Giới hạn ngân sách của chính phủ có nghĩa là hệ số ước lượng của các yếu tố
tài chính trong một hồi quy tăng trưởng phụ thuộc vào cách mà nó được tài trợ. Tác
động của yếu tố cá nhân không thể cô lập được vì nó chỉ có thể ước lượng sự khác
biệt giữa các hệ số tương quan với một cặp yếu tố ngân sách chính phủ. Nơi mà lý
thuyết dự đoán các hệ số tiến đến 0 . Tuy nhiên, nó có thể kiểm tra trạng thái bằng
nhau của các hệ số trong tăng trưởng hồi quy. Chúng tôi đã tìm thấy chi tiêu được
phân loại gồm phi sản xuất và thuế doanh thu, phân loại là không gây bóp méo để có
các hệ số bằng nhau, và do đó chúng tôi không thể bác bỏ các giả thuyết rằng các
biến này không có tác động lên tăng trưởng phù hợp với dự đoán của Barro(1990).
Khi tài trợ kết hợp bởi một số yếu tố không gây bóp méo thuế và không chi tiêu sản
xuất. Một sự gia tăng trong chi phí sản xuất làm tăng trưởng tăng đáng kể, sự gia
tăng trong việc bóp méo thuế sẽ giảm đáng kể tốc độ tăng trưởng. Cả hai kết quả
này phù hợp với mô hình của Barro (1990). Chúng tôi cũng kiểm tra tính mạnh mẽ
kết quả của chúng tôi với những thay đổi khác nhau trong đặc điểm kỹ thuật, và tìm
thấy tính mạnh mẽ của nó. Chúng tôi đã tìm thấy, tuy nhiên, cường độ của những tác
động dự kiến(sản xuất) chi tiêu và (bóp méo). Thuế thì nhạy cảm với dữ liệu bình
quân cho 5 năm. Điều này cho thấy cần thực hiện thận trọng hơn trong việc dự đoán
các ảnh hưởng lên tăng trưởng của các thay đổi tài khóa, công việc tiếp theo là phải
tìm kiếm để phát hiện ra độ lớn đáng tin cậy hơn. Tuy nhiên, ngay cả những ước
lượng thấp nhất của chúng tôi yêu cầu tăng chi tiêu sản xuất hoặc giảm bóp méo về
thuế 1% của GDP có thể giúp tỷ lệ tăng trưởng tăng khiêm tốn ở mức (0.1 đến
0.2%/ năm) .
24 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2194 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách tài khóa và tăng trưởng - Bằng chứng từ các nước OCED, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 1
Tiểu luận
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ TĂNG TRƯỞNG: BẰNG
CHỨNG TỪ CÁC NƯỚC OCED
FISCAL POLICY AND GROWTH: EVIDENCE FROM OECD COUNTRIES
(Richard Kneller , Michael F. Bleaney , Norman Gemmell)
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 2
MỤC LỤC
1. Giới thiệu: ....................................................................................................................... 3
2. Lý thuyết dự đoán:........................................................................................................ 5
3. Bằng chứng thực nghiệm hiện có : ............................................................................ 7
4. Phương pháp luận thực nghiệm và kết quả: ........................................................... 7
4.1. Dữ liệu và phương pháp luận:................................................................................. 9
4.2. Kết quả thực nghiệm:............................................................................................. 13
4.3 Kiểm định robustness:............................................................................................. 15
4.3.1 GDP ban đầu: .................................................................................................. 16
4.3.2 Thay đổi kỳ 5 năm: ........................................................................................... 16
4.3.3. Ước tính biến công cụ:.................................................................................... 19
4.3.4. Phân loại lại các biến tài chính ..................................................................... 20
5. Kết luận :....................................................................................................................... 22
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 3
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ TĂNG TRƯỞNG: BẰNG CHỨNG TỪ CÁC
NƯỚC OCED
FISCAL POLICY AND GROWTH: EVIDENCE FROM OECD COUNTRIES
(Richard Kneller , Michael F. Bleaney , Norman Gemmell)
Phải chăng bằng chứng phù hợp với những dự đoán của các mô hình tăng
trưởng nội tại cho rằng cấu trúc thuế và chi tiêu công có thể ảnh hưởng đến tốc độ
tăng trưởng ổn định? Nhiều nghiên cứu trước đây cần phải được đánh giá xem xét
lại vì đã bỏ qua độ lệch liên quan đến việc không nêu đầy đủ chi tiết của giới hạn
ngân sách chính phủ. Chúng tôi chỉ ra rằng những độ lệch này là trọng yếu và điều
chỉnh chúng, tìm kiếm cơ sở vững chắc cho mô hình Barro (1990,
Chi tiêu của chính phủ trong một mô hình tăng trưởng nội sinh. Tạp chí Chính trị
Nền kinh tế 98 (1), S103-117, cho một nhóm 22 quốc gia OECD, 1970-1995.
Đặc biệt chúng tôi tìm thấy (1)thuế gây bóp méo kìm hã m tăng trưởng, trong khi
thuế không gây bóp méo thì không, và (2)Chi tiêu chính phủ vào sản xuất đẩy mạnh
tăng trưởng, trong khi chi tiêu phi sản xuất không có tác dụng đối với tăng trưởng.
1. Giới thiệu:
Tỷ lệ phân chia các khoản chi tiêu chính phủ, hoặc các thành phần của chi
phí và doanh thu có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng trong dài hạn hay không?
Theo các mô hình tăng trưởng tân cổ điển của Solow (1956) và Swan (1956), câu trả
lời phần lớn là "không". Ngay cả khi chính phủ có thể tác động đến tốc độ tăng
trưởng dân số, ví dụ như giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh hoặc khuyến khích sinh đẻ,
những điều trên không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng dài hạn của thu nhập bình
quân trên đầu người. Trong các mô hình này, thuế và các biện pháp chi tiêu ảnh
hưởng đến tỷ lệ tiết kiệm hoặc khuyến khích đầu tư vốn vào vật chất hay con người
cuối cùng ảnh hưởng đến tỷ số cân bằng tài chính hơn là tốc độ tăng trưởng bền
vững.
Ngược lại, trong các mô hình tăng trưởng nội sinh, vốn đầu tư vào con người
và vật chất ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng bền vững, và do đó trong các mô hình
này, ít nhất một số yếu tố thuế và chi tiêu công đóng vai trò trong quá trình tăng
trưởng. Kể từ khi có sự đóng góp tiên phong của Barro (1990), King và Rebelo
(1990) và Lucas (1990), một số bài báo đã mở rộng việc phân tích thuế, chi tiêu
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 4
công và tăng trưởng, chứng minh trong một vài điều kiện khác nhau với các biến tài
khóa có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn (ví dụ, Jones và cộng sự, 1993;.
Stokey và Rebelo, 1995;. Mendoza và cộng sự, 1997).
Nếu lý thuyết là hợp lý hoàn toàn, tuy nhiên, trên thực tế không phải như vậy.
Như Stokey và Rebelo (1995, trang. 519) tuyên bố, '' Những ước tính gần đây của
tác động đến tăng trưởng tiềm năng của thuế biến động khá lớn, từ 0 đến 8%’'. Trên
thực tế, hầu như không có nghiên cứu đi sâu vào kiểm tra các dự đoán của mô hình
tăng trưởng nội sinh đối với các cấu trúc của cả thuế và chi tiêu trong với cách mà
chúng tôi làm ở đây ( Devarajan và cộng sự(1996). Chỉ làm như vậy cho vấn đề chi
tiêu).
