Tiểu luận Chính sách tỷ giá hối đoái nhằm cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam thời hậu WTO

Kết quả nghiên cứu này cho thấy, trong thời kỳ 2007-2010, tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa đồng Việt Nam với các đồng tiền của các bạn hàng chủ yếu thể hiện xu hướng tăng, đồng nghĩa với việc đồng Việt Nam mất giá. Tuy nhiên, dựa trên kết quả tính toán được, tỷ giá hối đoái thực tế đã bị giảm tới hơn 20%. Trong giai đoạn 1992-1997, việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định trong điều kiện lạm phát đã được kiềm chế song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ (nước có đồng tiền chiếm tỷ trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ giá của Việt Nam) và các nước có quan hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD có xu hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VNĐ có xu hướng ngày càng bị đánh giá cao hơn thực tế. Điều này đã tạo ra và tích lũy những nhân tố gây mất ổn định và kìm hãm sự phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu cũng đã khẳng định được sự tồn tại của quan hệ giữa hai biến số vĩ mô này trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, sự tác động của tỷ giá có tính chất trễ, và trong dài hạn hai biến số này tiến tới một quan hệ cân bằng (đồng liên kết). Từ những phân tích trên, khuyến nghị đối với việc hoạch định chính sách tỷ giá phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam là:

doc47 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2906 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách tỷ giá hối đoái nhằm cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam thời hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh trên thị trường. Theo các nhà phân tích, một minh chứng cho thấy đồng tiền CNY đang bị Chính phủ nước này “dìm giá” chính là sự tăng lên đột biến trong nguồn ngân sách quốc gia. Đất nước được đánh giá là khá thành công trong lĩnh vực xuất khẩu này đã trở thành “miếng nam châm” thu hút lượng lớn ngoại tệ (Bảng 1). Các chuyên gia công nghiệp Hoa Kỳ nói rằng sở dĩ có được điều này là vì các nhà sản xuất Trung Quốc có lợi thế về đồng tiền, được duy trì trong một chế độ hối đoái rẻ theo kiểu nhân tạo so với USD, như vậy giúp làm cho giá các mặt hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn. Trước tình hình này, Mỹ và các đối tác thương mại lớn khác của Trung Quốc đã gây sức ép để đồng nhân dân tệ tăng giá. Cuối cùng Trung Quốc đã phải điều chỉnh tỷ giá vào năm 2005. Bảng 1: Diễn biến tỷ giá, cán cân thương mại và dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc 2002-2007 (Nguồn: Indicators/2008/pdf/Prc.pdf ) Chế độ tỷ giá của Trung Quốc từ 7/2005 đến nay: Năm 2005, Ngân hàng Trung ương (NHTW) Trung Quốc đã công bố thay đổi chế độ tỷ giá. Tỷ giá sẽ được xác định dựa trên một rổ các đồng tiền (Basket) nhưng các thành phần và tỷ trọng các đồng tiền không được đưa ra trong lần công bố này. Đồng thời với việc neo tỷ giá theo một rổ tiền tệ, NHTW Trung Quốc cho phép biên độ dao động hàng ngày của các tỷ giá song phương là 0,3%. Ngày 9/8/2005, trong bài phát biểu khai mạc trụ sở thứ 2 của NHTW tại Thượng Hải, Thống đốc NHTW Trung Quốc ZhouXia Chuan đã công bố 11 đồng tiền trong rổ, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật và đồng Won Hàn Quốc và các đồng Bảng Anh, Ruble Nga và Baht Thái cũng có mặt trong rổ tiền tệ nhưng có tỷ trọng nhỏ hơn nhiều. Tuy nhiên, căn cứ vào số liệu thực tế của tỷ giá đa phương danh nghĩa CNY, Guonan và McCauley đã cho rằng tỷ giá này đã dao động với biên độ 2%/ năm (B - Band) và mức độ thay đổi theo ngày là 0,06% (C - Crawl). Có thể thấy rằng, chế độ tỷ giá của Trung Quốc là một dạng của chế độ tỷ giá BBC (Basket, Band and Crawl Regime) - là chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ với biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kì)1. So với lý thuyết thì biên độ dao động của tỷ giá (B-band) là khá nhỏ chỉ là 2%/ năm. Mặc dù tỷ giá song phương CNY/USD giảm giá nhưng tỷ giá đa phương danh nghĩa của CNY lại có xu hướng tăng dần. Như vậy, Trung Quốc vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế so với các quốc gia bạn hàng. Do đó, đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và thặng dư của cán cân thương mại của Trung Quốc. Kinh nghiệm của Hàn Quốc Hàn Quốc từng được biết đến như một trong những nước nông nghiệp nghèo nhất thế giới. Cho đến năm 1962, khi bắt đầu bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (1962 -1966), GDP bình quân đầu người là 87 USD đã phản ánh rằng Hàn Quốc vẫn chưa thể thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu sau gần thập kỷ nỗ lực khôi phục lại nền kinh tế đã bị tàn phá nặng nề bởi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tiếp đó là cuộc chiến Nam - Bắc Triều Tiên. Thế nhưng chỉ hơn 25 năm sau, vào cuối thập kỷ 80, Hàn Quốc đã đạt được những thành tựu kinh tế được cả thế giới biết đến như “Kỳ tích trên sông Hàn”. Đó là một quá trình phi thường đã nhanh chóng giúp cải tạo nền kinh tế Hàn Quốc, đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử của đất nước. Để có được một Hàn Quốc như ngày nay, Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng hàng loạt các biện pháp nhằm quản lý, điều tiết nền kinh tế, trong đó đặt trọng tâm là hướng về xuất khẩu. Chính sách hướng về xuất khẩu: Trong những năm 60, nền kinh tế Hàn Quốc đang phải đối mặt với những khó khăn lớn; không có thị trường trong nước cho các loại hàng hóa sản xuất, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn. Để đối phó với vấn đề này, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu với 2 bước đi quan trọng đó là khuyến khích và tăng cường tiết kiệm thông qua việc tăng lãi suất, cải thiện thâm hụt thương mại bằng việc phá giá đồng nội tệ. Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm hỗ trợ xuất khẩu như giảm thuế nhập khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp xuất khẩu một cách hợp lý, ưu đãi về tài chính cho các ngành công nghiệp mũi nhọn, điều chỉnh chế độ tỷ giá linh hoạt, mục tiêu xuất khẩu được cụ thể hóa bởi Chính phủ và khen thưởng, động viên từ Tổng thống Hàn Quốc. Sau hàng loạt những chính sách của Chính phủ, kết quả đạt được là hết sức khả quan. Hàn Quốc trở thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 41 triệu USD năm 1960 lên 1.048 triệu USD vào năm 1970. Thành công từ chính sách tỷ giá: Để có được những kết quả trên, Hàn Quốc đã khá thành công trong việc sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua chiến lược hướng vào xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Từ thực tiễn thành công của Hàn Quốc, một số kinh nghiệm được rút ra như sau: Một là, Hàn Quốc là tấm gương kiên nhẫn theo đuổi chính sách phá giá tiền tệ để tăng trưởng xuất khẩu. Đối với một quốc gia phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu các mặt hàng máy móc, nguyên liệu, thiết bị và công nghệ cũng như vay nợ nước ngoài để đầu tư thì việc phá giá tiền tệ có thể làm giảm tăng trưởng do tác động làm cản trở đầu tư lớn hơn khuyến khích xuất khẩu. Tuy nhiên, sự khôn ngoan của Hàn Quốc chính là việc mở rộng xuất khẩu ở quy mô lớn kết hợp với các nhân tố khác làm giảm chi phí nhập khẩu và gánh nặng nợ. Thực tế cho thấy, sau khi phá giá mạnh đồng Won, Hàn Quốc đã tăng cường năng lực sản xuất và đẩy mạnh xúc tiến thương mại nên đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao. Hai là, tỷ giá KRW/USD được điều chỉnh theo hướng giảm giá trị đồng nội tệ trong một thời gian dài song song với quá trình Hàn Quốc chuyển từ chế độ tỷ giá cố định sang thả nổi. Nghệ thuật phá giá tiền tệ ở Hàn Quốc chính là nhờ sử dụng linh hoạt các yếu tố thị trường và chỉ điều chỉnh khi cần thiết. Chính phủ Hàn Quốc đã rất chủ động tạo ra các điều kiện thuận lợi để đảm bảo tỷ giá KRW/USD không cản trở tới hoạt động xuất khẩu: khi USD lên giá, chính phủ để thị trường tự điều tiết, còn khi USD giảm giá, Chính phủ đã tăng cung đồng KRW nhằm có lợi cho xuất khẩu. Ba là, sau việc phá giá tiền tệ, Hàn Quốc đã có biện pháp thích hợp để loại bỏ khả năng giảm giá kéo dài của nội tệ và sau đó củng cố các nhân tố thị trường khác giúp cho tỷ giá duy trì ở mức độ ổn định. Sự ổn định của tỷ giá KRW/USD đạt được là do Chính phủ Hàn Quốc đã duy trì được một biên độ dao động ổn định suốt trong thời gian dài. Điều này thực sự có lợi cho nhà đầu tư trong nước và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Vì vậy, Hàn Quốc là một trong số ít nước vực dậy sau khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á nhanh nhất và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, ứng dụng công nghệ hiện đại nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ mục tiêu hướng về xuất khẩu. Bốn là, không nên neo giữ đồng bản tệ với một ngoại tệ mạnh. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trong gây ra khủng hoảng trong giai đoạn đó là các nước trong khu vực neo giữ tỷ giá đồng bản tệ với ngoại tệ duy nhất là USD. Sự ổn định này chỉ mang tính nhất thời và có ảnh hưởng tích cực tới tâm lý nhà đầu tư. Nhà đầu tư tin tưởng vào sự ổn định tiền tệ và nền kinh tế khi đồng USD mất giá. Tuy nhiên, khi USD lên giá mạnh đã làm yếu đi khả năng cạnh tranh của các nước có đồng tiền gắn chặt với USD. Kinh nghiệm của Thái Lan Trước khủng hoảng tài chính năm 1997, nền kinh tế Thái Lan đã trải qua nhiều năm tăng trưởng kinh tế nhanh do có ngành công nghiệp chế tạo phát triển giúp kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ 9,4% từ năm 1985 đến năm 1996. Có được những thành tựu đó là nhờ Thái Lan đã tận dụng được nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động dồi dào và rẻ, thực hiện chính sách mở cửa kinh tế và phát triển mạnh theo hướng phục vụ xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan trong những năm gần đây chủ yếu tăng được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Tỷ giá và cán cân thương mại của Thái Lan từ năm 1996-2007 ĐVT: Triệu USD (Nguồn: Indicators/2008/pdf/tha.pdf) Có được những thành quả trên, Chính phủ Thái Lan đã có những nỗ lực cải thiện cán cân thương mại như: cải thiện môi trường kinh tế, cải thiện cơ cấu chính sách thương mại và phá giá mạnh đồng Baht và tác động đến cán cân thanh toán quốc tế của Thái Lan. Để tập trung, bài viết sẽ phân tích chủ yếu vào công cụ phá giá mạnh đồng Baht và tác động đến cán cân thanh toán quốc tế. Do khó khăn về tài chính, thiếu ngoại tệ nghiêm trọng nên trong giai đoạn trước khủng hoảng, các nước Đông Á neo giữ tỷ giá cố định so với USD. Với Thái Lan, việc thi hành chính sách tỷ giá hối đoái cố định so với đồng USD đồng nghĩa với việc đánh giá quá cao giá trị của đồng Baht trong khi giá trị của USD với JPY và các đồng tiền khác tăng rất mạnh. Tuy tỷ giá chính thức giữa Baht với USD có tăng lên, nhưng nếu theo học thuyết ngang giá sức mua thì đồng Baht đã giảm giá khoảng 20% so với USD nhưng chỉ được điều chỉnh rất ít (khoảng 6%). Do đó, việc đồng Baht bị thả nổi là hiện tượng cần thiết để trả lại giá trị đích thực của nó. Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan giảm đáng kể, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cũng giảm tương đối. Có nhiều nguyên nhân làm giảm xuất khẩu của Thái Lan trong giai đoạn này bao gồm: tăng trưởng thương mại toàn cầu suy giảm, tỷ giá hối đoái thực của các nước Đông Á lên giá, lượng cầu và giá của các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là hàng điện tử bị suy giảm. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan năm 1996 lên đến 7,9%GDP. Mức thâm hụt này tiếp tục được tài trợ bởi dòng vốn ngắn hạn nước ngoài chảy vào. Do tài khoản vốn được tự do và những yếu kém trong việc kiểm soát các khoản nợ vay đã khiến ngày càng nhiều hơn các luồng vốn ồ ạt chảy vào Thái Lan. Chỉ trong 10 năm từ 1987-1996, đã có đến 100 tỷ USD đổ vào Thái Lan, trong đó,vốn vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn do các tổ chức tài chính trong nước vay để đầu tư dài hạn và bất động sản. Bên cạnh đó, tỷ giá được giữ gần như cố định ở mức 25 Baht/USD trong thời gian dài cộng với thâm hụt thương mại kéo dài đã khiến áp lực giảm giá đồng Baht ngày càng tăng. Dưới áp lực của những khoản nợ đến hạn và thâm hụt thương mại kéo dài, mặc dù đã bán ra gần 15 tỷ USD trong gần 40 tỷ USD dự trữ ngoại hối, nhưng Thái Lan đã không thể duy trì được mức tỷ giá hiện thời. Thái Lan đứng trước việc đồng Baht bị phá giá và kéo theo đó là cuộc khủng hoảng với những tổn thương nghiêm trọng đến nền kinh tế. Chỉ trong 1 ngày sau khi Chính phủ tuyên bố phá giá, đồng Baht mất hơn 20% giá trị rồi tiếp tục giảm xuống sau đó. Tỷ giá Baht/USD tăng lên từ 25,61 đến 47,25. Tỷ giá này làm tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Thái Lan nói chung, nông thủy sản nói riêng, hạn chế nhập khẩu. Kết quả là Thái Lan giảm nhập siêu từ 9,5 tỷ USD năm 1991 xuống còn 4,624 tỷ USD năm 1997 và thặng dư là 11,973 tỷ USD năm 2007. Ngày 2/7/1997, Thái Lan đã cạn kiệt các nguồn dự trữ ngoại hối trong nỗ lực bảo vệ đồng Baht tránh bị tác động của một cuộc đầu cơ lớn và buộc phải thả nổi đồng Baht. Đồng tiền này ngay lập tức giảm giá mạnh. Phản ứng dây chuyền đã lan rộng khi các nhà đầu tư rút vốn ra khỏi các nước có những triệu chứng kinh tế tương tự như Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc. Từ cuối năm 1998 - 2004, tỷ giá Baht/USD đôi lúc giảm và sau đó tăng nhẹ nhưng nói chung duy trì ở mức