Tiểu luận Chính sách đối với phụ nữ

Một là: Nâng cao trình độ, năng lực , nhận thức về giới, bình đẳng giới, về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho nữ CNVCLĐ, tạo sự đổi mới trong công tác nữ công, phát triển đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Hai là: Xây dựng, triển khai, thực hiện kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ giai đoạn 2011-2020 trong hệ thống công đoàn cấp mình, đưa vào nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng; khắc phục tư tưởng tư ti, an phận, níu kéo nhau của một bộ phận chị em, nêu cao tinh thần tự c hủ, đoàn kết, vượt khó vươn lên để không ngừng tiến bộ, đóng góp ngày càng nhiều cho gia đình và xã hội.

pdf56 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5257 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách đối với phụ nữ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ật 11,7 88,3 14,3 85,7 Ủy ban đối ngoại 17,6 82,4 16,7 83,3 Ủy ban khoa học và công nghệ và môi trường 19,4 80,6 32,4 67,6 Ủy ban quốc phòng và an ninh 2,6 97,4 0 100 Ủy ban kinh tế 12,5 87,5 8,3 91,7 Ủy ban Tư pháp 14,7 85,3 Ủy ban Tài chính – 11,4 88,6 31 Ngân sách Bảng số liệu trên cho thấy, mặc dầu sự có mặt của phụ nữ trong Quốc hội qua các nhiệm kỳ có xu hướng tăng lên, nhưng sự tham gia ở những lĩnh vực hoạt động được đánh giá có tầm quan trọng và mang tính chiến lược lại có xu hướng giảm xuống. Chẳng hạn ở khóa 2002 – 2007 tỷ lệ nữ đại biểu trong hoạt động của Ủy ban kinh tế chiếm 12,5 nhưng đến khóa 2007 – 2012 thì giảm xuống đáng kể còn 8,3%. Sự tách biệt theo giới tính trong hoạt động của quốc hội đã phản ánh vai trò và vị trí của phụ nữ trong chính trường không những còn thiếu về số lượng mà còn hạn chế cả về vị thế/tầm quan trọng. Ở những ủy ban có tính chất quan trọng thì sự hiện diện của phụ nữ còn mờ nhạt. Điều đó đã cho thấy sự định kiến giới đối với công tác lãnh đạo, quản lý của phụ nữ còn khá nặng nề cũng như sự quyết tâm trong cam kết chính trị đối với bình đẳng giới trong lãnh đạo quản lý và thực tế đạt được vẫn còn có khoảng cách nhất định. Những khuôn mẫu giới truyền thống về khả năng, vai trò, vị thế của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý – lĩnh vực được coi là của nam giới chưa thực sự chuyển biến mạnh theo hướng tích cực và có lợi cho phụ nữ. 2.3.4.5. Giải pháp thực hiện chính sách Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, cần có cơ chế chặt chẽ đồng bộ, chỉ đạo cụ thể, có chỉ tiêu quy định bắt buộc về cấn bộ nữ trong cơ quan từ TW đến địa phương. Mặt khác, thường xuyên kiểm tra giám sát đánh giá việc thực hiện. Cần đưa tiêu chí vào bình xét Đảng bộ chi bộ trong sạch vững mạnh cũng như đánh giá việc hoàn thành các nhiệm vụ của nhiệm kỳ, quy định thưởng phạt đối với các cơ quan, đơn vị làm tốt hoặc chưa tốt. Nâng cao nhận thức về giới và kiến thức lồng ghép giới trong đội ngũ lãnh đạo chủ chốt ở các cấp, làm thay đổi nhận thức suy nghĩ, việc làm. Nhà nước cần phải cải thiện hệ thống chính sách, luật pháp nhằm giảm bớt gánh nặng công việc gia đình của phụ nữ tham gia đầy đủ hơn vào đời sống cộng đồng. Thường xuyên bổ sung quy hoạch về chỉ tiêu cán bộ nữ trong hệ thống chính trị và các vị trí ra quyết định. Tăng cường nhận thức về luật pháp và chính sách cho lãnh đạo nữ ở cấp cơ sở. 32 Nâng cao nhận thức về giới và quyền chính trị của phụ nữ, lợi ích của phụ nữ tham gia chính trị và lãnh đạo đối với cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ Quốc và các ban ngành, đoàn thể các cấp cũng như phụ nữ và nam giới trong cộng đồng nhằm tạo điều kiện môi trường thuận lợi về mọi mặt để phụ nữ tự tin khẳng định năng lực ở từng vị trí, cương vị và tính quyết định trong công tác lãnh đạo, quản lý điều hành được tốt hơn. Xây dựng quy hoạch cán bộ nữ toàn diện và đồng bộ hơn hiện nay để phát huy được khả năng đa dạng và sức mạnh tổng hợp của nữ giới, bên cạnh quy hoạch loại cán bộ: lãnh đạo quản lý cần thực hiện các loại cán bộ cơ bản khác trong đội ngũ cán bộ nữ nước ta hiện nay là: cán bộ giáo dục, khoa học, công nghệ; cán bộ quản lý kinh doanh – doanh nhân; cán bộ văn hóa, nghệ thuật; cán bộ tham mưu chiến lược, chuyên gia. Tăng cường yếu tố nhân tài, chất lượng cao trong công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ trong hệ thống chính trị nước ta. Mục tiêu thu hút, sử dụng, phát huy được nhân tài cần được quán triệt sâu sắc hơn và thực hiện có tính chiến lược, xuyên suốt trong công tác cán bộ nói chung, công tác cán bộ nữ nói riêng 2.4. Chính sách bảo vệ phụ nữ chống bạo lực gia đình 2.4.1 Các văn bản quy định Luật số 02/2007/QH12 của Quốc hội : LUẬT PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10; Quốc hội ban hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình. 2.4.2. Mục tiêu của chính sách Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình nhằm thay đổi nhận thức, hành vi về bạo lực gia đình, góp phần tiến tới xoá bỏ bạo lực gia đình và nâng cao nhận thức về truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam. 33 Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình phải bảo đảm các yêu cầu sau đây: a) Chính xác, rõ ràng, đơn giản, thiết thực; b) Phù hợp với từng đối tượng, trình độ, lứa tuổi, giới tính, truyền thống, văn hóa, bản sắc dân tộc, tôn giáo; c) Không làm ảnh hưởng đến bình đẳng giới, danh dự, nhân phẩm, uy tín của nạn nhân bạo lực gia đình và các thành viên khác trong gia đình. 2.4.3 Nội dung của chính sách Chương I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG Điều 1. Phạm vi điều chỉnh Luật này quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. Điều 2. Các hành vi bạo lực gia đình 1. Các hành vi bạo lực gia đình bao gồm: a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục; e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; g) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; 34 h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính; i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở. 2. Hành vi bạo lực quy định tại khoản 1 Điều này cũng được áp dụng đối với thành viên gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng. Điều 3. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình 1. Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. 2. Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật. 3. Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ. 4. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình. Điều 4. Nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình 1. Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực. 2. Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 3. Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối. 4. Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và theo quy định của pháp luật. Điều 5. Quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình 1. Nạn nhân bạo lực gia đình có các quyền sau đây: a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình; b) Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này; c) Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật; 35 d) Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của Luật này; đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật. 2. Nạn nhân bạo lực gia đình có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu. Điều 6. Chính sách của Nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình 1. Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác phòng, chống bạo lực gia đình. 2. Khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, tài trợ cho hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình; phát triển các mô hình phòng ngừa bạo lực gia đình và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình. 3. Khuyến khích việc nghiên cứu, sáng tác văn học, nghệ thuật về phòng, chống bạo lực gia đình. 4. Tổ chức, hỗ trợ việc bồi dưỡng cán bộ làm công tác phòng, chống bạo lực gia đình. 5. Người trực tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình mà có thành tích thì được khen thưởng, nếu bị thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng và tài sản thì được hưởng chế độ theo quy định của pháp luật. Điều 7. Hợp tác quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình 1. Nhà nước khuyến khích hợp tác quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, phù hợp với pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế. 2. Nội dung hợp tác quốc tế bao gồm: a) Xây dựng và thực hiện chương trình, dự án, hoạt động về phòng, chống bạo lực gia đình; b) Tham gia tổ chức quốc tế; ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình; c) Trao đổi thông tin và kinh nghiệm về phòng, chống bạo lực gia đình. Điều 8. Những hành vi bị nghiêm cấm 1. Các hành vi bạo lực gia đình quy định tại Điều 2 của Luật này. 2. Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình. 3. Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực gia đình. 36 4. Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình. 5. Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình. 6. Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc thực hiện hoạt động trái pháp luật. 7. Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình. 2.4.4. Thực tế thực hiện chính sách Nhận thức của người dân về vấn đề bạo lực giới còn thấp, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Đây là những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng bạo lực trong gia đình. Hiện nay chúng ta đã có nhiều quy định pháp luật nhằm phòng ngừa, ngăn chặn bạo lực gia đình, song những quy định đó nằm rải rác trong nhiều văn bản khác nhau nên việc vận dụng để xử lý hết sức khó khăn. Các quy định của pháp luật chỉ dừng ở mức để xử lý điều chỉnh chung mọi hành vi bạo lực trong xã hội mà chưa có quy định riêng điều chỉnh các hành vi bạo lực gia đình nên đòi hỏi người áp dụng phải có trình độ và năng lực pháp lý mới có thể vận dụng các quy định hiện hành để phòng ngừa ngăn chặn và xử lý hành vi bạo lực gia đình. Đặc biệt ở Việt Nam chưa có thói quen vận dụng các quy định của pháp luật để xử lý tình trạng bạo lực gia đình. Mặc dù bạo lực gia đình dẫn đến hậu quả nghiêm trọng song vẫn được xem đó là chuyện gia đình và chỉ giải quyết nội bộ mà không đưa ra chính quyền hoặc cơ quan bảo vệ pháp luật để xử lý. Hiện nay một số cán bộ địa phương còn quan niệm bạo lực gia đình là hành vi đánh đập, gây thiệt hại cho tính mạng thân thể của phụ nữ và trẻ em và những hành vi đó mới dùng pháp luật để xử lý. Còn những hành vi chửi mắng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của chồng đối với vợ; của cha mẹ đối với con cái đó là chuyện thường tình theo kiểu "Thương thì cho roi, cho vọt". Pháp luật nước ta chưa có các quy định cụ thể để xác định hành vi nào được xếp vào hành vi bạo lực gia đình và các quy định cụ thể với những chế tài cụ thể để xử lý hành chính, xử lý hình sự đối với hành vi đó. Có những quy định pháp luật còn chồng chéo mâu thuẫn giữa văn bản này với các văn bản khác, một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn, nên hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với các hành vi bạo lực gia đình không cao, dẫn đến không bảo vệ triệt để được các quyền 37 của phụ nữ và trẻ em. Pháp luật bảo vệ phụ nữ và trẻ em phòng chống bạo lực gia đình được quy định không ít, nhưng việc tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế. Vì vậy, chúng ta cần đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến pháp luật cho mọi công dân nắm để chấp hành. Đặc biệt phụ nữ và trẻ em chưa thấy được pháp luật là một công cụ quan trọng và sử dụng nó để đấu tranh với các hành vi bạo lực gia đình. Đối với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức xã hội và các cá nhân được Nhà nước trao quyền chưa triệt để trong áp dụng pháp luật để phòng chống bạo lực gia đình thậm chí ở số địa phương còn nể nang ngại va chạm. Vì vậy bạo lực gia đình vẫn tồn tại, và quyền lợi của phụ nữ, trẻ em chưa được bảo vệ triệt để. 2.4.5. Hạn chế của chính sách bảo vệ phụ nữ chống bạo lực gia đình Trong hệ thống chế tài các văn bản pháp luật của nhà nước Việt Nam cũng đã quy định các biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm quyền, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của người phụ nữ bao gồm đầy đủ các biện pháp hình sự, hành chính, dân sự:  Bộ luật hình sự 1995 đã quy định mức phạt hình sự cho các tội danh có liên quan đến bạo lực đối với phụ nữ. Trong Chương XII của Bộ luật Hình sự - Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người đã quy định tội danh và hình phạt đối với các hành vi bạo lực đối với công dân nói chung trong đó có phụ nữ. Chương này gồm 30 điều, trong đó có 14 điều liên quan đến các hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ.  