Vì vậy, kết quả cuối cùng của tác giả chỉ ra một sự tăng giá đồng Nhân dân tệ làm
giảm nhập khẩu từ các quốc gia Châu Á đến Trung Quốc ở phần nhiều các nước châu Á.
Điều này thậm chí còn nhiều hơn như vậy nếu họ không thể bù đắp hiệu ứng này bằng
cách tăng xuất khẩu tới các điểm đến khác. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào mức độ bổ
sung trong xuất khẩu châu Á và cũng nhờ vào sự phản ứng của châu Á với một đánh giá
lại đồng Nhân dân tệ. Trong khi kiểm tra giả thuyết này đòi hỏi một phân tích chi tiết, tác
giảcố gắng để đưa ra câu hỏi kiểm tra bởi con số xuất khẩu ước lượng cho các đối tác
thương mại chính của Trung Quốc ở châu Á.
Con số xuất khẩu giả định thì tương tự như tác giảcó về Trung Quốc trước đây để
mà tác giảgiải thích xuất khẩu ảnh hưởng tỷ giá hối đoái thực của quốc gia và nhu cầu thế
giới. Ngoài ra, tác giảtính đến con số ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái thực của Trung Quốc
thêm vào như một biến giải thích. Các dữ liệu về tỷ giá hối đoái một lần nữa là CPI cơ
bản và dựa trên nhu cầu thế giới được đo bằng tổng nhập khẩu trên thế giới. Xu hướng
này bao gồm khi nó tìm được ý thống kê. Tác giảước tính con số xuất khẩu cho các đối
tác thương mại châu Á chính của Trung Quốc trong giai đoạn 2000-2005. Dữ liệu tác
giảsử dụng được điều chỉnh bởi chương trình CensusX12. Tác giảtìm lại lần nữa các biến
chỉ mức độ trung bình và tồn tại ít nhất một vecto trong mỗi nhóm biến.
16 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2187 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Chính sách tỷ giá hối đoái Trung Quốc và mậu dịch của Châu Á, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRUNG QUỐC VÀ
MẬU DỊCH CỦA CHÂU Á
Tóm tắt
Bài nghiên cứu này trả lời hai câu hỏi chính:
- Khi đồng Nhân Dân Tệ thay đổi sẽ tác động như thế nào đến cán cân mậu dịch
Trung Quốc?
- Những bạn hàng sẽ bị ảnh hưởng như thế nào?
Bài nghiên cứu cho chúng ta thấy rằng, trên thực tế Cán cân mậu dịch Trung Quốc nhạy
cảm với những thay đổi bất thường trong tỷ giá thực hiệu dụng (REER) của đồng Nhân
Dân Tệ (NDT), mặc dù vậy thì chính sách tỷ giá một mình nó cũng không thể nào giải
quyết được mức độ thặng dư trong cán cân thương mại. Một trong những nguyên nhân
chính giải thích tại sao sự suy giảm trong thặng dư mậu dịch là có giới hạn đó là nhập
khẩu của Trung Quốc vẫn giảm mặc dù tăng giá đồng NDT.
Qua việc đánh giá phương trình nhập khẩu song phương, tác giả nhận ra rằng nhập khẩu
từ những nước Đông Nam Á khác đều giảm. Kết quả này phản ánh sự “hợp nhất theo
chiều dọc” (vertical intergration) của khu vực Đông Nam Á với Trung Quốc thông qua
“mạng lưới sản xuất Châu Á”. Tác giả cho thấy nhập khẩu từ Đức (nơi đáp ứng nhu cầu
trong nước của Trung Quốc) tăng cùng với việc tăng giá trị thực của đồng NDT đúng như
mong đợi. Trên tất cả, kết quả nghiên cứu này gia tăng mối quan tâm đến tác động của
việc tăng giá đồng NDT trên khu vực Đông Nam Á ngay cả trong trường hợp các đồng
tiền khác trong khu vực không theo kịp hướng đi lên của đồng NDT.
1. Giới thiệu
Trong những năm gần đây, thị phần của Trung Quốc trong thương mại quốc tế đã
phát triển cực kỳ nhanh chóng. Trung Quốc đã trở thành nhà xuất khẩu lớn nhất trên thế
giới, cùng với Đức và Mỹ.
Mậu dịch Trung Quốc đã rất cân bằng cho đến gần đây. Theo thống kê của cục hải
quan Trung Quốc, năm 2004 thặng dư mậu dịch chỉ là 32 tỷ USD (khoản 1,7% GDP).
Tuy nhiên, từ năm 2005 thặng dư mậu dịch không ngừng tăng lên, con số này lên đến gần
180 tỷ USD nă m 2006 (hay xấp xỉ 7% GDP).
Trung Quốc đang đối mặt với áp lực mạnh mẽ từ các nước công nghiệp để định giá
cao Đồng NDT. Trong thực tế, tỷ giá thực hiệu dụng (REER) đã có thời kỳ bị định giá
cao một cách phi lý từ 1994 đến cuối năm 1997, nhưng có xu hướng giảm kể từ khi
chuyển qua cơ chế tỷ giá linh hoạt.
Mức độ thặng dư quá lớn là vấn đề quan trong không những đối với Trung Quốc mà
còn với cả thế giới. Sự gia tăng thặng dư nhanh chóng chủa Trung Quốc được tranh luận
rất nhiều trên các Diễn đàn chính sách quốc tế. Một mặt, chúng ta thật ấn tượng khi các
nhà hoạch định chính sách Trung Quốc vẫn duy trì tỷ giá thấp quá mức để thu lợi từ nhu
cầu bên ngoài và đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao quá mức cần thiết. Mặt khác, có nhiều
nghi ngờ rằng liệu tỷ giá hối đoái có thể là một công cụ hiệu quả giúp làm giảm thặng dư
mậu dịch hay không, khi Trung Quốc là nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, trong đó giá cả
có lẽ vẫn còn đóng vai trò hạn chế hơn trong quyết định của công ty liên quan đến cung
và cầu.
