20.
Ngày 26/10/1990 Hội đồng Bộ trưởng đã ra Thông tri số 3504/KG chỉ đạo Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương, Bộ Y tế tổ chức thí điểm
BHYT. Đến tháng 6/1991, đã có 3 tỉnh, thành phố tổ chức thí điểm BHYT trên diện rộng
là Hải Phòng, Quảng Trị và Vĩnh phú.
Tại phiên họp ngày 15/4/1992, kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến
pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo hiểm y tế được qui định tại điều 39
như sau: "Thực hiện BHYT tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ".
Đây là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng, là tiền đề cho việc triển khai thực hiện chính
sách BHYT ở nước ta21.
Ngày 15/8/1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số
299/HĐBT kèm theo Điều lệ BHYT, khai sinh ra chính sách BHYT ở Việt Nam và được
triển khai rộng khắp trên toàn quốc khi được coi là một nhánh của BHXH tách ra. Điều lệ
BHYT quy định, đối tượng tham gia BHYT bắt buộc là những cán bộ, công nhân viên
chức tại chức và hưu trí ở các đơn vị thuộc khu vực hành chính sự nghiệp, người lao động
khu vực sản xuất kinh doanh còn các đối tượng khác sẽ tham gia BHYT theo khả năng và
nhu cầu. Nội dung của BHYT được cụ thể như sau:
Người tham gia BHYT được hưởng các quyền lợi khám chữa bệnh:
- Khám bệnh, chẩn đoán và điều trị
- Xét nghiệm, chiếu chụp X-quang, thăm dò chức năng
- Thuốc trong danh mục theo quy định của Bộ Y tế
- Máu, các chế phẩm màu và dịch truyền
- Các thủ thuật, phẫu thuật
- Sử dụng vật tư, thiết bị y tế và giường bệnh
Trong trường hợp bệnh vượt quá khả năng chuyên môn của cơ sở khám chữa bệnh,
người có thẻ BHYT được chuyển viện lên tuyến kỹ thuật cao hơn.
20
21
30
Người tham gia BHYT được chọn nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu. Khi bệnh
nặng được chuyển lên tuyến trên điều trị theo tuyến chuyên môn kỹ thuật do Bộ Y tế quy
định. Trong trường hợp cấp cứu được khám chữa bệnh tại bất cứ cơ sở y tế nào của Nhà
nước.
Người tham gia BHYT được khám chữa bệnh theo yêu cầu riêng Tự chọn thầy thuốc,
tự chọn buồng bệnh, tự chọn cơ sở khám chữa bệnh, tự chọn các dịch vụ y tế, khám chữa
bệnh vượt tuyến chuyên môn kỹ thuật theo quy định của Bộ Y tế, khám chữa bệnh tại các
cơ sở khám chữa bệnh không có hợp đồng với cơ quan BHXH (trừ trường hợp cấp cứu)
thì người tham gia BHYT phải thanh toán trước viện phí cho cơ sở khám chữa bệnh, cơ
quan BHXH chỉ thanh toán chi phí khám chữa bệnh theo quy định của Bộ Y tế. Phần
chênh lệch tăng thêm (nếu có) do người có thẻ BHYT tự trả cho cơ sở khám chữa bệnh.
Ngày 24/01/2002, Chính phủ có Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg chuyển Bảo hiểm y
tế thuộc Bộ Y tế sang Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Chính phủ thực hiện chuyển Bảo hiểm
y tế sang Bảo hiểm xã hội vì: 1- Thực hiện cải cách hành chính: Tách sự nghiệp ra khỏi
quản lý Nhà nước (BHYT là trọng tài giữa bệnh nhân và cơ sở khám chữa bệnh). 2-
BHXH, BHYT cùng chung bản chất, mục đích. 3- BHXH, BHYT cùng nhiệm vụ thu, chi
(đặc thù giám định).
Qua triển khai thực hiện, hệ thống chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân
từng bước được hoàn thiện, thể hiện ở các Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998
và Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 hướng đến mục tiêu công bằng và nhân
đạo trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trên cơ sở đóng góp của cộng
đồng, chia sẻ nguy cơ bệnh tật, giảm bớt gánh nặng tài chính của mỗi người dân. Đặc
biệt, Luật bảo hiểm y tế có hiệu lực từ ngày 1/7/2009 đã hướng đến mục tiêu BHYT toàn
dân vào năm 2014. Đây là một cam kết mạnh mẽ của Chính phủ và Nhà nước ta trong
việc hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần mức đóng bảo hiểm y tế đối với người nghèo, cận
nghèo, người dân tộc thiểu số, hộ gia đình làm nghề nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức
sống trung bình trở xuống, đối tượng hưởng chính sách ưu đãi xã hội và trợ giúp xã hội.
2.2.1.2. Những kết quả đạt được
Công tác triển khai thực hiện các chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân,
đặc biệt là chính sách BHYT đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Năm 2001 mới
31
có 16 triệu người tham gia bảo hiểm y tế (trong đó 12 người tham gia BHYT bắt buộc và
khoảng 4 triệu người tham gia BHYT tự nguyện), chiếm khoảng 20% dân số cả nước thì
đến năm 2009 đã có 53,3 triệu người tham gia BHYT, chiếm trên 60% dân số cả nước.
Đặc biệt, Nhà nước đã thực hiện chương trình cấp thẻ BHYT miễn phí cho người
nghèo, người dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn, trẻ em dưới 6 tuổi và nhiều
nhóm đối tượng dễ bị tổn thương khác; hỗ trợ một phần đáng kể phí đóng bảo hiểm y tế
(50% phí đóng bảo hiểm y tế ở mức tối thiểu) cho người cận nghèo, học sinh sinh viên…
Song song với các chương trình hỗ trợ phí tham gia BHYT, các chương trình tuyên
truyền, truyền thông về lợi ích của BHYT đối với bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng
đồng cũng được triển khai trên các phương tiện truyền thông, xuống từng địa phương, vào
từng trường học. Kết quả là đã có 13,2 triệu người nghèo, gần 9,6 triệu học sinh, sinh viên
tham gia BHYT22.