Hơn nữa, vài nhà nghiên cứu đã công nhận rằng nghiên cứu một phần (ví dụ
như những người tập trung nghiên cứu có chọn lọc chỉ một mặt của ngân sách và bỏ
qua những mặt khác) thiên lệch về phương pháp liên kết các tham số ước lượng với
các giả định tài chính tiềm ẩn. Điểm này đã được chứng minh bởi Helms (1985),
Mofidi và Stone (1990) và Miller và Russek (1993) với các bộ dữ liệu khác nhau.
Chúng tôi khám phá ý nghĩa của lập luận này cho đặc điểm kỹ thuật hồi quy
và cho thấy rằng, nếu điều này bị bỏ qua, sự thiên lệch trong ước lượng về tác động
tăng trưởng của các biến tài khóa có thể là đáng kể.
Trong bài báo này, chúng tôi kiểm tra những dự đoán cụ thể về chính sách
công của mô hình tăng trưởng nội sinh gần đây như Barro (1990) và Mendoza et al.
(1997), chú ý cẩn thận để tránh nguồn gốc của thiên lệch vừa được đề cập đến. Sử
dụng các tiêu chuẩn đề xuất của các mô hình này để phân loại dữ liệu tài chính,
chúng ta xem xét các tác động tăng trưởng của tài chính chính sách đối với một
nhóm 22 quốc gia OECD trong giai đoạn 1970-1995. Chúng tôi đã thấy: (i) sự hỗ
trợ đáng kể cho các dự đoán của Barro (1990) đối với các tác động của cấu trúc thuế
và chi tiêu đối vớ tăng trưởng; (ii) việc không nêu chi tiết giới hạn ngân sách chính
phủ dẫn đến đánh giá các thông số rất khác nhau, như các nghiên cứu trước đó, đã
mắc lỗi cơ bản vì không có tính vững, và (iii)Kết quả của chúng tôi là vững trước
những thay đổi trong việc phân loại dữ liệu hoặc đặc điểm kỹ thuật hồi quy.
Phần còn lại của bài nghiên cứu được tổ chức như sau:
Phần 2: Tóm tắt các dự đoán chính sách công của mô hình tăng trưởng nội sinh gần
đây và thảo luận sự liên quan của giới hạn ngân sách chính phủ để kiểm tra thực
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 5
nghiệm.
Phần 3: Các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan
Phần 4: Thảo luận phương pháp thực nghiệm và kết quả cho các ví dụ từ OECD.
Phần 5: Kết luận.
2. Lý thuyết dự đoán:
Như chúng ta đã biết, chính sách công trong mô hình tăng trưởng tân cổ điển
(xem, cho ví dụ, Judd, 1985, Chamley, 1986) ủy thác vai trò của chính sách tài khóa
để đưa ra một quyết định mức sản lượng hơn là tỷ lệ tăng trưởng dài hạn. Trạng thái
tỷ lệ tăng trưởng ổn định được chi phối bởi các yếu tố ngoại s inh gồm tăng trưởng
dân số và tiến bộ kỹ thuật. Trong khi chính sách tài khóa có thể chỉ ảnh hưởng đến
hướng chuyển đổi tiến tới trạng thái ổn định này.
Ngược lại, chính sách công trong mô hình tăng trưởng nội sinh của Barro (1990),
Barro va Sala-i-Martin (1992), (1995) và Mendoza et al (1997) cung cấp cơ chế
bằng việc chính sách tài khóa có thể xác định được cả mức sản lượng và tỷ lệ tăng
trưởng ổn định.
Dự báo từ những mô hình tăng trưởng nội sinh này được xuất phát từ phân
loại các yếu tố của ngân sách chính phủ vào một trong bốn loại : thuế bóp méo hoặc
thuế không gây bóp méo và chi phí sản xuất hay chi phí phi sản xuất. Thuế bóp méo
trong bối cảnh này là những cái gây ảnh hưởng lên quyết định đầu tư của những tác
nhân (đối với khía cạnh vật chất, hoặc con người), tạo nên thuế gây chèn lấn và từ
đó bóp méo tỷ lệ tăng trưởng ổn định. Thuế không bóp méo không ảnh hưởng lên
quyết định tiết kiệm/đầu tư vì nó tạo ra chức năng thiên về tính tự nhiên, và vì vậy
nó không gây tác động lên tỷ lệ tăng trưởng.
Chi tiêu chính phủ được phân biệt theo mặc dù chúng bao gồm sự tranh luận
trong các chức năng sản xuất tư nhân hoặc không. Nếu có, thì chúng được phân loại
mang tính sản xuất và vì vậy có một ảnh hưởng trực tiếp lên tỷ lệ tăng trưởng. Nếu
chúng không có, thì chúng được phân loại như chi phí phi sản xuất và không ảnh
hưởng lên tỷ lệ tăng trưởng ổn định (xem trong Barro và Sala-i-Martin, 1995 để có
một lý thuyết trình bày rõ ràng).
Những kết quả này có thể được mở rộng theo nhiều cách khác nhau, ví dụ
như cho phép chính phủ được cung cấp hàng hóa mang tính sản xuất tồn kho hơn là
hình thức lưu lượng (Glomm và Ravikumar, 1994, 1997) hoặc cho các hình thức
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 6
khác nhau của thuế bóp méo (hoặc hình thức khác nhau của chi tiêu sản xuất) cho
các mức khác nhau (Devarajan et al., 1996., Mendoza et al., 1997). Những cái đó tất
nhiên có thể tranh luận qua việc phân loại các chi phí riêng biệt như sản xuất và phi
sản xuất hoặc của các loại thuế riêng biệt như thuế bóp méo và không bóp méo và
đây chính là điểm mà chúng tôi quay trở lại trong phần thực nghiệm.
Những mô hình này dự đoán rằng thay đổi quan điểm doanh thu từ hình thức
thuế bóp méo theo hướng không bóp méo có một tác động thúc đẩy tăng trưởng.
Trong khi chuyển đổi chi phí từ chi phí sản xuất theo hướng phi sản xuất làm hình
thức tăng trưởng chậm lại. Tài trợ của thuế không bóp méo làm tăng chi tiêu sản
xuất và được dự đoán tạo ra tác động tích cực lên tỷ lệ tăng trưởng. Trong khi tài trợ
thuế bóp méo được dự báo hiệu quả tăng trưởng không rõ ràng. Cuối cùng chi phí
phi sản xuất tài trợ bởi thuế bóp méo rõ ràng tạo ảnh hưởng tiêu cực lên tăng trưởng,
nhưng không ảnh hưởng được dự đoán nếu thuế không bóp méo tài chính được sử
dụng (xem Barro 1990).
