Tiểu luận Chính sách tiền tệ và ảnh hưởng của nó lên thị trường liên ngân hàng

LỜI MỞ ĐẦU. Thị trường liên ngân hàng Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thiện gắn liền với tiến trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Cho đến nay, mặc dù chưa thực sự phát triển, nhưng nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết cung cầu về nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế. Đặc biệt, nó đã thực hiện chức năng cân đối, điều hòa nguồn vốn giữa các ngân hàng, góp phần hỗ trợ cho các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán, hoạt động an toàn và hiệu quả. Thông qua các hoạt động trên thị trường liên ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện điều tiết tiền tệ nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Có thể khẳng định rằng, thị trường liên ngân hàng Việt Nam đã góp phần nhất định trong quá trình phát triển thị trường tiền tệ nói riêng và kinh tế đất nước nói chung, nhất là quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Do đó để tìm hiểu sâu hơn sự chi phối của chính sách tiền tệ đến sự phát triển của thị trường liên ngân hàng hiện nay và những thay đổi của chính sách tiền tệ gần đây ảnh hưởng như thế nào đến thị trường liên ngân hàng , nhóm em xin trình bày bài tiểu luận: “ Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ đến thị trường liên ngân hàng” làm mục tiêu nghiên cứu. Trong quá trình sưu tập và làm bài, chúng em phân ra nhiều phần khác nhau để phân tích và đứng ở một khía cạnh nào đó có thể hạn hẹp. Với lượng kiến thức còn hạn hẹp về chính sách tiền tệ cung như thị trường liên ngân hàng nói riêng và về tài chính nói chúng, có thể bài tiểu luận của chúng em có thiếu sót và chưa tốt. Chúng em rất mong sẽ nhận được sự đóng góp cũng như nhận xét của thầy và các bạn để nhóm rút kinh nghiệm và làm những bài tiểu luận sau tốt hơn nữa. 2 Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 MỤC LỤC A. Cơ sở lý thuyết. . 4 I. Thị trường liên ngân hàng. . 4 II. Chính sách tiền tệ. . 6 1. Khái niệm. . 6 2. Mục tiêu. . 6 3. Phương thức vận hành các công cụ tài chính của chính sách tiền tệ. . 1 B. Thực trạng về ảnh hưởng của chính sách tiền tệ lên thị trường liên ngân hàng. 31 I. Công cụ tái cấp vốn . . 31 II. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc. 33 III. Nghiệp vụ thị trường mở. . 36 IV. Công cụ lãi suất tín dụng . . 39 a) Mặt bằng lãi suất quá cao, có phần chưa được hợp lý. 3939 b) Tình hình lãi suất quý III và cuối năm 2011. . 41 V. Hạn mức tín dụng. . 45 VI. Chính sách về tỷ giá hối đoái . . 46 C. Tổng kết. 49

pdf51 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4353 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách tiền tệ và ảnh hưởng của nó lên thị trường liên ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chiết khấu. Căn cứ vào lãi suất này, ngân hàng trung gian áp dụng lãi suất tín dụng phần lớn tùy theo tình hình thị trường, thường cao hơn lãi suất tái chiết khấu. Đối với các ngân hàng trung gian, lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ có tách cách hướng dẫn. Khi NHTƯ tăng thêm lãi suất tái chiết khấu, điều đó có nghĩa là NHTƯ muốn hạn chế sự tung thêm tiền ra lưu thông. Các ngân hàng trung gian sẽ theo đúng đường lối đó và sẽ tăng lãi suất chiết khấu của mình cùng một tỷ lệ. Như vậy, NHTƯ sử dụng công cụ lãi suất tái chiết khấu để hướng dẫn các ngân hàng trung gian theo đúng chính sách tiền tệ của mình. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, NHTƯ cũng ấn định một “trần lãi suất” tối đa áp dụng cho tiền gửi. Ở các nước đang phát triển theo chính sách ấn định mức lãi suất tín dụng ở mức tối đa và giao cho NHTƯ quyền điều chỉnh các mức lãi suất đó. Một trong những lý do được giải thích vì sao không để thị trường quyết định mức lãi suất tín dụng là vì thị trường tiền tệ trong nước chưa đủ sức cạnh tranh.  Tác động. NHTƯ sử dụng công cụ lãi suất tín dụng để vận hành cơ chế tạo tiền : Nếu muốn hạn chế việc tạo tiền của các Ngân hàng thương mại ( NHTM), NHTƯ sẽ tác động làm giảm vốn khả dụng của các NHTM bằng cách tăng lãi suất tín Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 24 dụng cấp cho họ ( lãi suất tái cấp vốn). Điều đó kéo theo lãi suất trên thị trường giữa các ngân hàng tăng lên. Vốn khả dụng giảm, NHTM sẽ thận trọng trong việc cấp tín dụng, do đó tín dụng cấp ra rất ít. Mặt khác về phía khách hàng, thì lãi suất tăng, cũng sẽ giảm nhu cầu tín dụng, khối lượng tín dụng cấp ra giảm đi, có nghĩa là nguồn vốn đối ứng tạo tiền cũng sẽ giảm đi. Thị trường liên ngân hàng là thị trường lớn, nên khi lãi suất của thị trường này tăng lên cũng làm cho lãi suất trên thị trường tài chính tăng lên, thu hút đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ dùng ngoại tệ để mua nội tệ, do đó thu hẹp lượng nội tệ trong lưu thông. Ngược lại, nếu NHTƯ muốn mở rộng việc tạo tiền ( cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế ), thì hoạt động cũng ngược lại, giảm lãi suất tín dụng đối với các NHTM. Quy trình tạo tiền trong trường hợp này cũng sẽ ngược lại. Đó là cơ chế tạo tiền được vận hành bằng công cụ lãi suất. e. Công cụ hạn mức tín dụng.  Khái niệm. Công cụ hạn mức tín dụng (HMTD): là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương (NHTW) để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế  Đặc điểm: - Ưu điểm: đây là một biện pháp mạnh, mang tính hành chính. Giúp NHTW điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả , đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế . Trong những năm nền kinh tế có lạm phát ở mức cao, công cụ này cũng đã góp vai trò tích cực trong việc kiểm soát vấn đề lạm phát. Trong trường hợp NHNN áp dụng công cụ này, NHNN luôn có sự điều chỉnh mục tiêu HMTD sao cho phù hợp với Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 25 sự phát triển của nền kinh tế. Bởi nếu cố định HMTD một cách chủ quan có thể dẫn tối sự phát triển không lành mạnh của nền kinh tế. Trường hợp mức tăng trưởng tín dụng quá cao có thể dẫn tới tình trạng lạm phát. Ngược lại khi dòng vốn không được cung cấp đầy đủ cho các chủ thể trong nền kinh tế có thể kiềm chế sự phát triển của nền kinh tế - Nhược điểm : trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín dụng luôn biến đổi không ngừng. Cho nên công cụ này ít được NHNN áp dụng. Ngoài ra : triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM, làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế , dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoài sự kiểm soát của NHNN và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên. Trong