Nguồn thu từ BHYT tăng nhanh do mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế và có
sự điều chỉnh tăng lương của Nhà nước. Số thu bảo hiểm y tế năm 2001 là 1.151 tỷ đồng
và năm 2009 ước tăng lên 13.610 tỷ đồng23.
Năm 2010, cả nước đã có 13.433 cơ sở y tế công lập với gần 200 nghìn giường bệnh;
74 bệnh viện tư nhân với 5.600 giường bệnh. Từ Trung ương đến các tỉnh, huyện đều có
các cơ sở y tế làm công tác dự phòng. Hệ thống y tế trải rộng trên cả nước, người dân
được chăm sóc sức khỏe ngay từ đầu. Đội ngũ cán bộ, công chức từ chưa đầy 2.000 người
từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đến nay ngành Y tế đã có 30 vạn người, với đủ các
loại hình chuyên môn đạt chất lượng cao. Mạng lưới khám chữa bệnh từ Trung ương đến
địa phương đang từng bước được củng cố.
Người dân có BHYT nên giảm được một phần chi phí khám chữa bệnh tại các cơ sở y
tế khi bị ốm đau; hệ thống cơ sở khám chữa bệnh được mở rộng; đội ngũ cán bộ y tế được
mở rộng về qui mô, nâng cao về chất lượng; các tiến bộ khoa học kỹ thuật của y học thế
giới nhanh chóng được đưa vào áp dụng… đã hỗ trợ tích cực vào công tác chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe người dân, nhất là trẻ em, người già và các nhóm đối tượng dễ bị tổn
22
ThS Lưu Quang Tuấn, bài viết “ Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế là một biện pháp góp phần đảm bảo an sinh xã
hội”, trang wedsite
23 nt
32
thương khác như người nghèo, người dân tộc thiểu số. Có thể kết luận rằng cùng với mức
sống của người dân được cải thiện, kiến thức về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của người
dân được nâng cao, cở sở hạ tầng và phương tiện giao thông được nâng cấp thì hệ thống
bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trong đó có bảo hiểm y tế đã góp phần quan trọng
vào giảm mức chết, gia tăng tuổi thọ của người dân nước ta. Năm 1999 tỷ suất chết trẻ trẻ
sơ sinh là 36.7%o đã giảm xuống còn 16%o vào năm 2009. Tuổi thọ bình quân của người
dân nước ta được cải thiện đáng kể, năm 2009 đạt 72,8 tuổi, tăng gần 5 tuổi so với 10 năm
trước đó.
2.2.1.3. Những tồn tại
Tuy góp phần quan trọng vào thành tựu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân nhưng
chính sách BHYT hiện nay của nước ta vẫn còn một số bất cập và đang gặp nhiều thách
thức do thay đổi cơ cấu dân số và diễn biến phức tạp của các loại bệnh mới, dịch mới phát
sinh trong bối cảnh toàn cầu hóa và công nghiệp hóa.
Dấu hiệu già hóa dân số bắt đầu xuất hiện. Một thập kỷ trước đây, số người già trên 60
tuổi chỉ chiếm chưa đến 7% dân số thì này đã chiến khoảng 10% dân số và tỷ lệ này được
dự báo sẽ gia tăng nhanh trong những thập kỷ tới là một áp lực về công tác chăm sóc sức
khỏe cho người dân nói chung và người cao tuổi nói riêng của hệ thống y tế Việt Nam.
Các dạng bệnh đòi hỏi chi phí y tế cao như suy thận, tim, v.v… có xu hướng gia tăng
làm tăng các khoản chi cho BHYT của cơ quan bảo hiểm là một trong những nguyên
nhân dẫn đến sự mất cân đối của quỹ bảo hiểm y tế.
Nhận thức của người dân về lợi ích tham gia bảo hiểm y tế chưa cao trong khi công
tác quản l ý đối tượng tham gia BHYT vẫn còn lỏng lẻo. Tình trạng người dân chỉ mua
BHYT khi đã biết mắc bệnh vẫn còn nhiều là nguyên nhân khác kìm hãm khả năng tăng
trưởng của quỹ BHYT và nó triệt tiêu tính chia sẻ rủi ro về chi phí y tế giữa người bị ốm
đau và người không bị ốm đau. Hậu quả là quỹ BHYT khó bền vững.
Hiện vẫn còn 40% dân số chưa tham gia bảo hiểm y tế và chúng ta vẫn chưa có giải
pháp cụ thể để thu hút được nhóm dân cư này tham gia nhằm hướng đến mục tiêu bảo
hiểm y tế toàn dân từ năm 2014 như Luật Bảo hiểm y tế đã đề ra.
33
Thực tế chi tiêu từ quỹ khám chữa bệnh trong thời gian qua cho thấy mức chi tăng rất
nhanh. Năm 2005, quỹ bảo hiểm y tế bội chi là 136,7 tỷ đồng; năm 2007 bội chi 1.600 tỷ
đồng và năm 2009 bội chi dự tính là 1.838 tỷ đồng.
Chất lượng chăm sóc y tế còn thấp, nhất là ở dưới tuyến cơ sở, ở các vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa. Chi phí cho y tế của hộ nghèo, các nhóm dễ bị tổn thương vượt quá
khả năng tài chính của hộ. Y tế cộng đồng bao gồm các biện pháp thúc đẩy lối sống lành
mạnh, bảo vệ môi trường trong sạch, phát triển y tế dự phòng, chăm sóc sức khỏe ban
đầu, v.v… chưa đáp ứng yêu cầu về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho mọi người dân.