Trong nghiên cứu thực nghiệm, một số vấn đề quan trọng thường bị bỏ qua -
là minh bạch hay không minh bạch tài chính của việc thay một đổi đơn vị trong
ngân sách chính phủ sẽ ảnh hưởng đến hệ số ước tính. Để đưa ra điểm chính thức,
giả sử rằng tốc độ tăng trưởng, git, trong đất nước i tại thời điểm t là một hàm của
các biến điều kiện (phi tài chính) , Yit , và một vector của biến số tài chính, Xjt.
git = α + iYit + jXjt + uit (1)
Giả định rằng tất cả các yếu tố của ngân sách (bao gồm cả thâm hụt / thặng dư) được
chứa trong đó, để
jt = 0,
một phần tử của X được bỏ qua trong ước tính của phương trình. (1) để tránh tuyến
tính hoàn toàn. Biến được bỏ qua cho rằng ảnh hưởng đến yếu tố cân bằng trong
ràng buộc ngân sách của chính phủ. Vì vậy, nếu chúng tôi viết lại phương trình. (1)
như sau:
git = α + iYit + jXjt + γmXmt + uit (2)
và sau đó bỏ qua Xmt để tránh đa tuyến tính, đồng nhất thức:
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 7
jt = 0
Áp dụng điều này ta có biểu thức của dự đoán là:
git = α + iYit + j- γm) Xjt + uit (3)
Các thử nghiệm giả thuyết tiêu chuẩn của hệ số tự do của Xjt trong thử
nghiệm thực tế với giả thuyết H0 là (γj – γm) = 0 hơn là γj = 0. Theo đó hiểu đúng hệ
số của mỗi loại tài chính là do ảnh hưởng của việc thay đổi một đơn vị trong biến có
liên quan được bù đắp bởi việc thay đổi một đơn vị trong loại được bỏ qua, đó là
yếu tố tài chính ẩn. Nếu loại được lựa chọn để bỏ qua được thay đổi, hệ số ước tính
của các loại này sẽ thay đổi. Điều này có nghĩa là người điều tra viên phải cẩn thận
để lựa chọn một loại bỏ qua "trung lập"(nơi mà lý thuyết đề xuất γm = 0).
Điều này có nghĩa là có thể chỉ kiểm tra sự khác nhau giữa hai giá trị γ, và
không cho từng giá trị γ, không loại trừ khả năng thử nghiệm có hai giá trị γ bằng
nhau. Điều này là phù hợp khi lý thuyết cho thấy rằng có nhiều hơn một loại trung
lập (trong trường hợp này, thuế không gây bóp méo và chi phí phi sản xuất), trong
trường hợp cả hai giá trị γ mong chờ sẽ là không. Nếu giả thuyết về bằng nhau
không thể bị loại bỏ, thì các thông số dự đoán sẽ được chính xác hơn bằng cách loại
bỏ cả hai. Nói cách khác, tiến trình thích hợp là kiểm tra xuống từ các minh bạch
đầy đủ nhất của ràng buộc ngân sách chính phủ đến minh bạch không đầy đủ, quan
tâm để bỏ qua những yếu tố lý thuyết này cho thấy sẽ có tác dụng tăng trưởng không
đáng kể. Nếu điều này không được thực hiện, và (ví dụ) biến chi phí này được bỏ
qua từ hồi quy và các biến số thuế cũng bao gồm (như trong Mendoza et al., 1997)2,
kết quả sẽ bị thiên lệch vì một phần tài chính tiềm ẩn bởi các yếu tố không trung lập
của ngân sách chính phủ. Trong ví dụ trường hợp, khi tăng một đơn vị thuế sẽ tài trợ
một phần cho chi phí sản xuất, tác động ước tính (tiêu cực) sẽ bị thiên lệch với
không (chúng tôi trình bày bằng chứng về điều này sau).
3. Bằng chứng thực nghiệm hiện có :
Phần lớn các nghiên cứu thực nghiệm nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế và biến tài chính trước khi mô hình tăng trưởng nội sinh chính sách
công liên quan ở trên, và thay đổi tập hợp dữ liệu, kỹ thật toán kinh tế và chất lượng.
Tính chất đặc biệt của các loại tài liệu trước năm 1990 hà m ý nó cung cấp, thời điểm
tốt nhất, chỉ kiểm tra thô có giá trị thực tiễn của mô hình tăng trưởng nội sinh (cũng
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 8
như đang chịu những định kiến được đề cập trước đó và kết quả thu được cũng rất
khác nhau).
Trong Kneller et al. (1998), chúng tôi lập bảng các nghiên cứu chính và kết
quả chủ yếu của nó, phân loại chúng dựa theo các biến tài chính bao gồm trong mô
hình hồi quy ( thuế, chi tiêu dùng của chính phủ, chi chuyển nhượng phúc lợi, đầu tư
của chính phủ). Có sự lan rộng nhưng không dừng của hệ số biểu hiện và ý nghĩa
thậm chí trong một số trường hợp các biến dường như giống nhau trong cách giống
nhau lý thuyết hồi quy. Một điểm nữa cũng được chứng minh bởi Levine va Renelt
(1992) Easterly và Robelo (1993) cung cấp những bằng chứng sâu xa về tính không
mạnh mẽ của các biến tài chính bằng việc chứng minh sự phụ thuộc của nó vào
nhóm biến điều kiện và điều kiện ban đầu.
Tính không mạnh mẽ một phần phản ánh khuynh hướng phổ biến thêm biến
tài chính để hồi quy trong một cách tương đối đặc biệt mà không chú ý đến hạn chế
tuyến tính ràng buộc ngân sách chính phủ. Chỉ có Helm (1985), Mofidy và Stone
(1990) Miller và Russek (1993) đã giải quyết được các vấn đề. Miller và Russek cho
ví dụ, tìm ( với bảng dữ liệu hàng năm của 39 quốc gia, 1975~1984 ) thấy rằng sự
tăng trưởng ảnh hưởng bởi sự thay đổi trong chi tiêu phụ thuộc chủ yếu theo cách
thức mà sự thay đổi trong chi tiêu được tài trợ. Nói chung kết quả của họ cho rằng
thay đổi trong chi tiêu được tài trợ bởi thuế sản xuất tác động tăng trưởng không
đáng kể, và rằng, nơi chúng xảy ra tác động tiêu cực có khuynh hướng liên quan đến
thâm hụt ngân sách thay đổi trong thuế hoặc chi tiêu. Ho không làm thế, tuy nhiên
không phân biệt sự khác nhau giữa loại chi tiêu và doanh thu trong các đề nghị của
mô hình tăng trưởng nội sinh.
Tầm quan trọng của sự định rõ các ràng buộc ngân sách chính phủ được đưa
ra bởi các thực nghiệm gần đây . Mendoza et al (1997) kết luận rằng kết hợp về thuế
không có tác động đáng kể lên tăng trưởng (mặc dù nó có tác động đáng kể lên đầu
tư tư nhân) . Nhưng kể từ khi hồi quy của họ không bao gồm những biến chi tiêu, dự
đoán của họ thiên về một phần tài chính tiềm ẩn của chi tiêu sản xuất. Điều này
được sinh ra bởi Kocherlakota và Yi (1997) tìm ra rằng các biện pháp về thuế ảnh
hưởng đáng kể đến tăng trưởng chỉ khi chi phí vốn công bao gồm trong hồi quy.
Đánh giá bằng chứng trong Kneller et al (1998) nêu bật những loạt dự toán tăng
trưởng ảnh hưởng đến chi tiêu chính phủ. Hầu hết các nghiên cứu này, tuy nhiên,
bao gồm không( hoặc một ít) biến về thuế. Có một số hỗ trợ cho quan điểm đầu tư
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 9
của chính phủ trong hình thức giao thông vận tải và thông tin liên lạc trải qua quá
trình sản xuất tạo tác động tích cực lên tăng trưởng, trong khi đó thu nhập từ thuế
cũng có xu hướng tạo ra hệ số tiêu cực đáng kể nhưng có rất ít sự nhất quán để tìm
ra các nghiên cứu.
4. Phương pháp luận thực nghiệm và kết quả:
4.1. Dữ liệu và phương pháp luận:
Như đã nói ở trên, trong khung của mô hình tăng trưởng nội sinh có liên quan
đến nghiên cứu này, kết quả được đưa ra nhờ vào sự phân loại của các biến tài chính
thành một trong bốn loại. Trong đó chúng ta thêm vào biến :thặng dư ngân sách nhà
nước và các khoản thu và chi tiêu mà chưa được phân loại rõ ràng (chúng ta gọi
những nguồn thu khác và "chi tiêu khác). Chúng tôi tổng hợp phân loại theo chức
năng dữ liệu tài chính của IMF thành bảy nhóm chính được mô tả trong Bảng 11 và
sau đó kiểm tra độ nhạy của kết quả này với việc phân loại dữ liệu trên.