thực tế giảm cung tín dụng chưa chắc đã chống được lạm phát mà có thể tác động tiêu cực đến sản xuất – kinh doanh, tạo cơ hội cho tín dụng chợ đen phát triển -Trong tất cả các công cụ của CSTT, có lẽ đây là công cụ hành chính nhất và ít được sử dụng. Nó chỉ được sử dụng trong một nền kinh tế quá nóng, buộc phải hạn chế tiêu dùng và đầu tư (đường IS) bằng cách giảm thanh khoản, tăng lãi suất (đường LM trong biểu đồ IS-LM). Đây là công cụ can thiệt một cách trực tiếp của NHNN vào các NHTM để thiết lập trần tín dụng mà mỗi NHTM trong hệ thống có thể mở rộng! Vấn đề lợi ích của các NHTM là rất lớn và không dễ giải quyết -Năm 2009, mục tiêu tăng tín dụng đầu năm là 25 – 27%, sau đó điều chỉnh lên 30%, cuối năm con số tăng trưởng đã là 37.73%; trong năm 2010, mục tiêu tăng trưởng là 25%, cuối năm đã lên đến 29.81%). Năm nay mục tiêu dưới 20%, -Tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm nay được thông báo trên 7%. Tuy nhiên, thực tế có thể còn cao hơn, vì vốn của TCTD đưa ra nền kinh tế không chỉ qua cho vay DN và cá nhân. Trái phiếu doanh nghiệp là một hình thức cấp tín dụng Mặc dù luật TCTD định nghĩa: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 26 thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”, nhưng hạn mức tăng trưởng tín dụng từ trước đến nay vẫn được hiểu là chỉ áp dụng đối với nhóm nghiệp vụ cho vay, cho thuê với tổ chức kinh tế và cá nhân .Trong khi đó, tài sản có của NHTM) còn nhiều mục khác, mà đáng chú ý nhất là nhóm góp vốn liên doanh, mua chứng khoán, góp vốn đồng tài trợ (hay còn gọi là nhóm đầu tư tài chính). Trước đây, nhóm này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản, mức độ biến động ít, đồng thời không có yêu cầu cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn rõ ràng trong tính toán các yếu tố về thanh khoản trong kỳ giám sát ngày của ngân hàng. Nhưng từ khi NHNN ban hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN quy địnhvề tỷ lệ bảo đảm an toàn của TCTD, đặc biệt trong bối cảnh chính sách tiền tệ thắt chặt, việc khống chế tốc độ tăng dư nợ đã làm giảm lợi nhuận của các NHTM. Nhiều ngân hàng đã lách trần tín dụng, lách tỷ lệ bảo đảm an toàn bằng cách đẩy mạnh các hoạt động đầu tư tài chính, đặc biệt là mua trái phiếu doanh nghiệp và ủy thác. Dư luận không biết được tổng số dư đầu tư tài chính của toàn hệ thống ngân hàng là bao nhiêu, nhưng chắc phải là con số lớn, vì đến cuối tháng 5/2011, chỉ tính riêng tổng giá trị đầu tư tài chính của 19 ngân hàng cổ phần (phía Nam) đã là 88.635 tỉ đồng, bằng 15,2% so với tổng tài sản của cả 19 ngân hàng. Ngoài ra, nhiều NHTM còn đẩy vốn vào nền kinh tế bằng cách hoạt động cấp vốn, góp vốn vào công ty con, công ty liên kết của chính mình; thực hiện hoạt động ủy thác và nhận ủy thác cho vay, góp vốn, đầu tư, kinh doanh chứngkhoán .... Ví dụ, mức dư nợ của 19 NHTM cổ phần phía Nam phải cộng thêmvào gần 42.700 tỉ đồng (là số tiền do các NHTM này đầu tư vào chứng khoán do tổ chức kinh tế phát hành) mới ra con số cấp tín dụng thực tế của các ngân hàngnày trong 5 tháng đầu năm 2011. Rủi ro hệ thống và tăng áp lực lạm phát Hoạt động đầu tư tài chính của các NHTM đã bộc lộ những dấu hiệu đáng lo ngại, dẫn đến tình trạng cho đến nay tiềm ẩn nhiều rủi ro. Một phần vì thiếu các quy định giám sát thanh khoản chặt chẽ . Rủi ro lớn nhất là có thể một số vốn mua trái phiếu doanh nghiệp thực chất là cấp tín dụng cho các doanh nghiệp “sân sau” của ngân Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 27 hàng, hoặc một hình thức đảo nợ. Với hệ số tạo tiền của kênh tín dụng ngân hàng, nếu số tiền các TCTD đã bỏ ra mua trái phiếu doanh nghiệp được tính vào dư nợ cho vay nềnkinh tế thì con số này lớn hơn, gây áp lực không nhỏ lên lạm phát. f. Tỷ giá hối đoái.  Khái niệm về tỷ giá hối đoái: Để chuyển dịch các luồng tài chính ở phạm vi quốc tế, các công cụ tài chính phải được chấp nhận ở phạm vi quốc tế. Các công cụ tài chính tồn tại ở nhiều dạng như ngoại tệ, vàng, séc, hối phiếu, các giấy tờ có giá,... Trong các giao dịch tài chính quốc tế, việc thực hiện mua và bán các ngoại hối trên thị trường đòi hỏi phải có sự chuyển đổi đồng tiền nước này sang nước khác. Do mỗi đồng tiền chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau nên có sức mua khác nhau, vì thế trên thị trường cần phải có quy định tỉ lệ để làm cơ sở chuyển đổi giữa hai đồng tiền, tỷ lệ này được gọi là tỷ giá hối đoái. Hay nói cách khác tỷ giá hối đoái là giá cả đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện bằng khối lượng các đơn vị tiền tệ nước ngoài. Ví dụ: ( ) a) Phân loại tỷ giá hối đoái: - Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, tỷ giá hối đoái được chia ra thành tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra. Đây là những loại tỷ giá được niêm yết tại các ngân hàng thương mại. Các loại tỷ giá này được dùng để giao dịch mua bán ngoại tệ giữa các ngân hàng và khách hàng. Tỷ giá mua vào bao giờ cũng thấp hơn giá bán ra, phần chênh lệch đó là lợi nhuận kinh doanh ngoại hối của ngân hàng. - Căn cứ vào phương diện thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái được chia ra thành Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 28 tỷ giá tiền mặt và tỷ giá chuyển khoản. Tỷ giá tiền mặt là loại tỷ giá áp dụng cho các ngoại tệ tiền mặt, séc, thẻ tín dụng. Tỷ giá chuyển khoản áp dụng cho các trường hợp giao dịch thanh toán qua ngân hàng. Loại tỷ giá này thường thấp hơn tỷ giá tiền mặt. - Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối, tỷ giá hối đoái được chia thành:  Tỷ giá mở cửa và tỷ giá đóng cửa: trong giao dịch ngoại, thông thường các ngân hàng không thông báo tất cả tỷ giá của các hợp đồng trong ngày mà chỉ công bố tỷ giá mở cửa áp dụng cho hợp đồng giao dịch đầu tiên và tỷ giá đóng cửa áp dụng cho hợp đồng giao dịch lúc cuối ngày.  Tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn: tỷ giá giao ngay là tỷ giá được áp dụng khi bán ngoại hối thì nhận được thanh toán tiền ngay hoặc tối đa sau đó 2 ngày; còn tỷ giá kỳ hạn là tỷ giá được áp dụng khi bán ngoại hối ngày hôm nay nhưng sau đó từ 3 ngày trở lên mới thanh toán. - Căn cứ vào chế độ quản lý tỷ giá, tỷ giá hối đoái được chia thành tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường: Tỷ giá chính thức là tỷ giá do NHTW công bố, làm cơ sở để hình thành tỷ giá thị trường. Tỷ giá thị trường là tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá này biến động thường xuyên tùy theo tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. - Căn cứ vào mối quan hệ tỷ giá với chỉ số lạm phát, tỷ giá hối đoái được chia thành tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực. Tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá giao dịch mua bán giữa các đồng tiền trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá thực là tỷ giá phản ánh mối tương quan về sức mua giữa hai đồng tiền. b) Các phương pháp niêm yết tỷ giá hối đoái: Vì có liên quan đến hai đồng tiền, nên khi niêm yết một tỷ giá bao giờ cũng có hai đồng tiền tham gia: một đồng tiền đóng vai trò yết giá; một đồng tiền còn lại đóng Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 29 vai trò định giá. Ví dụ: 1 USD=(Y) EUR 1 GBP= (Z) SGD 1 USD= (K) JPI Y, Z, K là số dương có thể lớn hơn 1 hoặc nhỏ hơn 1. Nếu USD có giá trị lớn hơn EUR thì Y lớn hơn 1 và ngược lại. Trong ví dụ trên, đồng thứ nhất (USD, GBP) là đồng tiền yết giá, có đặc điểm là 1 đơn vị cố định. Đồng tiền thứ hai (EUR, SBD, JPY) là đồng tiền định giá, có đặc điểm là một lượng tiền biến đổi. Xuất phát từ phạm vi quốc gia, có 2 phương pháp niêm yết tỷ giá hối đoái: phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp. - Phương pháp trực tiếp: tức là phương pháp yết giá đồng ngoại tệ bằng khối lượng đồng nội tệ. Thông qua phương pháp này thì giá cả một đơn vị ngoại tệ được biểu hiện trực tiếp. 1 USD = (X) VND - Phương pháp gián tiếp: tức là phương pháp yết giá đồng nội tệ bằng khối lượng đồng ngoại tệ. Muốn biết giá cả đó là bao nhiêu thì chúng ta cần tiến hành thực hiện phép tính chuyển đổi. 1 VND = (H) USD c) Vai trò của tỷ giá hối đoái - Tỷ giá hối đoái và hoạt động thương mại quốc tế Là một phạm trù kinh tế liên quan đến việc tính toán và so sánh giá trị giữa hai đồng tiền, cho nên một sự biến động của tỷ giá hối đoái sẽ làm thay đổi sức mua của hai đồng tiền và do vậy làm cho giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu của hai quốc gia trong quan hệ tỷ giá trên thị trường quốc tế cũng thay đổi, từ đó ảnh hưởng đến quy mô thương mại quốc tế. Một khi giá cả hàng hóa trở nên rẻ hơn, thì sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế sẽ được nâng cao, mức cầu mở rộng và khối lượng hàng hóa xuất khẩu Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 30 sẽ gia tăng. Nền kinh tế thu được nhiều ngoại tệ và cán cân thanh toán được cải thiện. Ngược lại một khi đồng nội tệ lên giá trong sự tương quan với sự mất giá của đồng ngoại tệ sẽ làm cho xuất khẩu giảm đi, nhưng nhập khẩu thì lại tăng lên, cán cân thanh toán trở nên xấu đi. Tuy nhiên, khi xem xét tác động của tỷ giá đến sự thay đổi hoạt động thương mại quốc tế và cán cân thanh toán cần lưu ý rằng hiệu ứng này không thể xảy ra ngay mà phải trải qua một khoảng thời gian nhất định. - Tỷ giá hối đoái và lạm phát, tăng trưởng kinh tế và việc làm Tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn đến trạng thái kinh tế trong nước: lạm phát, tăng trưởng kinh tế và việc làm. Thật vậy, khi đồng nội tệ mất giá sẽ kích thích gia tăng xuất khẩu, từ đó gây tác động lan truyền thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và tạo việc làm ổn định cho người lao động. Tuy nhiên, đồng nội tệ mất giá sẽ làm cho giá cả hàng hóa tư liệu sản xuất nhập khẩu tăng cao, từ đó giá thành sản phẩm sản xuất trong nước cũng tăng. Điều này làm cho mặt bằng giá cả trong nước tăng cao và sức ép lạm phát trong nước tăng cao và sức ép lạm phát trong nước trở nên mạnh mẽ hơn. Ngược lại khi đồng nội tệ lên giá thì hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài trở nên rẻ hơn, từ đó làm cho lạm phát trong nước giảm thấp vì những hàng hóa đó đều được tính vào trong chỉ số giá cả trong nước. Thế nhưng, đồng nội tệ lên giá sẽ hạn chế hoạt động xuất khẩu, thu hẹp sản xuất trong nước và thất nghiệp gia tăng.  Tóm lại, tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc đến quan hệ kinh tế đối ngoại, tình trạng cán cân thanh toán, tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp. Điều chỉnh tỷ giá theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán, thì trong nó lại chứa đựng nguy cơ lạm phát. Còn trong trường hợp cố định tỷ giá để kiềm chế lạm phát thì làm cho đồng tiền nội tệ lên giá quá cao, có nguy cơ không khuyến khích xuất khẩu, mà trái lại khuyến khích nhập khẩu, làm cho cán cân thanh toán bị thâm hụt, dự trữ ngoại tệ quốc gia giảm. Phải nói rằng trên bàn cờ kinh tế nước cờ về ngoại hối là nước cờ kỳ diệu nhất. Để có được thành công về kinh tế đòi hỏi chính phủ phải là tay cờ lão luyện trong việc lựa chọn chính sách và cơ chế điều hành tỷ giá thích hợp. Nếu không thảm họa là điều không tránh khỏi. Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 31 B. Thực trạng về ảnh hưởng của chính sách tiền tệ lên thị trường liên ngân hàng. I. THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG ẢNH HƯỞNG BỞI CÔNG CỤ TÁI CẤP VỐN. Nghiệp vụ tái cấp vốn của NHNN được từng bước đổi mới, hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ gián tiếp của NHNN. Đến nay tái cấp vốn của NHNN cho các NHTM chủ yếu được thực hiện dưới các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố giấy tờ có giá. Lãi suất chiết khấu ngày càng được điều hành linh hoạt, phù hợp với mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ. Từ năm 2003, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu được điều chỉnh dần để hình thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị trường. NHNN đã thực hiện phân bổ hạn mức chiết khấu cho các ngân hàng. Qua đó, nghiệp vụ chiết khấu được điều hành như một kênh hỗ trợ vốn thường xuyên với giá rẻ từ NHNN. Trong khi đó, nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá áp dụng lãi suất tái cấp vốn là mức lãi suất trần Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 32 để NHNN từng bước thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng trên thị trường. Theo quyết định số 271/QĐ-NHNN của NHNN, lãi suất tái cấp vốn là 11%/năm; Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng là 11%/năm (tăng 2%). Như vậy, theo quyết định này thì lãi suất tái cấp vốn là 11%, còn lãi suất tái chiết khấu vẫn giữ nguyên 7% như quyết định trước đó. Ngoài ra, lãi suất qua đêm cũng tăng thêm 2%. Hiện tại, chúng ta vẫn chưa có đủ số liệu về những khoản vay của NHTM đối với NHNN. Nếu tỷ trọng các khoản vay được áp dụng lãi suất tái chiết khấu lớn còn tái cấp vốn nhỏ thì sẽ tác động không nhiều. Tuy nhiên, việc tăng lãi suất này là một thông điệp rõ ràng cho thấy NHNN đang thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất qua đêm sẽ chắc chắn sẽ tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ. Chi phí vốn của ngân hàng sẽ tăng lên đồng nghĩa với lãi suất không thể giảm được. Quyết định này của NHNN dường như trái ngược với khuyến nghị giảm lãi suất của một số chuyên gia trong nước và quan điểm của một số thành viên Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia (NFSC). Lãi suất trên thị trường hiện nay được xem là ở mức quá cao, lãi suất huy động tuy bị giới hạn mức trần 14% nhưng lãi suất thực tế có thể cao hơn con số này. Nhiều ý kiến đang rất quan ngại về khả năng chịu đựng của các doanh nghiệp khi lãi suất quá cao. Kèm theo đó nợ xấu ngân hàng sẽ tăng lên khi nhiều doanh nghiệp sẽ mất khả năng trả nợ. Dù vậy, quyết định nâng lãi suất của NHNN được xem là “liệu thuốc đắng” nhưng được kỳ vọng là sẽ ngăn chặn được lạm phát đang bùng nổ dữ dội. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 1/2011 đã tăng 1.74%, và tháng 2/2011 cũng được ước đoán sẽ tăng khoảng 2%. Như vậy, 2 tháng đầu năm 2011 CPI có thể tăng gần 4%, làm cho mục tiêu cả năm 7% rất khó giữ. Không chỉ vậy, áp lực lạm phát đối với nền kinh tế sẽ rất lớn khi giá một loạt các Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 33 mặt hàng như xăng dầu, điện, than buộc phải điều chỉnh trong thời gian tới. Ngoài ra, giá cả thế giới và điều chỉnh tỷ giá cũng cộng hưởng cùng các yếu tố có thể làm lạm phát bùng nổ trở lại. Tăng lãi suất đồng nghĩa với sự thặt chặt tiền tệ là một biện pháp cần thiết để ngăn chặn lạm phát. Cái giá của chính sách này là không nhỏ khi có thể tác động rất mạnh tới các doanh nghiệp và ngân hàng. Tuy nhiên, cần lưu ý là để kiềm chế lạm phát phải cần thêm nhiều giải pháp đồng bộ và có tính căn cơ khác. Các giải pháp căn cơ đó là phải tăng hiệu quả đầu tư công, giảm thâm hụt ngân sách. Ngoài ra, xây dựng thể chế kinh tế minh bạch và vận hành hiệu quả. Ngoài tác dụng kiềm chế lạm phát thì việc nâng lãi suất của NHNN còn có thể nhắm đến một mục tiêu khác là ổn định tỷ giá. Việc tăng lãi suất đồng nghĩa với đồng nội sẽ có giá trị hơn dẫn đến giảm nhu cầu nắm giữ ngoại tệ. Chẳng hạn nếu lãi suất tái cấp vốn cao thì NHTM thay vì chiết khấu giấy tờ có giá họ sẽ bán ngoại tệ cho NHNN để lấy tiền đồng vì chi phí đối với việc bán ngoại tệ sẽ thấp hơn việc vay vốn từ NHNN. II. THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG ẢNH HƯỞNG BỞI TỶ LỆ DỰ TRỮ BẮT BUỘC. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND áp dụng theo QĐ 379/QĐ- NHNN ngày 24/2/2009 (áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 3/2009), tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng USD áp dụng theo QĐ 1925/QĐ-NHNN ngày 26/8/2011(áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 9/2011)(nguồn từ Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 34 Trong thời điểm hiện nay, với mức quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao vì ngân hàng nhà nước đang thi hành chính sách thắt chặt tiền tệ. Các ngân hàng đang phải tìm mọi cách huy động tiền đồng, nhằm đảm bảo thanh khoản hệ thống. Mặc dù trần lãi Loại TCTD Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ Khô ng kỳ hạn và dưới 12 tháng Từ 12 tháng trở lên Không kỳ hạn và dưới 12 tháng Từ 12 tháng trở lên Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính 3% 1% 8% 6% Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 1% 1% 7% 5% NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương 1% 1% 7% 5% TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội 0% 0% 0% 0% Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 35 suất huy động được quy định 14%/năm, song người gửi tiền vẫn đòi hỏi cao hơn thế. Các doanh nghiệp tì khát vốn và có nhiều doanh nghiệp sẵn sàng vay vốn với lãi xuất cao, nhưng lượng vốn mà các ngân hàng lại thấp, thêm vào đó là lượng tiền nhàn rỗi của ngân hàng phải gởi vào ngân hàng nhà nước để đáp ứng đúng quy đinh của nhnn về dự trữ bắt buộc tăng.Nói một cách khác ngân hàng Nhà nước (NHNN) tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung gian càng căng thẳng về vốn vì sẽ hạn chế khả năng huy động vốn từ thị trường tự do của các ngân hàng. Việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã đẩy nhu cầu về vốn tăng dẫn tới đẩy lãi suất huy đông vốn tăng cụ thể lãi suất. Theo số liệu cập nhật của Ngân hàng Nhà nước, đầu tuần này, ngày 31/10 mức lãi suất giao dịch bình quân trong ngày 31/10 lên tới 18,58%/năm ở kỳ hạn 1 tuần, 17,04%/năm ở kỳ hạn 6 tháng và 15,18%/năm ở kỳ hạn 2 tuần, đây là những mức khá cao. Kết hợp với viêc quy định trần lãi suất của ngân hàng nhà nước đối với tiền gởi là không quá 14% và mặt bằng lãi suất đầu vào ở các ngân hàng đều bằng nhau dẫn đến không ít người gửi tiền, nhất là các nhà đầu tư đã chuyển kênh đầu tư. Hiện tượng người dân đến rút tiền từ ngân hàng nhỏ sang gửi ngân hàng lớn có tên tuổi, uy tín và chất lượng phục vụ tốt hơn diễn ra ngày càng nhiều. Một số ngân hàng nhỏ tại Hà Nội cho biết, tiền gửi tiết kiệm hơn 1 tháng qua đã "bốc hơi" trung bình 20 tỉ đồng/ngày. Các ngân hàng này đã phải vay vốn của những ngân hàng khác với lãi suất cao hơn để bù đắp mất cân đối thanh khoản tạm thời. Trong giai đoạn, Nguồn vốn của nhiều ngân hàng nhỏ sụt giảm, dẫn đến những ngân hàng này buộc phải cạnh tranh để tăng huy động vốn này. Như vậy, việc giữ chân các khách hàng của các ngân hàng nhỏ là vô cùng quan trọng,để giữ chân khách hàng cũ cũng như níu kéo thêm khách hàng mới họ đẩy mạnh khâu chăm sóc khách hàng tốt hơn. Một vấn đề nữa đó là các ngân hàng lớn thì thừa vốn, các ngân hàng nhỏ thì thiếu vốn, nhưng các giao dịch diễn ra rất hạn chế là do các ngân hàng dư thừa thanh khoản hạn chế cho vay với những ngân hàng nhỏ trong khi chờ đợi thêm những động thái mới từ NHNN về việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng lớn sẵn có tiền đã tận dụng cơ hội này để cho các ngân hàng nhỏ vay với giá cắt cổ. Các ngân hàng Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 36 thương mại lớn áp thêm điều kiện cho vay phải có thế chấp tài sản trên thị trường liên ngân hàng, khác với thông lệ của thị trường này trong suốt những năm qua. Điều này được cho là một nguyên nhân chính khiến cung vốn trên liên ngân hàng khó khăn, nhiều thành viên khó tiếp cận vốn cũng như tạo áp lực đẩy lãi suất lên cao. Trong đó, VCB, một ngân hàng có lãi lớn và nổi tiếng với nguồn vốn dồi dào đã được chỉ tên. III. Nghiệp vụ thị trường mở và ảnh hưởng lên thị trường liên ngân hàng. Tình hình chung: Từ ngày 12/7/2000, NHNN tiến hành đưa công cụ NVTTM vào hoạt động. Nó đã mở ra một kênh cung ứng và điều tiết vốn khả dụng của các TCTD cho NHNN và tạo điều