Việc tăng cường tiếp cận của người nghèo đến bảo hiểm y tế kể cả khi có thẻ bảo hiểm
y tế còn nhiều thách thức. Theo kết quả báo cáo của UNDP “Phân tích chung về Việt
Nam” thì các vấn đề người nghèo đang phải đối mặt, bao gồm: Chủ trương xã hội hóa các
dịch vụ y tế chỉ giới hạn trong huy động nguồn lực tài chính để trang trải dịch vụ y tế;
người dân phải bỏ tiền túi nhiều (so với thu nhập) cho các dịch vụ y tế; chi tiêu công cho
y tế còn thấp, năm 2008 chỉ chiếm 13% trong tổng chi y tế; nhiều người nghèo không sử
dụng thẻ bảo hiểm y tế khi đi khám chữa bệnh thông thường do các dịch vụ không sẵn có
hoặc khó tiếp cận; chất lượng không cao, chi phí được thanh toán còn thấp.
2.2.2. Hình thành các quan hệ lao động24
2.2.2.1. Các chủ thể trong quan hệ lao động
Trong phạm vi doanh nghiệp, quan hệ lao động là mối quan hệ giữa người lao động,
đại diện của người lao động (công đoàn cơ sở) và người sử dụng lao động trong việc thực
hiện các qui định của pháp luật lao động và các cam kết của doanh nghiệp về hợp đồng
lao động, thoả ước lao động tập thể, tiền lương, bảo hiểm xã hội, thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi, an toàn vệ sinh lao động và các điều kiện khác nhằm bảo đảm quyền và lợi
ích của các bên.
24 Phạm Minh Huân; Bài viết “Quan hệ lao động ở Việt Nam- Những vấn đề đặt ra và định hướng hoàn thiện”,
website ngày
truy cập: 18/05/2011.
34
Trong phạm vi quốc gia (hoặc địa phương) quan hệ lao động là mối quan hệ giữa Nhà
nước, đại diện người lao động và đại diện người sử dụng lao động trong việc hoạch định
và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật lao động, hỗ trợ thúc đẩy hai bên tại doanh
nghiệp xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ.
Ở cấp quốc gia, các chủ thể trong quan hệ lao động gồm:
- Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan Chính phủ): Nhà nước có vai trò hết
sức quan trọng trong việc xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật lao động, tổ chức
triển khai và giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực thi pháp luật; tổ chức các thiết chế để
bảo đảm và hỗ trợ quan hệ lao động, điều hoà lợi ích của các bên trong quan hệ lao động;
- Đại diện người lao động (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam): Tham gia cùng Nhà
nước xây dựng chính sách pháp luật liên quan đến quyền và lợi ích người lao động; hỗ trợ
công đoàn ngành, công đoàn doanh nghiệp thúc đẩy phát triển quan hệ hai bên;
- Đại diện người sử dụng lao động (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam,
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam) tham gia cùng Nhà nước xây dựng chính sách pháp luật
liên quan đến quyền và lợi ích của người sử dụng lao động (chủ doanh nghiệp); hỗ trợ
Hiệp hội doanh nghiệp, người sử dụng lao động trong việc thực thi pháp luật và thúc đẩy
xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định.
Ở cấp địa phương, chủ thể quan hệ lao động là UBND tỉnh, thành phố, Liên đoàn Lao
động và Chi nhánh Phòng Thương mại và Công nghiệp, Liên minh Hợp tác xã trong việc
thực hiện các qui định của pháp luật lao động, hỗ trợ các bên xây dựng quan hệ trong
phạm vi khu công nghiệp, doanh nghiệp.
Ở cấp ngành và doanh nghiệp, chủ thể trong quan hệ lao động gồm: Đại diện người
lao động (công đoàn ngành và công đoàn cơ sở); Đại diện người sử dụng lao động của
ngành và người sử dụng lao động tại doanh nghiệp. Hai chủ thể này thông qua cơ chế đối
thoại, thương lượng và ký kết thoả ước lao động tập thể để thực hiện quyền, nghĩa vụ và
lợi ích của các bên, nhằm bảo đảm quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ.
2.2.2.2. Vai trò của Nhà nước trong quan hệ lao động
Trong quan hệ lao động, Nhà nước có vai trò kép, vừa định ra pháp luật lao động,
hướng dẫn thực hiện pháp luật lao động, vừa là một chủ thể trong quan hệ 3 bên, đại diện
cho lợi ích quốc gia và toàn thể cộng đồng. Nhà nước tham gia vào quan hệ lao động từ
35
trung ương đến địa phương, thông qua hệ thống hành chính Nhà nước của mình (Chính
phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương). Thông thường, các nước đặt
chức năng quản lý Nhà nước về quan hệ lao động thuộc Bộ Lao động. Trong Bộ Lao
động thành lập Vụ hay Cục quan hệ lao động, đồng thời có các Vụ chức năng có liên quan
đến các nội dung chủ yếu của quan hệ lao động (như việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã
hội, an toàn vệ sinh lao động, tiêu chuẩn lao động, Thanh tra lao động, Trọng tài lao động,
Toà Lao động, …) Chính phủ có những vai trò chủ yếu sau:
- Hướng dẫn thi hành pháp luật lao động và quan hệ lao động, cụ thể: Ban hành các văn
bản hướng dẫn thi hành pháp luật lao động và các văn bản pháp luật khác liên quan đến
lao động và quan hệ lao động như: Luật Công đoàn; các luật khác có liên quan (Bộ luật
Dân sự, Luật Tố tụng Dân sự để giải quyết các vụ án tranh chấp lao động; Luật Doanh
nghiệp, Luật Hợp tác xã…); Tổ chức triển khai thực hiện các công ước của Tổ chức Lao
động Quốc tế; Quyết định các chính sách liên quan đến lao động và quan hệ lao động, như
chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn vệ sinh lao động, cơ chế phối hợp 3 bên
trong quan hệ lao động.
- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động, luật về quan hệ lao động, các luật khác có
liên quan đến các đối tượng thuộc quan hệ lao động nhằm nâng cao nhận thức và ý thức
chấp hành pháp luật.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật lao động và quan hệ lao động.