Bảng 1
Tổng hợp lý thuyết về phân nhóm theo chức năng
Phân loại theo lý thuyết Phân loại theo chức năng
Thuế gây bóp méo Thuế Thu nhập và lợi nhuận
Đóng góp an sinh xã hội
Thuế trong sổ lương và nhân lực
Thuế trên tài sản
Thuế không gây bóp méo Thuế đối với hàng hóa và dịch vụ trong nước
Thu nhập khác Thuế đối với thương mại quốc tế
Thu nhập không thuế
Thu thuế khác
Chi tiêu sản suất Chi tiêu dịch vụ công cộng chung
Chi tiêu quốc phòng
Chi tiêu giáo dục
Chi tiêu y tế
Chi tiêu nhà ở
Chi tiêu vận tải và thông tin liên lạc
1 Các GFSY bao gồm nhóm 'cho vay trừ đi trả nợ ". Nhóm này, thường rất nhỏ (xem bảng 2) , được bỏ trong mô hình hồi quy như là một
biến r iêng biệt (elmr) nhưng sẽ không có nghiên cứu sâu hơn về nhóm này.
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 10
Chi tiêu phi sản xuất An sinh xã hội và phúc lợi xã hội chi tiêu
Chi tiêu cho giải trí
Chi sự nghiệp kinh tế
Chi tiêu khác chi tiêu khác (không phân loại)
Ghi chú: Phân loại theo chức năng sẽ được áp dụng cho nguồn dữ liệu nghiên cứu
Một vấn đề quan trọng là việc phân bổ các khoản thuế và chi tiêu , thành các
nhóm: gây bóp méo / không gây bóp méo và sản xuất / phi sản xuất. Trong khi tất
cả các loại thuế chính được sử dụng trong các nước OECD là bóp méo, thì trong thử
nghiệm mô hình tăng trưởng nội sinh thì sự bóp méo đó là để khuyến khích đầu tư
(trong cả tiềm lực tài chính và / hoặc nhân lực). Kế thừa từ nghiên cứu của Barro
(1990),chúng tôi phân loại thuế đánh trên thu nhập và tài sản là các loại thuế “gây
bóp méo”, 2các loại thuế tiêu thụ ( dựa trên chi tiêu) thì được xem như thuế "không
gây bóp méo ', trên cơ sở là nhóm thuế thứ hai sẽ không làm giảm lợi nhuận đầu tư,
mặc dù chúng có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn giữa lao động hay là nghỉ ngơi. Tất
nhiên, trong nhiều mô hình phức tạp (như Mendoza và cộng sự, 1997.) thuế tiêu thụ
đã bóp méo các quyết định đầu tư (ảnh hưởng gián tiếp) đến mức mà chúng ảnh
hưởng đến sự lựa chọn giữa lao động, giáo dục, giải trí của các đại lý. Tuy nhiên lưu
ý rằng, việc phân loại của chúng tôi là các loại thuế tiêu thụ được xem như "không
gây bóp méo" là một giả thuyết cho mô hình thực nghiệm 3của chúng tôi (chúng tôi
thử nghiệm ở phía sau), chứ đây không phải là một giả định. Việc phân loại chi tiêu
sản xuất / phi sản xuất chúng tôi dựa theo Barro và Sala-i-Martin (1995); Devarajan
et al. (1996) và phân chia chi tiêu lớn (vật chất hoặc con người) là chi tiêu 'sản
xuất'. Nhóm chi tiêu “phi sản xuất” là chi tiêu an sinh xã hội4.
Tập hợp dữ liệu của chúng tôi bao gồm 22 quốc gia phát triển cho giai đoạn
2 Trong m ột số mô hình tăng trưởng nội sinh thuế đánh trên vốn và thuế thu nhập lao động có tác động khác nhau đối với tăng trưởng.
Trong trường hợp không có dữ liệu phân tách phù hợp chúng tôi không thể kiểm tra hai loại thuế riêng và do đó ước tính tác động "trung
bình". Vì lý do tương tự, chúng tôi không thể tách thuế lợi nhuận thành thuế "thuần" lợi nhuận ( là loại thuế không gây bóp méo) và thuế
trên lợi nhuận vốn (là thuế bóp méo)-xem Atkinson và Stiglitz, 1980 (trang 464-468) . Ngoài ra một số loại thuế trên tài sản tốt nhất có
thể được coi là không gây bóp méo mở rộng ra là loại thuế đại diện cho các loại thuế một lần về đất đai.
3
Những bóp méo từ thuế tiêu thụ trong thực tế có thể phát sinh từ thông lệ thực hành do những thiết lập mức thuế khác nhau đối với
hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Điều này có thể ảnh hưởng đến khuyến khích đầu tư khi các m ức thuế suất thuế tiêu thụ này rơi vào hàng
hoá được đầu tư này là sản phẩm thay thế hoặc bổ sung (bao gồm cả đầu tư giáo dục)
4 Lưu ý rằng trong Barro (1990), chi tiêu an sinh xã hội được dự đoán sẽ không có tác động lên tăng trưởng (vì họ được đưa ra giả
thuyết để nhập các chức năng hữu ích nhưng không phải là chức năng sản xuất). Một số thế hệ mô hình bị chồng chéo tuy nhiên có thể
dự đoán tác động tiêu cực của chi tiêu an sinh xã hội (chẳng hạn như hưu trí) về tăng trưởng dài hạn nếu những chi tiêu này làm giảm
mức tiết kiệm tư nhân hiện nay . Thuế được phân loại của chúng tôi trong Phần 4.3 xem xét các tác động của chi tiêu an sinh xã hội riêng
(khi hồi quy được quy định một cách thích hợp), và chúng tôi đã thấy không có bằng chứng về tác dụng tiêu cực lên tăng trưởng của loại
chi tiêu này .
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 11
1970-1995, được lấy từ hai nguồn. Dữ liệu ngân sách nhà nước của GFSY, dữ liệu
còn lại là từ các bảng dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (xem Phụ lục A). Những số
liệu này hàng năm, nhưng chúng tôi thực hiện theo các tiêu chuẩn thực hành là lấy
trung bình của 5 năm để loại bỏ những ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh, và sau đó
chúng tôi áp dụng bảng thống kê kỹ thuật kinh tế tĩnh. Để dễ dàng so sánh kết quả
của chúng tôi với những nghiên cứu ở nơi khác, chúng tôi áp dụng phương pháp tiếp
cận tiêu chuẩn. Ở giai đoạn sau, chúng tôi xem xét mức độ nhạy cảm của những kết
quả của chúng tôi theo dữ liệu thời gian. 5
Bảng 2 đưa ra một số thống kê mô tả cho tập dữ liệu. Tập hợp các biến điều
kiện bao gồm tỷ lệ đầu tư, tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động và GDP ban đầu6.
Có thể thấy rằng các quốc gia mẫu của chúng tôi đã tăng trưởng trung bình khoảng
2,8% GDP bình quân đầu người mỗi năm, với tỷ lệ đầu tư vượt quá 20% và tăng
trưởng lực lượng lao động khoảng 1% mỗi năm Trong số các biến tài chính, nhóm
thuế bóp méo của chúng tôi chiếm hai lần doanh thu so với còn nhóm thuế không
gây bóp méo (chiếm 18% của GDP trung bình), trong khi hai nhóm chi tiêu chiếm
khoảng 15% GDP.
