Tiểu luận Chính sách tỷ giá của Trung Quốc và những ảnh hưởng đến thương mại Châu Á

Mặc dù vấn đề này không hoàn toàn mới nhưng những nghiên cứu của tác giả về việc tăng giá đồng Nhân dân tệ dẫn đến giảm lượng xuất khẩu của Trung Quốc là một điều rất thú vị và cần được nghiên cứu sâu hơn nữa. Bằng cách ước lượng phương trình song phương của Trung Quốc với các đối tác thương mại lớn đã cho thấy việc tăng giá đồng Nhân dân tệ làm giảm xuất khẩu từ các nước châu Á khác. Kết quả nhập khẩu của Trung Quốc đã được giải thích bằng mức độ hội nhập cao theo chiều dọc của các ngành xuất khẩu châu Á. Chính mạng lưới sản xuất của châu Á làm cho các sản phẩm của các nước châu Á mang tính bổ sung hơn là thay thế. Giả thuyết này được chứng minh bởi kết quả nghiên cứu khi tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước châu Á đã bị ảnh hưởng tiêu cực bởi việc tăng giá thực của đồng Nhân dân tệ. Những phát hiện này sẽ làm dấy lên lo ngại về việc tăng giá đột ngột đồng Nhân dân tệ sẽ dẫn đến việc các nước châu Á cũng tăng giá đồng nội tệ so với đồng tiền khác. Bài nghiên cứu cũng đã cho thấy nhập khẩu Trung Quốc có vẻ bị phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài hơn là các hoạt động trong nước. Nhu cầu lớn từ bên ngoài cùng việc tăng dòng vốn đầu tư FDI đã giữ cho kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc tăng đến mùa hè năm 2008 và sau đó do kinh tế thế giới suy thoái và dòng vốn FDI giảm làm xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc giảm mạnh .

pdf45 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2101 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách tỷ giá của Trung Quốc và những ảnh hưởng đến thương mại Châu Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
UẬN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Đề tài 01: CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN THƯƠNG MẠI CHÂU Á (Alicia Garcia-Herrero & Tuuli Koivu) GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo SVTH: 1. Lý Thế Lam - NH Đêm 2 K22 2. Ngô Thị Thu Hương - NH Đêm 2 K22 3. Nguyễn Hoàng Hà Ngân - NH Đêm 2 K22 TP Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2013 MỤC LỤC 1. Giới thiệu............................................................................................................................ 1 2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây ........................................................... 3 3. Phương pháp luận và dữ liệu......................................................................................... 6 3.1. Phương pháp ................................................................................................................ 6 3.2. Dữ liệu .......................................................................................................................... 7 4. Nội dung kết quả nghiên cứu....................................................................................... 12 4.1. Kết quả........................................................................................................................ 12 4.2 Thảo luận về kết quả .................................................................................................. 14 5. Kết luận ............................................................................................................................ 22 Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 1 Bài nghiên cứu này cho thấy rằng cán cân thương mại Trung Quốc nhạy cảm với những biến động trong tỷ giá hối đoái thực đa phương của đồng Nhân dân tệ. Tuy nhiên, với mức độ thặng dư thương mại hiện tại, chính sách tỷ giá hầu như không thể giải thích được sự mất cân bằng. Sự giảm sút của thặng dư thương mại là có giới hạn chủ yếu bởi vì nhập khẩu Trung Quốc không phản ứng được trước sự tăng tỷ giá như kỳ vọng. Thực tế, nó có xu hướng giảm hơn là tăng lên. Bằng cách ước lượng phương trình nhập khẩu song phương cho Trung Quốc và các đối tác thương mại lớn của Trung Quốc, bài nghiên cứu đã nhận thấy có sự phản ứng của nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á khi tỷ giá tăng, kết quả này phản ánh sự hội nhập theo chiều dọc của các nước Đông Nam Á với Trung Quốc. Đồng thời, tổng lượng xuất khẩu ở một số nước ở châu Á có phản ứng tiêu cực do sự tăng giá của đồng Nhân Dân tệ, điều đó cho thấy sự phụ thuộc của các nước châu Á vào kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. 1. Giới thiệu: Thị phần thương mại của Trung Quốc trên thế giới đã tăng rất nhanh trong những năm qua và Trung Quốc đã trở thành một trong những nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới cùng với Mỹ và Đức. Đồng thời, thương mại Trung Quốc cũng đạt được sự cân bằng. Theo số liệu thống kê của hải quan Trung Quốc, thặng dư thương mại mới chỉ khoảng 32 tỷ đô la Mỹ (tương đương 1,7% GDP) vào năm 2004. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2005- 2007 thặng dư thương mại tăng vọt và đạt gần 180 tỷ đô la Mỹ vào năm 2006 (gần 7% GDP của Trung Quốc) và tiếp tục tăng lên tới hơn 10% GDP trong năm 2007. Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 2 Sự gia tăng thặng dư thương mại của Trung Quốc là vấn đề đang gây rất nhiều tranh cãi. Một mặt, nó nhấn mạnh rằng các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc đang duy trì chính sách tỷ giá hối đoái thấp vì mục tiêu lợi nhuận từ nhu cầu xuất khẩu và để đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Mặt khác, cũng có những hoài nghi rằng liệu tỷ giá hối đoái có thể là một công cụ hiệu quả trong việc làm giảm thặng dư thương mại hay không khi mà Trung Quốc là một nền kinh tế đang chuyển đổi nơi mà giá cả vẫn đóng vai trò hạn chế trong quyết định cung và cầu. Trung Quốc đang đối mặt với áp lực mạnh mẽ từ các nước công nghiệp về việc cần tăng giá đồng Nhân dân tệ. Trong thực tế, tỷ giá thực đa phương (REER) đã từng được định giá rất cao từ năm 1994 cho đến cuối năm 1997 và có xu hướng giảm kể từ đó cho đến khi chuyển sang một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn đã được công bố vào năm 2005. Thặng dư thương mại lớn của Trung Quốc không chỉ là vấn đề quan trọng đối với Trung Quốc mà còn đối với các nước khác trên thế giới. Mặc dù có rất nhiều sự quan tâm về vấn đề này nhưng tài liệu liên quan vấn đề này còn ít và không tạo được sự thuyết phục. Việc thiếu các dữ liệu thích hợp và chuỗi thời gian dài đã khuyến khích nghiên cứu về mối liên quan giữa tỷ giá đồng Nhân dân