Tuy có nhiều mối quan tâm về vấn đề này nhưng tài liệu về đề tài này thì tương đối
khan hiếm. Việc thiếu các dữ liệu thích hợp và chuỗi thời gian dài hạn gây khó khăn
trong việc nghiên cứu để tìm ra mối liên hệ giữa tỷ giá đồng NDT và ngoại thương của
Trung Quốc mãi cho đến gần đây. Từ mùa hè năm 2003, khi những tranh luận về việc
đánh giá thấp đồng NDT lên đến đỉnh điểm, thì việc nghiên cứu chính sách tỷ giá hối
đoái Trung Quốc bắt đầu nở rộ. Nhiều trong số đó đã tập trung đến việc ước lượng tỷ giá
cân bằng dài hạn hay tìm kiếm chế độ tỷ giá thích hợp nhất đối với nền kinh tế Trung
Quốc. Trong khi cả hai câu hỏi trên đều liên quan tới nhau, chúng tôi nhận thấy vấn đề
cấp bách nhất – cụ thể là đối với mức độ mất cân bằng mậu dịch toàn cầu và áp lực từ các
nước công nghiệp – là Trung Quốc có nên để việc tăng giá nội tệ như một công cụ làm
giảm thặng dư mậu dịch khổng lồ của mình hay không. Câu trả lời tùy thuộc rất nhiều
vào tác động của việc tăng giá đồng NDT có thể làm hạn chế xuất khẩu và thúc đẩy nhập
khẩu đến mức nào?
Tác giả phân tích vấn đề này theo kinh nghiệm bằng cách sử dụng phân tích đồng
liên kết. Theo kết quả của tác giả, thặng dư mậu dịch Trung Quốc có thể giảm nhờ nâng
giá trị thực của đồng NDT nhưng giảm có giới hạn. Tác động tương đối nhỏ lên mức độ
mất cân bằng – được giải thích chủ yết bởi sự co giãn giá riêng biệt của hàng nhập khẩu,
cụ thể là hàng nhập khẩu Trung Quốc giảm theo sau một mức tăng giá đồng NDT thực tế.
Qua đánh giá phương trình nhập khẩu song phương, tác giả thấy hàng nhập khẩu từ các
nước Châu Á giảm trong khi từ các nước công nghiệp khác (cụ thể là Đức) thì lại tăng.
Điều này có thể được giải thích bởi sự “hợp nhất theo chiều dọc” của các nước Đông
Nam Á và vai trò then chốt của Trung Quốc trong “mạng lưới sản xuất của khu vực”.
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây
Tài liệu hiện tại về tác động của việc tăng giá thực của đồng NDT lên cán cân mậu
dịch Trung Quốc có thể chia làm 2 nhóm dựa theo những hàm ý trong các chính sách mà
Chính Phủ đang theo đuổi (policy implications). Nhóm thứ nhất chiếm đa số đã đưa ra
những bằng chứng rằng việc nâng cao tỷ giá thực làm giảm thặng dư mậu dịch thông qua
xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc cả hai. Nhóm còn lại thì cho rằng không có tác động to
lớn nào lên tài khoản thương mại.
Với nhóm thứ nhất, Cerra và Dayal-Gulati (1999) dùng Cơ chế hiệu chỉnh sai số
(ECM – Error Correction Model) để ước lượng co giãn về giá cả của xuất khẩu và nhập
khẩu Trung Quốc trong giai đoạn 1983-1997 và tìm ra rằng đối với xuất khẩu là -0.3 và
nhập khẩu là 0.7. Thên vào đó, họ chỉ ra rằng độ co giãn về giá của xuất nhập khẩu đều
tăng trong tương lai. Bảng 1 tóm tắt lại lý thuyết cũng như phương pháp luận đã sử dụng.
Dees (2001) hoàn thiện phân tích trước đó bằng cách phân chia xuất khẩu và nhập
khẩu Trung Quốc thành 2 phạm trù: Hàng hóa gia công và hàng hóa thông thường. Ông
ta nhận thấy: trong dài hạn tăng tỷ giá làm giảm xuất khẩu. Ông cũng nói rằng hàng xuất
khẩu thông thường nhạy cảm về giá hơn là hàn gia công xuất khẩu. Tuy nhiên trong ngắn
hạn chỉ có nhu cầu của thế giới mới tác động đến xuất khẩu.
Cùng quan điểm, Yue và Hua (2002) dũng dữ liệu hàng năm của từng địa phương và
chỉ ra rằng một sụt giảm trong xuất khẩu đi kèm với 1 gia tăng tỷ giá thực. Cùng quan
điểm với Cerra và Dayal, nhưng với nhiều số liệu thực tế gần đây, Yue và Hua cho rằng
hàng xuất khẩu Trung Quốc đang trở nên nhạy cảm về giá hơn.
Besnassy-Quéré và Lahrèche-Revil (2003) giả sử tác động của việc giảm 10% giá trị
đồng NDT và tuyên bố xuất khẩu của Trung Quốc vào các nước OECD tăng và nhập
khẩu từ các nước chân Á mới nổi giảm (miễn là tỷ giá của các nước trong khu vực duy trì
không đổi).
Eckaus (2004) sử dụng những số liệu được tập hợp từ năm 1985-2002 để khám phá ra
rằng sự định giá cao đồng NDT làm giảm xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ và giảm
thị phần hàng nhập xuất khẩu Trung Quốc trong tổng nhập khẩu Mỹ. Sau đó người ta đã
chỉ ra rằng có sự tác động thay thế từ những nước xuất khẩu khác vào Mỹ, nhưng kết quả
phải được xem xét kỹ lưỡng do số lượng quan sát nhỏ và việc sử dụng trị giá xuất nhập
khẩu thay vì khối lượng.