Phương trình hồi quy của chúng tôi theo công thức của phương trình.Eq. (3)
ở trên. Ban đầu ,chúng tôi cân nhắc năm công thức khác nhau của bảng dữ liệu ước
lượng cho mỗi hồi quy: OLS gộp,hồi quy một chiều (biến dummy là quốc gia) và
ngẫu nhiên (bằng GLS) và hai chiều (biến quốc gia và thời gian tác động) cố định và
mô hình tác động ngẫu nhiên.
Bảng 2
Thống kê mô tả
Biến Mean
Standar
d
Minimum
(country)
Maximum
(country)
5 Để duy trì sự cân bằng giữa các giới hạn ngân sách của chính phủ sau khi bình quân dữ liệu, chúng ta cần chọn một trong bảy biến tài
chính làm biến cân bằng. Hai phương pháp đã được sử dụng để chọn là: đầu tiên là cân bằng ngân sách thông qua thâm hụt và thứ hai
thông qua các chi tiêu khác và các thu nhập khác . Kết quả thực nghiệm cho thấy không có sự khác biệt giữa ha i phương pháp này và
chúng tôi chỉ dùng biến thâm hụt ngân sách là là biến cân bằng trong bài nghiên cứu này .
6 Các biến điều kiện là được phá t hiện trong mô hình hồi quy thông thường Barro. Ngoài ra , đo lường nguồn nhân lực ( từ Nehru et al.,
1995) đã được phá t hiện ra nhưng số liệu này mang lại tiêu cực, thông số thống kê không đáng kể.
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 12
deviati
on
Tăng trưởng GDP (% p.a.) 2.79 1.66
1.54
(Switzerland) 5.09 (Turkey)
GDP ban đầu (thousands of
1970 US$)
10.7
1 3.38 2.966 (Turkey) 15.313 (US)
Đầu tư
22.0
6 3.61 18.11 (UK) 29.43 (Portugal)
Tăng trưởng lực lượng lao
động (% p.a.) 1.06 0.8
20.06
(Germany) 2.06 (Iceland)
Thặng dư ngân sách
23.0
8 3.39
211.76
(Portugal)
1.65
(Luxembourg)
Khoản cho vay trừ Khoản trả
nợ 1.22 1.39 0.11 (Ireland) 4.49 (Norway)
Thuế bóp méo
18.7
6 7.25 7.10 (Iceland)
33.47 (The
Netherlands)
Thuế không gây bóp méo 9.15 4.22 0.96 (US) 16.77 (Norway)
Các khoản thu khác 4.56 2.96
1.51
(Germany) 16.72 (Ireland)
Chi tiêu sản xuất
14.6
9 4.57 7.35 (Canada) 23.74 (Italy)
Chi tiêu phi sản xuất
15.2
4 6.05 4.96 (Turkey)
24.31
(Luxembourg)
Chi tiêu khác 4.44 3.07 0.98 (Finland) 9.16 (Ireland)
Ghi chú : Bảng trên đưa ra thống kê mô tả cho các biến trong mô hình hồi quy. Số
liệu là % GDP trừ những chỗ có ghi chú. Bộ dữ liệu này là của trung bình 5 năm :
1970–95 (Australia, Austria, Canada, Denmark, Fin land, Germany, Iceland,
Luxembourg, The Netherlands, Norway, Spain, Sweden, Turkey, UK, USA); 1975-
95 (France); 1970-90 (Belgium); 1970-85 (Greece, Switzerland); 1975–90 (Italy,
Portugal); and 1980–95 (Ireland).
Lựa chọn mô hình dựa trên log-likelihood và R2 điều chỉnh cho hồi quy OLS
gộp và các mô hình hiệu ứng cố định (dùng cho cả mô hình sai số một chiều và hai
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 13
chiều). Vì thử nghiệm của Hausman bác bỏ giả thuyết H0 là không có sự tương
quan giữa các hiệu ứng cá nhân và sai số, chúng tôi chỉ báo cáo kết quả từ các mô
hình hiệu ứng cố định. Trong tất cả các trường hợp, các công thức của phương trình
hồi quy hai chiều (cho thời gian và quốc gia xác định) nhận được xác nhận rõ rằng
từ dấu hiện (có R2 điều chỉnh cao nhất), và chúng tôi báo cáo kết quả ở phần sau
đây.
4.2. Kết quả thực nghiệm:
Bảng 3 tóm tắt các kết quả cơ bản. Cột đầu tiên của bảng sử dụng thuế không
gây bóp méo như một yếu tố tài chính tiềm ẩn, và côt thứ hai sử dụng chi phí phi
sàn xuất. Mỗi loại cần phải có một hệ số 0 theo mô hình Barro (1990), do đó kết quả
sẽ tương tự với một trong hai đặc điểm kỹ thuật. Cuối cùng, cột thứ ba bỏ qua cả hai
biến, đặt một hệ số chung cho hai yếu tố này của ngân sách. Giả thuyết về một hệ số
chung không bị từ chối bởi các dữ liệu, vì vậy chúng tôi giải thích dựa trên các kết
quả được hiển thị trong cột cuối cùng của Bảng 3.
Chúng tôi bắt đầu bằng việc thảo luận về các biến điều kiện. Không giống
như Easterly và Rebelo (1993), chúng tôi thấy rằng GDP ban đầu trong hồi quy có
một hệ số âm có ý nghĩa, cho thấy điều kiện hội tụ của tốc độ tăng trưởng trong giai
đoạn này. Không có biến nào trong hai biến điều kiện, tỷ lệ đầu tư và tỷ lệ tăng
trưởng lực lượng lao động, là có ý nghĩa (thực tế hệ số đầu tư là âm) nhưng cả biến
giả thời gian và quốc gia đều có ý nghĩa chung.
Các biến ngân sách trong Bảng 3 hầu hết có kết quả như mong đợi. Chi phí
sản xuất có hệ số dương có ý nghĩa, ước tính cho thấy GDP tăng 1% sẽ làm tốc độ
tăng trưởng tăng 0,27%. Chi phí khác cũng có một hệ số dương, hơi lớn hơn so với
chi phí sản xuất (0.29)7. Mặt khác, thuế bóp méo làm giảm đáng kể tốc độ tăng
trưởng: hệ số ước tính là -0,41. Con số này có lẽ không thực sự lớn, nhưng, như
chúng ta sẽ thấy dưới đây, thay đổi trong năm đầu tiên của giai đoạn 5 năm phần nào
làm giảm ước lượng điểm của hệ số này. Các khoản thu khác cũng có một kết quả
âm (nhưng nhỏ hơn nhiều và không có ý nghĩa thống kê). Một điểm chú ý của kết
quả là hệ số lớn và dương của thặng dư ngân sách. Ngay cả với giả định của
Ricardian, chúng tôi mong rằng thặng dư có một hệ số dương, vì chúng ta phải hạn
chế nó để tài trợ cho một yếu tố trung lập của ngân sách trong giai đoạn hiện nay,
7
Thực tế, chi phí khác xuất hiện trong kết quả của chúng tôi được coi như chi phí sản xuất
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 14
nhưng không giống như việc hạn chế các khoản bồi thường thâm hụt ngân sách
trong tương lai. Những thâm hụt trong tương lai sẽ tài trợ một phần cho chi phí sản
xuất hoặc cắt giảm thuế bóp méo làm tăng lợi nhuận dự kiến cho đầu tư hiện tại và
do đó phải được phản ánh bằng một tác động tăng trưởng tích cực của thặng dư hiện
tại. Tuy nhiên, lập luận này sẽ chỉ ra một vài hệ số dương của thặng dư nhỏ hơn so
với chi phí sản xuất hoặc sự cắt giảm trong thuế bóp méo.