tệ và thương mại của Trung Quốc. Kể từ mùa hè năm 2003, khi cuộc thảo luận về việc định giá thấp đồng Nhân dân tệ được đưa lên hàng đầu. Nghiên cứu về chính sách tỷ giá của Trung Quốc đã rộ lên nhưng phần lớn trong số đó tập trung vào ước lượng tỷ giá cân bằng dài hạn cho Trung Quốc hoặc tìm ra những chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp nhất với nền kinh tế Trung Quốc. Trong khi cả hai câu hỏi rõ ràng có liên quan với nhau thì vấn đề cấp bách đặt ra cho sự mất cân bằng toàn cầu là liệu Trung Quốc có định giá cao đồng tiền như là một công cụ làm giảm thặng dư thương mại khổng lồ của nó hay không. Bài nghiên cứu được tiến hành theo kinh nghiệm và sử dụng phương pháp phân tích đồng liên kết, dữ liệu cho giai đoạn 1994-2005. Theo kết quả nghiên cứu, việc định giá đồng Nhân dân tệ đúng với giá trị thực của nó sẽ làm giảm thặng dư thương mại của Trung Quốc trong thời gian dài nhưng hiệu quả sẽ bị hạn chế . Tác động tương đối nhỏ so với quy mô của sự mất cân bằng được giải thích chủ yếu bởi tính co giãn đặc biệt của nhập khẩu theo giá, cụ thể là: nhập khẩu của Trung Quốc bị ảnh hưởng tiêu cực bởi việc tăng giá thực của đồng Nhân dân tệ. Bằng cách ước lượng phương trình nhập khẩu song phương, nghiên cứu đã cho thấy rằng ngành nhập khẩu từ chính các nước châu Á có xu hướng giảm nhưng các nước khác thì không. Kết quả rõ ràng này có thể được giải thích Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 3 bởi tính chất đặc biệt của thương mại trong khu vực châu Á, đó là liên kết dọc. Thực tế nhập khẩu của Trung Quốc từ khu vực Đông Nam Á chủ yếu là để hướng tới tái xuất khẩu. Ngoài ra, bài nghiên cứu cũng đưa ra những bằng chứng rằng các nước châu Á dường như không thể bù đắp cho việc giảm xuất khẩu của họ sang Trung Quốc bằng cách tăng xuất khẩu sang các nước khác trong khi tổng lượng xuất khẩu của họ bị tác động tiêu cực do việc tăng giá của đồng Nhân dân tệ. Nói một cách khác, xuất khẩu từ các nước Đông Nam Á được bổ sung nhiều hơn thay thế cho xuất khẩu của Trung Quốc. Phần còn lại của bài nghiên cứu có cấu trúc như sau : Phần 2: Xem xét tài liệu hiện có, kết quả đã đạt được của một số nghiên cứu trước đây Phần 3: Mô tả phương pháp và dữ liệu sử dụng. Phần 4: -Trình bày kết quả: nền xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc phản ứng như thế nào với những thay đổi trong tỷ giá hối đoái và nhu cầu. -Tác giả cố gắng đào sâu hơn vào vấn đề tại sao nhập khẩu của Trung Quốc không tăng từ việc tăng giá đồng Nhân dân tệ bằng cách ước lượng phương trình thương mại song phương với các đối tác thương mại chính của nó và sau đó phân tích phương trình xuất khẩu của một số nước châu Á được lựa chọn. Phần 5: Kết luận 2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây: Các tài liệu hiện có đánh giá tác động của việc định giá cao đồng Nhân dân tệ trong hoạt động thương mại của Trung Quốc được chia thành hai nhóm. Nhóm đầu tiên chiếm đa số đưa ra bằng chứng rằng sự tăng tỷ giá thực đồng Nhân dân tệ sẽ làm giảm thặng dư cán cân thương mại thông qua hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hoặc cả hai. Nhóm thứ 2 cho rằng bằng chứng thực nghiệm về điều đó không rõ ràng và không có ý nghĩa thống kê. Với nhóm đầu tiên, Cerra và Dayal-Gulati (1999) sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số ECM ( Error Correction Model) để ước lượng độ co giãn về giá của Xuất Nhập khẩu Trung Quốc giai đoạn 1983~1997 và tìm ra hệ số có ý nghĩa tiêu cực với xuất khẩu là (- 0.3) và tích cực có ý nghĩa thống kê đối với nhập khẩu là (0.7) . Hơn nữa, họ cũng chỉ ra rằng độ co giãn của cả hai tăng theo thời gian. Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 4 Dees(2001) thực hiện cải tiến các phân tích trước đó bằng cách tách xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc thành hai loại là hàng hóa gia công và hàng hoá thông thường. Ông ấy nhận thấy rằng, trong dài hạn tăng tỷ giá sẽ làm giảm xuất khẩu. Ông cũng nói rằng xuất khẩu thông thường sẽ nhạy cảm về giá hơn là xuất khẩu gia công và nhập khẩu hàng gia công sẽ tăng nhẹ trong trường hợp tỷ giá tăng. Bénassy-Quéré và Lahrèche-Révil (2003) giả sử tác động của việc giảm 10% giá thực của Đồng Nhân dân tệ và kết quả cho thấy xuất khẩu Trung Quốc đến các nước OECD tăng và nhập khẩu từ các nước kinh tế mới nổi Châu Á giảm nếu tỷ giá của họ không thay đổi. Kamada và Takagawa (2005) đã làm một số mô hình mô phỏng để tính toán những tác động của thay đổi tỷ giá hối đoái của Trung Quốc. Họ đã chỉ ra rằng, việc nâng giá 10% sẽ làm tăng nhập khẩu một chút trong khi đó tác động lên xuất khẩu lại khá nhỏ bé . Đã có 4 nghiên cứu tìm ra rằng xuất khẩu bị tác động tiêu cực và nhập khẩu tác động tích cực khi đồng Nhân dân tệ tăng giá. Tất cả các nghiên cứu này sử dụng dữ liệu trước khi Trung Quốc là thành viên của WTO. Một số bài báo sử dụng dữ liệu thực tế trước khi Trung Quốc gia nhập WTO chỉ để nghiên cứu vấn đề xuất khẩu của Trung Quốc. Yue và Hua (2002) và Eckaus (2004) đều xác nhận rằng việc tăng tỷ giá cao sẽ làm giảm xuất khẩu . Cũng giống như Cerra và Dayal-Guyati, nhưng với dữ liệu gần đây, Yue và Hua cho thấy xuất khẩu Trung Quốc ngày càng trở nên nhạy cảm về giá hơn. Voon, Guangzhong và Ran (2006) đã sử dụng các dữ liệu trong ngành giai đoạn 1978 - 1998 kết hợp với các cấp độ định giá quá cao đồng nhân dân tệ khi ước lượng phương trình xuất khẩu, họ cũng tìm ra mối liên hệ tiêu cực giữa định giá cao tỷ giá và kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc . Bài báo nghiên cứu sử dụng nhiều hơn dữ liệu hiện tại để hỗ trợ các kết quả trước đó về tác động tiêu cực của co giãn tỷ giá đến xuất khẩu nhưng thách thức là đồng Nhân dân tệ tăng giá sẽ làm tăng nhập khẩu của Trung Quốc. Lau, Mo và Li (2004) ước lượng xuất nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước G3 sử dụng dữ liệu theo quý. Trong dài hạn, việc tăng tỷ giá thực đa phương có ý nghĩa trong việc làm giảm lượng xuất khẩu. Thay vào đó, nhập khẩu thông thường hoặc nhập khẩu chế biến dường như không bị ảnh hưởng bởi tỷ giá thực đa phương. Trong một số trường Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 5 hợp, kết quả thật khó có thể giải thích được vì chúng không rõ ràng rằng làm thế nào để họ giảm giá xuất khẩu - nhập khẩu, và với số lượng các quan sát nhỏ. Thorbecke (2006) sử dụng mô hình lực hấp dẫn (gravity model) để nghiên cứu tác động của tỷ giá hối đoái làm thay đổi mô hình thương mại ba bên trong khu vực