Lau, Mo và Li (2004) ước lượng xuất nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước G3.
Trong dài hạn, sự định giá đúng tỷ giá thực hiệu lực có ý nghĩa trong việc giảm xuất
khẩu. Ngược lại, cả hàng nhập khẩu thường và hàng nhập khẩu gia công đề không bị ảnh
hưởng bởi REER. Trong một số trường hợp, những kết quả này không dễ gì giải thích
được vì họ không nói ra cách làm giảm xuất nhập khẩu như thế nào, và số lượng mẫu
quan sát không đủ lớn. (dữ liệu theo quý từ năm 1995 đến 2003).
Thorbecke (2006) sử dụng mô hình “tương hỗ” (gravity model) để nghiên cứu ảnh
hưởng của sự thay đổi tỷ giá trong mô hình mậu dịch ba bên ở Châu Á và chia xuất khẩu
thành trung gian, vốn và sản phẩm cuối cùng. Những kết quả này cho chúng ta thấy việc
đánh giá cao 10% giá trị đồng NDT làm giảm xuất khẩu 13%. Tuy nhiên, sự định giá này
sẽ không ảnh hưởng một cách đáng kể đến nhập khẩu hàng Trung Quốc từ Mỹ.
Voon, Guangzhong và Ran (2006) đã lần lượt sử dụng số liệu theo khu vực của giai
đoạn 1978-1998 và hình thành mức độ đánh giá quá cao đồng NDT khi định giá các
phương trình xuất khẩu của Trung Quốc. Họ cho rằng có 1 sự sụt giảm trong xuất khẩu
qua Mỹ như là một hệ quả của việc đánh giá đúng tỷ giá thực.
Cuối cùng, Shu và Yip (2006) đánh giá ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá lên toàn bộ
nền kinh tế Trung Quốc và tìm ra rằng sự đánh giá cao nội tệ có thể làm giảm xuất khẩu
dựa trên tác động chuyển dịch chi tiêu (đối với nước ngoài), kết quả là làm giảm nhẹ tổng
cầu.
Một cách đáng ngạc nhiên, một vài bài nghiên cứu khác đã cung cấp một cái nhìn
khác trong một chừng mực nào đó về chính sách tỷ giá tác động như thế nào trong thặng
dư mậu dịch Trung Quốc. Cụ thể, Kamada và Takagawa (2005) dùng mô hình mô phỏng
để ước lượng tác động của cải cách tỷ giá Trung Quốc và chỉ ra rằng giá trị đồng NDT
tăng 10% sẽ nâng nhập khẩu của Trung Quốc lên không đáng kể, trong khi ảnh hưởng
xuất khẩu là rất ít. Tuy nhiên, mô hình ước lượng OLS trong phương trình nhập khẩu của
Trung Quốc không cho chúng ta thấy tỷ giá thực có ảnh hưởng một cách đáng kể đến
khối lượng nhập khẩu. Không may thay, họ không ước lượng phương trình xuất khẩu của
Trung Quốc. Theo họ, xuất khẩu đẩy mạnh nhập khẩu, nghĩa là có 1 sự ảnh hưởng gián
tiếp từ tỷ giá lên nhập khẩu thông qua xuất khẩu.
Jin (2003) đánh giá mối quan hệ giữa lãi suất thực, tỷ giá thực và cán cân thanh toán
của Trung Quốc và kết luận rằng sự nâng giá thực có xu hướng làm tăng thặng dư cán
cân thanh toán.
Cuối cùng, Cerra và Saxena (2003) sử dụng số liệu theo khu vực để nghiên cứu thái
độ của nhà xuất khẩu và nhận thấy rằng sự tăng giá của đồng NDT đã thực sự đẩy mạnh
xuất khẩu, đặc biệt là trong những năm gần đây. Trong một số trường hợp, kết quả của họ
cần được xem xét một cách cẩn thận bởi vì chỉ có một nửa lượng xuất khẩu của Trung
Quốc được đề cập trong số liệu theo khu vực và không có một sự điều chỉnh đặc trưng
nào cho dữ liệu đơn vị giá của họ.
Nỗ lực gần đây nhất để ước lượng các phương trình xuất nhập khẩu cho Trung Quốc
là của Marquez và Schindler (2006). Thay vì định lượng khối lượng xuất nhập khẩu, họ
ước lượng sự ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá thực trong thị phần của Trung Quốc trong
tổng khối lượng mậu dịch thế giới. Điều này để tránh việc chiếm dụng các yếu tố đại diện
cho giá cả xuất nhập khẩu Trung Quốc. Theo Dees (2001) và Lau Mo và Li (2004), họ
chia xuất khẩu và nhập khẩu thành hai nhóm: thương mại hàng hóa thông thường và
thương mại hàng hóa gia công. Một lần nữa, sự nâng giá thực của đồng NDT dường như
đã làm giảm xuất khẩu cũng như nhập khẩu, ít nhất là trong trường hợp thương mại hàng
thoogn thường. Kết quả rất thú vị nhưng nó không bền vững trong những độ trễ khác
nhau, đặc biệt là xuất nhập khẩu hàng gia công. Có hai vấn đề nữa trong việc sử dụng
phân tích của họ cho câu hỏi mà chúng ta đang tìm kiếm câu trả lời. Một là, những ảnh
hưởng ước lượng trên thị phần xuất nhập khẩu, vì vậy không có kết luận có thể được rút
ra liên quan với tài khoản thương mại. Thứ hai, không có những kỹ thuật đồng liên kết
được sử dụng, vì vậy chỉ có những sự co giãn trong ngắn hạn có thể ước lượng được.