Nghị định của Chính phủ số 87/2001/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đìnhlà văn bản pháp lý quy định các hình thức xử phạt về mặt hành chính đối với các hành vi bạo lực đối với phụ nữ. Sự ra đời của Nghị định đã thể hiện thái độ kiên quyết của Chính phủ Việt Nam trong việc ngăn chặn bạo lực gia đình nói chung và bạo lực gia đình đối với phụ nữ nói riêng. Các quy định về xử phạt hành chính đối với các hành vi cưỡng ép kết hôn, ly hôn, vi phạm chế độ một vợ một chồng, vi phạm quy định về quan hệ giữa cha mẹ và con, vi phạm quy định về cấp dưỡng, đặc biệt quy định xử phạt các hành vi ngược đãi, hành hạ các thành viên trong gia đình đã khảng định quan điểm của Nhà nước không coi bạo lực gia đình là việc riêng của các gia đình. Bộ luật dân sự 1995 đã quy định các biện pháp xử phạt dân sự đối với các quyền dân sự của cá nhân trong đó có các quyền được bảo vệ của người phụ nữ. 38 Điều 12 Bộ luật dân sự quy định: khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm, thì chủ thể đó có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ bằng việc buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc bồi thường thiệt hại; phạt vi phạm...  Thách thức thứ nhất: Để pháp luật có thể có căn cứ xử lý các hành vi vi phạm phạm pháp luật thì bản thân những người bị xâm phạm phải đứng lên tố cáo những chủ thể thực hiện hành vi vi phạm đó. Với thiết chế truyền thống từ xưa hiện còn ảnh hưởng mạnh đến cuộc sống của đa số các gia đình Việt Nam, những người con gái, em gái hay vợ luôn luôn phải phục tùng cha, anh và chồng. Liệu có dễ dàng gì cho một người phụ nữ khi đã bị ngược đãi, bạo lực hay xâm hại ra trước các cơ quan pháp luật để tố cáo chính những người có quan hệ ruột thịt, thân thích của mình đã có những hành vi như vậy? Bản thân người phụ nữ có thoát khỏi được những định chế đã ăn sâu vào bản thân mình hay không và bản thân họ sẽ còn phải chịu sức ép từ cộng đồng xung quanh, cộng đồng sẽ có thái độ như thế nào đối với họ khi cả cộng đồng cũng còn bị ảnh hưởng bởi định chế đó. Thực tế hiện nay có rất ít phụ nữ bị ngược đãi, xâm hại trong gia đình dám đứng ra tố cáo hành vi đó trước pháp luật và nhờ pháp luật can thiệt. Trong Hội thảo “Thông tin đại chúng với vấn đề phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ” tổ chức tại Hà Nội, 14- 16/1/2002, ông Thẩm phán Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội cũng đã phát biểu: “Trong bao nhiêu năm làm công tác luật pháp, tôi thấy, hầu hết các vụ bạo lực trong gia đình chỉ bị tố cáo trước pháp luật khi xẩy ra hậu quả nghiêm trọng, khi có nguy hiểm đến tính mạng thì mới bị tố giác” Thách thức thứ hai: Để có thể xử lý các hành vi bạo lực đối với phụ nữ thì cũng cần có các chứng cứ cụ thể về những hành vi bạo lực đó. Tuy nhiên, bạo lực trong gia đình với những hành vi ngược đãi, hành hạ về tinh thần, tình dục không dễ dàng gì để chỉ ra các chứng cứ. Trong một nghiên cứu năm 2000 về các trường hợp bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam đã kết luận: “Những phụ nữ bị hành hạ về tinh thần, tình dục không gây thương tích thân thể rất khó tố cáo người bạo hành trước pháp luật”. Nếu viện đến người làm chứng, thì hầu hết những chứng nhân cho những hành vi vi phạm xảy ra trong nội bộ gia đình là những người thân thiết trong nội bộ gia đình. Dù đứng về phía bên “sai” hay bên “đúng”, bên “nguyên” hay bên “bị” thì yếu tố thành thực, khách quan cũng rất khó phân định. Mâu thuẫn sẽ luôn tồn tại giữa một bên là tính đúng đắn của luật pháp với bên kia là tình cảm ruột thịt trong gia đình. 39 Thách thức thứ ba: Trong xã hội Việt Nam, quan niệm phải giải quyết trong nội bộ gia đình những vấn đề xảy ra trong gia đình vẫn còn tồn tại, nếu có “to tát” quá thì cộng đồng, làng xóm can thiệp dưới hình thức khuyên ngăn, hoà giải, góp ý còn các cơ quan chính quyền không mấy khi can dự vào. Thách thức thứ tư: Chế tài hành chính chủ yếu cho xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật hiện nay là phạt tiền. Tuy nhiên, việc phạt tiền các vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, đặc biệt là phạt tiền đối với hành vi ngược đãi, hành hạ các thành viên trong gia đình đã được quy định trong Nghị định 87/2001/NĐ-CP hoàn toàn không phải là biện pháp xử lý thích hợp. Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với kẻ có hành vi hành hạ, ngược đãi thành viên trong gia đình, chắc chẳng có giá trị trừng phạt, giáo dục là bao đối với những người giầu. Với những thách thức nêu trên, có thể thấy để công tác phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ thu được hiệu quả hơn thì việc tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền của phụ nữ, pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ để bản thân người phụ nữ thoát khỏi các định chế tiêu cực là rất cần thiết. Trong luật pháp Việt Nam phụ nữ hoàn toàn bình đẳng với nam giới về mọi mặt. Phụ nữ được hưởng tất cả các quyền luật pháp quy định cho mọi công dân, trong đó có “quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” (Điều 71- Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 1992). Có thể nói cho đến nay Việt Nam đã có cơ sở pháp lý để xử lý những hành vi bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình cả về dân sự, hình sự và hành chính. Tuy vậy, do mối quan hệ đặc biệt giữa nạn nhân và người vi phạm nên việc áp dụng các văn bản trên còn gặp rất nhiều khó khăn, cản trở, thậm chí có trường hợp không thể xử lý được. Mặt