Bảng 3
Kết quả hồi quy
Kỹ thuật ước lượng: trung bình 5 năm, hai chiều FE
Biến phụ thuộc: Tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người
Biến tài chính bỏ qua Thuế không gây
bóp méo
Chi phí phi sản
xuất
Thuế không bóp méo
và chi phí phi sản
xuất
GDP ban đầu -0.490
(2.79)
-0.490
(2.79)
-0.483
(2.82)
Đầu tư -0.020
(0.33)
-0.020
(0.33)
-0.020
(0.34)
Tăng trưởng lực lượng
lao động
-0.327
(1.09)
-0.327
(1.09)
-0.336
(1.14)
Cho vay trừ khoản trả
nợ
0.417
(1.82)
0.380
(2.13)
0.384
(2.18)
Doanh thu khác -0.154
(0.81)
-0.117
(1.12)
-0.118
(1.13)
Chi phí khác 0.315
(2.00)
0.279
(2.42)
0.289
(2.75)
Thặng dư ngân sách 0.446
(2.79)
0.410
(4.60)
0.416
(4.93)
Thuế bóp méo -0.446
(2.79)
-0.410
(4.21)
-0.410
(4.37)
Thuế không gây bóp
méo
-
0.037
(0.23)
-
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 15
Chi phí sản xuất 0.290
(1.98)
0.253
(1.95)
0.268
(2.43)
Chi phí phi sản xuất 0.037
(0.23)
- -
R 2 điều chỉnh 0.602 0.602 0.621
Số quan sát 98 98 98
4.2.1 Không chi tiết giới hạn ngân sách:
Chúng tôi đưa ra tranh luận rằng, theo lý thuyết, việc nêu đầy đủ giới hạn
ngân sách có tầm quan trọng trong việc giải thích về số liệu tài chính. Nhưng trong
thực tế, sai sót của việc bỏ sót hay không nêu rõ giới hạn ngân sách nghiêm trọng
như thế nào?
Bảng 4 cho thấy độ lệch của những ước tính số liệu thường quan trọng. Trong cột 1
và 2, ba biến thuế và chi phí bị bỏ qua, tương ứng là kết quả từ hồi quy, trong khi
trong cột 3-6 chỉ có một biến chi phí hoặc thuế được đưa vào. So sánh các kết quả
này với bảng 3 cho thấy những thay đổi đáng kể trong dấu hiệu hệ số, cường độ và ý
nghĩa khi một số yếu tố bị bỏ qua trong giới hạn ngân sách.
Trong cột 1,ví dụ, khi bỏ qua thuế, chi phí xuất hiện có tác động làm cho tăng
trưởng âm, đáng kể là trường hợp chi phí phi sản xuất. Vì chi phí (ẩn-chi phí phi sản
xuất) được tài trợ 1 phần bởi thuế bóp méo nên không lạ khi việc bỏ qua biến này
gây nên độ lệch âm đến hệ số chi phí. Tương tự, khi chi phí bị bỏ qua (cột 2), thuế
không bóp méo xuất hiện tạo tác động tăng trưởng dương (so sánh với mức tác động
là 0 ở Bảng 3). Mặt khác, vì thuế (ẩn-thuế không gây bóp méo) tài trợ 1 phần chi phí
sản xuất nên việc bỏ qua biến này tạo nên độ lệch dương kỳ vọng đến hệ số thuế.
Kết quả trong bảng 4 minh chứng cho việc dễ đưa ra kết luận không chính xác bởi
không nêu rõ chi tiết phương trình hồi quy. Vì hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm
đã không nhận ra điểm này và bỏ qua những yếu tố quan trọng của ngân sách chính
phủ, do đó ta không ngạc nhiên nếu kết quả trước đây đưa ra điều nhầm lẫn nào đó.
4.3 Kiểm định robustness:
Trong phần này, chúng tôi thực hiện kiểm định robustness cho kết quả trên
đây đối với 4 thay đổi trong đặc điểm của dữ liệu và phương trình hồi quy. Đầu tiên,
chúng tôi bỏ qua GDP ban đầu khỏi hồi quy để nhận định rằng hệ số biến tài khóa
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 16
có nhạy cảm với sự hiện diện của khoản mục GDP ban đầu không, theo Báo cáo
của Easterly và Rebelo (1993). Thứ hai, chúng tôi xem xét kết quả của chúng tôi có
thay đổi theo việc chọn kỳ thời gian không. Chúng tôi bắt đầu bằng việc thay đổi kỳ
5 năm để những năm bắt đầu 1 kỳ có chữ số cuối là 1 và 6 mà không phải là 0 và 5.
Sau đó chúng tôi sử dụng biến công cụ để kiểm tra khả năng đồng thời của những
biến tài khóa và tăng trưởng. Cuối cùng, chúng tôi xem xét sự phân loại thay thế
của dữ liệu tài chính.
4.3.1 GDP ban đầu:
Easterly và Rebelo (1993) cho thấy rằng ý nghĩa của biến tài khóa trong hồi
quy nhạy cảm với việc có hay không GDP ban đầu. Bỏ điều kiện này sẽ làm Phương
trình (1) thành dạng đơn giản của phương trình tăng trưởng. Vì GDP ban đầu là biến
hồi quy có ý nghĩa trong Bảng 3 ở trên nên không lạ nếu kết quả của chúng tôi thay
đổi tương ứng việc không có nó. Bảng 5 trình bày phương trình hồi quy khi biến này
bị loại trừ. Hệ số của tất cả các biến tài khóa khá gần với giá trị của chúng trong
bảng 3, điều này cho thấy rằng trong dữ liệu của chúng tôi ý nghĩa của biến tài khóa
trong mô h ình tăng trưởng là không nhạy cảm với sự thay đổi trong đặc điểm kỹ
thuật.
4.3.2 Thay đổi kỳ 5 năm:
Bảng 3 dựa trên trung bình 5năm của những năm có chữ số cuối là 0-4 và 5-9. Lựa
chọn này được thực hiện đơn giản vì để tối đa số lượng điểm dữ liệu và thường theo
quy ước. Trong nghiên cứu của Kneller và cộng sự (1998), chúng tôi tìm hiểu hệ
quả của việc thay đổi kỳ thời gian thành các năm có chữ số cuối là 1-5 và 6-0; 2-6
và 7-1; 3-7 và 8-2 (điều này sẽ làm giảm số lượng từ 98 thành 86). Kết quả là gần
như tương tự, mặc dù ước lượng điểm của hệ số có xu hướng nhỏ hơn (trung bình -
0.3 đối với thuế bóp méo và +0.2 đối với chi phí sản xuất) và bằng chứng của sự
ngang bằng giữa chỉ số thuế không bóp méo và chi phí phi sản xuất không hoàn toàn
thuyết phục trong 2 trên 3 trường hợp.