Tóm lại, những kết quả nghiên cứu đang tồn tại, hoặc cũ và có những khuyết điểm
tương đối trong phương pháp luận kinh tế lượng, hoặc khó có thể được sử dụng để đưa ra
những kết luận về chính sách liên quan đến các tác động của việc nâng giá đồng NDT lên
cán cân mậu dịch Trung Quốc. Trong tài liệu này, chúng tối sử dụng những dữ liệu gần
hơn và cải thiện phương pháp luận thực tiễn để giải thích tốt hơn liệu một sự gia tăng
trong giá trị của đồng NDT có thể làm giảm thặng dư mậu dịch của Trung Quốc hay
không. Thêm vào đó, chúng tôi làm phong phú những phân tích này bằng việc ước lượng
phương trình xuất nhập khẩu song phương. Điều này giúp chúng tôi kiểm tra chéo kết
quả của chúng tôi cũng như khám phá ra đối tác thương mại nào sẽ thu được lợi nhuận và
ai sẽ bị thua lỗ từ việc đánh giá vao đồng NDT. Như chúng tôi sẽ chỉ ra ở phần sau và sẽ
áp dụng vào trường hợp của Trung Quốc, với một cấu trúc thương mại khác thường.
3. Phương pháp và dữ liệu
Tác giả ước lượng phương trình xuất khẩu và nhập khẩu như sau:
+
+
Trong đó:
: giá trị xuất khẩu
giá trị nhập khẩu
REERt :tỷ giá thực hiệu dụng
: nhu cầu nước ngoài
Yt : nhu cầu trong nước
: hệ số co giãn về giá của xuất khẩu
: hệ số co giãn về thu nhập của xuất khẩu
: hệ số co giãn về giá của nhập khẩu
: hệ số co giãn về thu nhập của nhập khẩu.
Do tầm quan trọng của hàng gia công đối với nền kinh tế Trung Quốc nên nhóm tác
giả đã tách phương trình thành hai cho hàng hóa gia công và thông thường. Đối với nhập
khẩu cũng như vậy. Thương mại hàng gia công bao gồm nhập khẩu các bộ phận và thành
phần làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, xuất khẩu các linh kiện từ
Trung Quốc để lắp ráp ở các nước khác và xuất khẩu hàng hóa được lắp ráp bằng linh
kiện nhập khẩu. Còn thương mại thông thường là hàng hóa không liên quan tới gia công
và không được lắp ráp từ các linh kiện nhập khẩu.
Biểu đồ A1, A2 trong phụ lục thể hiện xu hướng xuất nhập khẩu thông thường và xuất
nhập khẩu hàng gia công, cả hai đều tăng nhanh từ năm 2001 trở đi, cùng với việc gia
nhập WTO của Trung Quốc.
3.1. Phương pháp thu thập dữ liệu:
Vì khi xử lý các số liệu thương mại của Trung Quốc, nhóm tác giả gặp khó khăn vì giá trị
và khối lượng xuất nhập khẩu không thể được tách biệt, nên tác giả đã sử dụng dữ liệu
thay thế. Để đại diện cho giá xuất khẩu tác giả sử dụng chỉ số giá tiêu dùng của Trung
Quốc (CPI), vì chỉ số giá cả của nhà sản xuất hay nhà bán s ỉ đều không tồn tại trong toàn
bộ mẫu họ đang xét. Tác giả sử dụng giá xuất khẩu từ Hồng Kông vào Trung Quốc để đại
diện cho giá cả xuất khẩu của Trung Quốc và kết quả vẫn được duy trì.
Giá nhập khẩu được tính bằng tỷ trọng giá xuất khẩu của 25 đối tác thương mại quan
trọng nhất với Trung Quốc và làm điều chỉnh giảm nhập khẩu của Trung Quốc với chỉ số
này (nguồn dữ liệu có thể được tìm thấy trong Bảng A1.1, Phụ lục 1).
- Tỷ giá thực hiệu dụng (REER) được xây dựng như sau:
REER =
Trong đó N đại diện cho số lượng đồng tiền được tính trong chỉ số, là quyền số cho
đồng tiền thứ I ( )và là tỷ giá thực song phương tương ứng với từng đối tác
thương mại của Trung Quốc.
- Hệ số co giãn:
Tác giả kỳ vọng hệ số co giãn tỷ giá của xuất khẩu sẽ âm, bởi vì sản phẩm của Trung
Quốc cạnh tranh trên thị trường thế giới. đối với hệ số co gián tỷ giá nhập khẩu không rõ
ràng cho trường hợp của Trung Quốc, Một sự tăng giá của đồng nội tệ sẽ thúc đẩy nhập
khẩu nếu gia tăng sức mua mạnh hơn sụt giảm nhu cầu do sự sụt giảm liên đới trong xuất
khẩu. Tác động nào mạnh hơn thì sẽ phụ thuộc vào cơ cấu nhập khẩu.
Nếu hàng nhập khẩu chủ yếu là sản phẩm thay thế cho sản xuất trong nước, hệ số co giãn
giá dương, (sự đánh giá cao đồng nội tệ sẽ làm tăng xuất khẩu).
- Nhu cầu nước ngoài đối với hàng xuất khẩu Trung Quốc được đo lường bằng
lượng nhập khẩu trên thế giới và bị giảm bởi chỉ số giá toàn cầu.
- Nhu cầu nội địa Trung Quốc, tác giả dựa trên sản lượng hàng công nghiệp, sản
lượng hàng công nghiệp được ưa thích sử dụng hơn GDP vì nó có sẵn số liệu hàng
tháng.