châu Á. Cuối cùng ông chia xuất khẩu thành trung gian, vốn và hàng hóa thành phẩm . Kết quả của ông cho thấy rằng tăng giá 10% đồng Nhân dân tệ sẽ làm giảm đi 13% xuất khẩu của Trung Quốc. Tuy nhiên, việc định giá cao sẽ không làm giảm nhập khẩu của Trung Quốc từ Mỹ. Cuối cùng, Shu và Yip (2006) ước tính tác động của biến động tỷ giá đến nền kinh tế Trung Quốc nói chung và đã tìm ra rằng việc tăng tỷ giá có thể làm giảm xuất khẩu dựa trên chuyển dịch chi tiêu, kết quả là làm tổng cầu bị giảm nhẹ . Trong khi các báo trước đó đã đi đến một kết luận rằng sự định giá cao đồng Nhân dân tệ sẽ dẫn đến một sự suy giảm trong thặng dư thương mại của Trung Quốc chủ yếu qua tác động tiêu cực của nó đối với xuất khẩu Trung Quốc, một số bài nghiên cứu khác thì cung cấp một cái nhìn hơi khác về chính sách tỷ giá như thế nào có thể sẽ gây ảnh hưởng đến thặng dư thương mại của Trung Quốc. Jin (2003) ước tính các mối quan hệ giữa lãi suất thực tế, tỷ giá hối đoái thực và cán cân thanh toán của Trung Quốc và kết luận rằng việc tăng tỷ giá thực sẽ làm tăng thặng dư của cán cân thanh toán. Cerra và Saxena (2003) sử dụng dữ liệu ngành để nghiên cứu hành vi của các nhà xuất khẩu và đã tìm ra rằng giá xuất khẩu cao hơn làm tăng nguồn cung xuất khẩu đặc biệt là trong những năm gần đây. Tác động của tỷ giá hối đoái danh nghĩa lên xuất khẩu không thật sự mạnh mẽ. Trong một số trường hợp kết quả của họ, cũng như bất kỳ dữ liệu ngành khác, nên được xem xét một cách cẩn thận vì chỉ một nửa lượng xuất khẩu Trung Quốc được đề cập trong các dữ liệu theo ngành và không có sự điều chỉnh chất lượng nào trong đơn giá của họ. Một trong những nỗ lực gần đây nhất để ước lượng phương trình xuất nhập khẩu của Trung Quốc là của Marquez và Schindler (2006). Họ sử dụng dữ liệu là thị phần trong tổng thương mại thế giới thay vì sử dụng lượng xuất nhập khẩu để tránh sử dụng các yếu tố đại diện cho giá cả xuất nhập khẩu . Kết quả cho thấy, tăng giá đồng Nhân dân tệ không những ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu Trung Quốc mà còn đến cả nhập khẩu, ít nhất là đối với thương mại thông thường. Uớc lượng sự ảnh hưởng lên thị phần xuất Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 6 khẩu và nhập khẩu còn để không có kết luận được rút ra liên quan tài khoản thương mại. Ngoài ra, họ không sử dụng kỹ thuật đồng liên kết để chỉ ước lượng được độ co giãn trong ngắn hạn. Tóm lại, các nghiên cứu trước đó đã thấy rằng một sự gia tăng tỷ giá thực sẽ làm giảm xuất khẩu của Trung Quốc. Kết quả này có những thay đổi mạnh mẽ về phương pháp nghiên cứu, khoảng thời gian và phạm vi dữ liệu. Trong khi các nghiên cứu trước đó tìm ra rằng tỷ giá tăng làm tăng nhập khẩu của Trung Quốc, một số nghiên cứu gần đây lại đưa ra những kết quả khác. Nhìn chung, không có một kết luận rõ ràng nào về tác động của việc tăng giá đồng Nhân dân tệ đến cán cân thương mại của Trung Quốc dựa trên những nghiên cứu trước đây. Bài nghiên cứu này xem xét tác động của tỷ giá thực đến thương mại của Trung Quốc với nhiều dữ liệu gần đây hơn. Ngoài ra, kỹ thuật đồng liên kết được sử dụng để phân tích những phát triển trong dài hạn. Ngoài ra, tác giả cũng mở rộng phân tích bằng cách tập hợp phương trình xuất nhập khẩu song phương để nghiên cứu sự khác biệt lớn giữa các đối tác thương mại của Trung Quốc. 3. Phương pháp luận và dữ liệu: 3.1. Phương pháp: Tác giả phân tích mối quan hệ trong dài hạn giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại bằng kỹ thuật Đồng liên kết. Lượng và giá xuất, nhập khẩu được xác định một cách đồng thời theo quy luật cung cầu của thị trường. Tuy nhiên, nếu xây dựng mô hình hệ phương trình đồng thời (gồm phương trình biểu diễn lượng cung, lượng cầu và điều kiện cân bằng cung cầu), sẽ gặp phải độ lệch trong ước lượng bằng phương pháp bình phương bé nhất-đây là kết quả của những tác động phản hồi giữa các phương trình. Do đó, tác giả sử dụng dạng rút gọn của phương trình xuất nhập khẩu để tránh độ lệch do phương trình đồng thời. Tuy nhiên, để tránh các vấn đề tiềm ẩn với các biến bỏ qua, trong phương trình rút gọn, tác giả đã thêm vào đó các yếu tố ảnh hưởng đến cung và cầu. Đầu tiên, tác giả kiểm tra sự phù hợp của tất cả các biến trong phân tích (kiểm tra thuộc tính biến tĩnh của dữ liệu) bằng phép kiểm định Dickey – Fuller bổ sung để kiểm tra sự tồn tại của nghiệm đơn vị. Hầu hết các biến đều không tĩnh cùng bậc nhưng tĩnh Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 7 trong những khác biệt đầu tiên. Bước hai, tác giả kiểm tra sự tồn tại của vector đồng liên kết bằng cách sử dụng thủ tục Johansen và đã tìm ra ít nhất 1 vector đồng liên kết cho mỗi nhóm biến. Theo Phillips và Loretan (1991), điều này cho phép kiểm định sự hồi quy của độ trễ và sự khác biệt của chúng với phương pháp bình phương nhỏ nhất phi tuyến tính. Để xác định sự nhạy cảm của Xuất nhập khẩu Trung quốc với những thay đổi của tỷ giá thực đồng NDT, tác giả ước lượng phương trình xuất nhập khẩu. Hai phương trình có dạng: X t = 0 +1 REER t + 2 Y * t +  n i i 3  controls t + t M t = 0 +1 REER t + 2 Y t +  n i i 3  controls t + t Trong đó : X t : Khối lượng xuất khẩu từ Trung Quốc M t : Khối lượng nhập khẩu từ Trung Quốc REER t : Tỷ giá hối đoái thực đa phương Y * t : GDP nước ngoài Y t : GDP trong nước 1 : độ co giãn về giá của xuất khẩu  2 : độ co giãn về thu nhập của xuất khẩu 1 : độ co giãn về giá của nhập khẩu  2 : độ co giãn về thu nhập của nhập khẩu 3.2. Dữ liệu: Nhận thấy tầm quan trọng của hàng gia công trong thương mại Trung quốc, tác giả ước lượng riêng biệt phương trình nhập khẩu hàng hóa gia công để tái xuất khẩu và Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 8 hàng nhập khẩu thông thường và tách biệt giữa xuất khẩu hàng gia công và xuất khẩu hàng hóa thông thường. Biểu đồ A1.1 và A1.2 cho thấy xu hướng xuất nhập khẩu hàng thông thường và hàng gia công. Cả hai đều tăng nhanh hơn nhiều từ năm 2001, cùng với việc Trung Quốc gia nhập WTO. Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 9 Điểm khó khăn khi xử lý dữ liệu về thương mại của Trung Quốc là khó tách biệt giá trị và khối lượng xuất khẩu hay nhập khẩu, vì không tồn tại thước đo giá xuất nhập khẩu ở mức độ tổng thể. Vì vậy tác giả sử dụng những chỉ số khác thể hiện dữ liệu về giá. Để thể hiện cho giá hàng xuất khẩu, tác giả sử dụng chỉ số giá tiêu dùng của Trung Quốc (CPI). Lý do phải sử dụng thước đo giá cả tổng quát này vì Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc không cung cấp dữ liệu về chỉ số giá của nhà sản xuất và chỉ số giá của nhà bán sỉ không tồn tại trong toàn bộ mẫu xem xét. Đối với giá cả nhập khẩu, tác giả tính toán chỉ số gia trọng của giá xuất khẩu của 25 đối tác thương mại quan trọng nhất của Trung Quốc và điều chỉnh giảm nhập khẩu của Trung Quốc với chỉ số này (nguồn số liệu có thể tìm thấy trong Bảng A1.1). Với phép kiểm định robustness, tác giả sử dụng giá hàng xuất khẩu Hồng Kông làm đại diện cho giá xuất khẩu của Trung Quốc và kết quả vẫn được duy trì. (Giả định cơ bản là hầu hết hàng xuất khẩu của Hồng Kông là sản phẩm Trung Quốc và lợi nhuận gộp của những sản phẩm này hầu như là không đối) Tỷ giá hối đoái thực đa phương (REER) được xác định bởi bộ phận thống kê tài chính quốc tế của IMF. Nó được xây dựng như sau: REER =  N i W i irer 1 )( Trong đó: N: số lượng tiền tệ được tính trong chỉ số w i : khối lượng tiền tệ thứ i ( quyền số của tiền tệ thứ i) rer ti, : tỉ giá thực song phương tương ứng với mỗi đối tác thương mại của Trung Quốc. Tác giả dự đoán sự co giãn về tỷ giá hối đoái sẽ tác động nghịch chiều đến xuất khẩu, do sự cạnh tranh của sản phẩm Trung Quốc trên thị trường thế giới. Và dấu hiệu kỳ vọng cho độ co giãn theo tỷ giá của hàng nhập khẩu rõ ràng ít hơn trong trường hợp của Trung Quốc. Sự tăng giá thực của đồng nội tệ sẽ thúc đẩy nhập khẩu nếu mức gia tăng sức mua lớn hơn mức sụt giảm nhu cầu do sự liên đới với xuất khẩu. Tác động nào là mạnh hơn thì sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào cấu trúc hàng nhập khẩu. Thực tế là, nếu hàng nhập khẩu có tính thay thế đối với hàng nội địa, độ co giãn về giá sẽ dương (tức là sự Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 10 tăng giá nội tệ sẽ làm tăng nhập khẩu). Tuy nhiên, nếu hàng nhập khẩu là những thành phần cơ bản dùng cho công nghiệp xuất khẩu – đây là trường hợp của Trung Quốc, thì nhập khẩu có thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi sự tăng giá đồng NDT giống như đối với xuất khẩu. Lượng cầu của nước ngoài đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc được đo lường bởi lượng hàng nhập khẩu trên thế giới (trừ lượng nhập khẩu vào Trung Quốc) và được điều chỉnh giảm bởi chỉ số giá nhập khẩu toàn cầu. Rõ ràng là một số phép đo lường dựa vào sản lượng có thể được sử dụng nhưng dữ liệu không tồn tại theo từng tháng. Hơn nữa, sử dụng loại dữ liệu này có thể gặp sai lệch do khó nắm bắt được sự phát triển nhanh chóng của thương mại thế giới trong những năm gần đây, rõ ràng nhanh hơn so với tăng trưởng GDP, do việc mở cửa nền kinh tế mới nổi. Để thể hiện nhu cầu trong nước của Trung Quốc đối với hàng nhập khẩu thông thường, tác giả dựa trên sản lượng công nghiệp. Tuy GDP là chỉ số đo lường thông dụng hơn để đo sản lượng kinh tế nhưng không thể thu thập được do cơ quan thống kê của Trung Quốc chưa công bố số liệu GDP hàng quý cho giai đoạn 1994-2005. Đối với hàng nhập khẩu để gia công, tác giả sử dụng lượng xuất khẩu hàng gia công. Kết quả kỳ vọng đối với độ co giãn theo thu nhập là dương đối với cả xuất khẩu và nhập khẩu. Những biến kiểm soát được thêm vào trong phương trình xuất nhập khẩu dựa trên nền tảng phù hợp với lý thuyết về thương mại của Trung Quốc. Đối với xuất khẩu, tác giả kiểm định sự phù hợp của chính sách giảm thuế VAT được sử dụng ở Trung Quốc, như một công cụ để thúc đẩy hay hạn chế xuất khẩu tùy thuộc vào chu kỳ kinh doanh. Kết quả cho thấy việc giảm VAT rõ ràng có tác động tích cực. (Dữ liệu của việc giảm VAT từ năm 1995 đến năm 2004). Để xem xét về lượng cung, tác giả sử dụng chỉ số đo lường mức độ sử dụng năng lực sản xuất. Theo lý thuyết, mức sử dụng năng lực sản xuất cao cho thấy khả năng hãm nguồn cung, điều này cản trở tăng trưởng xuất khẩu. Mức độ sử dụng năng lực sản xuất được định nghĩa là chênh lệch giữa sản lượng công nghiệp và sản lượng tiềm năng của nó, phần còn lại được tính bằng cách sử dụng phương pháp lọc Hodrich – Prescott. Biến kiểm soát cuối cùng Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 11 trong phương trình xuất khẩu là phần giá trị thực của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) – được điều chỉnh giảm bởi chỉ số CPI. Mối quan hệ giữa thương mại và xuất khẩu theo như trong các tài liệu có thể phù hợp đối với Trung Quốc khi một lượng lớn FDI hướng đến lĩnh vực xuất khẩu. Đối với phương trình nhập khẩu, cần phải thêm thuế nhập khẩu ở giai đoạn từ khi nó được giảm đáng kể, nhất là sau khi gia nhập WTO. Biến kiểm soát thứ 2 cũng là FDI. Tác giả dự đoán rằng có một sự tác động tích cực đến nhập khẩu, bởi vì những công ty nước ngoài thường thích sử dụng máy móc, thành phần và các bộ phận nhập khẩu trong sản xuất hơn là những doanh nghiệp Trung Quốc. Tuy nhiên, cần chú ý là khi các công ty nước ngoài bắt đầu chuyển giao toàn bộ dây chuyền sản xuất sang Trung Quốc thì nhu cầu nhập khẩu sẽ giảm theo việc tăng FDI. Cuối cùng, một xu hướng xác định được kể đến trong cả phương trình xuất khẩu và nhập khẩu khi nó có ý nghĩa thống kê. Biến xu hướng sẽ giúp nắm bắt được những cải thiện năng suất và cải cách trong nền kinh tế Trung Quốc, cái mà chúng ta không dễ dàng gì đo lường được. Tất cả các biến khác, ngoại trừ ưu đãi VAT và thuế nhập khẩu, được đo lường như một phần của giá trị xuất khẩu và nhập khẩu, được lấy logarit. Vì Trung Quốc không theo mô hình mùa vụ tiêu chuẩn, tác giả sử dụng biến giả dummy cho Tết Nguyên Đán và Tháng 12. Tác giả sử dụng dữ liệu theo hàng tháng trong giai đoạn 1994 – 2005. Nếu bắt đầu phân tích từ trước năm 1994 thì sẽ có ý nghĩa rất ít vì năm 1994 là năm bước ngoặt bởi Trung Quốc có những cải cách thị trường. Trong đó một số cải cách đặc biệt liên quan đến câu hỏi nghiên cứu tác giả đã đặt ra. Cụ thể là hai hệ thống tỷ giá được thống nhất lại, kế hoạch bắt buộc cho hàng nhập khẩu bị loại trừ, hạn ngạch và yêu cầu về các loại giấy phép bị cắt giảm. (theo khảo sát kinh tế OEDC năm 2005, lượng giao dịch kiểm soát giá thị trường đối với hàng sản xuất tăng từ 46% năm 1991 lên 78% năm 1995). Đồng NDT bắt đầu có tính thanh khoản trong tài khoản vãng lai và khu vực tư nhân phát triển lợi nhuận nhờ luật doanh nghiệp mới. Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 12 Với chính sách tiến tới nền kinh tế thị trường đã cho phép Trung Quốc gia nhập WTO tháng 12 năm 2001. Do sự chuẩn bị lâu dài cho việc gia nhập và hậu WTO, nên khó ước lượng được vị thế là thành viên WTO sẽ tác động đến thương mại của Trung Quốc khi nào và như thế nào. Thông tin có được cho thấy năm 2000 là năm mà việc gia nhập WTO của Trung Quốc. Vì vậy tác giả quyết định chọn năm 2000 là điểm ngắt quãng cho mẫu bằng các kỹ thuật thống kê. Cụ thể, tác giả đã tìm thấy điểm phá vỡ cấu trúc trong đầu năm 2000 thông qua kiểm định Chow-cho thấy biến độc lập có tác động khác nhau lên 2 nhóm của mẫu: giai đoạn trước năm 2000 và giai đoạn sau 2000. Tóm lại, để kiểm tra xem ngoại thương của Trung Quốc có trở nên nhạy cảm về giá hơn với những điều khoản của WTO không, tác giả đã chia mẫu thành 2 giai đoạn: từ 1994 đến cuối 1999, và từ đầu 2000 đến hết mẫu. 4. Nội dung kết quả nghiên cứu: 4.1. Kết quả : Tác giả chạy mô hình hồi quy phương trình xuất nhập khẩu cho toàn bộ mẫu chọn (1994-2005), và cho thời kỳ ngắn hơn (2000-2005). Trong cả 2 trường hợp, tác giả đều xem xét sự khác biệt giữa thương mại hàng thông thường và thương mại hàng gia công và chạy mô hình riêng cho 2 nhóm này trong cả xuất khẩu và nhập khẩu. Số lượng tối đa độ của độ trễ ngắn hạn đưa vào phương trình là ba và cuối cùng tác giả chỉ sử dụng kết quả có ý nghĩa thống kê. Toàn bộ kết quả của các phương trình xuất khẩu được trình bày trong bảng A1.2 Theo kỳ vọng, độ co giãn theo tỷ giá hối đoái trong dài hạn của xuất khẩu Trung Quốc đối với hàng gia công và hàng thông thường đều âm và có ý nghĩa trong toàn bộ mẫu cũng như từ khi gia nhập WTO. Khi được điều chỉnh thích hợp (Bảng 2), độ co giãn trong dài hạn theo tỷ giá hối đoái của xuất khẩu hàng gia công cho cả 2 thời kỳ là khoảng -1.3. Đối với xuất khẩu hàng thông thường, độ co giãn là -2.3 cho thời kỳ 1994-2005 và - 1.6 cho thời kỳ 2000-2005. Kết quả của tác giả rất gần với kết quả được tìm thấy trước đây bởi các tác giả sử dụng phân tích đồng liên kết (-1.5 cho tổng xuất khẩu, theo Lau, Mo và Li, 2004 và -1.3 theo Shu và Yip,2006). Các kết quả này cũng tương tự như độ co giãn theo giá hàng xuất khẩu đã được ước lượng cho các nước công nghiệp lớn (-1.5 và - 1.6 đối với Mỹ và Anh, theo Hooper và các cộng sự, 1998). Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 13 Trong mẫu chọn của tác giả, tác động tích cực trong dài hạn của nhu cầu thế giới đến xuất khẩu Trung Quốc nhỏ và không có ý nghĩa thống kê nhưng sau khi Trung Quốc trở thành thành viên WTO thì tác động này trở nên có ý nghĩa thống kê. Điều này đúng cho cả xuất khẩu hàng gia công và xuất khẩu hàng thông thường. Kết quả này cho thấy Trung Quốc đã phải đối mặt với những trở ngại lớn trong việc thu lợi từ những nước phát triển khác trước khi gia nhập WTO. Ngoài ra, với mẫu trong giai đoạn 2000-2005, độ co giãn theo thu nhập của xuất khẩu Trung Quốc xấp xỉ bằng 1 như kỳ vọng. Với các biến kiểm soát ta thấy, mức độ sử dụng năng lực sản xuất có tác động đồng thời đến xuất khẩu hoặc độ trễ 1 tháng. Tác động này là tiêu cực, đồng nghĩa với việc một phần lớn của sản xuất để lại trong thị trường nội địa vào thời kỳ tăng trưởng cao. Việc giảm VAT không có ý nghĩa thống kê nên tác giả loại chúng ra khỏi phương trình ước lượng cuối cùng. Như đã đề cập, các dữ liệu về FDI bắt đầu vào năm 1997 và vì thế được giới thiệu như một biến giải thích chỉ trong khoảng thời gian gần nhất. Tuy nhiên, đáng ngạc nhiên là FDI không tác động một cách có ý nghĩa thống kê đến xuất khẩu của Trung Quốc. Xu hướng có tác động tích cực và có ý nghĩa đối với tất cả các phương trình trong khi biến giả Tết Trung Quốc và Tháng 12 dường như làm giảm xuất khẩu khá đáng kể. Nếu chúng ta loại biến xu hướng ra khỏi ước lượng, hệ số trên cả 2 biến Nhu cầu thế giới và FDI sẽ có ý nghĩa và tích cực hơn. Tuy nhiên kết quả về độ co giãn tỷ giá hối đoái sẽ không thay đổi nhiều. Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 14 Các hệ số ước tính của phương trình nhập khẩu được thể hiện trong Bảng A1.3. Các yếu tố nhu cầu dường như chỉ đóng vai trò tương đối vừa phải trong việc giải thích nhập khẩu giai đoạn đầu. Trong mẫu ở giai đoạn sau, nhập khẩu hàng gia công phản ứng tích cực với nhu cầu bên ngoài, được đo bằng xuất khẩu hàng gia công. Sản lượng công nghiệp trong nước làm tăng nhập khẩu hàng thông thường như mong đợi. Như kỳ vọng, vốn FDI dường như có tác động tích cực trong dài hạn đối với cả hàng nhập khẩu thông thường và hàng nhập khẩu gia công. Cuối cùng, việc giảm thuế nhập khẩu có vẻ có tác động thúc đẩy nhập khẩu hàng gia công trong dài hạn. Giống như với xuất khẩu, các biến giả Tết Trung Quốc cũng như cho biến Tháng mười hai có ý nghĩa trong nhiều trường hợp. Ta thấy, độ co giãn tỷ giá nhập khẩu là luôn luôn âm và có ý nghĩa tổng quát. Ngoại trừ duy nhất trường hợp nhập khẩu hàng gia công trong khoảng thời gian ngắn khi hệ số âm của tỷ giá hối đoái chỉ có ý nghĩa ở mức 15%. Bên cạnh mối liên hệ trực tiếp với tỷ giá hối đoái, nhập khẩu hàng gia công còn bị ảnh hưởng gián tiếp bởi tỷ giá hối đoái thông qua các yếu tố cầu, như xuất khẩu hàng gia công. Khi mối liên hệ gián tiếp cũng được đưa vào tài khoản, phản ứng tiêu cực của nhập khẩu hàng gia công đến sự định giá tỷ giá thực mạnh hơn phản ứng của hàng nhâp khẩu thông thường. Tóm lại, sự tăng giá thực đồng Nhân dân tệ có tác dụng làm giảm nhập khẩu hơn là làm tăng chúng. Điều này cũng đúng trong những nghiên cứu trước đây, như của Marquez and Schindler (2006). Điều này về cơ bản có nghĩa là nhập khẩu - ngay cả đối với nhập khẩu hàng thông thường - nhạy cảm với sự sụt giảm của xuất khẩu do tác động của sự tăng giá đồng NDT hơn là sự gia tăng của sức mua. 4.2 Thảo luận về kết quả: Thực tế của việc tăng giá Nhân dân tệ tác động tiêu cực lên nhập khẩu là một hiện tượng thú vị cần có sự phân tích kỹ lưỡng. Tất cả các điểm đều cho thấy tác động tiêu cực làm giảm thặng dư thương mại Trung Quốc trong trường hợp tăng giá Nhân dân tệ. Giả thiết của tác giả cho rằng điều này có liên quan đến điểm đặc biệt của thương mại Trung Quốc, được minh họa bởi những khác biệt lớn của cán cân thương mại song phương của Trung Quốc với các nước khác( Biểu đồ 2 và 3). Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 15 Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 16 Trung Quốc nhập khẩu một lượng lớn hàng hóa trung gian từ các nước Châu Á để gia công, chế biến và tái xuất khẩu. Do mức độ liên kết dọc cao của những nước xuất khẩu Châu Á làm cho xuất khẩu của họ mang tính bổ sung hơn là tính thay thế đối với hàng hóa Trung Quốc. Vì vậy, việc tăng giá đồng Nhân dân tệ sẽ không chỉ làm giảm sản lượng xuất khẩu mà còn làm giảm sản lượng nhập khẩu. Hội nhập theo chiều dọc được áp dụng nhiều hơn cho công nghiệp chế biến và có nhiều chức năng nhập khẩu lại là đầu vào cho xuất khẩu như hàng hoá đầu tư. Nhìn chung, chỉ một phần hàng hoá nhập khẩu cạnh tranh với sản phẩm nội địa của Trung Quốc vì hàng hoá chất lượng không cao ít được nhập khẩu vào Trung Quốc. Một phần đáng kể hàng nhập khẩu của Trung Quốc gồm năng lượng, nguyên vật liệu là nhằm phục vụ cho đầu tư trực tiếp nước ngoải. Để tìm hiểu rõ vấn đề với dữ liệu đã có, tác giả đã chạy hồi quy song phương cho mười đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc để đánh giá các tác động khác nhau có thể có của việc tăng giá trị thực đồng Nhân dân tệ giữa các nước. Giả thiết của tác giả là lượng nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á sẽ phản ứng tiêu cực với việc tăng giá đồng Nhân dân tệ, và những sản phẩm trung gian chính của Trung Quốc là để lắp ráp và tái xuất khẩu. Ngược lại, nhập khẩu từ các nước khác dự kiến sẽ tác động ngược trở lại đến việc tăng giá đồng Nhân dân tệ và phụ thuộc vào cơ cấu xuất khẩu của họ. Các phương trình ước tính song phương có dạng: X tj =  oj +  j1 RER tj +  j2 Y * tj +   n i ij 3  controls tj + tj M tj =  oj +  j1 RER tj +  j2 Y * tj +   n i ij 3  controls tj + tj Trong đó lượng xuất khẩu từ Trung Quốc đến nước j và nhập khẩu từ nước j của Trung Quốc tương ứng là Xtj và Mtj được giải thích bởi tỷ giá thực song phương(RERtj), nhu cầu bên ngoài và trong nước tương ứng là Y*tj , Yt và các biến kiểm soát khác . Tiếc là tác giả không thể tách xuất khẩu và nhập khẩu cho các sản phẩm thông thường do không có dữ liệu. Như trong phần test trước, chỉ số CPI như là một nhân tố làm giảm xuất nhập khẩu của Trung Quốc, nó được chuyển đổi thành khối lượng bằng cách sử dụng chỉ số giá xuất khẩu của mỗi đối tác. Tỷ giá hối đoái thực song phương giữa đồng Nhân dân tệ và đồng tiền của nước đối tác trong mối quan hệ xuất nhập khẩu với Trung Quốc được đo lường bằng chỉ số CPI. Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 17 Nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc được thể hiện bởi GDP thực tế của từng đối tác xuất khẩu trong khi nhu cầu trong nước của Trung Quốc bị chi phối bởi sản xuất công nghiệp. Tác giả cũng giới thiệu yếu tố FDI song phương trong cả hai phương trình xuất nhập khẩu. Như trước đây, tác giả đưa ra mức sử dụng năng lực sản xuất cho các phương trình xuất khẩu của Trung Quốc. Cuối cùng, một xu hướng đã được giới thiệu khi các chỉ số có ý nghĩa thống kê. Nguồn số liệu được báo cáo lại trong bảng A1.1. Đồng thời, tác giả ước tính các phương trình thương mại song phương cho giai đoạn 2000-2005 vì một số quốc gia không có dữ liệu cho cả giai đoạn này. Việc làm này giúp chúng ta so sánh kết quả giữa các quốc gia và cũng với những dữ liệu đó dùng cho phương trình xuất nhập khẩu tổng hợp. Theo các bước tương tự như trước, tác giả tiến hành kiểm tra nghiệm đơn vị cho tất cả các biến song phương. Hầu như tất cả trong số đó là I(1) và ít nhất một vector liên kết được tìm thấy cho mỗi phương trình xuất nhập khẩu song phương. Kết quả của các phương trình xuất khẩu song phương rất giống với ước tính của tác giả và giữa các quốc gia cũng vậy (Bảng A1.4). Việc tăng giá của đồng Nhân dân tệ trong mối quan hệ song phương với đồng tiền của mỗi đối tác lớn của Trung Quốc làm giảm xuất khẩu của Trung Quốc, mặc dù đối với Mỹ và Đài Loan mối liên quan này không có ý nghĩa thống kê. Ngoại trừ duy nhất là Hồng Kông có hệ số dương nhưng không có ý nghĩa thống kê. Kết quả đối với Hồng Kông không làm ngạc nhiên do việc gặp khó khăn trong việc xử lý các dữ liệu thương mại giữa Trung Quốc đại lục và Hồng Kông. Sau khi chuyển đổi (xem Bảng 3), độ co giãn tỷ giá cao nhất đối với xuất khẩu sang Singapore nếu chúng ta bỏ qua các hệ số không ý nghĩa đối với xuất khẩu sang Mỹ. Chúng ta cũng thấy rằng hoạt động kinh tế của các nước đối tác thương mại của Trung Quốc làm tăng xuất khẩu của Trung Quốc như kỳ vọng. Với hầu hết các nước, độ co giãn thu nhập song phương đều cao, ngoại trừ Đức. Với Hoa Kỳ và các nước châu Âu, độ co giãn rất lớn. Điều này có thể là do từ khi Trung Quốc gia nhập WTO được một thời gian ngắn, cấu trúc chính của thương mại thế giới có sự thay đổi. Ngoài ra, nó cho thấy tầm quan trọng của các yếu tố nhu cầu để giải thích sự mất cân bằng thương mại ngày càng tăng giữa Trung Quốc và Mỹ hoặc với các nước EU. Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 18 Trong một số trường hợp, đo lường của tác giả về mức tăng năng suất, biến xu hướng, cũng có ý nghĩa tích cực. Tuy nhiên, đối với Hàn Quốc và Đài Loan, xu hướng lại là tiêu cực. Như đối với FDI, tăng FDI của Hàn Quốc hay Đài Loan vào Trung Quốc làm tăng xuất khẩu của Trung Quốc sang các nước này nhưng đối với Đức và Italia, tác động lại ngược lại. Điều này có thể là do sự khác nhau về hành vi của các quốc gia châu Á và châu Âu khi giao dịch với thị trường Trung Quốc. Như đã đề cập ở trên, tác động tiêu cực đó có thể mang lại việc chuyển giao quy trình sản xuất sang Trung Quốc. Trong khi trước đó, một số sản phẩm bán thành phẩm được xuất khẩu từ Trung Quốc sang Đức và sau một vài khâu gia công sẽ được chuyển đến nơi tiêu thụ cuối cùng, bây giờ thì toàn bộ quá trình sản xuất đã được chuyển đến Trung Quốc và không cần vận chuyển sản phẩm đến Đức nữa. Tuy nhiên, kết quả này nên được diễn giải một cách thận trọng vì nó đòi hỏi việc phân tích sâu hơn. Kết quả của các phương trình nhập khẩu song phương có nhiều điểm ít đồng nhất được trình bày trong bảng A1.5 . Đầu tiên, độ co giãn dài hạn theo giá mà tác giả ước tính cho thấy việc tăng giá thực đồng Nhân dân tệ làm giảm nhập khẩu từ tất cả các nước châu Á sang Trung Quốc. Chỉ số này có ý nghĩa đối với Hàn Quốc và Thái Lan. Đối với các nước có thu nhập cao - Mỹ, Đức và Nhật Bản – hệ số này âm nhưng không có ý nghĩa thống kê. Riêng đối với Nga và Úc, hệ số này dương mặc dù không có ý nghĩa thống kê. Đối với độ co giãn theo thu nhập nói chung đạt giá trị dương mặc dù là khá thấp và không phải luôn có ý nghĩa thống kê. Hầu hết xuất khẩu của các nước sang Trung Quốc tăng tương ứng với lượng FDI. Nhập khẩu của Trung Quốc từ Nhật Bản, Đài Loan, Đức, Nga, Malaysia và Thái Lan tăng lên cùng FDI từ các nước này. Riêng trường hợp Hàn Quốc phản ánh ngược lại với hệ số theo FDI có giá trị âm và có ý nghĩa thống kê. Độ co giãn theo giá trong dài hạn và theo thu nhập của phương trình xuất nhập khẩu song phương của Trung