Bảng 4 Không nêu rõ chi tiết giới hạn ngân sách
Kỹ thuật ước lượng: trung bình 5 năm, hai chiều FE
Biến phụ thuộc: tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 17
Biến tài khóa bị bỏ qua Biến tài khóa đã có
Toàn bộ
doanh thu
Toàn bộ chi
phí
Thuế bóp
méo
Chi phí
sản xuất
Chi phí phi
sản xuất
Thuế gây bóp méo
và không gây bóp
méo
GDP ban
đầu
-0.501
(2.72)
-0.576
(3.25)
-0.389
(2.08)
-0.478
(2.46)
-0.386
(2.21)
-0.408
(2.18)
Đầu tư -0.027
(0.42)
0.007
(0.11)
0.064
(1.01)
0.072
(1.09)
-0.024
(0.38)
0.060
(0.94)
Tăng
trưởng lực
lượng lao
động
-0.522
(1.69)
-0.342
(1.12)
-0.363
(1.10)
-0.463
(1.34)
-0.522
(1.71)
-0.311
(0.94)
Cho vay
trừ khoản
trả nợ
0.150
(0.83)
0.280
(1.56)
- - - -
Doanh thu
khác
-
(0.53)
09.055
- - - -
Chi phí
khác
0.025
(0.27)
- - - - -
Thặng dư
ngân sách
0.165
(1.85)
0.269
(3.88)
- - - -
Thuế bóp
méo
- -0.260
(3.43)
-0.245
(3.06)
- - -0.269
(3.28)
Thuế
không gây
bóp méo
- 0.222
(1.56)
- - - 0.190
(1.23)
Chi phí sản
xuất
-0.009
(0.10)
- - -0.147
(1.61)
- -
Chi phí phi -0.229 - - - -0.301 -
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 18
sản xuất (3.01) (4.49)
R
2
hiệu
chỉnh
0.572 0.591
0.512 0.465 0.571 0.515
Số quan sát 98 98 98 98 98 98
Note: trong ngoặc là chỉ số t-statistic
Bảng 5 Thu nhập ban đầu bỏ ra khỏi hồi quy
Kỹ thuật ước lượng: trung bình 5 năm, hai chiều FE
Biến phụ thuộc: tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người
Biến tài khóabị bỏ
qua
Thuế không gây bóp
méo
Chi phí phi sản xuất Thuế không gây bóp
méo và chi phí phi
SX
Đầu tư 0.020
(0.32)
0.020
(0.32)
0.021
(0.35)
Tăng trưởng lực
lượng lao động
-0.015
(0.05)
-0.015
(0.05)
0.001
(0.00)
Cho vay trừ khoản
trả nợ
0.314
(1.32)
0.353
(1.89)
0.349
(1.89)
Doanh thu khác -0.101
(0.51)
-0.140
(1.27)
-0.140
(1.28)
Chi phí khác 0.301
(1.82)
0.340
(2.86)
0.329
(3.01)
Thặng dư ngân sách 0.357
(2.17)
0.400
(4.32)
0.389
(4.41)
Thuế bóp méo -0.427 -0.467 -0.463
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 19
(2.36) (4.66) (4.72)
Thuế không gây bóp
méo
- -0.039
(0.23)
-
Chi phí sản xuất 0.273
(1.77)
0.312
(2.31)
0.296
(2.56)
Chi phí phi sản xuất -0.039
(0.23)
- -
R
2
hiệu chỉnh 0.574 0.574 0.581
Số quan sát 98 98 98
4.3.3. Ước tính biến công cụ:
Ước tính hồi quy (1) giả định rằng tất cả các biến bên phải là biến ngoại s inh.
Easterly và Rebelo (1993) và Hsieh và Lai (1994) đã thảo luận, các nguồn có khả
năng nhất của sự đồng thời trong mô hình là h iệu ứng chu kỳ kinh doanh và nguyên
tắc của Wagner (khuynh hướng của chi tiêu chính phủ ở cấp độ cao hơn bình quân
đầu người GDP). Những nỗ lực để kiểm soát trước đây có lẽ không hoàn hảo, vì vậy
một số nội sinh có thể vẫn còn. Nguyên tắc của Wagner là ít quan tâm, vì nó cho
thấy mối liên quan giữa tăng trưởng GDP và tốc độ tăng trưởng, chứ không phải là
mức độ chi tiêu chính phủ và thuế.
Để giải quyết những mối quan tâm về nội sinh cần ước tính bởi các biến công
cụ (IV), nhưng việc lựa chọn các công cụ là một vấn đề trong loại này của hồi quy.
Sự lựa chọn phổ biến nhất là độ trễ đầu tiên của biến tài chính, nhưng giá trị trễ
không được sử dụng như là công cụ trong các mô hình hiệu ứng cố định vì những
khuynh hướng tiềm tàng từ sự hiện diện của hiệu ứng cố định. Do đó chúng tôi theo
Folster và Henrekson (1997) và ước tính hồi quy trong sai phân bậc nhất. Khi công
cụ chúng tôi sử dụng hệ số chặn quốc gia, độ trễ của tất cả các biến tài chính, và sai
phân bậc nhất của sự phát triển lực lượng lao động và GDP ban đầu. Phương trình
tăng trưởng được chạy dưới hình thức sai phân bậc nhất và kết quả hiển thị trong
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 20
Bảng 6 được giải thích phù hợp.
So sánh kết quả IV trong bảng 6 với Bảng 3, rõ ràng là các tác động tài chính
được xác định trước đó không chỉ đơn giản là kết quả của nội sinh. Dấu hiệu hệ số
là không thay đổi và độ lớn tương tự như giá trị Bảng 3. Tuy nhiên sai số chuẩn là
phần nào lớn hơn (và giá trị điều chỉnh R2 tương ứng thấp hơn) so với trước đây
(không đáng ngạc nhiên vì hồi quy là trong sai phân bậc nhất), việc giải thích các
biến tài chính quan trọng là không bị ảnh hưởng đáng kể: các tác động ước tính của
thuế bóp méo và chi phí sản xuất vẫn còn khá lớn.
4.3.4. Phân loại lại các biến tài chính
Thay đổi tiếp theo chúng tôi thực hiện với phương trình hồi quy là để phân loại
lại các biến trong ma trận tài chính. Sự tập hợp của các phân loại chức năng trong
nguồn dữ liệu phân loại dựa trên lý thuyết trong bảng 1 là không tranh cãi. Để giải
quyết điểm này, chúng ta phân biệt thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập từ yếu tố
khác, chi tiêu cho y tế từ chi phí sản xuất khác và chi tiêu cho an sinh xã hội từ chi
phí phi sản xuất. Điều này cho phép chúng tôi tập trung vào các biến thường được
sử dụng trong các nghiên cứu trước đó (hoặc trước đó tìm thấy kết quả luôn mạnh),
và để xác định sự vững mạnh của các kết hợp lý thuyết của chúng tôi.
Trong bảng Phụ lục A cho thấy các dữ liệu đã được phân loại lại. Thuế bóp
méo chia thành các loại thuế thu nhập và thuế còn lại (tài sản, lương và các thuế an
sinh xã hội). Chi phí an sinh xã hội đã được tách ra từ chi phí phi sản xuất khác (các
dịch vụ kinh tế và vui chơi giải trí), được bao gồm trong các loại chi phí khác. Như
đã đề cập trước đó, lý thuyết cho thấy sự tăng trưởng có thể phụ thuộc vào dự trữ
của một số loại hàng hóa công (ví dụ như cơ sở hạ tầng) và nguồn cung ứng của các
hàng hóa khác. Chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn này để tách chi phí sản xuất thành
những hạng mục mà hiệu quả dự trữ dường như quan trọng hơn (giao thông vận tải,
nhà ở, giáo dục) và phần còn lại.