ổn định. Tỷ giá tăng nhẹ từ 39,06 năm 2004 lên 41,03 năm 2005 nhưng cho tới nay, tỷ giá giảm do USD giảm giá. Mặc dù luôn chú trọng tới xuất khẩu, nhưng Thái Lan đã phải chấp nhận để tỷ giá của nội tệ tăng hơn 20% so với USD và duy trì ở mức lạm phát trung bình là 3% từ năm 2006 tới nay do Chính phủ Thái Lan nhận thức được rằng trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, nội tệ tăng giá so với USD là chính sách có lợi hơn. Bài học sử dụng chính sách tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thương mại đối với Việt Nam Qua nghiên cứu các bài học kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan, một số bài học kinh nghiệm được rút ra cho Việt Nam như sau: - Cần có sự phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô trong cải cách. Trong chính sách tỷ giá hối đoái, việc điều chỉnh tỷ giá có ảnh hưởng đến giá cả trong nước và quốc tế, thay đổi tỷ giá cũng là điều kiện tiên quyết trong thay đổi chính sách thương mại, đặc biệt trong điều kiện mở cửa. Tuy nhiên, không có thay đổi trong chính sách thương mại thì việc thay đổi tỷ giá sẽ vận hành không có hiệu quả. Trong sự phối hợp với các lĩnh vực khác của nền kinh tế, việc điều chỉnh theo hướng thay đổi tỷ giá không mang tính chất cứng nhắc mà được xem như là phù hợp với các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế. - Phải duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia trong từng giai đoạn. Một chính sách tỷ giá hối đoái được coi là phù hợp bao gồm: + Lựa chọn thời điểm phá giá đồng nội tệ phù hợp. Thành công trong việc phá giá tiền tệ thể hiện rõ nét ở thời điểm phá giá và mức điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Nhờ sự nhạy bén của các công cụ trong chính sách tỷ giá mà Trung Quốc đã đạt được sự ổn định giá cả trong nước và cân bằng tài chính tiền tệ với bên ngoài. Trong khi các chính sách kinh tế khác như chính sách tiền tệ bị vô hiệu hóa để giảm lạm phát thì chính sách tỷ giá vẫn đạt được mục tiêu là đẩy mạnh xuất khẩu. + Duy trì tỷ giá phù hợp với mục tiêu phát triển theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy việc duy trì tỷ giá trong thời gian dài cùng với sự phá giá hợp lý CNY đã tạo ra sự phát triển tối ưu cho nền kinh tế và áp dụng những biện pháp hỗ trợ khôn khéo để giảm bớt tác động ngược chiều. Đảm bảo cung ứng ngoại tệ được duy trì thường xuyên, liên tục đảm bảo cho sự thành công trong việc điều hành chính sách tỷ giá. Điều hành chính sách tỷ giá hối đoái phải luôn hướng tới mục tiêu hỗ trợ tốt nhất cho chính sách xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. + Không nên neo giữ quá lâu đồng bản tệ với một đồng ngoại tệ mạnh. Tỷ giá cần được xác lập trên cơ sở thiết lập một rổ ngoại tệ để tránh được cú sốc trong nền kinh tế. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 cho thấy một trong những nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng là trong giai đoạn đó, các nước trong khu vực về cơ bản thực hiện chủ trương ổn định tỷ giá so với USD. Ngoài ra, cần thận trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ trước những tác động bên ngoài. Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 cho thấy chính sự hoang mang của các nhà đầu tư đã dẫn đến sự rút vốn ồ ạt, gây nên sự sụp đổ trong hệ thống tài chính ở các nước này. Phần 3: Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái - Cán cân thương mại và Thực trạng việc điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam. I. Mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại: 1.1 Thực trạng mối quan hệ giữa tỷ giá thực song phương (RER) và cán cân thương mại: Để giải quyết hạn chế của tỷ giá danh nghĩa song phương (NER) là không phản ánh được tương quan sức mua giữa VND và USD, ta đi tìm mối quan hệ giữa phá giá và sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam thông qua chỉ số tỷ giá thực eR và tỷ lệ giá trị xuất khẩu /giá trị nhập khẩu. Đồ thị 2: Mối quan hệ giữa RER và cán cân thương mại Nguồn: Indicator/2008/Pdf/vie: pdf ) Theo lý thuyết, khi chỉ số tỷ giá thực eR>1, nghĩa là tỷ giá thực tăng, VND giảm giá thực và sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam được cải thiện. Ngược lại, khi chỉ số tỷ giá thực eR<1, nghĩa là tỷ giá thực giảm, VND lên giá thực và sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam bị xói mòn. Mặc dù từ năm 1992-2007, cả chỉ số xuất và nhập khẩu đều lớn hơn 1, điều này chứng tỏ giá trị xuất và nhập khẩu đều tăng qua các năm. Như vậy, chúng ta chưa thể biết được liệu sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam được cải thiện hay xói mòn. Vấn đề này sẽ được phân tích chi tiết dưới đây: Đồ thị 1 cho thấy tỷ giá RER(VND/USD) được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: từ năm 1993-1999, tỷ giá thực giảm. + Từ năm 1992-1996, tỷ giá thực giảm do eR<1 đã làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế do tốc độ tăng giá trị nhập khẩu nhanh hơn tốc độ tăng giá trị xuất khẩu, đã làm cán cân thương mại liên tục thâm hụt. Trong thời gian này, chính sách tỷ giá hối đoái được điều chỉnh để chống lạm phát và thu hút đầu tư nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu chống lạm phát, chính sách tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Vì vậy, nếu so sánh chỉ số CPI của Mỹ và CPI của Việt Nam, các nhà kinh tế tính toán cho rằng, tỷ giá hối đoái thực tế đã bị giảm tới hơn 20%. Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa những năm này đã tạm thời góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trên 8%/ năm. Nhưng việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định trong điều kiện lạm phát đã được kiềm chế, song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ (nước có đồng tiền chiếm tỷ trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ giá của Việt Nam) và các nước có quan hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD có xu hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VND có xu hướng ngày càng bị đánh giá cao hơn thực tế. Do tỷ giá hối đoái thực tế giảm xuống, VND được đánh giá cao đã làm suy giảm sức cạnh tranh quốc tế của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam, làm cán cân thương mại thâm hụt. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa ổn định đã có tác dụng tích cực trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng do ngoại tệ được đánh giá rẻ nên đã khuyến khích các nhà đầu tư vay ngoại tệ để đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều vốn và nguyên liệu nhập khẩu mà không khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có và những lợi thế so sánh của đất nước, đó là nguồn lực lao động. Một yếu tố khác là việc phá giá đồng CNY gần 50% vào năm 1994 của Trung Quốc (từ 1USD= 5,8000CNY lên 1 USD = 8,4462 CNY năm 1994). Việc phá giá CNY đã làm cho hàng hóa, dịch vụ của Trung Quốc quá rẻ đã tràn ngập thị trường Việt Nam qua con đường buôn bán mậu dịch và buôn lậu, gây khó khăn cho sản xuất trong nước và tăng nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc. + Từ năm 1997-1999, sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam bắt đầu đươc cải thiện, thể hiện ở chỉ số tỷ giá xuất khẩu lớn hơn chỉ số tỷ giá nhập khẩu và thâm hụt của cán cân thương mại giảm. Đặc biệt, trong năm 1999, lần đầu tiên cán cân thương mại thặng dư. Nguyên nhân là do tháng 10/1997, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ (+) (-) 5% lên (+) (-)10%. Nới rộng biên độ giao dịch đã làm cho tỷ giá thị trường tăng mạnh. Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đây đã có tác động tích cực đối với xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu trong các năm 1997-1999. Ngoài ra, giá cả trên thị trường biến động không đáng kể cũng là một nhân tố góp phần cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam. - Giai đoạn 2: từ năm 2000-2005, chỉ số tỷ giá thực eR>1 nghĩa là tỷ giá thực tăng. Từ năm 2000-2005, mặc dù tỷ giá thực tăng nhưng không cải thiện được sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam vì tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu lớn hơn tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu. Nguyên nhân là do chịu tác động của hai yếu tố giá và lượng của một số mặt hàng chủ lực như xăng dầu, sắt thép, phân bón do bị ảnh hưởng của tình hình kinh tế, chính trị có nhiều biến động, chiến tranh Irắc, căng thẳng về chính trị đặc biệt ở Trung Đông, dịch bệnh SARS vv... - Giai đoạn 3: từ năm 2006-2008, tỷ giá thực giảm do eR<1 đã làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu. 1.2. Thực trạng mối quan hệ giữa tỷ giá thực đa phương (REER) và cán cân thương mại: REER được tính thông qua rổ tiền tệ gồm 11 đồng tiền các nước có quan hệ thương mại với Việt Nam: Singapore, Nhật Bản, Mỹ, Anh, Úc, Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc và Indonexia. Kết quả như sau: Đồ thị 3 : Mối quan hệ giữa REER và cán cân thương mại (Nguồn: Adb.org, wordbank.org, econstat.com, epp.eurostat.ec.europa.eu và thống kê tài chính quốc tế tháng 5/2008) Qua chỉ số REER tính được ở từng năm, có thể nhận thấy rằng, trong giai đoạn 1999-2003, REER có xu hướng tăng, đã làm cho cán cân thương mại trong giai đoạn này được cải thiện, thậm chí là thặng dư chút ít trong một số năm. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2004-2007, REER có xu hướng giảm. Tỷ giá thực giảm làm cho sức mua đối ngoại của VND tăng, VND lên giá thực. VND lên giá thực làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam, thể hiện ở cán cân thương mại trong giai đoạn này thâm hụt rất lớn. Đến đây, có một điều cần lưu ý là: tại năm 2004, REER giảm sẽ làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam (theo lý thuyết) nhưng thực tế, tại năm này đường chỉ số xuất khẩu nằm cao hơn đường chỉ số nhập khẩu, nghĩa là sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam được cải thiện. Điều này có thể được xem là do độ lệch về thời gian tác động của tỷ giá lên xuất nhập khẩu (giai đoạn trước REER tăng). Như vậy, khi tỷ giá REER giảm chứng tỏ giá hàng xuất khẩu trở nên đắt hơn và giá hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn một cách tương đối, điều này sẽ góp phần làm giảm giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nói cách khác, nếu không điều chỉnh chính thức một cách hợp lý sẽ không có lợi cho cán cân thưong mại của Việt Nam . 1.3 Thực trạng việc điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam: Thị trường hối đoái Việt Nam mang đặc trưng là thiếu các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá, các doanh nghiệp dễ chịu tổn thất khi tỷ giá biến động và vì vậy, việc điều hành chính sách tiền tệ theo những mục tiêu kinh tế lớn thường gặp nhiều trở ngại. Sử dụng tỷ giá bình quân liên ngân hàng làm thước đo đã phần nào tạo ra một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, điều chỉnh như thế nào để tỷ giá theo sát được những cân đối lớn của Chính phủ và phản ánh xác thực hơn cung cầu thị trường hiện vẫn là một mục tiêu nan giải. Vấn đề này có thể xem xét dưới các góc độ sau:  a. Quan điểm chung  Thứ nhất: Chính sách tỷ giá phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Cụ thể:  - Hoàn chỉnh cơ chế quản lý giao dịch ngoại hối và cơ sở pháp lý cho việc điều hành thị trường ngoại tệ.  - Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với các chính sách và giải pháp bộ phận trong lĩnh vực tiền tệ (như lãi suất, cung ứng vốn) nhằm tác động có hiệu quả vào nội tệ từ nhiều góc độ.  - Đưa dần các công cụ quản lý tiền tệ trên thế giới vào áp dụng thực tiễn. Bên cạnh đó, việc hiện đại hóa hệ thống các tổ chức tài chính cần xúc tiến với mục tiêu phát triển thị trường tài chính nói chung để nâng cao năng lực, mở rộng phạm vi điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước.  - Phối hợp hiệu quả với các chính sách vĩ mô khác như ngoại thương, cán cân ngân sách, thuế, tín dụng, thu nhập người lao động.  Thứ hai: Điều hành tỷ giá xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế; có nghĩa tại một thời điểm phải xác định rõ yếu tố nào cần ưu tiên và yếu tố nào có thể hy sinh để đạt lợi ích tổng thể tối đa. Ví dụ, quyết định tăng giá nội tệ để giảm nhẹ sức ép trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp (Chính phủ) và chấp nhận sự suy giảm tạm thời đối với xuất khẩu nếu điều này ít tạo khó khăn hơn cho nền kinh tế.  Thứ ba: Xây dựng chính sách tỷ giá trên cơ sở hội nhập thị trường tiền tệ trong nước với quốc tế nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính hạn chế và tránh nguy cơ tụt hậu.  Thứ tư: Không ngừng nâng cao uy tín của đồng Việt Nam trên cơ sở duy trì sự tương quan hợp lý giữa giá trị đối nội và đối ngoại của nội tệ, hướng dần tới mục tiêu đồng Việt Nam có khả năng chuyển đổi. Một đồng tiền mất uy tín tất yếu làm thương tổn đến tích lũy, đầu tư nội địa, tăng nguy cơ lạm phát, tạo điều kiện cho hội chứng “ngoại tệ hóa”.  Thứ năm: Đấu tranh có hiệu quả với hiện tượng đầu cơ, tích trữ và kiềm chế tác động xấu của thị trường ngoại tệ chợ đen.  b. Lựa chọn chế độ tỷ giá   Xét về mối quan hệ giữa mục tiêu kinh tế dài hạn và chế độ tỷ giá, ta thấy bất kỳ nền kinh tế nào cũng tập trung vào bốn mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản là sản lượng, ổn định giá cả, việc làm và cân bằng ngoại thương (thuộc hai nhóm mục tiêu cân bằng nội và cân bằng ngoại). Tuy nhiên, lạm phát và ngoại thương chỉ là yếu tố ngoại sinh dù có tác động qua lại lẫn nhau. Điều quan trọng để đạt các mục tiêu trên không chỉ quyết định bởi chế độ tỷ giá hối đoái, mà do sự phối hợp hợp lý giữa các chính sách kinh tế vĩ mô. Điều này thể hiện rõ trong đường lối kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1989-1993 khi nội tệ gần như được “thả nổi”, nhưng đi kèm là một chính sách thắt chặt lượng tiền cung ứng, không những đã chặn đà lạm phát mà còn thúc đẩy xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài.  