- Các biến điều khiển trong phương trình xuất khẩu gồm:
+ Thuế VAT : chính sách thuế VAT của Chính phủ Trung Quốc có thể thúc đẩy
hoặc kìm hàm xuất khẩu, việc giảm thuế VAT cho những công ty xuất khẩu sẽ
thúc đẩy xuất khẩu.
+ Mức độ sử dụng năng lực sản xuất , biến này sẽ giúp xem xét đến việc hãm
nguồn cung, cái mà có thể cản trở tăng trưởng xuất khẩu. Mức độ sử dụng năng
lực sản xuất được định nghĩa là sự khác nhau giữa sản lượng công nghiệp và sản
lượng tiềm năng của nó, phần còn lại được tính bằng phương pháp lọc chuỗi của
Hodrick- Prescott.
+ Biến cuối cùng là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), theo lý thuyết, sự gia
tăng trong FDI sẽ làm gia tăng trong xuất khẩu.
- Các biến điều khiển trong phương trình nhập khẩu gồm:
+ Thuế suất thuế nhập khẩu: thuế này được giảm với tốc độ rất nhanh kể từ khi
Trung Quốc gia nhập WTO
+ Vốn FDI: chúng ta kỳ vọng có một sự ảnh hưởng tích cực đến nhập khẩu, bởi vì
những công ty nước ngoài thường thích sử dụng máy móc, thành phần, các bộ
phận nhập khẩu trong sản xuất hơn là các doanh nghiệp Trung Quốc.
Cuối cùng là một xu hướng tất định được kể đến trong cả phương trình xuất khẩu
và nhập khẩu khi nó có ý nghĩa thống kê. Biến xu hướng sẽ giúp sửa đổi và cải
thiện năng suất đạt được trong nền kinh tế Trung Quốc, cái mà không dễ dàng đo
lường được.
Tác giả đã sử dụng dữ liệu theo tháng trong giai đoạn 1994-2005, phân tích dữ liệu
trước năm 1994 ít có ý nghĩa, từ năm 1994 trở đi là một bước đột phá trong cải
cách thị trường Trung Quốc. Một vài cải cách có liên quan đặc biệt đến vấn đề
chúng ta đang nghiên cứu là hai hệ thống tỷ giá thống nhất lại, kế hoạch bắt buộc
cho hàng nhập khẩu bị loại trừ, hạn ngạch và yêu cầu về các loại giấy phps bị cắt
giảm. Hơn thế nữa, đồng Nhân dân tệ bắt đầu có tính thanh khoản trong tài khoản
vãng lai trong khi sự phát triển khu vực tư nhân thu lợi nhuận từ luật doanh nghiệp
mới.
3.2. Xử lý dữ liệu:
Đầu tiên,tác giả sử dụng phép kiểm định ADF để tìm xem chuỗi thời gian có chứa
nghiệm đơn vị hay không- một cách để kiểm định tính dừng của chuỗi. Theo tìm hiểu của
nhóm em, để tạo cơ sở cho việc phân tích hồi qui liên quan tới các dữ liệu của chuỗi thời
gian, là các dữ liệu đó phải dừng. Nếu chuỗi đó không dừng, hồi quy giả mạo làm sai
lệch kết quả của mô hình.
Kết quả của phép kiểm định này cho thấy hầu như các biến đều không dừng ở các cấp độ
nhưng dừng ở sai phân bậc 1. Có 2 trường hợp ngoại lệ là: mức độ sử dụng năng lực sản
xuất là một chuỗi thời gian dừng, quá trình dừng I(0), biến vốn FDI thì không dừng ở sai
phân bậc 1. Tuy nhiên, kết quả sau đó cho thấy độ trễ tương đối lớn được đề xuất bởi
thông tin Akaike. Nếu tác giả sử dụng một độ trễ, theo Schwar , tác giả có thể loại
nghiệm đơn vị trong cả hai trường hợp dù ở mức ý nghĩa 1%.
Sau đó, tác giả kiểm định sự tồn tại của đồng liên kết tích hợp theo phép kiểm định của
Johansen. Tác giả đã tìm ra được 1 vector đòng liên kết thích hợp cho tất cả các nhóm
của biến được kiểm định. Việc tìm ra vector đồng liên kết thích hợp của mỗi loại hàng
xuất khẩu và nhập khẩu cho phép tác giả kiểm định sự hồi quy của độ trễ và sự khác biệt
của chúng thông qua phương pháp bình phương nhỏ nhất phi tuyến Phillips và Loretan
(1991). Phương pháp này khắc phục sự tương quan bởi bao gồm giá trị trễ của độ lệch cố
định từ mối quan hệ đồng liên kết. Phương pháp này mang lại cách ước tính khách quan
và phù hợp với thông số ngắn hạn và dài hạn.
Dữ liệu sẽ được chia làm 2 giai đoạn: từ 1994 đến cuối năm 1999, từ đầu 2000 đến 2005.
Dữ liệu từ 1994- 2005 bị gián đoạn trong năm 2000 (tác giả đã sử dụng kiểm định Chow
để kiểm định sự gián đoạn về cấu trúc trong chuỗi thời gian, và tác giả đã tìm thấy một
gián đoạn trong năm 2000 cho cả xuất khẩu và nhập khẩu).
Trong cả hai trường hợp, tác giả đều phân biệt thương mại hàng thông thường và thương
mại hàng gia công.