2.2.2.3. Quan hệ lao động ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra
Quan hệ lao động mới được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam, so với các nước phát triển thì đây chỉ là thời kỳ đầu của quan hệ lao
động.
Bộ luật Lao động được ban hành và có hiệu lực thi hành từ 01/01/1995 đã đặt nền tảng
pháp lý cho việc hình thành và phát triển quan hệ lao động ở Việt Nam. Sau 15 năm thực
hiện, quan hệ lao động ở Việt Nam đã có những bước tiến nhất định từ việc nhận thức đến
tổ chức thực hiện phù hợp với sự hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường và thị
trường lao động. Các chủ thể được hình thành, các thiết chế bảo đảm, hỗ trợ quan hệ lao
động được ban hành và bước đầu hoạt động có hiệu quả. Việc ban hành Nghị định số
145/2004/NĐ-CP ngày 14/7/2006 của Chính phủ, trong đó quy định về cơ chế tham vấn
36
các bên và Uỷ ban Quan hệ lao động, Trung tâm Hỗ trợ Phát triển quan hệ lao động được
thành lập, quan hệ của các bên được bảo đảm thông qua đối thoại, thương lượng tăng dần.
Tổ chức đại diện cho người lao động, người sử dụng lao động ngày càng có vai to lớn và
quan trọng trong việc tham gia cùng Nhà nước hoạch định các chính sách, pháp luật lao
động cũng như tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Công tác quản lý nhà nước về lao động
được chú trọng, nhất là khâu tuyên truyền, kiểm tra, thanh tra việc thực thi chính
sách,pháp luật lao động: Hệ thống trọng tài lao động, Toà án Lao động từng bước được
củng cố để thực hiện thiết chế xét xử khi tranh chấp lao động xảy ra. Tuy nhiên, nhìn về
tổng thể quan hệ lao động ở nước ta mới ở giai đoạn đầu phát triển, còn nhiều bất cập,
trong điều kiện nền kinh tế tiếp tục hội nhập sâu, rộng hơn với khu vực và toàn cầu, số
doanh nghiệp tăng, số lao động tham gia thị trường lao động tăng thì cũng là những thách
thức không nhỏ trong giai đoạn tới. Các vấn đề về quan hệ lao động đặt ra tại thời điểm
này là:
1. Pháp luật về quan hệ lao động chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ
Pháp luật lao động có nhiều điểm không còn phù hợp với thực tế phát triển. Tham vấn
là hoạt động rất cần thiết trong quan hệ lao động, là bước thứ hai trong đối thoại (thông
tin - tham vấn và thương lượng). Theo qui định của pháp luật hiện hành, tham vấn là hoạt
động mang tính chất tự nguyện và kết quả của nó không có tính ràng buộc nên các bên
dễ tham gia, dễ thực hiện hơn so với thương lượng. Nhưng ở nước ta, nhiều năm qua cho
thấy, cơ chế tham vấn chưa trở thành phổ biến trong quan hệ lao động, chủ yếu diễn ra
khi áp lực tranh chấp lao động có bùng phát. Thiết chế hỗ trợ cho hai bên trong quan hệ
lao động để tăng cường năng lực đối thoại, thương lượng chưa phát huy kết quả, cho nên
ở một số nơi, trong một số trường hợp Nhà nước phải đứng ra tổ chức, thu xếp và cùng
hai bên đối thoại, thương lượng, giúp cho quá trình này mang lại kết quả thực sự và hiểu
biết lẫn nhau. Tuy nhiên, quan hệ lao động ở nước ta đang ở giai đoạn đầu phát triển, nên
các bên chưa nhận thức về tầm quan trọng của thiết chế này chưa cao cũng là điều dễ
hiểu. Mặt khác, trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án về lao động còn nhiều phức tạp; Cơ
chế 3 bên chưa được pháp luật qui định cụ thể. Khuôn khổ pháp lý cho các tổ chức đại
diện hình thành và hoạt động còn bất cập như: Căn cứ pháp lý cho tổ chức đại diện người
sử dụng lao động chưa đủ; Luật Công đoàn ban hành đã lâu, không còn phù hợp với thực
37
tế.
2. Công tác quản lý Nhà nước về quan hệ lao động còn bất cập
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động còn nhiều hạn chế; thanh tra, kiểm tra
và giám sát thực thi pháp luật quan hệ lao động chưa đáp ứng được yêu cầu; Quản lý Nhà
nước về quan hệ lao động chưa tập trung vào một đầu mối; Các thiết chế hỗ trợ hiện tại
chưa phát huy được hiệu quả (hoà giải, trọng tài, xét xử); Cơ chế tham vấn chưa đủ mạnh
và chưa ngang tầm với sự phát triển (cơ chế 3 bên). Công tác thanh tra, kiểm tra các vấn
đề có liên quan đến quan hệ lao động còn nhiều hạn chế.
3. Tổ chức đại diện cho người lao động (công đoàn)
Tổ chức này được thành lập từ trung ương đến cấp tỉnh - ngành, cấp quận - huyện và
cấp cơ sở. Tổ chức công đoàn cơ sở ở doanh nghiệp Nhà nước tương đối mạnh cả về số
lượng và chất lượng hoạt động (99% doanh nghiệp có tổ chức công đoàn và hầu hết đều
hoạt động có hiệu quả). Tuy nhiên, công tác phát triển công đoàn cơ sở và đoàn viên ở
khu vực ngoài Nhà nước còn hạn chế,chỉ có khoảng 40% doanh nghiệp dân doanh và
doanh nghiệp FDI có tổ chức công đoàn và ở nhiều nơi hiệu quả hoạt động chưa cao,
chưa thực hiện đúng vai trò là tổ chức đại diện bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp
pháp của người lao động. Năng lực, trình độ của đội ngũ làm công tác công đoàn ở doanh
nghiệp nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu điều kiện và cơ chế hoạt động, bảo vệ
cán bộ công đoàn.