kiện cho các TCTD sử dụng linh hoạt các loại GTCG của mình. Công cụ NVTTM liên tục được NHNN cải tiến trong những năm qua và dần trở thành một công cụ CSTT chủ yếu của NHNN. Ở Việt Nam NVTTM được hiểu như sau: Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua, bán ngắn hạn các loại giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng thông qua hình thức đấu thầu. Đối tác của ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ yếu là các TCTD và hàng hóa chủ yếu trên thị trường mở ở Việt Nam bao gồm: Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước,Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh,Trái phiếu Chính quyền địa phương, giao dịch mua có kỳ hạn: Công trái xây dựng Tổ quốc; Trái phiếu do Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội phát hành được Chính phủ bảo lãnh thanh toán 100% giá trị gốc, lãi khi đến hạn; Trái phiếu Chính quyền địa phương do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát hành. Các hoạt động NVTTM trong thời gian gần đây của ngân hàng nhà nước là: Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 37 Từ khi đưa NVTTM vào hoạt động năm 2000, NHNN đẩ nhận thấy đây là một công cụ hữu hiện để quản lý cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế, bằng chứng là tốc độ tăng và giá trị giao dịch lớn. Đặc điểm NVTTM ở Việt Nam là đối tác chính là các TCTD và chủ yếu là các ngân hàng thương mại do vậy NVTTM ảnh hưởng rất lớn đến Thị trường Liên ngân hàng. Mục tiêu hướng đến của NVTTM thời gian gần đây: Những năm gần đây mục tiêu chính của NVTTM đó chính là việc kiểm soát lạm phát đang tăng quá nhanh. NHNN thực hiện chủ yếu sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, theo các mục tiêu tiền tệ tại Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 và Nghị quyết số 83/NQ-CP ngày 5/6/2011. Nhưng do một số yếu kém nên hoạt động của NVTTM không hoạt động với hiệu quả tốt nhất Một số nguyên nhân được nhắc tới như là: 1.Thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ và tài khóa. 2.GTCG chưa đa dạng. 3.Cơ chế điều hành lãi suất còn hạn chế. Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 38 Nhiều chính sách về thị trường mở trở nên khó hiểu. Ví dụ như: Ngày 17/5/2011 NHNN tăng lãi suất trên thị trường mở lên 15%năm. Theo giới chuyên gia, việc Ngân hàng Nhà nước lại tiếp tục nâng lãi suất OMO lên 15% thể hiện quan điểm nhất quán trong chính sách tiền tệ thắt chặt của mình như đã từng làm những tháng trước. Ngày 04/7/2011, NHNN điều chỉnh giảm lãi suất chào mua GTCG qua nghiệp vụ thị trường mở từ 15%/năm xuống 14%/năm, tương đương lãi suất tái cấp vốn hiện nay. Nhiều nhà phân tích đả cho rằng phải chăng sau gần 2 tháng NHNN đả lạc quan về tình hình kiểm soát cung tiền trên thị trường liên ngân hàng, và kiểm soát được tốt Lạm Phát, một thái độ lac quan quá sớm về nền kinh tế dẩn tới thực hiện chính sách tiền tệ ngược lại của ngân hàng nhà nước. Sau đó NHNN đả phải giải thích hành động giảm lãi suất không phải là tín hiệu thay đổi chính sách tiền tệ: “Đây không phải là tín hiệu chính sách, chỉ là giải pháp điều hành linh hoạt công cụ nghiệp vụ thị trường mở hàng ngày phù hợp với chủ trương điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt”. Kết quả đạt được: + Trong giai đoạn 2008-2011 nói chung, NHNN đả điều chủ động linh hoạt, hiệu quả cộng cụ nghiệp vụ thị trường mở, cùng với các công cụ khác của chính sách tiền tệ bước đầu kiềm chế lạm phát. +Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đả điều tiết linh hoạt vốn khả dụng cho các TCTD( mà chủ yếu là NHTM). +Việc thay đổi lãi suất NVTTM làm tăng khả năng điều tiết lãi suất thị trường của NHNN Việt Nam. +Công tác dự báo vốn khả dụng của NHNN có nhiều cải thiện. +Các chủ thể đối tác của NHNN trên NVTTM đả tăng về số lượng, đa dạng về loại hình. Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 39 Một số hạn chế: + NHNN gặp khó khăn trong điều hành NVTTM, do NVTTM không phải là hoạt mang tính bắt buộc. +Chính sách tiền tệ đa mục tiêu vừa kiểm soát lạm phát, vừa hổ trợ tăng trưởng kinh tế( Đầu năm 2011 mục tiêu chính phủ tăng trưởng kinh tế 6.5%, lạm phát 8.0%. +Còn nhiều hạn chế trong điều tiết lãi suất trên như ví dụ lấy ở trên. IV. ảnh hưởng của công cụ lãi suất tín dụng lên thị trường liên ngân hàng. Năm 2011, thực hiện kiểm soát lạm phát trong những tháng qua NHNN nhiều lần điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất thị trường mở. Trong những tháng qua, lãi suất cơ bản (tái cấp vốn) tăng từ 8% lên 14% và điều chỉnh tăng lãi suất nghiệp vụ thị trường mở (mua lại/repo) sáu lần – từ 7% lên 15%. Cách lựa chọn chính sách và giải pháp sử dụng công cụ lãi suất điều hành của NHNN 6 tháng đầu năm 2011 có sự khác biệt so với những năm trước, và rất đúng hướng, định hướng mặt bằng lãi suất thị trường tốt hơn. Nhưng vẫn có thời điểm về liều lượng và sự phối hợp đồng bộ các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN vẫn chưa được tốt và thống nhất. a) Mặt bằng lãi suất quá cao, có phần chưa được hợp lý. Những ngày đầu tháng 5/2011 đến nay, tình hình thị trường tiền tệ diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Mặc dù NHNN ấn định mức lãi suất trần huy động là 14%, nhưng áp lực huy động vốn để giải quyết vấn để thanh khoản và cho vay buộc các ngân hàng thương mại (NHTM) chạy đua, đẩy mức lãi suất vượt quá mức trần qui định, trần lãi suất tiền gửi liên tiếp và phổ biến bị xé rào, lãi suất huy động thực tế leo thang từ 16%, đến 17%, 19%/năm… Lãi suất cho vay phổ biến tăng từ 21,5% vào tháng 4/2011 lên mức khoảng 23% trong khi đó lãi suất huy động đối với khách hàng VIP lên mức khoảng 20% tại một số ngân hàng nhỏ. Lãi suất cao do tăng trưởng tín dụng vượt quá tăng trưởng huy động, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đạt 5,01% trong khi đó tăng trưởng tiền gửi chỉ đạt Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 40 0,46%. Lạm phát vẫn ở mức cao, thâm hụt thương mại tăng và dự trữ ngoại hối ở mức thấp. Như vậy lãi suất NHTM cho vay ra có thể đạt 18%, 20%/năm, thậm chí cá biệt là 25% cũng là điều dễ hiểu. Huy động vốn của NHTM khó khăn, thanh khoản trong hệ thống ngân hàng thường căng thẳng, nhưng tốc độ tăng dư nợ của các NHTM vẫn cao. Tình trạng này có thể được lý giải bởi các nguyên nhân như: thu lãi từ hoạt động tín dụng vẫn là nguồn thu chủ yếu của các NHTM, dịch vụ ngân hàng ngoài hoạt động tín dụng chưa được mở rộng và phát triển tốt, tỷ trọng thu dịch vụ trong tổng thu của các NHTM đa số dưới 20%; đồng thời, cơ chế chính sách và môi trường kinh doanh nói chung lại tạo