4. Kết quả của nghiên cứu
Kết quả của phương trình xuất khẩu có thể xem ở Bảng A2 trong Phụ lục. Như kỳ vọng,
co giãn về giá trong dài hạn của xuất khẩu của Trung Quốc cho cả hai – hàng gia công và
hàng thông thường – đều âm, có ý nghĩa cho toàn bộ mẫu cũng như từ khi gia nhập
WTO. Khi được điều chỉnh một cách thích hợp (bảng 2) thì sự co giãn trong dài hạn là -
1.3 cho xuất khẩu hàng gia công và -1.6 cho xuất khẩu hàng thông thường. Kết quả này
rất gần với những nghiên cứu trước đây của Trung Quốc (-1.5 cho tổng xuất khẩu theo
Lau Mo và Li, 2004, và -1.3 cho Shu và Yip, 2006. Và kết quả này cũng tương tự như sự
go giãn về giá hàng xuất khẩu đã được ước lượng cho các nước công nghiệp lớn (-1.5 và
-1.6 cho Mỹ, Anh, theo Hooper,1998).
Bảng 2 - Tỷ giá hối đoái dài hạn và độ co giãn của cầu
Xuất khẩu
thông
thường
Xuất khẩu
gia công
Nhập khẩu
thông
thường
Nhập khẩu
gia công
Độ co giãn
của tỷ giá
1994-2005 –2.3 –1.3 –1.0 –0.8
2000-2005 –1.6 –1.4 –0.4 (–0.3)
Độ co giãn
của cầu
1994-2005 (0.5) (0.2) –0.3 (0.2)
Tác động tích cực lên xuất khẩu của Trung Quốc trong dài hạn từ sự gia tăng nhu cầu thế
giới là rất nhỏ và không có ý nghĩa thống kê trong toàn bộ mẫu, nhưng nó đã trở nên có ý
nghĩa cao kể từ khi gia nhập WTO cho cả xuất khẩu hàng gia công và xuất khẩu hàng
thông thường.
Bảng A3 trong phụ lục trình bày kết quả cho nhập khẩu, tác giả nhận thấy co giãn về giá
của nhập khẩu bị âm và có ý nghĩa tổng quát. Hay nói cách khác, sự định giá thực của
đồng NDT làm giảm nhập khẩu hơn là làm tăng chúng. Đây là trường hợp với hàng nhập
khẩu gia công và hàng nhập khẩu thông thường. Độ co giãn về giá âm tức là nhập khẩu
nhạy cảm với giảm nhu cầu bên ngoài do tác động của sự tăng giá của đồng NDT hơn là
với sự gia tăng trong sức mua.
Theo kết quả, nhu cầu nội địa của Trung Quốc dường như không liên quan trong việc giải
thích xu hướng tăng trưởng trong nhập khẩu của Trung Quốc.
Nguồn vốn FDI xuất hiện ở Trung Quốc có tác động tích cực trong dài hạn đối với nhập
khẩu hàng thông thường,
Cuối cùng, với mẫu đầy đủ, tác giả đã tìm ra một tác động đáng kể của thuế nhập khẩu
trong dài hạn. Với nhập khẩu hàng gia công thì hệ số âm như mong đợi nhưng nó dương
đối với hàng nhập khẩu thông thường.
Những lý do mà tỷ giá không co giãn
Thực tế là tác động sự tăng giá thực của đồng Nhân dân tệ lên nhập khẩu là tiêu cực,
nó là hiện tượng thú vị mà đòi hỏi phải phân tích cẩn thận. Điều này chứa nhiều yếu tố
tiêu cực trong việc cắt giảm thặng dư thương mại của Trung Quốc đối với sự tăng giá tỷ
giá hối đối thực.Giả thuyết của tác giảlà điều này có liên quan đến các đặc điểm đặc biệt
của thương mại Trung Quốc được minh họa bởi sự khác biệt lớn trong cán cân thương
mại song phương của Trung Quốc với các nước (Biểu đồ 2 và 3).
Trung Quốc nhập khẩu một số lượng lớn các sản phẩm trung gian từ những nơi ở
Châu Á để chế biến và tái xuất khẩu. Kết quả là, việc hội nhập trong nền công nghiệp
Châu Á ở mức độ cao làm cho hàng xuất khẩu của họ bổ sung nhiều hơn hàng hóa Trung
Quóc thay thế. Điều này có nghĩa là sự tăng giá của đồng Nhân dân tệ có thể dẫn đến sự
sụt giảm không những xuất khẩu ở Trung Quốc mà còn cả nhập khẩu.
Trong khi các liên kết dọc áp dụng nhiều hơn trong ngành công nghiệp chế biến,
người ta không nên quên rằng có nhiều hàng nhập khẩu thông thường có chức năng như
đầu vào cho các ngành xuất khẩu, ví dụ đầu tư hàng hóa. Nhìn chung, có vẻ như là chỉ
một phần nhỏ trong sản phẩm nhập khẩu cạnh tranh với sản xuất trong nước. Điều này
xảy ra vì thị phần số lượng hàng tiêu thụ không cao trong khi nhập khẩu Trong Quốc thì
tương đối nhỏ. Ngoài ra, một phần đáng kể của nhập khẩu bao gồm năng lượng và
nguyên vật liệu, và một số sản phẩm nhập khẩu do đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Để làm rõ vấn đề này hơn với dữ liệu có giá trị, tác giảchạy hồi quy song phương
với mười đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc để đánh giá tác động khác nhau có
thể xảy ra của sự tăng giá thực đồng Nhân dân tệ so với các quốc gia. Một ưu tiên của tác
giảlà nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á nên phủ nhận việc đánh giá cao đồng NDT,
chủ yếu là các sản phẩm trung gian mà Trung Quốc lắp ráp và tái xuất. Ngược lại, nhập
khẩu từ các quốc gia khác được kỳ vọng tác động trở lại việc đánh giá đồng Nhân dân tệ
tăng giá một cách mơ hồ hơn tùy thuộc cơ cấu xuất khẩu của họ.