khác, các quy định về phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ lại nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, có nhiều điểm thiếu tính lô gích, đồng bộ, khó nghiên cứu, áp dụng... Các chế tài hình sự, dân sự và hành chính hiện chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, cần phải có một đạo luật riêng về phòng chống bạo lực gia đình. Các tranh chấp trong hôn nhân gia đình, các mâu thuẫn gia đình, đặc biệt các hành vi bạo lực gia đình, do mối quan hệ đặc biệt (vốn thân thiết gắn bó) giữa những người liên quan, giữa nạn nhân và kẻ vi phạm nên rất cần một trình tự tố tụng đặc biệt. Các cán bộ Toà án, Kiểm sát, Công an làm việc trong lĩnh vực này, ngoài kiến thức pháp lý, còn phải có kiến thức về tâm lý xã hội, tình cảm cũng như 40 kiến thức về giới. Vì vậy, cần phải có Toà án gia đình, với đội ngũ cán bộ chuyên trách giải quyết các tranh chấp gia đình, bạo lực gia đình và các cán bộ này cần được tập huấn kỹ về những văn bản xử lý các hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ. 2.4.6. Giải pháp để thực hiện chính sách bảo vệ phụ nữ chống bạo lực gia đình Xây dựng Thông tư về bảo đảm bình đẳng giới trong trợ giúp pháp lý để có căn cứ hướng dẫn các Trung tâm trợ giúp pháp lý trong toàn quốc thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho nạn nhân bạo lực gia đình; Xây dựng tài liệu hướng dẫn về giới và phòng chống bạo lực gia đình; Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ; đấu tranh phòng chống mua bán phụ nữ và trẻ em, bạo lực gia đình; thông tin và phổ biến một cách kịp thời những thủ đoạn của bọn tội phạm buôn người, nguy cơ trở thành nạn nhân của tội buôn bán người và hậu quả do hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em, bạo lực gia đình gây ra từ đó nâng cao nhận thức của người dân, giúp họ tự bảo vệ mình; Khuyến khích phụ nữ tình nguyện tham gia tuyên truyền về bảo vệ phụ nữ; Có sự phối hợp của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội để đẩy lùi và loại bỏ hành vi buôn bán phụ nữ, bạo lực gia đình ra khỏi đời sống xã hội. Một trong những giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa bạo hành là phổ biến thông tin về các sự giúp đỡ của xã hội, cũng như những điều luật chống bạo hành trong gia đình. Đa số các nạn nhân không biết có những trung tâm tư vấn tại địa phương để giúp đỡ họ khi bị hành hung, và họ cũng không biết có những khu nhà trú dành riêng cho phụ nữ. Ngoài việc phổ biến những điều luật chống bạo hành trong gia đình, các phụ nữ còn cần được giải thích để hiểu rõ bạo hành gia đình là một vấn nạn của xã hội, là một hành động cần lên án. Nhẫn nhịn chịu đựng không phải là cách để gia đình có được hạnh phúc. Trong văn mạch này, nhiều người thường quan niệm chuyện chồng đánh vợ chỉ là một chuyện bình thường trong lúc nóng giận. Đó là một quan niệm sai lầm và là một vấn nạn chung của toàn xã hội. Trách nhiệm của mọi người là phải tích cực góp tay giúp những nạn nhân bị bạo hành gia đình thông hiểu về những luật lệ chống bạo hành. 41 Phòng ngừa bạo lực gia đình nhằm tránh những hậu quả, thiệt hại có thể xảy ra khi có hành vi bạo lực gia đình. Luật quy định các biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình bao gồm: Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình: nhằm mục đích thay đổi nhận thức, hành vi về bạo lực gia đình, góp phần tiến tới xóa bỏ bạo lực gia đình và nâng cao nhận thức về truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam. Việc thông tin, tuyên truyền phải đảm bảo chính xác, rõ ràng, đơn giản, thiết thực; phù hợp với từng đối tượng, trình độ, lứa tuổi, giới tính, truyền thống, văn hóa, bản sắc dân tộc, tôn giáo; không làm ảnh hưởng đến bình đẳng giới, danh dự, nhân phẩm, uy tín của nạn nhân bạo lực gia đình và các thành viên khác trong gia đình. Nội dung thông tin, tuyên truyền tập trung vào: chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới, quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình; truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt nam; tác hại của bạo lực gia đình; biện pháp, mô hình, kinh nghiệm trong phòng, chống bạo lực gia đình; kiến thức về hôn nhân và gia đình; kỹ năng ứng xử, xây dựng gia đình văn hóa và các nội dung khác có liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình. Hình thức thông tin, tuyên truyền: thực hiện trực tiếp; thông qua phương tiện thông tin đại chúng; lồng ghép trong việc giảng dạy, học tập tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và thông qua hoạt động văn học, nghệ thuật, sinh hoạt cộng đồng và các loại hình văn hóa quần chúng khác. Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình: Hòa giải mâu thuẫn giữa các thành viên gia đình là trách nhiệm gia đình, người đứng đầu hoặc người có uy tín trong dòng họ, người có uy tín trong cộng đồng dân cư; của cơ quan, tổ chức nơi công tác hoặc sinh sống của các thành viên gia đình; tổ hòa giải ở cơ sở. Việc hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp tuân thủ 7 nguyên tắc quy định tại Điều 12. Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều 42 kiện cho các tổ chức hòa giải ở cơ sở thực hiện hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình. Tư vấn, góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư về phòng ngừa bạo lực gia đình: Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động tư vấn về gia đình ở cơ sở cho các thành viên trong cộng đồng dân cư, trong đó tập trung vào các đối tượng: người có hành vi bạo lực gia đình; nạn nhân bạo lực gia đình; người nghiện rượu, ma túy, đánh bạc; người chuẩn bị kết hôn. Các nội dung tư vấn chủ yếu là cung cấp thông tin, kiến thức, pháp luật về hôn nhân, gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; hướng dẫn kỹ năng ứng xử trong gia đình; kỹ năng ứng xử khi có mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình. Việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư nhằm làm chuyển biến nhận thức của người có hành vi bạo lực gia đình để họ không tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình. Tuy nhiên, biện pháp góp ý, phê bình chỉ áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên có hành vi bạo lực gia đình đã được tổ hòa giải ở cơ sở hòa giải mà tiếp tục vi phạm. Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp này là người đứng đầu cộng đồng dân cư (trưởng thôn, làng, bản, ấp, phum, sóc, tổ trưởng tổ dân phố) hoặc người đứng đầu đơn vị. Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm giúp đỡ, tạo điều kiện cho người đứng đầu cộng đồng dân cư tổ chức việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư đối với người có hành vi bạo lực gia đình. 2.4. Chính sách hỗ trợ việc làm cho phụ nữ Đề án hộ trợ việc làm cho phụ nữ và tìm việc làm giai đoạn 2010 – 2015 Điều 1. Phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010 - 2015" với các nội dung chủ yếu sau: 43 2.5.1. Mục tiêu Học nghề, lập nghiệp là quyền lợi và nghĩa vụ của lao động nữ; phụ nữ chủ động tham gia học nghề để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, góp phần tăng sức cạnh tranh của nguồn nhân lực, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội; Tăng cơ hội học nghề, tạo việc làm cho phụ nữ; đặc biệt phụ nữ khu vực nông thôn, phụ nữ độ tuổi trung niên, phụ nữ dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng di dời, giải tỏa; Nhà nước tăng cường đầu tư phát triển dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ; có chính sách huy động mọi nguồn lực trong xã hội quan tâm dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ; chú trọng đầu tư phát triển các cơ sở dạy nghề thu hút nhiều lao động nữ, đặc biệt là các cơ sở dạy nghề thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. 2.5.1.1. Mục tiêu chung: tăng cường công tác đào tạo nghề cho phụ nữ là góp phần bảo đảm quyền được học nghề và có việc làm của phụ nữ trong Luật Bình đẳng giới; tăng tỷ lệ lao động nữ được đào tạo nghề và nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của lao động nữ; tạo cơ hội để phụ nữ có thể tìm kiếm việc làm có thu nhập ổn định, giúp xóa đói, giảm nghèo và nâng cao vị thế cho phụ nữ; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. 2.5.1.2. Mục tiêu cụ thể 70% trở lên lao động nữ được tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước về dạy nghề và việc làm; Tỷ lệ lao động nữ trong tổng số chỉ tiêu tuyển sinh học nghề đạt 40%, trong đó tăng nhanh tỷ lệ lao động nữ được đào tạo trung cấp nghề, cao đẳng nghề; tỷ lệ lao động nữ có việc làm sau khi học nghề tối thiểu đạt 70%; Các cơ sở dạy nghề, giới thiệu việc làm thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các cấp Hội phụ nữ thực hiện tư vấn học nghề, giới thiệu việc làm và tạo việc là cho khoảng 100.000 phụ nữ hàng năm, trong đó khoảng 50.000 lao động nữ được đào tạo nghề. 44 2.5.2. Đối tượng Lao động nữ trong độ tuổi lao động, ưu tiên dạy nghề cho các đối tượng là người thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi, người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người trong diện thu hồi đất canh tác, phụ nữ bị mất việc làm trong các doanh nghiệp. 2.5.3. Chính sách cụ thể 2.5.3.1. Chính sách đối với người học: Lao động nữ thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi, người có công với cách mạng, hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu hồi đất canh tác, lao động nữ bị mất việc làm trong các doanh nghiệp được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 03 triệu đồng/người/khoá học (mức hỗ trợ cụ thể theo từng nghề và thời gian học nghề thực tế); hỗ trợ tiền ăn với mức 15.000đ/ngày thực học/người; hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối đa không quá 200.000đ/người/khoá học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15 km trở lên; Lao động nữ (cả nông thôn và thành thị) thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 2,5 triệu đồng/người/khoá học (mức hỗ trợ cụ thể theo từng nghề và thời gian học nghề thực tế); Lao động nữ khác đuợc hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 02 triệu đồng/người/khoá (mức hỗ trợ cụ thể theo từng nghề và thời gian học nghề thực tế); Lao động nữ học nghề được vay vốn để học theo quy định hiện hành về tín dụng đối với học sinh, sinh viên. Lao động nữ làm việc ổn định tại chỗ (nơi cư trú) sau khi học nghề được ngân sách hỗ trợ 100% lãi suất đối với khoản vay học nghề; Lao động nữ là người dân tộc thiểu số thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi, người có công với cách mạng, hộ nghèo có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo học các khoá học trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề được hưởng chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú; 45 Lao động nữ sau khi học nghề được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm để tự tạo việc làm; Lao động nữ sau khi học nghề tham gia sản xuất kinh doanh, tự tạo việc làm được ưu tiên hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm từ các hoạt động hỗ trợ việc làm của Đề án này và các chương trình xúc tiến thương mại hiện hành; Mỗi lao động nữ chỉ được hỗ trợ học nghề một lần theo chính sách của Đề án này. Những người đã được hỗ trợ học nghề theo các chính sách khác của Nhà nước thì không được tiếp tục hỗ trợ học nghề theo chính sách của Đề án này. Riêng những người đã được hỗ trợ học nghề nhưng bị mất việc làm do nguyên nhân khách quan thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xem xét, quyết định tiếp tục hỗ trợ học nghề để chuyển đổi việc làm theo chính sách của Đề án này nhưng tối đa không quá 03 lần. Mức hỗ trợ học nghề sẽ được điều chỉnh khi có sự thay đổi chính sách chung. 2.5.3.2. Chính sách đối với giáo viên, giảng viên: Áp dụng chính sách với giáo viên, giảng viên theo Quyết định số 1956/QĐ- TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án " Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020". 