4. Tổ chức đại diện của người sử dụng lao động
Tổ chức đại diện của người sử dụng lao động mới được thành lập ở cấp trung ương
gồm: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Liên minh Hợp tác xã
Việt Nam. Ở cấp tỉnh đều có Liên minh Hợp tác xã, nhưng vẫn còn nhiều tỉnh, thành phố
chưa có Chi nhánh Phòng Thương mại và Công nghiệp cấp tỉnh. Hiệp hội các doanh
nghiệp chưa hoàn toàn gắn kết với VCCI, hoạt động mang tính chất xúc tiến thương mại
và đầu tư là chủ yếu, chưa thực hiện vai trò đại diện người sử dụng lao động trong đối
thoại, thương lượng với đại diện người lao động để tham vấn, ký kết thoả ước lao động
tập thể, hoà giải, giải quyết tranh chấp lao động và đình công và chưa có đầu mối để tập
trung hoạt động của các hiệp hội trong hỗ trợ phát triển quan hệ lao động. Các hiệp hội
hoạt động chưa thường xuyên, thiếu kinh phí, thiếu nhân sự, thiếu chuyên gia tư vấn hiểu
38
biết sâu về quan hệ lao động. Chưa có khuôn khổ pháp lý cho tổ chức đại diện người sử
dụng lao động hoạt động có hiệu quả.
2.2.3. Phúc lợi xã hội đối với người cao tuổi25
Phúc lợi cho nhóm yếu thế có vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, giúp cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân. Trong phạm vi bài
viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến vấn đề phúc lợi xã hội đối với người cao tuổi.
Người cao tuổi là một trong những đối tượng thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương
nhất trong xã hội. Theo báo cáo của Bộ Lao động - thương binh - và xã hội năm 2006, có
tới 130 ngàn người cao tuổi thuộc diện cô đơn không nơi nương tựa, 134 ngàn người từ
90 tuổi không có lương hưu và các khoản trợ cấp xã hội khác. Trong số người cao tuổi
còn có sức khỏe có gần 30% tham gia các công việc khác nhau để kiếm sống; 10% làm
việc nhà để con cháu đi làm, đặc biệt đối với vùng nông thôn tỷ lệ làm việc gia đình cao
gấp 4,5 lần so với tỷ lệ người ở đô thị
Việt nam đã có pháp lệnh về người cao tuổi từ năm 2000 và tháng 11/2009 vừa thông
qua Luật về người cao tuổi. Các văn bản pháp luật này quy định những nội dung vị trí của
người cao tuổi trong xã hội và trách nhiệm của gia đình, nhà nước và xã hội trong đảm
bảo chăm sóc và phụng dưỡng người cao tuổi. Chương trình hành động quốc gia về người
cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2005- 2010 được chính phủ ban hành năm 2005 với mục tiêu
chung, 3 nhóm mục tiêu cụ thể và 6 chỉ tiêu cần đạt được đến năm 2010 đã căn cứ vào
nhu cầu phát triển người cao tuổi Việt Nam và theo định hướng của chương trình hành
động quốc tế Madrid về người cao tuổi năm 2002.
Hiện nay có 4 nhóm người cao tuổi được hỗ trợ theo chính sách của chính phủ: đó là
những người trước đây đã từng làm việc cho nhà nước hoặc đã từng phục vụ trong quân
đội, cha mẹ liệt sỹ hoặc gia đình có công với cách mạng và người cao tuổi cô đơn không
nơi nương tựa. Từ năm 2007 thì người cao tuổi từ 85 tuổi trở lên (đến tháng 7 năm 2011
là từ 80 tuổi trở lên) vốn không được nhận các khoản trợ cấp kể trên sẽ được nhận các
25 Bế Quỳnh Nga; Bài viết“ Người cao tuổi Việt Nam: phúc lợi xã hội và các mô hình chăm sóc sức khỏe”; Tạp chí
XHH số 2(110); 2010.
39
loại trợ cấp xã hội. Người được nhận lương hưu tập trung chủ yếu tại các vùng đô thị và
chỉ có rất ít người ở nông thôn có lương hưu. Hiện cả nước có khoảng 1,4 triệu người
đang hưởng chế độ hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chiếm
19% tổng số người cao tuổi. Như vậy ước tính có khoảng trên 2 triệu người cao tuổi được
hưởng ít nhất một chế độ trợ cấp hoặc lương hưu. Nhóm người cao tuổi được hưởng chế
độ BHXH hoặc trợ cấp đặc biệt có cuộc sống tương đối ổn định.
Từ Nghị định số 07/2000- ND/CP đến Nghị định số 67/2007- NĐ/CP về các đối tượng
bảo trợ xã hội, các nhóm đối tượng thụ hưởng chính sách ngày càng được mở rộng và
mức hưởng được gia tăng phù hợp với mức độ phát triển của nền kinh tế đất nước.
Chính sách của Việt Nam đối với người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn ngày càng
được bổ sung, hoàn thiện và đầy đủ hơn. Năm 2007, Chính phủ đã ban hành nghị định số
67/2007/NĐ-CP về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội; Nghị định này nhằm
vào các đối tượng người cao tuổi như sau:
1- Người cao tuổi cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo; người cao tuổi còn vợ hoặc chồng
nhưng già yếu, không có con cháu, người thân thích để nương tựa, thuộc hộ gia đình
nghèo.
2- Người từ 85 tuổi trở lên (trước đây là 90 tuổi trở lên) không có lương hưu hoặc trợ
cấp bảo hiểm xã hội.
3- Người cao tuổi tàn tật nặng không có khả năng tự phục vụ, thuộc hộ gia đình
nghèo.
4- Người cao tuổi mắc bệnh tâm thần mãn tính, sống độc thân không nơi nương tựa
hoặc gia đình thuộc diện hộ nghèo.
5- Người cao tuổi nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động thuộc hộ gia đình
nghèo.