Các ước tính phương trình song phương có định dạng sau:
Giả sử nhập khẩu và xuất khẩu của Trung Quốc và đến từ quốc gia j (Xtj và Mtj,
tương ứng) được giải thích bởi tỷ giá thực song phương (RERjt), nhu cầu bên ngoài và
trong nước (Y*tj và Yt) và biến kiểm soát khác. Thật không may, chúng ta không thể tách
rời xuất khẩu và nhập khẩu cho các sản phẩm thô sơ và chế biến nghĩa là không có dữ
liệu. Trong phần trước, chỉ số CPI được sử dụng khi hệ số giảm phát nhập khẩu và xuất
khẩu của Trung Quốc bị biến đổi giá trị bởi việc sử dụng chỉ số giá xuất khẩu của đối tác
thương mại. Tỷ giá hối đoái song phương thực giữa đồng Nhân dân tệ và đồng tiền của
các đối tác nhập khẩu và xuất khẩu của Trung Quốc được đo lường bằng chỉ số CPI thời
kỳ. Nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc được dựa vào GDP thực của đối tác
nhập khẩu trong khi nhu cầu trong nước của Trung Quốc bị khống chế bởi ngành sản
xuất công nghiệp. Tác giảcũng đưa các cổ phiếu FDI song phương trong cả hai phương
trình xuất nhập khẩu. Trước đây, tác giảđưa ra khả năng sử dụng các số liệu xuất khẩu
của Trung Quốc. Cuối cùng, một xu hướng được đưa ra với với một số liệu thống kê có ý
nghĩa. Nguồn số liệu được báo cáo lại trong (bảng A1.1).
Tác giảước tính các số liệu thương mại song phương 2000-2005 bởi vì đối với một
số quốc gia, dữ liệu không tồn tại cho cả giai đoạn. Thực tế này cho phép chúng ta so
sánh kết quả giữa các quốc gia và kết hợp số liệu xuất khẩu nhập khẩu. Cuối cùng một
thủ tục như trước đây, tác giảtiến hành kiểm tra đơn vị gốc cho tất cả các biến song
phương. Hầu như tất cả chúng và ít nhất một vector hội tụ đã được tìm thấy cho mỗi
phương trình nhập khẩu xuất khẩu song phương.
Các kết quả cho các phương trình xuất khẩu song phương rất giống nhau với ước
tính tổng hợp và ở các quốc gia (bảng A1.4). Các đánh giá cao về tỷ giá hối đoái thực
song phương của đồng Nhân dân tệ tương phản với đối tác xuất khẩu của Trung Quốc
cho dù Mỹ và Đài Loan liên kết là không có ý nghĩa thống kê. Ngoại lệ duy nhất là Hong
Kong, hệ số thì rõ ràng nhưng không có ý nghĩa thống kê. Kết quả cho Hồng Kông là
không đáng ngạc nhiên để đưa ra khó khăn trong việc xử lý dữ liệu thương mại giữa
Trung Quốc đại lục và Hồng Kông. Sau khi chuyển đổi (xem Bảng 3), độ co giãn tỷ giá
là cao nhất đối với xuất khẩu sang Singapore nếu chúng ta bỏ qua hệ số thống kê xuất
khẩu sang Mỹ.
Tác giả cũng tìm thấy hoạt động kinh tế trong các đối tác thương mại của Trung
Quốc tăng lên trong xuất khẩu của Trung Quốc như người ta kỳ vọng. Độ co giãn thu
nhập song phương thì cao hơn ở các nước, ngoại trừ Đức. Đối với Hoa Kỳ và các nước
châu Âu, độ co giãn như vậy là rất lớn, có thể là do thời gian tương đối ngắn kể từ khi
Trung Quốc gia nhập WTO, một cơ cấu chính thay đổi đối với thương mại thế giới.
Ngoài ra, một yếu tố nhu cầu quan trọng để giải thích cho sự mất cân bằng thương mại
ngày càng tăng giữa Trung Quốc và Mỹ hoặc các nước EU.
Trong một số trường hợp, biện pháp của chúng ta về việc tăng năng suất, thay đổi
phương hướng là tích cực và có ý nghĩa. Với Hàn Quốc và Đài Loan, tuy nhiên, xu
hướng tiêu cực. Đối với FDI, Hàn Quốc hay Đài Loan vốn FDI vào Trung Quốc tăng
thêm xuất khẩu của Trung Quốc sang các nước này nhưng đối với Đức và Ý, tác động
ngược lại. Điều này có thể là do các thói quen khác nhau trong các công ty đa quốc gia ở
châu Á và châu Âu khi giao dịch với thị trường Trung Quốc. Như đã đề cập ở trên, một
liên kết tiêu cực có thể mang lại sự chuyển giao toàn bộ quy trình sản xuất cho Trung
Quốc. Trong khi trước đây có một vài sản phẩm bán thành phẩm được xuất khẩu lần đầu
tiên và một số được thông báo lại nơi đến cuối cùng, bây giờ toàn bộ qui trình sản xuất có
thể được chuyển đến Trung Quốc và không cần nhu cầu vận chuyển sản phẩm thô đến
Đức nữa. Tuy nhiên, kết quả này nên được diễn giải một cách thận trọng vì nó đòi hỏi
phân tích sâu hơn.
Các kết quả cho số liệu nhập khẩu song phương nhiều số không đồng nhất như
trong bảng A1.5. Đầu tiên, ước tính sự co giãn giá trong dài hạn cho thấy rằng đồng Nhân
dân tệ tăng giá thực sẽ làm giảm nhập khẩu từ tất cả các nước châu Á tới Trung Quốc. Hệ
số thì có ý nghĩa với Hàn Quốc và Thái Lan. Đối với các nước có thu nhập cao - Mỹ, Đức
và Nhật Bản - hệ số là tiêu cực không có ý nghĩa thống kê. Chỉ Nga và Úc, hệ số là tích
cực mặc dù không có ý nghĩa thống kê.