2.5.4 . Giải pháp chủ yếu 2.5.4.1. Đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức về học nghề và việc làm; về chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đối với dạy nghề và việc làm cho phụ nữ: Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp có kế hoạch truyền thông về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của việc học nghề và việc làm đối với phụ nữ trong chương trình tuyên truyền, vận động của Hội; tăng cường công tác tuyên truyền đối với phụ nữ, cộng đồng và các cơ sở dạy nghề nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi quan niệm về học nghề, ý thức về học nghề, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho phụ nữ và cho xã hội; 46 Tăng cường tuyên truyền sâu rộng trên phương tiện thông tin đại chúng các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về đào tạo nghề và việc làm để lao động nữ biết và chủ động tham gia học nghề; Sử dụng các hình thức tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn và điều kiện cụ thể của cơ quan, đơn vị, địa phương về các đơn vị, cá nhân có thành tích dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ; lao động nữ giỏi nghề và tham gia học nghề đạt kết quả cao nhằm khuyến khích sự tham gia của xã hội trong dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ và khuyến khích phụ nữ tích cực học nghề, làm nghề tốt. 2.5 4.2. Tăng cường sự tham gia của các Bộ, ngành, cơ quan và các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ trong xây dựng, đề xuất luật pháp, chính sách và giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách về học nghề và tạo việc làm cho phụ nữ: Tổ chức rà soát hệ thống văn bản pháp luật, chính sách dạy nghề, học nghề liên quan đến phụ nữ; Tiến hành nghiên cứu các vấn đề về nhu cầu học nghề, việc làm của phụ nữ; tác động của các chính sách đối với việc học nghề, việc làm của phụ nữ; thu hút phụ nữ tham gia học nghề; cơ chế giám sát, chế độ báo cáo thống kê về chỉ tiêu quốc gia: tỷ lệ nữ tham gia học nghề/tổng số lao động đã qua đào tạo nghề, chỉ tiêu tỷ lệ phụ nữ có việc làm mới/tổng số lao động có việc làm mới và các chỉ tiêu khác liên quan đến việc thực các chỉ tiêu trên; Tăng cường công tác giám sát, phản biện, đánh giá các chính sách hiện hành về học nghề, tạo việc làm cho phụ nữ. 2.5.4.3. Xây dựng một số chương trình, giáo trình dạy nghề đặc thù cho lao động nữ: Phát triển chương trình, giáo trình dạy nghề phù hợp với các cấp độ đào tạo cho lao động nữ; chú trọng việc cập nhật kỹ thuật, công nghệ mới cho các nghề truyền thống, nghề có thu nhập cao, thu hút nhiều lao động nữ; Nghiên cứu, xây dựng giáo án, giáo trình những nghề mới phù hợp với thị trường lao động và phù hợp với lao động nữ. Huy động các nghệ nhân, cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các trường đại học, doanh nghệp, 47 cơ sở sản xuất kinh doanh... tham gia xây dựng chương trình, giáo trình dạy nghề cho lao động nữ; - Thí điểm xây dựng chương trình dạy nghề điện tử (E-learning) áp dụng dạy nghề cho phụ nữ. 2.5.4.4. Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm: Tăng quy mô và phát triển dạy các ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Mở rộng đào tạo các nghề mới xuất hiện trên thị trường thu hút nhiều lao động nữ. Đa dạng hoá phương thức đào tạo: dạy nghề chính quy và dạy nghề thường xuyên; mở rộng liên kết, thực hiện đào tạo liên thông giữa các trình độ đào tạo nghề, tăng dần lao động nữ học nghề ở trình độ cao; mở rộng đào tạo các nghề phù hợp với đặc điểm của lao động nữ, nghề có khả năng thu hút lao động nữ độ tuổi trung niên; liên kết, phối hợp tổ chức dạy nghề cho lao động nữ tại các doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ hợp tác; liên kết với các doanh nghiệp để dạy nghề, thực hành nghề; Tăng cường các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, tạo việc làm trước, trong và sau đào tạo nghề. Đa dạng hóa các hình thức tư vấn học nghề, tư vấn giới thiệu việc làm phù hợp với từng nhóm đối tượng tại cơ sở; Chủ động và phối hợp với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh..., đặc biệt là mạng lưới các Hiệp hội, Hội, Câu lạc bộ doanh nhân nữ tạo việc làm mới cho phụ nữ và tổ chức cung ứng lao động nữ; hỗ trợ phụ nữ tiếp cận tín dụng để tạo việc làm mới, phát triển sản xuất kinh doanh giải quyết việc làm cho lao động nữ; hỗ trợ phụ nữ xúc tiến thương mại cho các sản phẩm từ các làng nghề, cơ sở sản xuất, kinh doanh do phụ nữ làm chủ. 2.5.4.5. Phát triển và nâng cao năng lực các cơ sở dạy nghề thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam: hỗ trợ đầu tư xây dựng mới 01 trường cao đẳng nghề, nâng cao năng lực Trường Trung cấp nghề Lê Thị Riêng, nâng cấp 03 trường trung cấp nghề từ 03 trung tâm khu vực (Yên Bái, Hải Dương, Đắk Nông), xây dựng mới 05 trung tâm dạy nghề 48 khu vực; củng cố, nâng cấp 36 trung tâm dạy nghề, giới thiệu việc làm thuộc các tỉnh, thành Hội; thành lập Trung tâm đào tạo và xuất khẩu lao động thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Tăng cường đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, giáo viên trung tâm, trường nghề thuộc hệ thống Hội; đào tạo cán bộ Hội tham gia công tác dạy nghề, nâng cao năng lực giám sát, đánh giá chính sách dạy nghề cho phụ nữ; Huy động các nghệ nhân, cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các trường đại học, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh... tham gia dạy nghề cho lao động nữ; Xây dựng hạ tầng thông tin học nghề, lao động việc làm thuộc hệ thống Hội; Mở rộng quan hệ hợp tác trong nước và quốc tế nhằm tăng cường huy động các nguồn lực đầu tư, hợp tác để dạy nghề cho phụ nữ. 2.5.4.6. Kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Đề án: Xây dựng tiêu chí giám sát, đánh giá Đề án; Tổ chức giám sát, đánh giá tình hình thực hiện Đề án hàng năm, giữa giai đoạn và kết thúc giai đoạn; - Báo cáo đánh giá việc thực hiện các mục tiêu, nội dung của Đề án; tình hình quản lý và sử dụng ngân sách của Đề án cho các Bộ, ngành, cơ quan liên quan. 2.5.5. Kinh phí thực hiện Nguồn kinh phí thực hiện Đề án được bố trí từ nguồn ngân sách nhà nước hàng năm theo phân cấp hiện hành. Ngân sách Trung ương bảo đảm kinh phí đối với các nội dung công việc do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương thực hiện để triển khai các chính sách, giải pháp và hoạt động của Đề án; hỗ trợ một phần cho các tỉnh miền núi khó khăn, hàng năm phải nhận trợ cấp cân đối từ ngân sách trung ương. Ngân sách địa phương bảo đảm kinh phí đối với các nội dung công việc do các cơ quan thuộc địa phương thực hiện. 49 Việc lập dự toán chi tiết kinh phí thực hiện Đề án hàng năm được thực hiện theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước trên cơ sở đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và được lồng ghép trong các Đề án dạy nghề của Chính phủ đang xây dựng và thực hiện. Huy động thêm nguồn lực của các tổ chức Quốc tế, các cơ sở dạy nghề, doanh nghiệp, cá nhân và cộng đồng để bổ sung cho việc thực hiện Đề án (các doanh nghiệp được trừ để tính thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật đối với các khoản chi phí, hỗ trợ của doanh nghiệp cho dạy nghề). 2.5.6. Tổ chức thực hiện 2.5.6. 1. Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam: Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các địa phương trong việc tổ chức, triển khai thực hiện Đề án; báo cáo Thủ tướng Chính phủ về các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai; kiến nghị về những thay đổi, điều chỉnh cần thiết, phù hợp với thực tế của từng thời kỳ; Chỉ đạo các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với các ban, ngành liên quan triển khai thực hiện Đề án ở địa phương; Phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện Đề án; định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện; đánh giá, tổng kết việc thực hiện Đề án. 2.5.6.2. Trách nhiệm của các Bộ: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Chủ trì, phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam hướng dẫn quy hoạch mạng lưới các trường và trung tâm dạy nghề, giới thiệu việc làm thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nghiên cứu, bổ sung các hoạt động của Đề án, lồng ghép vào các chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục - đào tạo và các dự án, đềán khác có liên quan; Hướng dẫn các đơn vị, các cơ sở dạy nghề thực hiện Đề án; 50 Chủ trì, phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam giám sát, đánh giá việc triển khai, thực hiện Đề án. Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Đảm bảo ngân sách nhà nước cấp hàng năm để thực hiện Đề án theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước; Chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính đối với Đề án; phối hợp giám sát thực hiện Đề án. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Rà soát, bổ sung các hoạt động có liên quan của Đề án vào Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo; Chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phối hợp thực hiện Đề án hỗ trợ phụ nữ học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2010 - 2015; phối hợp giám sát thực hiện Đề án. .Bộ Nội vụ: Phối hợp thực hiện các hoạt động có liên quan trong Đề án, đặc biệt là về mô hình tổ chức hoạt động của các cơ sở dạy nghề thuộc các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Rà soát, bổ sung các hoạt động có liên quan của Đề án vào Chương trình đào tạo lại cán bộ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Phối hợp thực hiện và bổ sung các hoạt động có liên quan của Đề án vào các Chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, dạy nghề cho lao động nông thôn. Bộ Công thương Phối hợp thực hiện và bổ sung các hoạt động có liên quan của Đề án vào Chương trình xúc tiến thương mại, chương trình khuyến công. 2.5.6.3. Trách nhiệm của các Bộ, ngành khác 51 Theo chức năng nhiệm vụ, phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức thực hiện các hoạt động cụ thể nêu trong Đề án theo thẩm quyền được phân công. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Phê duyệt và tổ chức thực hiện Đề án hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho phụ nữ của địa phương mình trên cơ sở Đề án này và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2020 hoặc lồng ghép với các Đề án khác đang triển khai trên địa bàn; tạo điều kiện về đất đai và các điều kiện khác để thực hiện Đề án. Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành. Điều 3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này. 2.5.7. Nhận xét: 2.5.7.1. Những điểm đã đạt được Ở nhiều nơi phụ nữ đã bước đầu tiếp cận được với các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về dạy nghề và việc làm. Nhiều nơi trong cả nước, hội phụ nữ hoạt động có hiệu quả. Nhất là trong hoạt động cho vay vốn đối với thành viên của hội. Nhiều nơi cũng đã tổ chức, thành lập được những mô hình dạy nghề, đào tạo việc làm cho lao động nữ. Nhiều phụ nữ thuộc các đối tượng ưu tiên đã được hưởng các quyền lợi từ nhà nước, các dự án hỗ trợ việc làm.. 2.5.7.2. Những điểm hạn chế Tiến độ thực hiện đề án vẫn còn chậm. Tỷ lệ phụ nữ được tiếp cận với đề án chưa nhiều và chưa đồng đều ở các địa phương. Trên thực tế, số phụ nữ được hưởng các chính sách ưu đãi, người có công với cách mạng, dân tộc thiểu số, phụ nữ bị thu hồi đất canh tác, bị mất việc do các doanh nghiệp…chưa được hỗ trợ chi phí ngắn hạn. 52 Đặc biệt phụ nữ ở nhiều vùng dân tộc thiểu số vẫn bị đối xử bất bình đẳng và chưa được tiếp cận với các tổ chức dạy nghề, đào tạo việc làm. Chưa được tiếp cận với các thông tin, chính sách và ưu đãi của Đảng, nhà nước. Việc xây dựng chương trình, giáo trình dạy nghề đặc thù cho lao động nữ chưa nhiều và chưa đem lại hiệu quả như mong đợi. KẾT LUẬN VÀ NỮNG GIẢI PHÁP CHUNG CHO NHỮNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VỚI PHỤ NỮ 1. Kết luận. Gần đây, Nghị quyết số 11/NQ-TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã khẳng định vai trò quan trọng của lao động nữ trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Cụ thể hoá các quan điểm của Đảng về công tác vận động phụ nữ, trong những năm qua, nhiều chính sách nhà nước đã được ban hành nhằm tạo thuận lợi hơn cho việc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ và giải quyết những vấn đề nảy