Các chính sách ngày càng hạ thấp độ tuổi người cao tuổi được hưởng chính sách, từ
90 tuổi trở lên vào năm 2000 xuống 85 tuổi trở lên từ năm 2007 và từ tháng 7 năm 2010
sẽ là từ 80 tuổi trở lên. Một số địa phương có điều kiện đã nâng mức trợ cấp so với quy
định của trung ương và hạ độ tuổi người cao tuổi được hưởng chính sách như thành phố
Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Bắc Ninh. Mức trợ cấp dành cho
người cao tuổi trong năm 2007 cũng tăng gần lên gấp 2 lần so với trước (mức chuẩn
40
120000đ/tháng. Người cao tuổi tàn tật nặng hưởng 180 000đ/ tháng. Nếu người cao tuổi
bị HIV/AIDS mức hưởng là 240 000đ/tháng. Nếu những đối tượng trên quá đặc biệt khó
khăn thì được xem xét tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội hoặc nhà xã hội tại cộng đồng,
người cao tuổi được hưởng mức trợ cấp xã hội nêu trên đều được cấp thẻ bảo hiểm y tế
miễn phí hoặc được khám chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở y tế.
Hệ thống y tế và vấn đề chữa bệnh của người cao tuổi
Liên quan tới việc chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi, nhà nước ban hành nhiều
văn bản chính sách, đặc biệt trong đó phải kể tới là luật khám chữa bệnh năm 2009 và
thông tư số 02/2004/TT-BYT hướng dẫn thực hiện chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
trong tình hình mới.
Hiện nay, hệ thống CSSK người cao tuổi đang dần được hoàn thiện. Tuyến trung ương
có viện lão khoa trung ương là tuyến chuyên sâu về điều trị các bệnh lão khoa và thực
hiện chỉ đạo về chuyên môn kỹ thuật trong chăm sóc SK người cao tuổi trên phạm vi toàn
quốc cũng như nghiên cứu về các vấn đề bệnh tật của người cao tuổi. Một số bệnh viện
tuyến của 47 tỉnh đã thành lập khoa lão khoa phục vụ riêng người cao tuổi hoặc có một số
giường điều trị người cao tuổi khi chưa có điều kiện thành lập khoa lão khoa. Một số tỉnh
đã xây dựng được viện điều dưỡng phục hồi chức năng, trong đó có phục vụ người cao
tuổi…
Các mô hình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
Các loại hình chăm sóc người cao tuổi theo luật người cao tuổi được quốc hội thông
qua ngày 23/11/2009, bao gồm:
- Cơ sở bảo trợ xã hội
- Cơ sở tư vấn, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi.
- Cơ sở điều dưỡng người cao tuổi.
Hiện nay ở Việt Nam có cơ sở chăm sóc người cao tuổi đang hoạt động như sau: mô
hình trung tâm bảo trợ xã hội, mô hình cơ sở chăm sóc và nuôi dưỡng người cao tuổi, mô
hình trung tâm tư vấn và CSSK người cao tuổi, mô hình CSSK dựa vào cộng đồng.
Ủy ban quốc gia về người cao tuổi Việt Nam đang thực hiện 2 mô hình thí điểm: 1-
mô hình chăm sóc người cao tuổi dựa vào tình nguyện viên ở cộng đồng. 2- mô hình
CSSK người cao tuổi dựa vào thầy thuốc và tình nguyện viên tại cộng đồng. Mục tiêu của
41
các mô hình này nhằm trợ giúp trực tiếp những người cao tuổi ở cộng đồng. Hoạt động
của mô hình biên soạn tài liệu, đào tạo tình nguyện viên, hướng dẫn họ xây dựng kế
hoạch hoạt động dựa trên nhu cầu của người cao tuổi ở địa bàn của mình và hỗ trợ kinh
phí cho hoạt động hàng tháng của họ.
III. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI VÀ
PHÚC LỢI XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
Trong những năm gần, vấn đề An sinh xã hội và phúc lợi xã hội ở nước ta ngày càng
được quan tâm. Nhiều chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đã được ban hành như:
Các văn bản pháp luật về Chính sách hỗ trợ đối với người nghèo và bảo trợ, cứu trợ xã
hội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2001.
Những qui định pháp luật về Chế độ BHXH hiện hành, NXB Lao động, Hà Nội -
2002.
Pháp lệnh người cao tuổi, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2000.
Tìm hiểu 1 số chính sách mới hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính
sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân: áp dụng năm 2008.
Trong lĩnh vực nghiên cứu chung và nghiên cứu dưới góc độ xã hội học nói riêng, có
nhiều tác giả cũng đã đề cập về ASXH và PLXH, cụ thể như sau:
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chiểu với đề tài “An sinh xã hội và định hướng nghiên
cứu nhằm nâng cao vai trò của khoa học xã hội vào quá trình hoạch định chính sách an
sinh xã hội ở Việt Nam”; Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội (2010)
đã chỉ ra vai trò của ASXH đối với đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam, những thành tựu
đạt được về ASXH và những bất cập còn tồn tại, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm
giải quyết những hạn chế của ASXH và phát triển hệ thống ASXH. Đặc biệt, nghiên cứu
chỉ ra vai trò của khoa học xã hội vào việc thực hiện quá trình hoạch định chính sách
ASXH ở nước ta.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Định về “An sinh xã hội”(2008) . Nghiên cứu đã khái
quát chung nhất hệ thống ASXH trên thế giới và ở Việt Nam, đồng thời tác giả cũng đã
đưa ra nội dung cụ thể các chính sách của hệ thống ASXH. Nghiên cứu đã trở thành nội
dung ASXH cơ bản được đưa vào giảng dạy trong một số trường đại học.
42
Nghiên cứu của Bế Quỳnh Nga; bài viết“ Người cao tuổi Việt Nam: phúc lợi xã hội và
các mô hình chăm sóc sức khỏe”; Tạp chí XHH số 2(110); 2010. Nội dung của nghiên
cứu nói về phúc lợi xã hội với nhóm người cao tuổi được thể hiện qua những chính sách
về người cao tuổi của Đảng và Nhà nước; y tế và vấn đề khám chữa bệnh cho người già;
những mô hình chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi.