Quốc được tóm tắt trong bảng 3 : Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 19 Để hiểu rõ hơn những kết quả khác nhau của độ co giãn theo tỷ giá của nhập khẩu Trung Quốc, chúng ta tìm hiểu về thành phần nhập khẩu của Trung Quốc từ một trong các đối tác thương mại lớn (Bảng 4). Úc và Nga là 2 nước xuất khẩu chính năng lượng và nguyên liệu thô cho Trung Quốc, điều này có thể giải thích được nguyên nhân phản ứng yếu kém của ngành nhập khẩu Trung Quốc từ các quốc gia này đối với những thay đổi của tỷ giá thực song phương. Nhóm quốc gia thứ 2 là những nước có thu nhập cao. Xuất khẩu từ Đức, Nhật Bản và Mỹ không nhạy cảm với những thay đổi của tỷ giá hối đoái thực song phương. Đối với Đức và Nhật Bản, nhập khẩu được định hướng rõ ràng bởi FDI, nhập khẩu của Mỹ dường như có lợi nhiều hơn từ sự phát triển tổng thể của kinh tế Trung Quốc. Điều này được giả thích bởi cơ cấu nhập khẩu từ các nước này. Khoảng một nửa hàng xuất khẩu của Đức và Nhật Bản vào Trung Quốc là máy móc và thiết bị điện tử-những sản phẩm thường được sử dụng trong các ngành công nghiệp xuất khẩu và có khuynh hướng mang yếu tố nước ngoài -còn hàng nhập khẩu từ Mỹ thì trải rộng từ đậu nành đến máy bay và chip công nghệ cao. Trong khi những sản phẩm này đang hướng trực tiếp đến khu vực trong nước Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 20 thì lại không có sản phẩm thay thế hoặc cạnh tranh của Trung Quốc với các sản phẩm này, điều này giải thích cho độ co giãn theo tỷ giá hối đoái thấp và thậm chí là âm. Nhóm thứ ba là các nước châu Á kinh tế mới nổi xuất khẩu sang Trung Quốc đang bị ảnh hưởng tiêu cực bởi việc tăng giá đồng Nhân dân tệ. Hàng xuất khẩu chính của họ là phụ tùng và linh kiện dùng cho ngành công nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc. Từ đồ thị 4, ta thấy tỷ lệ xuất khẩu sang Trung Quốc rất cao đối với một số nước châu Á. Vì vậy, kết quả của tác giả cho thấy việc tăng giá đồng Nhân dân tệ làm giảm nhập khẩu từ các nước còn lại của châu Á vào Trung Quốc, đây là mối quan tâm đối với nhiều nước châu Á. Nếu họ không thể bù đắp tác động này bằng cách tăng xuất khẩu sang các nước khác thì việc tăng giá đồng Nhân dân tệ sẽ gây ảnh hưởng lớn hơn. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào mức độ bổ sung của xuất khẩu châu Á và cũng theo phản ứng của chuỗi cung ứng châu Á đối với việc đánh giá lại đồng Nhân dân tệ. Trong khi việc kiểm định giả thuyết này yêu cầu việc phân tích ngành chi tiết, tác giả cố gắng đưa ra câu trả lời sơ bộ bằng cách ước tính phương trình xuất khẩu cho các đối tác thương mại chính của Trung Quốc ở châu Á. Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 21 Dạng của phương trình xuất khẩu giống với phương trình mà trước đây tác giả đã làm đối với Trung Quốc để tác giả giải thích xuất khẩu bằng tỷ giá hối đoái thực của nước đó và nhu cầu của thế giới. Ngoài ra, tác giả thêm tỷ giá hối đoái thực của Trung Quốc vào phương trình như là một biến giải thích thêm. Dữ liệu về tỷ giá hối đoái lại cũng dựa trên CPI và nhu cầu thế giới được đo bằng tổng lượng nhập khẩu trên thế giới. Xu hướng này đúng khi nó có ý nghĩa thống kê. Tác giả ước tính các phương trình xuất khẩu cho các đối tác thương mại châu Á chính của Trung Quốc trong giai đoạn 2000-2005 . Dữ liệu tác giả sử dụng được tác giả điều chỉnh theo mùa bằng cách sử dụng chương trình CensusX12. Kết quả chi tiết của các phương trình xuất khẩu cho các nước châu Á đã chọn được trình bày trong Bảng A1.6. Khi chuyển đổi hệ số đạt được trong dài hạn (Bảng 5), chúng ta có thể thấy rằng ngành xuất khẩu của hầu hết các nước châu Á bị ảnh hưởng tiêu cực bởi việc tăng giá đồng Nhân dân tệ. Đối với Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan, tác động tiêu cực của sự tăng giá đồng Nhân dân tệ có ý nghĩa thống kê. Chỉ ngoại trừ Malaysia, quốc gia có ngành xuất khẩu được hưởng lợi từ việc tăng giá đồng Nhân dân tệ. Tuy nhiên, kết quả ngoại trừ này có thể do: trên thực tế, ngoài thiết bị điện tử, Malaysia còn xuất khẩu dầu và các nguyên liệu khác với số lượng đáng kể. Do đó, kết quả của các phương trình xuất khẩu dựa trên các quốc gia rất gần với kết quả chúng ta tìm thấy ở phương trình nhập khẩu song phương của Trung Quốc nên ngành xuất khẩu từ nhiều nước châu Á khác dường như không thể chuyển hướng hoàn toàn sang các nước khác khi nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc giảm. Trong trường hợp của Philippines và Thái Lan, độ co giãn thu nhập kỳ vọng luôn luôn dương mặc dù không có ý nghĩa thống kê. Kết quả của tác giả rất phù hợp với Ahearne et al. (2006) và Cutler et al. (2004). Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 22 5. Kết luận: Trong thời gian qua đã có nhiều cuộc thảo luận ở Trung Quốc và trên diễn đàn quốc tế về việc tăng giá đồng Nhân dân tệ. Nhiều tranh luận cho rằng chính sách tỷ giá không đáp ứng được mục đích làm giảm thặng dư thương mại của Trung Quốc. Nghiên cứu này cho thấy rằng cán cân thương mại của Trung Quốc rất nhạy cảm với sự thay đổi của tỷ giá thực. Thực ra, bằng việc nghiên cứu sự co giãn trong dài hạn của xuất nhập khẩu Trung Quốc với sự thay đổi của tỷ giá thực đồng Nhân dân tệ trong giai đoạn 1994 – 2005, bài nghiên cứu đã tìm thấy được bằng chứng rằng việc tăng giá đồng Nhân dân tệ sẽ làm giảm đáng kể lượng xuất khẩu trong một thời gian dài. Điều này xảy ra với cả xuất khẩu chế biến và xuất khẩu thông thường. Đồng thời, việc tăng giá đồng Nhân dân tệ cũng làm giảm lượng nhập khẩu do nhiều mặt hàng được nhập khẩu để phục vụ việc xuất khẩu, nếu xuất khẩu giảm thì lượng hàng hoá nhập khẩu cũng sẽ giảm theo. Điều này sẽ giúp hạn chế tác động ròng của chính sách tỷ giá hối đoái lên thặng dư thương mại . Dựa trên độ co giãn ước tính kể từ khi Trung Quốc gia nhập WTO thì việc tăng giá 5% cùng với các điều kiện khác làm khối lượng xuất khẩu giảm khoảng 7% vào năm 2005. Khi đưa vào tài khoản mối liên hệ trực tiếp giữa tỷ giá hối đoái và nhập khẩu cũng như liên hệ gián tiếp của việc giảm khối lượng xuất khẩu chế biến lên lượng nhập khẩu chế biến thì kết quả cho thấy tổng lượng nhập khẩu giảm khoảng 4%. Ước tính này cho thấy thặng dư thương mại Trung Quốc giảm gần một phần tư trong khoảng từ 100 tỷ Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 23 USD xuống còn 80 tỷ USD. Tuy nhiên, hạn chế gặp phải là những con số này phải được xem xét cẩn thận vì đây chỉ là một phép tính thô mà không đưa vào bản báo cáo. Có khả năng các con số này đã đánh