sinh có liên quan đến quyền, lợi ích của phụ nữ, nhiều chính sách kinh tế- xã hội có liên quan trực tiếp đến phụ nữ được triển khai, tổ chức thực hiện đạt nhiều kết quả đáng khích lệ Thực hiện xoá đói giảm nghèo, Nhà nước ban hành chính sách cho người nghèo nói chung và phụ nữ nói riêng được vay vốn, đào tạo nghề, hỗ trợ việc làm, chuyển giao tiến bộ khoa học- công nghệ. Chính vì vậy, tỷ lệ phụ nữ và hộ gia đình phụ nữ được vay vốn tăng, tỷ lệ phụ nữ thiếu việc làm giảm, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện đáng kể. Vị thế của người phụ nữ được nâng lên, chất lượng và số lượng cán bộ nữ tăng, tuy chưa tương xứng với lực lượng lao động nữ, nhưng trên thực tế, Ngày càng có thêm nhiều phụ nữ được tham gia lãnh đạo, quản lý, qua đó càng khẳng định rõ vị thế, vai trò và năng lực của phụ nữ. Hiệu quả của việc kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lí các vi phạm về thực hiện các chính sách đối với lao động nữ có tác động trực tiếp đến thực thi chính sách. Những văn bản pháp quy của Nhà nước đã tạo ra hành lang pháp lý rất chặt chẽ và rất cụ thể. Tuy nhiên, vẫn còn những vướng mắc gây nhiều tranh cãi về việc 53 thực hiện chế độ chính sách đối với lao động nữ trong các doanh nghiệp ở nước ta thời gian qua, mà một trong những nguyên nhân là do các cấp chính quyền cơ sở chưa thể hiện được vai trò, chức năng của mình trong việc phán xét, giải quyết và xử lý những vi phạm luật lao động một cách hợp tình, hợp lý. Vì vậy, cần phải tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện chế độ chính sách đối với lao động nữ, nhất là trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước, qua đó tìm ra hướng tháo gỡ làm cho mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động ngày càng bình đẳng, thân thiện, mang lại lợi ích chung cho cá nhân, tập thể và xã hội. Các hủ tục trong xã hội, sự bất bình đẳng giới gây cản trở đến thực hiện chính sách đối nữ công nhân, lao động. Điển hình trong các hủ tục gây ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đối với nữ công nhân, lao động là thói trọng nam khinh nữ , đã tồn tại trong xã hội Việt Nam từ thời phong kiến đến tận ngày nay. Dẫn đến tình trạng ít quan tâm đến lao động nữ, việc gì cũng “đổ lên đầu” phụ nữ. Thêm vào đó những nạn bạo hành gia đình, quấy rối tình dục, buôn bán người, vi phạm pháp luật của nam giới mà lao động nữ phải gánh chịu. Quan niệm phải có con trai để nối dõi tông đường, thích sinh nhiều con cũng ảnh hưởng không tốt đến thực hiện chính sách kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc sức khoẻ lao động nữ. Tư tưởng cho rằng phụ nữ không cần học nhiều, học cao đã gây cản trở đến việc thực thi chính sách đào tạo, học tập ngâng cao trình độ các mặt cho lao động nữ. 2. Giải pháp chung cho chính sách đối với phụ nữ Để phát huy vai trò tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế của phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, trong thời gian tới các cấp công đoàn cần tập trung một số nhiệm vụ công tác sau: Một là: Nâng cao trình độ, năng lực, nhận thức về giới, bình đẳng giới, về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho nữ CNVCLĐ, tạo sự đổi mới trong công tác nữ công, phát triển đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới và hội nhập kinh tế quốc tế. 54 Hai là: Xây dựng, triển khai, thực hiện kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ giai đoạn 2011-2020 trong hệ thống công đoàn cấp mình, đưa vào nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng; khắc phục tư tưởng tư ti, an phận, níu kéo nhau của một bộ phận chị em, nêu cao tinh thần tự chủ, đoàn kết, vượt khó vươn lên để không ngừng tiến bộ, đóng góp ngày càng nhiều cho gia đình và xã hội. Ba là: Tham gia với các cơ quan chức năng, các cấp chính quyền và người sử dụng lao động trong việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ chính sách đối với lao động nữ cho phù hợp với ngành nghề, đối tượng, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho lao động nữ; kiểm tra giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách đối với lao động nữ, trong đó quan tâm việc thực hiện Bộ luật lao động, Luật BHXH, các chế độ chính sách có liên quan đến lao động nữ ở các doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị nhằm hạn chế những vi phạm trong việc sử dụng lao động nữ. Bốn là: Phối hợp với cơ quan Y tế thực hiện tốt công tác chăm lo sức khoẻ, khám phụ khoa cho lao động nữ, nâng cao nhận thức về chăm sóc sức khoẻ sinh sản, Dân số- KHHGĐ. Năm là: Đẩy mạnh phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” trong nữ CNVCLĐ gắn với phong trào thi đua khác do Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Trung ương Hội LHPN Việt nam phát động, động viên khích lệ lực lượng lao động nữ thi đua nâng cao năng xuất lao động, hiệu quả công tác, góp phần vào việc hoàn thiện chuẩn mực người phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Phong trào phải thực sự tạo ra môi trường để chị em rèn luyện và phấn đấu. Sáu là: Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Ban VSTPCPN, củng cố, kiện toàn Ban VSTBCPN trong hệ thống công đoàn. Tham mưu cho cấp uỷ việc quy hoạch đào tạo cán bộ nữ. Phát hiện bồi dưỡng tài năng trong nữ CNVCLĐ. Giới thiệu những cán bộ nữ đủ tiêu chuẩn, điều kiện đưa vào nguồn quy hoạch, đề bạt tham gia bộ máy lãnh đạo các cấp. 55 Danh mục tài liệu tham khảo 3. phap.html 4. 40;jsessionid=B210370AAFDDFAED08F1484EF1E30DED?p_p_id=62_INSTANCE_Z5vv&p _p_lifecycle=0&p_p_state=normal&_62_INSTA 5. la-thuc-trang-va-giai-phap-3542/ 6. 121;jsessionid=308F189B69959D7F029F39794B77B6D8?p_p_id=62_INSTANCE_Z5vv&p_p _lifecycle=0&p_p_state=normal&_62_INSTANCE_Z 5. 6. phap.html 7. BẢNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CÁC THÀNH VIÊM TRONG NHÓM Họ và tên Nhiệm vụ Mức độ hoàn thành Đánh giá 56 Bùi Thị Hoàn Nguyễn Thị Giang Đinh Thị Thu Hà Hoàng Thị Bước Bùi Thị Dung Nguyễn Thị Dinh Lê Thị Thanh Thư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcsxh_nhom_7_ban_chinh_5749.pdf
Luận văn liên quan