Những biến động gần đây trên thế giới đã cho thấy rằng việc lấy những ngành công nghiệp cao làm mũi nhọn chiến lược cho phát triển kinh tế là không khả thi. Bởi lẽ, tiềm lực Việt Nam chưa đủ để thực hiện mục tiêu này và khả năng thích ứng với các biến động lớn là chưa cao. Việc hướng quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa vào lĩnh vực nông nghiệp là một chủ trương đúng đắn xét trên quan điểm phát huy lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, nông phẩm phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên sản lượng kế hoạch và thực tế thường chênh lệch lớn. Điều này nhắc nhở nền kinh tế phải chú trọng đương đầu với những cơn sốc có nguồn gốc từ thị trường hàng hóa và ủng hộ cho một chế độ tỷ giá thả nổi. Chế độ tỷ giá thả nổi không những giúp nền kinh tế loại trừ tác động của những cơn sốc từ thị trường hàng hóa mà còn giúp đạt mục tiêu cân bằng ngoại một cách dễ dàng do tỷ giá tự biến động để duy trì trạng thái cân bằng cung cầu ngoại tệ. Tuy vậy, các công cụ điều tiết thị trường hối đoái hiện vẫn còn sơ sài, chưa phát huy đúng mức khả năng hạn chế rủi ro hối đoái. Ví dụ, nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (Swap) - một nghiệp vụ cơ bản về rào chắn rủi ro hối đoái – áp dụng rất hạn chế ở Việt Nam. Ngoài ra, yếu tố tâm lý luôn có ảnh hưởng lớn đến tỷ giá. Sự linh hoạt hoàn toàn trong điều kiện như vậy rất dễ gây biến động mạnh về tỷ giá, cũng như khiến tăng trưởng xuất khẩu thêm bấp bênh. Từ đó cho thấy nếu dựa trên các mục tiêu kinh tế cơ bản thì sự linh hoạt có kiểm soát của tỷ giá sẽ là bước lựa chọn thích hợp kế tiếp của chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn.  Xét dưới góc độ khác, tình trạng thâm hụt ngân sách hãy còn nghiêm trọng và khó suy giảm trong tương lai gần do nhu cầu chi ngân sách ngày một tăng. Hệ thống ngân hàng nhìn chung là yếu kém và nguồn dự trữ ngoại hối – một công cụ can thiệp vào tỷ giá – còn thấp. Khi cán cân thương mại vẫn ở tình trạng nhập siêu thì mức dự trữ ngoại tệ khó có thể cải thiện rõ rệt vào những năm tới. Một câu hỏi đặt ra là liệu vấn đề trên có được giải quyết khi cố định nội tệ với một ngoại tệ mạnh như đồng đô la Mỹ (USD) hay không? Quan điểm này được củng cố khi việc triển khai các giải pháp điều tiết kinh tế thiếu tính đồng bộ, cộng với hệ thống thông tin - dự báo lạc hậu, thiếu khoa học đã hạn chế phạm vi tác động của chính sách kinh tế vĩ mô đến tỷ giá. Những yếu điểm trong tài chính dự báo trước sự xuất hiện những cơn sốc có nguồn gốc từ thị trường tiền tệ và yêu cầu duy trì một chế độ tỷ giá cố định nhằm đối phó lại. Tuy nhiên, chế độ tỷ giá cố định không hỗ trợ cho một nền kinh tế lệ thuộc nhiều vào xuất khẩu như Việt Nam. Không những vậy, nó còn thể hiện sự phục hồi những sai lầm từ giai đoạn quản lý kinh tế theo mô hình tập trung, bao cấp như trước 1989, và rõ ràng, đây là sự lựa chọn trái quy luật.  Tóm lại, thực trạng tài chính nước nhà vừa đòi hỏi một chế độ tỷ giá thả nổi, vừa ủng hộ chế độ tỷ giá cố định. Một chế độ tỷ giá bán thả nổi sẽ là sự lựa chọn hợp lý. Bên cạnh đó, cũng sẽ rất hữu ích nếu tồn tại song song các công cụ hành chính với mục đích can thiệp kịp thời đến biên độ dao động của tỷ giá, phục vụ cho các mục tiêu kinh tế lớn ở từng thời kỳ. Việc phá giá nội tệ một cách thận trọng sẽ đưa giá trị đồng Việt Nam trở về mức hợp lý hơn so với các đồng tiền khác trong khu vực, từ đó tăng sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.  c. Đánh giá tình hình kinh tế trước và sau khi điều chỉnh tỷ giá  Việc xác định thời điểm can thiệp vào tỷ giá, can thiệp như thế nào, bổ sung những biện pháp hỗ trợ sau khi can thiệp … sẽ quyết định mức độ thành công hay thất bại của công tác điều hành tỷ giá. Xác định mức tỷ giá hợp lý là một vấn đề  tùy thuộc vào nhận định của Chính phủ trong một thời kỳ rằng biến số kinh tế nào là quan trọng. Theo nhiều nhà kinh tế, chỉ có thị trường mới quyết định được mức cân bằng hợp lý này. Theo ý kiến riêng, giải pháp liên quan đến khía cạnh này có một số điểm nên lưu ý như sau:  Theo sát những tín hiệu trên thị trường ngoại tệ chính thức.  Khoảng cách giữa tỷ giá mua và bán của một ngoại tệ, trên lý thuyết cũng như thực tiễn, tùy thuộc vào phạm vi giao dịch, mức độ rủi ro và tính thanh khoản của ngoại tệ đó trên thị trường. Trong trạng thái cân bằng của thị trường, áp lực cạnh tranh luôn giữ sự chênh lệch này ở vào một mức độ hợp lý. Việc nới lỏng biên độ dao động tỷ giá là một nhu cầu thiết thực để đưa công tác điều chỉnh tỷ giá tiến gần tới các quy luật thị trường hơn, hay cũng đồng nghĩa với việc tự do hóa dần các giao dịch ngoại tệ. Khi thị trường hối đoái thế giới có biến động mạnh, các quy định hành chính về biên độ có thể làm đóng băng thị trường ngoại tệ trong nước, khuyến khích các hoạt động phi pháp.  Theo nghiên cứu của IMF, tỷ giá thực của đồng Việt Nam so với USD được đánh giá cao hơn tỷ giá thực tương ứng của các nước có quan hệ mậu dịch với Việt Nam như Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Thái Lan và thậm chí cả Mỹ. Điều đó có nghĩa hàng Việt Nam được bán trên thị trường thế giới với giá cao hơn hàng cùng loại của những quốc gia trên. Mặt khác, xu hướng hội nhập gắn liền với chiến lược cạnh tranh bằng hàng xuất khẩu cũng tạo áp lực thay đổi cách quản lý tỷ giá danh nghĩa hiện nay, trong đó ý kiến nổi bật là phải phá giá đồng VN. Tuy nhiên, việc phá giá đột ngột đồng VN có thể gây xáo trộn lớn trong nền kinh tế. Tỷ giá danh nghĩa tăng là một lợi thế cho hàng xuất khẩu nhưng chưa thể bảo đảm khả năng cạnh tranh vì chúng ta còn vấp phải hàng rào phi thuế quan (tiêu chuẩn về kiểm dịch, chất lượng sản phẩm, hàm lượng kỹ thuật cao trong sản phẩm, tâm lý tiêu dùng, thương hiệu …). Trong lúc đó, cán cân mậu dịch hiện đang ở tình trạng nhập siêu. Một khi đầu ra chưa đảm bảo thì việc phá giá sẽ làm trầm trọng hơn sự thâm hụt cán cân mậu dịch. Mặt khác, các công cụ điều tiết thị trường tiền tệ như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu chưa phát huy tính ưu việt. Thế nên, việc phá giá mạnh đồng VN rất có thể dẫn đến những cú sốc kinh tế nằm ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ. Xu hướng phá giá nội tệ là một định hướng đúng nhưng cần tiến hành thận trọng nhằm tránh gây sốc cho nền kinh tế. Việc nới rộng biên độ dao động tỷ giá từ 0.1% lên 0.25% kể từ tháng 7.2002 được xem như bước khởi đầu cho tiến trình này.  