Ngoài ra, còn có rất nhiều các công trình thuộc cấp Viện, Bộ nghiên cứu về ASXH và
PLXH như:
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học: “Chính sách xã hội và quản lý xã hội ở cấp
cơ sở nông thôn và đô thị”, đề tài cấp Viện, 1983-1985.
Phòng phúc lợi xã hội- viện Xã hội học: “Chính sách xã hội ở Việt Nam và các nước
xã hội chủ nghĩa”, đề tài cấp Viện, 1987-1989.
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học: “Người cao tuổi và hệ thống an sinh xã hội ở
miền Bắc Việt Nam”, đề tài cấp Viện, 1991.
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học: “Trẻ khuyết tật và các thể chế trợ giúp trong
bối cảnh kinh tế chuyển đổi”, đề tài cấp Viện, 1999.
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học :“Hệ thống Phúc lợi xã hội và tình hình phúc
lợi xã hội năm 2000”, đề tài cấp Viện, 2000.
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học: “Thực trạng người cao tuổi nghèo ở Việt
Nam” (Đánh giá nhanh có sự tham gia của cộng đồng), Help Age tài trợ, 2001.
Nguyễn Tiến Hùng, Các chế độ BHXH – các vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam
(Chuyên đề NCS), TP. HCM – 2001.
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học : “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phúc lợi xã hội”,
đề tài cấp Viện xã hội học, 2001.
Bùi Thế Cường: “Phúc lợi xã hội châu Á - Thái Bình Dương: phúc lợi doanh nghiệp.
NXB KHXH, 2002.
Bùi Thế Cường : “Chính sách xã hội và công tác xã hội ở Việt Nam thập niên 90: Tài
liệu tham khảo cho môn học phúc lợi xã hội, chương trình đào tạo cử nahan và cao học xã
hội học”. NXB KHXH, 2002.
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học: “HIV/AIDS tại nơi làm việc: Một đánh giá
nhu cầu về chính sách và can thiệp”, Quỹ Ford tài trợ, 2003.
43
Phòng phúc lợi xã hội - viện Xã hội học : “Phúc lợi xã hội ở Việt Nam: hiện trạng, vấn
đề và điều chỉnh”, đề tài cấp Bộ của; 2003.
Phòng phúc lợi xã hội – viện Xã hội học: “Nhận thức và thái độ của đồng bào Chăm
đối với một số chính sách của Nhà nước trong việc phát triển kinh tế xã hội tại địa
phương”. (nghiên cứu trường hợp hai tỉnh Ninh Thuận và bình Thuận), đề tài cấp Bộ.
2004 - 2006.
Lê Thị Hoài Thu: “Một số vấn đề lý luận về an sinh xã hội”. 2004.
TS. Tạ Đức Khánh: “An sinh xã hội đối với lao động khu vực phi kết cấu ở Việt
Nam”. Năm 2005.
Ngô Quang Minh : “An sinh xã hội đối với nền kinh tế nước ta”; 2007.
Mai Ngọc Anh: “An sinh xã hội đối với nông dân trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam: sách chuyên khảo”. NXB chính trị quốc gia Hà Nội, 2010.
Bên cạnh đó còn có những bài viết đề cập đến ASXH và PLXH trên các tạp chí, sách
báo, các website như:
Bài viết:“Chính sách An sinh xã hội” (21/04/2011) trên báo của sở Lao động - thương
binh xã hội, tỉnh An Giang đề cập tới: Thực hiện chính sách an sinh xã hội đúng đắn,
hướng vào phát triển con người, vì hạnh phúc của nhân dân là động lực to lớn phát huy
mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Thực hiện tốt
chính sách an sinh xã hội đối với nông dân, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội sẽ góp
phần tăng trưởng và phát triển bền vững.
Bài viết “Người nghèo Việt Nam hưởng An sinh xã hội thấp nhất” (2007) (nguồn:
đề
cập vấn đề người nghèo vẫn chưa được hưởng lợi nhiều từ hệ thống an sinh xã hội. Tuy
nhiên, không thể xây dựng hệ thống an sinh xã hội chỉ cho người nghèo. Phải xây dựng
một hệ thống toàn diện, bao trùm.
Bài viết của Trần Kinh Tế: “Xã hội hóa tín dụng xóa đói, giảm nghèo - một hoạt động
hiệu quả của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam” (2009). Tác giả đề cập tới Ngân
hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một trong những kênh quan trọng huy
động các nguồn vốn tín dụng ưu đãi để cho vay xóa đói, giảm nghèo trong các cộng đồng
dân cư có hiệu quả, thực hiện tốt chủ trương mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban
44
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã đề ra là “…phải hỗ trợ giúp người nghèo bằng
cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn, tranh thủ các nguồn vốn tài trợ nhân đạo trong
và ngoài nước, phấn đấu tăng hộ giàu đi đôi với xóa đói, giảm nghèo”.
Bài viết của Nguyễn Tấn Dũng, “Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc
lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
2020”, Tạp chí Cộng sản, Số 285 (9/2010), giới thiệu những nội dung cơ bản của dự thảo
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020. Trong đó, bài viết đề cập đến bảo đảm
ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn
của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa rất quan
trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Bên cạnh
đó Đảng và Nhà nước đưa ra những giải pháp cụ thể để phát triển ASXH và PLXH bền
vững trong giai đoạn mới của đất nước.