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 21
Kết quả phân loại mới được hiển thị trong Bảng 7. Hai cột đầu tiên của bảng
bỏ qua những yếu tố của sự ràng buộc ngân sách để trung lập với khía cạnh tăng
trưởng. Bảng này cho thấy sự phân tách thêm các dữ liệu ngân sách không cải thiện
phù hợp của mô hình. Sự phân bổ lại các dịch vụ kinh tế và vui chơi giải trí từ phi
sản xuất đến các chi phí khác có ảnh hưởng không đáng kể. Cả hai thành phần thuế
bóp méo (thuế thu nhập và "yếu tố") vẫn được đánh giá là có tác động tiêu cực đến
tăng trưởng, với ước tính lớn hơn một chút so trước đây, trong khi các loại thuế
không bóp méo có ảnh hưởng không đáng kể về mặt thống kê. Phân tích chi phí sản
xuất dẫn đến hệ số ước tính thống kê t thấp hơn một chút nhưng hệ số ước tính rất
giống với hai loại(10).
(10)Điều này là đáng ngạc nhiên, vì đối với những loại này mà tăng trưởng phụ thuộc
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 22
vào dự trữ chứ không phải nguồn cung ứng, chi phí hiện tại có thể chỉ có một tác
dụng hạn chế trên dự trữ, điều này dường như bao hàm một hệ số nhỏ hơn.
Cột 3-7 của Bảng 7 một lần nữa chứng minh tầm quan trọng của việc lựa chọn cho
sự thiếu sót những yếu tố ràng buộc ngân sách được dự đoán là trung lập trong tác
động của chúng đối với tăng trưởng. Các hệ số của các loại thuế bóp méo và chi phí
sản xuất là không đáng kể khác nhau từ con số không trong những cột này, bởi vì họ
được tài trợ cắt giảm thuế hoặc chi tiêu tương tự. Thuế thu nhập ảnh hưởng, ví dụ,
xuất hiện nhỏ và thống kê yếu khi chi t iêu cho sản xuất hơn là chi tiêu phi sản xuất.
Và chi phí an sinh xã hội dường như có tác động tiêu cực.
5. Kết luận :
Lý thuyết dự đoán rằng ảnh hưởng của chính sách tài khóa đến tăng trưởng
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 23
phụ thuộc vào cấu trúc cũng như các mức thuế và chi tiêu . Chúng tôi cũng đã cố
gắng kiểm tra hệ thống này bằng các sử dụng bảng điều khiển thiết lập dữ liệu cho
22 nước OECD trong giai đoạn (1970~95) tập hợp dữ liệu vào mức trung bình 5
năm để đưa ra các yếu tố ngắn hạn . Một tính năng quan trọng của phương pháp của
chúng tôi là chúng tôi đã xem xét đầy đủ các giả định tài chính tiềm ẩn liên quan tới
giới hạn ngân sách của chính phủ. Một vài nghiên cứu trước đó đã làm được điều
này và không nghiên cứu nào cho ra một bộ dữ liệu toàn diện. Thất bại trong việc
tính đến giới hạn của ngân sách chính phủ giới thiệu sự chệch về hệ số hồi quy cái
đã bị bỏ qua trong hầu hết các nghiên cứu trước đây và chúng tôi cho thấy rằng sự
chệch này là đáng kể.
Giới hạn ngân sách của chính phủ có nghĩa là hệ số ước lượng của các yếu tố
tài chính trong một hồi quy tăng trưởng phụ thuộc vào cách mà nó được tài trợ. Tác
động của yếu tố cá nhân không thể cô lập được vì nó chỉ có thể ước lượng sự khác
biệt giữa các hệ số tương quan với một cặp yếu tố ngân sách chính phủ. Nơi mà lý
thuyết dự đoán các hệ số tiến đến 0 . Tuy nhiên, nó có thể kiểm tra trạng thái bằng
nhau của các hệ số trong tăng trưởng hồi quy. Chúng tôi đã tìm thấy chi tiêu được
phân loại gồm phi sản xuất và thuế doanh thu, phân loại là không gây bóp méo để có
các hệ số bằng nhau, và do đó chúng tôi không thể bác bỏ các giả thuyết rằng các
biến này không có tác động lên tăng trưởng phù hợp với dự đoán của Barro(1990).
Khi tài trợ kết hợp bởi một số yếu tố không gây bóp méo thuế và không chi tiêu sản
xuất. Một sự gia tăng trong chi phí sản xuất làm tăng trưởng tăng đáng kể, sự gia
tăng trong việc bóp méo thuế sẽ giảm đáng kể tốc độ tăng trưởng. Cả hai kết quả
này phù hợp với mô hình của Barro (1990). Chúng tôi cũng kiểm tra tính mạnh mẽ
kết quả của chúng tôi với những thay đổi khác nhau trong đặc điểm kỹ thuật, và tìm
thấy tính mạnh mẽ của nó. Chúng tôi đã tìm thấy, tuy nhiên, cường độ của những tác
động dự kiến(sản xuất) chi tiêu và (bóp méo). Thuế thì nhạy cảm với dữ liệu bình
quân cho 5 năm. Điều này cho thấy cần thực hiện thận trọng hơn trong việc dự đoán
các ảnh hưởng lên tăng trưởng của các thay đổi tài khóa, công việc tiếp theo là phải
tìm kiếm để phát hiện ra độ lớn đáng tin cậy hơn. Tuy nhiên, ngay cả những ước
lượng thấp nhất của chúng tôi yêu cầu tăng chi tiêu sản xuất hoặc giảm bóp méo về
thuế 1% của GDP có thể giúp tỷ lệ tăng trưởng tăng khiêm tốn ở mức (0.1 đến
0.2%/ năm) .
Tiểu luận Tài chính công
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 4 K22 24
Phụ lục 1
Nguồn dữ liệu và đặc điểm
Nguồn dữ liệu sẵn sàng cho 22 nước OECD. Dữ liệu tài chính được sử dụng
trong bài báo này được đối chiếu từ IMF, Niên giám thống kê tài chính chính phủ.
Dữ liệu được hợp nhất và bao gồm tất cả các cấp chính quyền. Tất cả các biến tài
chính được thể hiện qua tỷ lệ phần trăm GDP . Phù hợp với thực tiễn thông thường
tỷ lệ tăng trưởng được thực hiện là sự khác biệt giữa thu nhập bình quân đầu người
theo số liệu GDP hàng năm lấy từ Ngân hàng Thế giới CD ROM. Tỷ lệ đầu tư và tốc
độ tăng trưởng lực lượng lao động được lấy cùng 1 nguồn. Thu nhập ban đầu được
lấy từ bảng Pen World.
Biến tài chính mới Phân loại chức năng
Thuế thu nhập Thuế thu nhập và lợi nhuận
Các loại thuế bóp méo khác Đóng góp an sinh xã hội
Thuế trong biên chế và nhân lực
Thuế tài sản
Thuế tiêu thụ Thuế hàng hóa nội địa và dịch vụ
Các nguồn thu nhập khác Thuế thương mại quốc tế
Doanh thu không thuế
Các loại thuế doanh thu khác
Lưu lượng sản xuất Ch i tiêu phục vụ công cộng
Chi tiêu quốc phòng
Tồn kho sản xuất Chi tiêu giáo dục
Chi tiêu nhà ở
Chi tiêu giao thông vận tải và thông tin
liên lạc
Chi tiêu y tế Chi tiêu y tế
Chi tiêu an sinh xã hội và phúc lợi Chi tiêu an sinh xã hội và phúc lợi
Các loại chi t iêu khác Chi vui chơi giải trí
Chi tiêu dịch vụ kinh tế
Các loại chi t iêu khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_chinh_cong_nhom_3_fiscal_policy_and_growth_evidence_from_oecd_countries_111.pdf