động lực và có dư địa để các ngân hàng tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ: (i) lãi suất cho vay không bị khống chế; huy động vốn với lãi suất cao, cho vay ra với lãi suất cao; (ii) nhu cầu vay của nền kinh tế, nhất là nhu cầu vay tín dụng phi sản xuất cao; (iii) tốc độ tăng vốn điều lệ của các NHTMCP quá lớn. Trong giai đoạn2008-2010, tổng số vốn điều lệ tăng thêm của 37 NHTMCP Việt Nam khoảng 97.000 tỷ đồng. Chính sách về trần lãi suất tiền gửi có hiệu quả thấp trong việc điều tiết, xác lập mặt bằng lãi suất thị trường khi mà các NHTM chẳng thiếu các thủ thuật nghiệp vụ để “lách”. Ngoài ra, rủi ro hoạt động của hệ thống NHTM cũng tăng lên rất nhiều do môi trường kế toán, nghiệp vụ thiếu minh bạch; tín hiệu thị trường trở lên không chuẩn xác, cơ quan quản lý nhà nước thiếu cơ sở dữ liệu tin cậy để điều tiết thị trường. Mặc dù do lạm phát hiện nay cao nên mặt bằng lãi suất thị trường còn phải cao, chưa thể hạ thấp nhưng vẫn là cao khi lãi suất cho vay ở mức 18%- 20%/ năm và khi so sánh với tỷ suất sinh lời của các doanh nghiệp. Nguyên nhân của lãi suất thị trường quá cao, có phần không hợp lý nằm ở 3 vấn đề sau: (i) Quản trị điều hành yếu kém của một số NHTM, nhất là yếu kém trong quản trị rủi ro tín dụng, quản trị thanh khoản; (ii) Từ sự quản lý, điều hành trên thị trường liên ngân hàng chưa khơi thông tốt các luồng vốn; (iii) Từ sự “thắt chặt” có phần quá mức của chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 41 b) Tình hình lãi suất quý III và cuối năm 2011. - Lãi suất VND: (i) Lãi suất huy động từ ngày 07/9/2011, thực hiện Chỉ thị số 02/CT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng phổ biến ở mức 14%/năm; tuy nhiên, một số Ngân hàng thương mại áp dụng mức lãi suất 14%/năm đối với cả các khoản tiền gửi kỳ hạn ngày, tuần; (ii) Lãi suất cho vay ổn định trong tháng 7, tháng 8; từ nửa đầu tháng 9 đến nay có xu hướng giảm. Hiện lãi suất cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu phổ biến ở mức 17-19%; lãi suất cho vay sản xuất - kinh doanh khác phổ biến ở mức 17-21%/năm, lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất 22-25%/năm. - Lãi suất USD: (i) Lãi suất huy động thực hiện chỉ đạo của NHNN tại Chỉ thị số 02/CT- NHNN, các TCTD chấp hành đúng quy định của NHNN về mức lãi suất huy động USD tối đa, phổ biến ở mức sát trần 2%/năm đối với tiền gửi dân cư, 0,5%/năm đối với tiền gửi tổ chức kinh tế.; (ii) Lãi suất cho vay ổn định so với cuối tháng 6/2011. Hiện nay, lãi suất cho vay phổ biến ở mức 6-7,5%/năm đối với ngắn hạn; 7,5-8%/năm đối với trung và dài hạn. - Lãi suất thị trường liên ngân hàng: Trong quý III/2011, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng có xu hướng giảm; tuy nhiên trong tuần đầu tháng 9, lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng đột biến; Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời hỗ trợ thanh khoản tạm thời qua nghiệp vụ thị trường mở, nên lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng đã giảm dần và có xu hướng ổn định. Hiện lãi suất cho vay qua đêm ở mức 12-13%/năm, 1-2 tuần 13.5-14%/năm, 1 tháng 14.5-15%/năm. + Lãi suất liên ngân hàng tiếp tục tăng. Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 42  Lãi suất cao là hệ quả tất yếu của việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát. Việc tiếp cận nguồn vốn khó khăn và mức lãi suất cho vay VND bình quân 18-19%/năm đã khiến cho hàng loạt doanh nghiệp đứng trước khả năng đình đốn sản xuất. Tăng trưởng kinh tế trong những tháng đầu năm có dấu hiệu chững lại đáng kể so với năm 2010 đã phần nào nói lên được những khó khăn của doanh nghiệp. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2011 chỉ tăng 5.57% so với cùng kỳ năm 2010, thấp hơn nhiều so với con số 6.16% của năm 2010. Chính sách tiền tệ được nới lỏng sẽ giúp nền kinh tế thoát khỏi nguy cơ rơi vào đình đốn sản xuất. Tuy nhiên, trong bối cảnh vẫn đang phải vật lộn với lạm phát tăng cao, tăng trưởng tín dụng cuối năm 2011 sẽ chỉ dừng ở con số 20% hoặc thấp hơn.  Ngân hàng thương mại trước áp lực phải hạ lãi suất. Cũng theo thông tin từ NHNN, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến ngày 20/7 ước giảm 0.25% so với tháng trước, cụ thể tiền gửi bằng VND tăng 0.51% và tiền gửi bằng ngoại tệ giảm 3.29%. Trong khi đó, tín dụng bằng VND giảm 0.88%, tín dụng bằng ngoại tệ tăng 1.96% (tính chung tổng tín dụng giảm 0.19%). Đây là tháng thứ 3 liên tiếp có diễn biến trái chiều giữa tăng trưởng tín dụng, huy động vốn bằng VND và USD. Nguyên nhân là do lãi suất cho vay VND bình quân (theo NHNN) vào khoảng 18.64%/năm, lãi suất cho vay USD bình quân 6.1%/năm, trong khi đó lãi suất huy động VND bình quân vào khoảng 15% và lãi suất huy động USD bình quân chỉ ở mức 1.96%/năm. Với các mức lãi suất chênh lệch như vậy, việc gửi tiết kiệm bằng VND và đi vay bằng USD sẽ lợi hơn; và điều này đã giải thích cho lý do số dư tiền gửi bằng VND tăng 0.51% và tín dụng bằng ngoại tệ tăng 1.96%. Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 43 Theo một số dự đoán của các chuyên gia, các ngân hàng lúc này sẽ phải quay trở lại với lĩnh vực tín dụng tiền đồng. Cần để ý là 7 tháng đầu năm, tiền gửi VND vẫn duy trì mức tăng 0.51% trong khi tín dụng VND lại giảm mạnh 0.88%. Điều này sẽ phần nào gây áp lực điều chỉnh giảm nhẹ mặt bằng lãi suất để thu hút khách hàng trong thời gian tới, vì tín dụng vẫn là lĩnh vực kinh doanh chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Trong vài ngày gần đây, lãi suất liên ngân hàng có chiều hướng tăng mạnh, đặc biệt là kỳ hạn một tháng có lúc tăng lên đến 23%, thậm chí có giao dịch còn cao hơn. Các chuyên gia lo ngại tình trạng này kéo dài sẽ làm bi đát thêm bài toàn thanh khoản của không ít ngân hàng nhỏ. Tính đến ngày 3-11, lãi suất cho vay đã lên đến 27%/năm, gần gấp đôi so với trần lãi suất huy động trên thị trường dân cư. + Nguyên nhân lãi suất liên ngân hàng tăng nhanh. Theo lãnh đạo một ngân hàng nhỏ, lãi suất qua đêm liên ngân hàng kỳ hạn một tuần đã chạm mốc 20%, trong khi đó, với kỳ hạn một tháng, con số này đã lên tới 23%. Như vậy, lãi suất liên ngân hàng đã liên tục đi lên và chỉ trong một tuần đã tăng khoảng 5 điểm phần trăm. Diễn biến tăng mạnh của lãi suất trên thị trường liên ngân hàng trong các ngày cuối tuần qua không nằm ngoài các dự đoán được đưa ra ngay sau khi Ngân hàng Nhà nước tiến hành điều chỉnh tăng một số lãi suất điều hành. Cụ thể kể từ ngày 10/10, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh tăng từ 14%/năm lên 15%/năm và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng cũng tăng từ 14%/năm lên 16%/năm. Một nguyên nhân nữa làm cho lãi suất liên ngân hàng tăng cao, theo chuyên gia kinh tế Trần Hoàng Ngân, thành viên của Hội đồng tư vấn Chính sách tiền tệ Quốc gia, là do tình trạng "khát" vốn ở một số ngân hàng thương mại đã bị rủi ro về tín dụng, nợ xấu tăng nhanh và quản trị ngân hàng kém, nhất là rủi ro về cấu trúc kỳ hạn. Theo ông Trần Hoàng Ngân giải thích thêm rằng các ngân hàng này bị rủi ro vì đã không thể dùng chiêu "lách" luật để huy động vốn sau khi Ngân hàng Nhà nước Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 44 áp dụng cơ chế trần lãi suất huy động cùng với biện pháp xử lý mạnh những ngân hàng vi phạm.Thiếu vốn, họ buộc phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng. Do đó lãi suất cao cũng là một trong những kịch bản mà những nhà nghiên cứu đã nghĩ đến. Điều này cũng đồng nghĩa với việc một số ngân hàng thương mại cổ phần đều phản ánh vốn huy động bị sụt giảm. Theo bà Nguyễn Thị Mai Hương, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Đại Dương (Ocean Bank), từ khi có tín hiệu quản chặt lãi suất giảm nguồn vốn huy động từ dân cư của ngân hàng đã sụt khoảng 20% so với trước khi áp dụng trần lãi suất. Trong tháng qua chỉ lác đác có một vài ngày lượng vốn huy động không giảm, tuy nhiên, vấn đề thanh khoản của ngân hàng vẫn chưa bị ảnh hưởng. Ngân hàng Nhà nước đã "bơm" ròng 16.000 tỷ đồng chỉ trong một tuần, khá nhiều so với con số 28.000 tỷ đồng của cả tháng Chín. Tuy vậy, theo các ngân hàng nhỏ, dù lượng tiền "bơm" ra thị trường mở nhiều nhưng vẫn chưa giúp các ngân hàng cải thiện thanh khoản, vì không đáng kể so với lượng tiền bị người dân rút ra khỏi hệ thống. Thêm vào đó, nhiều ngân hàng hiện nay không có đủ hồ sơ cần thiết để tiếp cận với nguồn vốn này, vì vậy, phải vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất rất cao hoặc phải "xé rào" để hút được tiền gửi từ doanh nghiệp và người dân. - Điểm tích cực - 16 ngân hàng cam kết không lách trần lãi suất ngắn hạn. Trong cuộc họp mới đây do Hiệp hội ngân hàng tổ chức tại Hà Nội, lãnh đạo 16 nhà ngân hàng lớn đồng loạt ký cam kết không vượt trần hai mức lãi suất 14% và 6% quy định tại Thông tư 30 của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 28/9. Theo đó, lãi suất cao nhất đối với các khoản gửi kỳ hạn tháng là 14% một năm. Với kỳ hạn tuần, ngày, lãi suất tối đa được áp dụng là 6% một năm. 16 ngân hàng đồng thuận thực hiện nghiêm Thông tư 30 gồm: Vietcombank, Vietinbank, Agribank, VDB (Ngân hàng Phát triển VN), Techcombank, MaritimeBank (Ngân hàng Hàng hải), VIB (Ngân hàng quốc tế), VPBank (Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng), PGBank (Ngân hàng Xăng dầu), Ngân hàng Bảo Việt, GPBank ( Ngân hàng Dầu khí toàn cầu), Ngân hàng Quân đội, OceanBank (Ngân hàng Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 45 Đại Dương), SHB (Ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội), Ngân hàng Bắc Á, Ngân hàng Tiên Phong. Thời gian tới, NHNN cần xây dựng cơ chế điều hành lãi suất cụ thể và rõ ràng hơn; cần tổ chức tốt thị trường liên ngân hàng nhằm khơi thông các dòng vốn giữa các thị trường, giữa các khu vực, giữa các tổ chức tín dụng nhằm hỗ trợ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thanh khoản cho các tổ chức tín dụng; mặt khác, NHNN cần điều hành linh hoạt các loại lãi suất chính sách (lãi suất tái cấp vốn; lãi suất chiết khấu GTCG; lãi suất cho vay qua đêm; lãi suất cho vay thanh toán bù trừ), phối hợp với khối lượng tiền cung ứng và dự trữ bắt buộc để định hướng và xác lập mặt bằng lãi suất thị trường; vừa hỗ trợ được lãi suất, vừa hướng dòng vốn ngân hàng tới các khu vực sản xuất cần được ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn; doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. V. Hạn mức tín dụng và tác động của nó lên thị trường liên ngân hàng. Nhìn chung từ năm 2004 đến nay NHNN thường áp dụng các chính sách điều chỉnh hạn mức tín dụng theo hướng thắt chặt, tức là hạ thấp mức cung tín dụng, khống chế dư nợ cho vay đầu tư, từ đó giúp tăng dư nợ cho vay của toàn hệ thống ngân hàng, góp phần giảm mức cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế. -NHNN đang xem xét cho phép các ngân hàng mới tăng vốn điều lệ lên 3,000 tỷ đồng trong năm 2010 được phép sử dụng phần vốn tăng thêm để cho vay mà không bị tính vào hạn mức tăng trưởng tín dụng năm 2011. Báo cáo tình hình hoạt động ngân hàng quý 1/2011 do NHNN công bố mới đây có hai điểm đáng chú ý: tốc độ tăng huy động vốn thấp hơn tốc độ tín dụng, tín dụng ngoại tệ tiếp tục tăng trưởng rất mạnh. Cụ thể, tính đến ngày 16/3/2011,vốn huy động ước tăng 1,56%, tín dụng đối với nền kinh tế ước tăng 3,67%. Trong tăng trưởng tín dụng, tín dụng bằng VND tăng 1,43%, tín dụng bằng ngoại tệ tăng tới 12,06%. Mức tăng trưởng tín dụng chung 3,67% phù hợp với định hướng phải kiềm chế Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 46 dưới 20% cho cả năm, nhưng vẫn là một mức thấp. Nguyên nhân, lãi suất quá cao là một rào cản đối với các nhu cầu vay vốn trong thời gian qua, cùng với đó là khó khăn thanh khoản đã và đang bộc lộ trong hệ thống. Nếu quyết định trên được ban hành, khả năng thanh khoản và giảm lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ, sẽ được cải thiện. Ảnh hưởng đến thị trương liên ngân hàng - Với Lượng vốn dồi dào, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cao (CAR), nhiều ngân hàng cho rằng, việc NHNN áp đặt tăng trưởng tín dụng 20% một năm sẽ kiến họ có nguy cơ mất các khách hàng tốt và có khả năng ảnh hưởng xấu đến tình hình vốn trên thị trường. Giới hạn này sẽ cản trở các chi nhánh nước ngoài của các ngân hàng nhỏ trong việc kinh doanh tại Việt Nam Rõ ràng, mục tiêu đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng không thể thoả mãn yêu cầu của các nhóm lợi ích khác nhau trong cùng hệ thống. Nhưng đây là bài toán phải giải quyết, trong bối cảnh “khoảng 25% các ngân hàng xếp hạng cuối trong tổng số 80 ngân hàng ở Việt Nam đều gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, hầu hết trong tình trạng thiếu vốn và khó có thể trụ vững. VI. Chính sách về tỷ giá hối đoái và tác động của nó lên thị trường liên ngân hàng. Trong khoảng thời gian gần đây, khi tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do liên tục tăng, ngày càng bỏ xa trần tỷ giá, NHNN cũng đã nâng dần tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Nếu theo dõi sát việc tăng giảm tỷ giá hối đoái trong vòng 6 tháng trở lại đây, có thể thấy, NHNN đã phát ra nhiều cảnh báo về việc "mất cân đối" giữa