giá cao mức giảm thặng dư thương mại trong trường hợp tăng giá đồng nội tệ, giá xuất khẩu bằng đồng ngoại tệ có thể sẽ tăng lên để tác động thực tế lên cán cân thương mại nhỏ đến mức đáng kể. Mặt khác, những biến động của tỷ giá đồng Nhân dân tệ có thể sẽ không có ảnh hưởng, ví dụ như giá dầu trên thị trường thế giới, để hiệu ứng truyền dẫn lên giá nhập khẩu của Trung Quốc có thể là nhỏ hơn nhiều. Tiếc là khó có thể ước tính các hiệu ứng truyền dẫn ở Trung Quốc do thiếu dữ liệu chuỗi thời gian về giá xuất nhập khẩu. Mặc dù vấn đề này không hoàn toàn mới nhưng những nghiên cứu của tác giả về việc tăng giá đồng Nhân dân tệ dẫn đến giảm lượng xuất khẩu của Trung Quốc là một điều rất thú vị và cần được nghiên cứu sâu hơn nữa. Bằng cách ước lượng phương trình song phương của Trung Quốc với các đối tác thương mại lớn đã cho thấy việc tăng giá đồng Nhân dân tệ làm giảm xuất khẩu từ các nước châu Á khác. Kết quả nhập khẩu của Trung Quốc đã được giải thích bằng mức độ hội nhập cao theo chiều dọc của các ngành xuất khẩu châu Á. Chính mạng lưới sản xuất của châu Á làm cho các sản phẩm của các nước châu Á mang tính bổ sung hơn là thay thế. Giả thuyết này được chứng minh bởi kết quả nghiên cứu khi tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước châu Á đã bị ảnh hưởng tiêu cực bởi việc tăng giá thực của đồng Nhân dân tệ. Những phát hiện này sẽ làm dấy lên lo ngại về việc tăng giá đột ngột đồng Nhân dân tệ sẽ dẫn đến việc các nước châu Á cũng tăng giá đồng nội tệ so với đồng tiền khác. Bài nghiên cứu cũng đã cho thấy nhập khẩu Trung Quốc có vẻ bị phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài hơn là các hoạt động trong nước. Nhu cầu lớn từ bên ngoài cùng việc tăng dòng vốn đầu tư FDI đã giữ cho kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc tăng đến mùa hè năm 2008 và sau đó do kinh tế thế giới suy thoái và dòng vốn FDI giảm làm xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc giảm mạnh .  Một số hạn chế của bài nghiên cứu: - Nghiên cứu này chỉ tập trung vào lượng xuất khẩu nên kết luận đưa ra có thể sẽ không đầy đủ. Tuy nhiên, nó cũng đưa ra những lưu ý về tầm quan trọng của việc nghiên cứu sâu hơn về những tác động của việc tăng giá đồng Nhân dân tệ và những kết hợp khác nhau của chính sách tỷ giá ở các nước châu Á. Tiểu luận Tài chính quốc tế Nhóm 22 – Lớp NH Đêm 2 K22 24 - Bên cạnh đó, đường lối chính trị của Trung Quốc cũng như một số yếu tố khác như tỷ giá hối đoái hay chính sách kinh tế của các nước Châu Á khác theo từng thời kỳ cũng có thể ảnh hưởng đến chính sách tỷ giá của Trung Quốc. - Trên thực tế, giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại có mối quan hệ nội sinh và có tác động phản hồi lên nhau. Nghĩa là, thay đổi của tỷ giá hối đoái tác động đến xuất nhập khẩu làm thay đổi cán cân thương mại và ngược lại, chính những thay đổi của xuất nhập khẩu cũng sẽ làm thay đổi cung cầu tiền tệ dẫn đến những tác động lên giá trị đồng tiền. Tuy nhiên trong bài nghiên cứu này chưa đề cập và giải quyết vấn đề này. PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ahearne, A.G., Fernald, J.G., Loungani, P., Schindler, J. W., 2006. Flying geese or sitting ducks, China’s impact on the trading fortunes of other Asian economies, International Finance Discussion Papers 887, Board of Governors of the Federal Reserve System. 2. Bayoumi, T., Lee, J., Jayanthi, S., 2005. New rates from new weights, IMF Working Paper 99. 3. Bénassy-Quéré, A., Lahrèche-Révil, A., 2003. Trade linkages and exchange rates in Asia: The role of China, CEPII Working Paper 2003-21. 4. Cerra, V., Dayal-Gulati, A., 1999. China’s trade flows: Changing price sensitivities and the reform process, IMF Working Paper 33/1. 5. Cerra, V., Saxena, S.C., 2003. How responsive is Chinese export supply to market signals, China Economic Review 14, 350-70. 6. Cutler, J., Chow, K., Chan, C., Li, U., 2004. Intra-regional trade and the role of Mainland China. Hong Kong Monetary Authority, Quarterly Bulletin, December, 5-24. 7. Dees, S., 2001. The real exchange rate and types of trade – Heterogeneity of trade behaviours in China, Paper presented at the Workshop on China’s Economy organised by the CEPII in December 2001. The French version of the paper “Compétitivité- prix et hétérogénéité des échanges extérieurs chinois” was published in 2002 in Economie internationale 92, 41-66. 8. Eckaus , R. S., 2004. Should China appreciate the Yuan, MIT Working Paper 04-16. 9. Goldstein, M., Kahn, M., 1985. Income and price effect in foreign trade, in The Handbook of International Economics, North Holland, Amsterdam. 10. Hooper, P., Johnson, K., Marquez, J., 1998. Trade elasticities for G-7 countries, International Finance Discussion Papers 609, Board of Governors of the Federal Reserve System. 11. Jin, Z., 2003. The Dynamics of real interest rates, real exchange rates and the balance of payments in China: 1980-2002, IMF Working Paper 03/67. 12. Kamada, K., Takagawa, I., 2005. Policy coordination in East Asia and across the Pacific, Bank of Japan Working Paper 05-E-4. 13. Lau, F., Mo, Y., Li, K., 2004. The impact of a Renminbi appreciation on global imbalances and intra-regional trade, Hong Kong Monetary Authority, Quarterly Bulletin, March, 16-26. 14. Phillips, M., Loretan, P.C.B., 1991. Estimating long-run economic equilibria, Review of Economic Studies 58, 407-36. 15. Mann, C., Plück, K., 2005. The U.S. trade deficit: A disaggregated perspective, Peterson Institute for International Economics Working Paper 05-11. 16. Marquez, J., Schindler, J.W., 2006. Exchange-rate effects on China’s trade: an interim report, International Finance Discussion Papers 861, Board of Governors of the Federal Reserve System. 17. OECD, 2005. Economic Survey on China, OECD Publishing, Paris. 18. Shu C. and Yip, R., 2006. Impact of Exchange Rate Movements on the Chinese Economy, Hong Kong Monetary Authority, Number 3/06, July 2006. 19. Thorbecke, W., 2006. The effect of exchange rate changes on trade in East Asia, RIETI Discussion Paper Series 009. 20. Voon, J.P., Guangzhong, L., Ran, J., 2006. Does China really lose from RMB revaluation? Evidence from some export industries, Applied Economics 38, 1715-23. 21. Yue, C., Hua, P., 2002. Does comparative advantage explain export pattern in China, China Economic Review 13, 276-96.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftieu_luan_tccxvzzqt_7187.pdf
Luận văn liên quan