Theo dõi những xu hướng vận động trên thị trường chợ đen.  Sự tồn tại của thị trường ngoại tệ chợ đen là một tất yếu xuất phát từ thực trạng kinh tế và cơ chế quản lý ngoại hối của VN. Nắm bắt những tín hiệu trên thị trường này, nơi mà các lực thị trường về cơ bản là không bị điều phối bởi các quy định hành chính, có thể giúp ích công tác điều hành tỷ giá. Cụ thể:  Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước ở các tỉnh, thành phố nên hình thành chân rết tại những đầu mối giao dịch trên trường chợ đen nhằm nắm bắt kịp thời xu hướng vận động của thị trường này.  Độ chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen tạo nên khái niệm độ mở “cánh kéo”, được xem là hàn thử biểu để đánh giá mức độ hợp lý trong điều hành tỷ giá. Tính hợp lý bộc lộ khi hai tỷ giá này xích gần lại nhau. Không nhất thiết làm chúng trùng nhau vì thị trường chợ đen cũng chỉ một mảng nhỏ trong tổng thể thị trường, và tính bất hợp pháp của nó luôn chứa đựng một khoản rủi ro nhất định. Tốt hơn là nên chấp nhận sự chênh lệch này, miễn sao nó không đủ lớn để làm rò rỉ ngoại tệ từ thị trường chính thức ra chốn chợ đen.  Nâng cao năng lực các công cụ can thiệp tỷ giá   -  Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Do lượng ngoại tệ dự trữ của VN còn quá thấp nên công cụ này chưa đủ sức để giữ vai trò chủ đạo trong điều chỉnh tỷ giá. Sau đây là một số đề xuất:  + Xây dựng khung pháp lý thích hợp cho nghiệp vụ thị trường mở.  + Tranh thủ tối đa khả năng tích lũy ngoại tệ, đồng thời duy trì mức dự trữ ngoại tệ tương xứng với nhịp độ kim ngạch nhập khẩu. Tập trung quản lý ngoại tệ vào một đầu mối duy nhất là Ngân hàng Nhà nước, ngay cả ngoại tệ của Kho bạc Nhà nước có được cũng phải bán ngay cho Ngân hàng Nhà nước và khi có nhu cầu thì mua lại như những đơn vị khác.  + Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn ngoại tệ dự trữ. Cụ thể, khi cần tung dự trữ ngoại tệ vào thị trường, Ngân hàng Nhà nước có thể đứng ra bảo lãnh cho các tổng công ty nhập khẩu các mặt hàng chiến lược (như xăng dầu). Điều này giúp đảm bảo ngoại tệ dự trữ được sử dụng đúng cho hoạt động ngoại thương.  + Lựa chọn cơ cấu dự trữ ngoại tệ khả thi. Trong số các đồng tiền mạnh hiện nay, đáng quan tâm chỉ có ba loại: USD, EUR và JPY. Xu hướng vận động của các đồng tiền này tạm được ghi nhận như sau:  Đô la Mỹ: đây là ngoại tệ thông dụng nhất tại VN (hơn 90% các giao dịch đối ngoại qua Vietcombank được thực hiện bởi đồng tiền này). Sau cuộc chiến Iraq, USD liên tục trượt giá so với nhiều ngoại tệ mạnh khác trên thế giới (như EUR, JPY, CHF …). Theo giới phân tích, một số nguyên nhân sâu xa của sự suy yếu bất thường trên là bội chi ngân sách Mỹ trong năm tài chính vừa qua (kết thúc ngày 30 tháng 9 năm 2004) lên tới 413 tỷ USD, tương đương 3,7% tổng sản phẩm quốc nội (GDP); mức thâm hụt mậu dịch cũng lên tới 590 tỷ USD, bằng 5,7% GDP (riêng trong tháng 9 vừa qua là 51,6 tỷ USD), làm cho nền kinh tế Mỹ mất cân đối và suy giảm lòng lòng tin của giới đầu tư vào đồng USD. Nhiều người tin rằng Mỹ đang thực thi chính sách “một đồng USD yếu” nhằm đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu. Kể từ khi EUR ra đời đến nay, giá 1 EUR xấp xỉ đổi được 1,30 USD. Chính sách này đang đe dọa sự tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu của EU. Vào ngày 19 tháng 11, Bộ trưởng tài chính và Thống đốc Ngân hàng trung ương G20 (gồm G7, EU, Nga, Trung Quốc, An Độ, Hàn Quốc, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Argentina, Úc, Brazil, Indonesia, Mexico, Saudi Arabia) cùng World Bank, IMF đã nhóm họp tại Berlin (Đức) để tìm giải pháp ổn định tỷ giá hối đoái giữa đồng USD và nhiều ngoại tệ mạnh khác.  Sự trượt giá quá mạnh của USD đã ít nhiều ảnh hưởng đến việc điều hành tỷ giá ở VN. Tính từ đầu năm đến nay, giá USD chỉ tăng 0,3% so với VND (mức tăng thấp nhất trong vòng 8 năm trở lại đây), nhưng nếu chỉ so với 6 tháng đầu năm với mức tăng 0,5% thì trong 4 tháng trở lại đây, đồng USD đã giảm giá so với VND. Bản thân tỷ giá hạch toán mà Bộ tài chính công bố cũng giảm trong 3 tháng trở lại đây, mặc dù mức giảm rất nhỏ: tháng 9 là 15.721 VND/USD, tháng 10 là 15.720 và tháng 11 là 15.719. Theo xu hướng trên, tỷ giá VND/USD tính cả năm sẽ không tăng nếu Mỹ tiếp tục theo đuổi chính sách “một đồng USD yếu”.   Tuy gặp nhiều khó khăn về tài chính lẫn chính trị, Mỹ vẫn giữ vai trò là một nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới và là một đối tác quan trọng của các doanh nghiệp VN. Vì vậy, việc chiếm tỷ trọng ưu thế của USD trong tổng dự trữ ngoại tệ quốc gia khó có thể thay đổi trong tương lai gần.  Đồng Euro: Đồng tiền này mang tính quốc tế hóa thứ hai sau đô la Mỹ. Thực trạng u ám hiện nay của nền kinh tế Mỹ đã góp phần đẩy EUR tăng giá. Tuy nhiên, sự tăng giá EUR so với USD chỉ tác động xấu thêm sự phục hồi kinh tế và làm sâu sắc hơn những bất ổn vốn có của khu vực sử dụng EUR. Giữa các thành viên EU luôn có bất đồng trên nhiều mặt; sự liên kết giữa các quốc gia này ẩn chứa nguy cơ mất kiểm soát đối với những nguồn lực đã phình rộng khi thiếu hụt thông tin hay thiếu đồng bộ trong điều hành kinh tế.  Do vậy, tính ổn định của đồng tiền cần được kiểm nghiệm thêm trước khi có quyết định điều chỉnh lớn trong cơ cấu dự trữ ngoại tệ.  Đồng Yên Nhật: Đồng tiền này cho đến nay vẫn chưa thực sự là đồng tiền quốc tế và nước Nhật vẫn đang trong nỗ lực quốc tế hóa đồng tiền của mình. Theo các nhà kinh tế phương Tây thì người Nhật khó làm được điều này vì hai lý do: Thứ nhất, vào những năm 1970-1980 khi nước Nhật đang phát triển với một tốc độ thần kỳ, họ đã từ chối mong muốn của các nước tư bản khác về việc quốc tế hóa đồng yên vì không muốn những thế lực bên ngoài can thiệp sâu vào nền kinh tế của mình. Với thực trạng kinh tế hiện nay chưa thoát khỏi suy thoái và một chính sách phục hồi kinh tế dựa phần lớn vào xuất khẩu đang gặp trở ngại bởi đồng USD giảm giá cùng giá dầu lửa tăng vọt, người Nhật xem như đã đánh mất thời cơ quốc tế hóa đồng tiền của mình. Thứ hai, người Mỹ đang phải đối đầu với sự xâm lấn ngôi vị của EUR, khi mọi chuyện chưa ngã ngũ thì họ không muốn thấy sự xuất hiện của một đồng tiền đối trọng thứ ba.  -  Công cụ lãi suất tái chiết khấu:  Bản thân lãi suất chỉ có tác động gián tiếp đến tỷ giá vì đóng vai trò là biến ngoại sinh; tuy nhiên nó lại tác động trực tiếp đến đầu tư và sản xuất kinh doanh vì gắn liền với chi phí sử dụng vốn. Do vậy, việc sử dụng công cụ này cần nhiều sự  cân nhắc.  