Như vậy, có thể thấy vấn đề ASXH và PLXH ở Việt Nam được các nhà nghiên cứu
đặc biệt quan tâm từ những năm đất nước bắt đầu tiến hành đổi mới năm 1986. Đến nay
đã có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, những nghiên cứu này còn ở tầm vĩ
mô. Những nghiên cứu về phúc lợi xã hội còn hạn chế. Chính vì vậy, ASXH và PLXH
còn rất nhiều khía cạnh cần bàn đến, nhiều hướng nghiên cứu mở ra và có thể thực hiện
như vấn đề: việc làm cho người lao động; lao động thất nghiệp; vấn đề nhà ở cho người
dân ở khu tái định cư...
IV. KẾT LUẬN
An sinh xã hội và phúc lợi xã hội là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm vừa
bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về
kinh tế, xã hội và môi trường; vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân. Bảo đảm ASXH và PLXH không chỉ là bảo vệ quyền của mỗi
người dân như đã nêu trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, mà còn là một
nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, mức độ, quy
mô, phạm vi ASXH và PLXH của các nước có sự khác nhau, tuỳ thuộc vào quan niệm,
chế độ chính trị - xã hội, trình độ phát triển và chính sách của mỗi quốc gia.
Đối với nước ta, bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội luôn là
một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế
45
độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền
vững của đất nước. Trong nhiều thập kỷ qua, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, cùng
với việc không ngừng cải tiến chế độ tiền lương, tiền công và nâng cao thu nhập cho
người lao động, Đảng và Nhà nước rất quan tâm chăm lo đến an sinh xã hội và phúc lợi
xã hội cho nhân dân.
Ngay từ Đại hội lần thứ III, Đảng ta đã xác định “…Cải thiện đời sống vật chất và văn
hoá của nhân dân thêm một bước, làm cho nhân dân ta được ăn no mặc ấm, tăng thêm sức
khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng
đời sống mới ở nông thôn và thành thị…” Những năm sau đó, mặc dù trong điều kiện còn
hết sức khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn luôn dành sự quan tâm đặc
biệt đến công tác bảo đảm ASXH và PLXH. Nhận thức, quan điểm và cơ chế chính sách
phát triển hệ thống ASXH và PLXH được hoàn thiện dần qua các kỳ đại hội của Đảng.
Đến Đại hội IX của Đảng chủ trương này trở thành một định hướng chiến lược để phát
triển bền vững đất nước: “Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ và cải thiện môi trường…” Đại hội X của Đảng xác định “Xây dựng hệ thống
an sinh xã hội đa dạng, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân”, “Từng bước mở rộng và cải thiện
hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi tầng lớp
nhân dân trong xã hội, nhất là nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo”.
Để tiếp tục thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững, thực hiện có hiệu quả
chính sách xóa đói giảm nghèo, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng Chiến lược Phát triển
kinh tế xã hội 10 năm 2001- 2010, Chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực trong giai
đoạn 2001- 2010 (Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; Chiến lược quốc
gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Chiến lược quốc gia về chăm sóc
sức khỏe sinh sản; Chiến lược dân số Việt Nam; Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng;
Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam; Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước; Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm
2010; Chiến lược trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường
2001-2010...); Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005 và Chương trình mục
tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005, các Quyết định của
46
Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh Tây Nguyên, miền núi
phía Bắc và đồng bằng sông Cửu Long...
Bước sang giai đoạn chiến lược mới, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục coi bảo đảm an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nhiệm vụ chủ yếu thường xuyên. Dự thảo Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định: Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài
hoà với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của
nhân dân; phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tạo
cơ hội bình đẳng hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Đồng thời đề ra mục
tiêu đến năm 2020, trong đó GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3000
- 3200 USD; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; thực
hiện bảo hiểm y tế toàn dân; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2% - 3%/năm; phúc lợi, an
sinh xã hội và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được bảo đảm; thu nhập thực tế của dân cư
gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và
nhóm dân cư...
47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Chiểu; “An sinh xã hội và định hướng nghiên cứu nhằm nâng cao vai
trò của khoa học xã hội vào quá trình hoạch định chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam”;
Khoa Khoa học quản lý, trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội; 2010.
2. Bùi Thế Cường, “Nghiên cứu chính sách xã hội: Nhìn lại một chặng đường”, Tạp
chí XHH số 4-2005.
3. Mai Ngọc Cường; “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở
Việt Nam”, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2008.
4. Nguyễn Tấn Dũng, Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội
là một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển k inh tế - xã hội 2011 – 2020, Tạp chí
Cộng sản, Số 285 (9/2010), tr4.
5. Nguyễn Văn Định; Giáo trình “An sinh xã hội”; NXB Đại học Kinh tế quốc dân;
2008.
6. Phạm Minh Huân; Bài viết “Quan hệ lao động ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra
và định hướng hoàn thiện”; Truy cập:
VN/Default.aspx, ngày 18/05/2011.
7. Nguyễn Thị Lan Hương,“Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam thời kỳ 2011 -2020”,
Tạp chí Lao động và xã hội, số 19, quý II, 2009.
8. PGS.TS Nguyễn Hải Hữu, “Giáo trình ASXH”, NXB Lao động - xã hội, Hà Nội,
2008, tr19
9. Bế Quỳnh Nga; Bài viết“ Người cao tuổi Việt Nam: phúc lợi xã hội và các mô
hình chăm sóc sức khỏe”; Tạp chí XHH số 2(110); 2010.
10. Trần Kinh Tế, bài viết “Xã hội hóa tín dụng xóa đói, giảm nghèo - một hoạt động
hiệu quả của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam”,
website:
d%E1%BB%A5ng-xa-di-gi%E1%BA%A3m-ngho-m%E1%BB%99t-ho%E1%BA%A1t-
d%E1%BB%99ng-hi%E1%BB%87u-qu%E1%BA%A3-c%E1%BB%A7a-ngn-hagra/
48
ThS Lưu Quang Tuấn, bài viết “Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế là một biện pháp góp
phần đảm bảo an sinh xã hội”, trang wedsite
11. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đề tài KX02.02/06-10
12.
13.
14. website
15.
o/20116/90767.vgp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_12_cs_an_sinh_va_phuc_loi_xh_0425.pdf