huy động và cho vay ngoại tệ. Nhưng rồi, bất chấp cảnh báo đó, hệ thống NHTM và DN vẫn vay nhiều ngoại tệ. Và để cảnh báo hoạt động này, đồng thời đưa tỷ giá chính thức tiến gần với tỷ giá tự do, NHNN đã chủ động điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Chính sách nào cũng cho ra những tín hiệu để thị trường cảm nhận nhưng nếu thị Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 47 trường không cảm nhận đầy đủ, các nhà hoạch định chính sách sẽ phát ra những tín hiệu mạnh mẽ hơn. Từ đầu tháng 10 đến nay, NHNN đã tăng tỷ giá của USD so với VND dựa trên tỷ giá bình quân liên ngân hàng khoảng 0,38%, điều này phát lên một tín hiệu, tỷ giá hối đoái không còn phẳng lặng, quá ổn định như trước. Nếu VND đã mất giá 7% đầu năm thì trong 3 tháng còn lại của năm 2011, việc VND mất giá thêm nhiều nữa, trong bối cảnh chênh lệch lãi suất VND - USD khoảng 12%, có vẻ như rất khó xảy ra. Đương nhiên, tỷ giá thay đổi còn phụ thuộc rất nhiều vào các biến số như sự mất giá của USD đối với các ngoại tệ mạnh trên thế giới từ nay đến cuối năm sẽ như thế nào? Chênh lệch lạm phát của Việt Nam và lạm phát của các nước sẽ diễn biến ra sao? Trong hơn một tuần qua, USD đã mất giá rất nhiều so với các ngoại tệ mạnh. Ví dụ: tỷ giá EURO/USD từ 1,31 - 1,32 nay đã lên đến 1,38 -1,39. Như vậy, USD đang suy yếu ở nước ngoài và lẽ ra cũng phải suy yếu ở Việt Nam, nhưng vì chênh lệch lạm phát với lạm phát của Việt Nam cao hơn của Mỹ đã dẫn đến VND không những không tăng giá so với USD mà còn tiếp tục giảm. Việc dư nợ ngoại tệ tăng lên nhiều trong thời gian vừa qua không có nghĩa là các khoản tín dụng ngoại tệ đáo hạn tập trung vào 3 tháng còn lại của năm 2011 mà đã trải đều trong 12 tháng của năm. Nếu có tăng lên vào dịp cuối năm cũng không phải là nhiều. Hơn nữa, cuối năm, các nhà xuất khẩu sẽ có nguồn thu ngoại tệ để trả nợ ngân hàng, còn các nhà nhập khẩu cũng sẽ có được ngoại tệ theo hợp đồng mua kỳ hạn đã làm từ trước. Chúng ta cần xác lập một vùng tỷ giá mục tiêu. Chính chênh lệch lạm phát sẽ mở ra một xu hướng tăng hay giảm giá của đồng nội tệ. Nhưng cũng cần lưu ý, tỷ giá hối đoái còn bị tác động bởi một quy luật ngang giá về lãi suất. Lãi suất của một đồng tiền cao thì giá trị của đồng tiền đó so với các đồng tiền khác sẽ tăng lên. Với trường hợp của Việt Nam , vùng tỷ giá mục tiêu sẽ bị chi phối bù trừ giữa hai chiều hướng: suy yếu do lạm phát và tăng giá do quy luật ngang bằng về lãi suất. Bằng nhau hay không bằng nhau để làm gì? Mỗi một tỷ giá, mỗi một thị trường đều có những phân khúc khách hàng riêng. Khách hàng của thị trường tự do là những người không có những nhu cầu thực trong thanh toán ngoại hối. Họ xem các biến động Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 48 lãi suất VND và USD, lạm phát ở Việt Nam và những biến động trong một rổ tiền tệ có những quốc gia đại diện... để cảm nhận riêng nên hãy để họ suy nghĩ trên những cảm nhận đó. Còn thị trường liên ngân hàng bản chất là phản ánh gián tiếp nhu cầu của những nhà xuất, nhập khẩu, nhu cầu của các tổ chức tín dụng trên thị trường ngoại hối. Chúng ta không nên quá băn khoăn vì sự cách biệt giá thị trường tự do và thị trường chính thức, đặc biệt là ở một mức độ chênh lệch vừa phải. Điều quan tâm là, đến nay NHNN với tư cách là một người quản lý tiền tệ nắm dự trữ ngoại hối, cân đối luồng vào, luồng ra ngoại tệ đã có những ứng xử kịp thời và phù hợp. Tất cả các nhà nhập khẩu sau khi thấy những tín hiệu phát ra của NHNN rằng sẽ không để tỷ giá bình lặng, yên ắng quá mà chủ quan, tiếp tục đi vay ngoại tệ, bây giờ họ đã bắt đầu mua ngoại tệ để trả nợ tiền đã vay. Khi người ta mua ngoại tệ để trả nợ nghĩa là tạo nên một sức cầu không thấp như trước làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên và làm cho những người chưa bao giờ vay ngoại tệ cũng phải e ngại khi tiếp xúc với tín dụng ngoại tệ. Cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay rất phù hợp. Trong 3 - 4 năm nay, NHNN vẫn tiếp tục lựa chọn tỷ giá bình quân liên ngân hàng và thứ hai là biên độ giao dịch. Ngày trước, chúng ta gần như cố định tỷ giá bình quân liên ngân hàng và để một biên độ quá dài là 5%. Gần đây, chúng ta đã kéo biên độ từ 5% xuống 1%, không để tỷ giá bình quân liên ngân hàng bất động mà được điều chỉnh thường xuyên hơn. Điều này đã mang lại quyền chủ động cho NHNN trong việc vận hành cơ chế tỷ giá hối đoái. Người ta thường nói, "không có một cơ chế tỷ giá nào tối ưu cho mọi nền kinh tế, mọi lúc, mọi nơi". Điều có thể nhận biết là, NHNN đã tỏ ra linh hoạt hơn trong điều hành cơ chế tỷ giá hối đoái. Đặc biệt, việc thông tin đầy đủ và kịp thời đã tạo cho các thành phần tham gia thị trường kỳ vọng hợp lý hơn. Hơn thế, chủ trương đối thoại chính sách trong thời gian qua đã giúp cho NHNN điều hành thị trường ngoại hối hiệu quả hơn. Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 49 C. Kết luận. Các ngân hàng trung gian cũng là một trong những định chế tài chính và hoạt động của nó là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gởi và sử dụng số tiền này để cung cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ thanh toán. Vì vậy việc áp dụng chính sách tiền tệ sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của chúng. Như vậy, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang lạm phát cao, thì việc ngân hàng nhà nước áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ là một viêc cần thiết. với chính sách này việc các ngân hàng gặp là điều khó tránh. Đặc điểm chung là thiếu vốn, nhu cầu về vốn thì rất cao, lãi xuất thị trường tăng mạnh. Các doanh nghiệp tì khát vốn và có nhiều doanh nghiệp sẵn sàng vay vốn với lãi xuất cao, nhưng lượng vốn mà các ngân hàng lại thấp. đặc biệt là các ngân hàng nhỏ nguồn vốn nhỏ sụt giảm, dẫn đến những họ buộc phải cạnh tranh để tăng huy động vốn. Các ngân hàng lớn thì thừa vốn, nhưng đưa ra điều kiện cho vay ngặt nghèo, tạo áp lực đẩy lãi xuất liên ngân hàng lên cao. Bài tiểu luận giải quyết vấn đề chính ở phần mở đầu. Đó làchính sách tiền tệ mà NHNN đang áp dụng hiện nay và kèm theo là tác động của nó tới thị trường liên ngân hàng. Chính sách tiền tệ và thị trường Liên ngân hàng 2011 50 Tài Liệu Tham Khảo 1) Nhập môn tài chính - tiền tệ, nhà xuất bản lao động và xã hội – 2008, chủ biên PGS.TS Sử Đình Thành – PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng. 2) www.sbv.gov.vn trang của NHNN Việt Nam. 3) www.mof.gov.vn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfChính sách tiền tệ và ảnh hưởng của nó lên thị trường liên ngân hàng.pdf
Luận văn liên quan