Luồng vốn ra vào nền kinh tế VN chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đầu tư gián tiếp và dòng vốn ngắn hạn gần như không có do thị trường chứng khoán và tiền tệ chưa phát triển. Tình trạng này hãy còn tiếp diễn trong nhiều năm. Hơn nữa, giao dịch vốn chưa được mở cửa một phần bởi các quy định của Chính phủ, một phần do điều kiện tài chính VN chưa chín muồi và đồng VN chưa được tự do chuyển đổi. Tất cả cho thấy lãi suất chưa thể có ảnh hưởng mạnh đến tỷ giá. Tác động của nó chỉ giới hạn ở chỗ làm thay đổi những dòng tiền tệ lưu thông trong thị trường nội địa, từ nội tệ chuyển sang ngoại tệ và ngược lại. Vậy, giải pháp để từng bước nâng cao sức mạnh của công cụ này sẽ đồng nhất với việc tự do hóa tài khoản vốn quốc gia (mà trước hết là các giao dịch vốn ngắn hạn và đầu tư gián tiếp). Đây cũng chính là con đường từng bước đưa đồng VN trở thành một đồng tiền chuyển đổi.  -  Công cụ hành chính:  Những biện pháp hành chính trong thời gian qua đã đem lại hiệu quả khá tốt, nhờ chúng mà VN đã thành công trong việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái và hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á. Tuy đây chỉ là giải pháp tình thế nhưng việc dỡ bỏ tức thời các biện pháp hành chính cũng không phải khả thi. Chúng chỉ nên được nới lỏng tương xứng với mức can thiệp của các công cụ kinh tế. Để hoàn thiện công cụ này có thể tập trung vào một số điểm sau:  ° Tăng cường giám sát các giao dịch ngoại hối thông qua việc kiểm soát chặt hợp đồng thanh toán ngoại tệ; đề ra mức phạt nặng đối với trường hợp kê khống giá của hợp đồng xuất nhập khẩu và đối với các hành vi gian lận khác.  ° Duy trì công tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi quy định về chế độ quản lý ngoại hối hiện hành; cương quyết trừng phạt nặng không phân biệt thành phần kinh tế nếu xuất hiện hành vi vi phạm.  ° Rà soát thường xuyên các văn bản pháp quy để cải tiến kịp thời. Phần 4: Một số đề xuất hoàn thiện cơ chế quản lý tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thương mại. - Giải pháp phá giá VND: VND tăng giá sẽ có ảnh hưởng xấu đến cán cân thanh toán, do đó đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách quản lý tỷ giá phải có chính sách phá giá VND tương ứng với mức giảm của tỷ giá REER, chẳng hạn nếu ta muốn phá giá VND so với USD thì cần thiết phải tính ra tỷ giá (TG) kỳ vọng dựa trên công thức: TG kỳ vọng = (% thay đổi tỷ giá REER) x (TG danh nghĩa tại thời điểm t) + (TG danh nghĩa tại thời điểm t). Khi tỷ giá thực hiệu lực tăng thì cần phải điều chỉnh tăng giá VND lên cũng với cơ sở như vậy. Cân bằng kinh tế bên trong và bên ngoài: Các khái niệm cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài đã được Trevor Swan (1955) mô tả bằng đồ thị và được biết đến là “Swan Diagram“. Do không đề cập đến luồng chu chuyển vốn quốc tế nên mô hình Swan Diagram coi điều kiện bên ngoài chính là trạng thái cân bằng cán cân vãng lai, nền kinh tế Việt Nam được phân tích theo đồ thị Swan như sau: Đồ thị: Swan Diagram Theo đồ thị, REER =1. Trục tung của đồ thị biểu diễn tỷ giá. Trục hoành biểu diễn chi tiêu trong nước, bao gồm: tiêu dùng (C), đầu tư (I), và chi tiêu của Chính phủ (G). Theo cách tính REER của nhóm nghiên cứu, thì REER của Việt Nam có xu hướng giảm xuống, tức là đang bị định giá cao hơn. Thâm hụt cán cân vãng lai kéo dài dai dẳng từ năm 2002 đến năm 2008 đưa nền kinh tế Việt Nam nằm bên phải đường cân bằng ngoại EB. Năm 2008, tình trạng thất nghiệp của người lao động tăng cao do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu (Theo Outlook 2009, Vietnam: Năm 2008, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị ước tính tăng 5% và tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn cũng tăng lên mặc dù chính sách nông nghiệp đã được cải cách đáng kể). Có nghĩa là trạng thái nền kinh tế Việt Nam đang nằm bên trái đường cân bằng nội IB, tức tại điểm B, vùng số 2. Để nền kinh tế Việt Nam (điểm B) trở về trạng thái cân bằng đối nội và đối ngoại, tức tại điểm A. Đối với mục tiêu cân bằng nội, Chính phủ phải tăng chi tiêu trong nước, tức là tăng đầu tư, tiêu dùng, chi tiêu của Chính phủ, đưa nền kinh tế duy chuyển tới điểm D. Điều này đưa nền kinh tế đến tình trạng thậm hụt cán cân vãng lai. Đối với mục tiêu cân bằng ngoại, Chính phủ thực hiện phá giá đồng nội tệ, khi đó sẽ kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, do đó đưa nền kinh tế đến điểm C, khi đó kinh tế Việt Nam sẽ đối diện với tình trạng thất nghiệp. Vì vậy, để đạt được cả 2 mục tiêu cân bằng bên trong và bên ngoài, Chính phủ nên kết hợp cả 2 công cụ: phá giá tiền tệ và tăng chi tiêu trong nước đồng bộ với nhau, không nên dùng một trong 2 phương pháp một cách riêng lẻ. - Xây dựng cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn: Cơ chế tỷ giá của Việt Nam hiện nay nên là cơ chế nào? Lý thuyết về “Bộ ba bất khả thi” - Impossible Trinity được sử dụng để phân tích: Lý thuyết bộ ba bất khả thi (The Impossible Trinity hay Inconsistent Trinity hay Triangle of Impossibility) được phát biểu rằng: một quốc gia không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc 3 mục tiêu chính sách vĩ mô: Sơ đồ 2: Bộ ba bất khả thi · Ổn định tỷ giá · Tự do hóa dòng vốn · Chính sách tiền tệ độc lậpViệc lựa chọn ba mục tiêu kinh tế vĩ mô một cách hợp lý là bài toán khá nan giải, đặc biệt là đối với các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển. Việt Nam là thành viên của WTO từ ngày 11/01/2007. Kể từ ngày này, Việt Nam tiếp cận được thị trường thương mại toàn cầu nhưng sẽ gặp những trở ngại không nhỏ trong quá trình hội nhập quốc tế. Một biểu hiện rõ nét nhất ngay sau khi hội nhập, đó là dòng vốn nước ngoài chảy vào nhiều, áp lực lạm phát gia tăng. Cũng như hầu hết các nước khi mở cửa hội nhập, Việt Nam đang phải đối mặt với hiện tượng “Bộ ba bất khả thi”. Đó là, khi dòng vốn nước ngoài vào nhiều, để ổn định tỷ giá NHNN mua ngoại tệ, qua đó gây áp lực lạm phát (Sáu tháng đầu năm 2007, NHNN “bơm” ra lưu thông 112.000 tỷ đồng sau khi mua vào 7 tỷ USD, đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho lạm phát tăng mạnh. Theo qui định của Pháp lệnh Ngoại hối, Việt Nam đã tự do hóa giao dịch vãng lai, còn các giao dịch vốn chưa được tự do hoàn toàn nhưng đã nới lỏng một cách tương đối. Đối với các nền kinh tế mới nổi, nơi mà thị trường tài chính và tiền tệ còn kém phát triển, thì hiện tượng bộ ba bất khả thi là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng. Vấn đề đặt ra lúc này đối với Việt Nam là phải lựa chọn mục tiêu theo đuổi trong quản lý kinh tế vĩ mô để đảm bảo kinh tế tăng trưởng bền vững. Trong ba mục tiêu trên, kiểm soát lạm phát là mục tiêu số một không thể loại bỏ, còn vấn đề tỷ giá và kiểm soát dòng vốn cần có sự lựa chọn cho phù hợp để hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của “bộ ba bất khả thi”. Vậy, chế độ tỷ giá BBC6 có thể là một sự lựa chọn cho chế độ tỷ giá của Việt Nam hiện nay được không? Theo mục 2, Điều 39 Nghị định 160/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối thì cơ chế tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý do NHNN Việt Nam xác định trên cơ sở rổ tiền tệ của các nước có quan hệ thương mại, vay, trả nợ, đầu tư với Việt Nam phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ. Như vậy, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, tỷ giá VND được xác định dựa trên rổ tiền tệ (B- Basket) thay vì chỉ dựa vào USD. Ngày 25/2/1999, cơ chế tỷ giá của Việt Nam được cải cách đáng kể, NHNN bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức và thay thế bằng việc thông báo tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Các ngân hàng thương mại được xác định tỷ giá mua bán đối với USD không vượt quá +0,1% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó, sau đó biên độ đã tiếp tục được thay đổi để tạo sự linh hoạt hơn cho chính sách tỷ giá7. Ngoài ra, hàng năm NHNN sẽ công bố mục tiêu như là một vật neo danh nghĩa trong điều hành tỷ giá. Có thể thấy B- Band và C- Crawl là hai đặc điểm còn lại mà NHNN đang cố gắng thực hiện. Tóm lại, lựa chọn này sẽ phù hợp hơn trong điều kiện mục tiêu dài hạn của Việt Nam là linh hoạt hóa cơ chế tỷ giá và liên kết chặt chẽ hơn với các đối tác thương mại chính. Đây còn có thể là sự lựa chọn đúng hướng cho cơ chế tỷ giá Việt Nam trong tương lai, khi Việt Nam liên kết chặt chẽ hơn với các nước ASEAN trong một cộng đồng kinh tế chung, trong đó có yêu cầu cố định tỷ giá giữa các nước thành viên nhằm thúc đẩy đầu tư và thương mại nội khối, đồng thời linh hoạt hóa tỷ giá với các nền kinh tế lớn khác nhằm đảm bảo phát triển bền vững, tránh các đổ vỡ tài chính dây chuyền khi hệ thống tỷ giá với việc neo vào một ngoại tệ mạnh không đứng vững trước các biến động thị trường như đã từng xảy ra năm 1997. Phần 5: Kết luận. Đề cập đến chính sách tỷ giá ở Việt Nam là một vấn đề hết sức nhạy cảm, liên quan đến hàng loạt các yếu tố cấu trúc kinh tế và cả các vấn đề chính trị, xã hội. Nhiều nghiên cứu cho rằng, việc cần làm trước mắt là phá giá đồng Việt Nam để làm tăng tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới. Quan điểm này còn cho rằng đồng Việt Nam hiện nay có tỷ giá thực có hiệu lực (real effective exchange rate - REER) cao, nghĩa là tỷ giá đã điều chỉnh theo lạm phát của một rổ tiền tệ của các nước mà Việt Nam có quan hệ mậu dịch. Kết quả nghiên cứu này cho thấy, trong thời kỳ 2007-2010, tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa đồng Việt Nam với các đồng tiền của các bạn hàng chủ yếu thể hiện xu hướng tăng, đồng nghĩa với việc đồng Việt Nam mất giá. Tuy nhiên, dựa trên kết quả tính toán được, tỷ giá hối đoái thực tế đã bị giảm tới hơn 20%. Trong giai đoạn 1992-1997, việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định trong điều kiện lạm phát đã được kiềm chế song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ (nước có đồng tiền chiếm tỷ trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ giá của Việt Nam) và các nước có quan hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD có xu hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VNĐ có xu hướng ngày càng bị đánh giá cao hơn thực tế. Điều này đã tạo ra và tích lũy những nhân tố gây mất ổn định và kìm hãm sự phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu cũng đã khẳng định được sự tồn tại của quan hệ giữa hai biến số vĩ mô này trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, sự tác động của tỷ giá có tính chất trễ, và trong dài hạn hai biến số này tiến tới một quan hệ cân bằng (đồng liên kết). Từ những phân tích trên, khuyến nghị đối với việc hoạch định chính sách tỷ giá phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam là: Thứ nhất, tỷ giá là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng nhanh và mạnh đến trạng thái cán cân thương mại, chính vì vậy khi phân tích diễn biến và xu hướng vận động của cán cân thương mại, không thể không đề cập đến nhân tố tỷ giá. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào diễn biến của tỷ giá danh nghĩa (song phương hay đa phương) để phân tích ảnh hưởng lên cán cân thương mại là không chuẩn xác, mà phải sử dụng đến tỷ giá thực và chủ yếu là tỷ giá thực đa phương. Thứ hai, để thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng mạnh hơn thì tỷ giá thực không thể quá thấp như ở Việt Nam trong suốt thời gian qua. Vấn đề điều chỉnh tỷ giá là để tỷ giá thực đạt mức bao nhiêu là hợp lý. Tóm lại, trong những nhân tố tác động đến hoạt động ngoại thương của Việt Nam trong thời gian qua, tỷ giá hối đoái có một vai trò hết sức quan trọng. Các nghiên cứu trong và ngoài nước trong thời gian qua đã khẳng định mối quan hệ và tác động giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại ở Việt Nam với các mức độ khác nhau. Nghiên cứu này nhằm phân tích một cách sâu hơn mối quan hệ giữa hai biến số đó và đã cho một kết quả tương tự. Điều này góp phần làm vững chắc cơ sở cho việc hoạch định chính sách tỷ giá nhằm phục vụ tốt hơn hoạt động ngoại thương của Việt Nam trong thời gian tới. Vì thời gian có hạn cũng như mức độ hiểu biết của em còn hạn chế, bài tiểu luận khó tránh khỏi những sai sót. Mong cô và các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Ghi chú: Trong bài tiểu luận này có những câu phát biểu, ý kiến đề xuất và các giải pháp do các chuyên gia kinh tế về vấn đề vĩ mô nghiên cứu được em sử dụng làm tư liệu nên em xin trích dẫn nguyên văn, không tự ý sửa đổi. Đó là những công trình nghiên cứu quan trọng, nhằm giúp bài tiểu luận thêm rõ ràng hơn. MỤC LỤC: Tài liệu tham khảo 1. PGS.TS Nguyễn Văn Tiến: Giáo trình tài chính quốc tế. Xuất bản lần thứ 3, NXB Thống kê, năm 2009. 2. ThS. Phạm Thị Hoàng Anh: Chế độ tỷ giá của Singapore và Trung Quốc - Lý thuyết, thực tế và những gợi ý cho Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng số 9/2009. 3. ThS. Nguyễn Thị Kim Thanh: Chính sách tỷ giá với vấn đề tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Tạp chí ngân hàng tháng 10/2008. 4. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới cân bằng cán cân thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập. Đề tài NCKH, Trường Đại học ngoại thương. 5. Kinh tế vĩ mô 6 tháng năm 2008 Ngân Hàng Đầu Tư Phát Triển Việt Nam (BIDV). 6. Tình hình xuất nhập khẩu -Tổng Cục Thống Kê. 7. 8. Tình hình biến động tỷ giá hối đoái 2008 – Tạp chí TCKT.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChính sách tỷ giá hối đoái nhằm cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam thời hậu WTO.doc
Luận văn liên quan