Đối với độ co giãn thu nhập, nó có mặt tích cực rõ ràng mặc dù khá thấp và không
phải lúc nào cũng có ý nghĩa thống kê. Hầu hết các nước xuất khẩu sang Trung Quốc
tăng cùng thị phần FDI song phương. Nhập khẩu của Trung Quốc từ Nhật Bản, Đài
Loan, Đức, Nga, Malaysia và Thái Lan tăng cùng FDI từ các nước này. Một lần nữa, Hàn
Quốc lại có ngoại lệ với tiêu cực và hệ số có ý nghĩa trong FDI. Bảng 3 tóm tắt những
biến đổi giá dài hạn và độ co giãn thu nhập trong số liệu xuất nhập khẩu song phương của
Trung Quốc
Để hiểu rõ hơn những kết quả khác nhau cho thấy độ đàn hồi tỷ giá của nhập khẩu
Trung Quốc, tác giảxem xét các thành phần nhập khẩu của Trung Quốc từ một trong các
đối tác thương mại (Bảng 4).Úc và Nga về cơ bản xuất khẩu năng lượng và nguyên liệu
thô cho Trung Quốc, mà có thể giải thích các phản ứng yếu kém về nhập khẩu của Trung
Quốc từ các quốc gia này cho việc chuyển đổi tỷ giá hối đoái thực song phương. Hơi
đáng ngạc nhiên là sự gia tăng trong hoạt động kinh tế của Trung Quốc không có một tác
động tích cực có ý nghĩa với hàng nhập khẩu của Nga. Trên thực tế, liên kết là tiêu cực
mặc dù rất xa ý nghĩa thống kê. Điều này có thể được giải thích bởi viêc kết nối vận
chuyển kém phát triển giữa Nga và Trung Quốc. Nếu công suất đường sắt đã được sử
dụng, không có nhiều dầu hơn có thể đã được vận chuyển đến Trung Quốc tùy mức độ
nhu cầu. Ngược lại, nhập khẩu Úc tăng lên cùng với việc tăng giá trị công nghiệp của
Trung Quốc giá. Nhóm quốc gia thứ hai mà chúng ta có thể tách rời dựa trên kết quả là
những nước có thu nhập cao. Xuất khẩu từ Đức, Nhật Bản và Mỹ là không nhạy cảm với
những thay đổi của tỷ giá thực song phương. Trong khi ở Đức và Nhật Bản của các
trường hợp hàng hóa nhập khẩu được thúc đẩy bởi FDI, nhập khẩu của Mỹ dường như lại
lợi ích nhiều hơn từ sự phát triển toàn bộ nề kinh tế Trung Quốc. Điều này là tự nhiên khi
nhìn kỹ cơ cấu nhập khẩu từ các nước này. Trong khi, khoảng một nửa xuất khẩu của
Đức và Nhật Bản đến Trung Quốc là máy móc và thiết bị điện tử thường được sử dụng
trong các định hướng xuất khẩu và quy mô lớn vốn nước ngoài sở hữu ngành công
nghiệp. Nhập khẩu từ Mỹ nhiều hơn do việc chi tiêu từ đậu nành bằng máy bay và chip
công nghệ cao. Trong nhiều sản phẩm này được hướng tới thị trường nội địa, không có
sản phẩm thay thế hoặc sản phẩm Trung Quốc cạnh tranh mà rất nhiều giải thích do ảnh
hưởng của tỷ giá hối đoái thấp và tiêu cực.
Nhóm quốc gia thứ 3 bao gồm các nước châu Á mới nổi trong đó xuất khẩu sang
Trung Quốc ảnh hưởng tiêu cực bởi sự tăng giá đồng Nhân dân tệ. Họ chủ yếu xuất khẩu
các sản phẩm, phụ tùng và linh kiện cho ngành công nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc
và xuất khẩu sang Trung Quốc là tiêu cực như vậy liên kết sự tăng giá đồng Nhân dân tệ.
Chúng ta có thể nhìn thấy từ đồ thị 4, tỷ lệ xuất khẩu sang Trung Quốc đại lục là rất cao
đối với một số nước châu Á. Nếu chúng ta giả định rằng một phần của xuất khẩu sang
Hồng Kong cũng kết thúc với Trung Quốc đại lục thị phần trở nên lớn hơn. Ví dụ, xuất
khẩu từ Đài Loan sang Trung Quốc đại lục và Hồng Kông gần 40% của tổng xuất khẩu
của Đài Loan
Vì vậy, kết quả cuối cùng của tác giả chỉ ra một sự tăng giá đồng Nhân dân tệ làm
giảm nhập khẩu từ các quốc gia Châu Á đến Trung Quốc ở phần nhiều các nước châu Á.
Điều này thậm chí còn nhiều hơn như vậy nếu họ không thể bù đắp hiệu ứng này bằng
cách tăng xuất khẩu tới các điểm đến khác. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào mức độ bổ
sung trong xuất khẩu châu Á và cũng nhờ vào sự phản ứng của châu Á với một đánh giá
lại đồng Nhân dân tệ. Trong khi kiểm tra giả thuyết này đòi hỏi một phân tích chi tiết, tác
giảcố gắng để đưa ra câu hỏi kiểm tra bởi con số xuất khẩu ước lượng cho các đối tác
thương mại chính của Trung Quốc ở châu Á.
Con số xuất khẩu giả định thì tương tự như tác giảcó về Trung Quốc trước đây để
mà tác giảgiải thích xuất khẩu ảnh hưởng tỷ giá hối đoái thực của quốc gia và nhu cầu thế
giới. Ngoài ra, tác giảtính đến con số ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái thực của Trung Quốc
thêm vào như một biến giải thích. Các dữ liệu về tỷ giá hối đoái một lần nữa là CPI cơ
bản và dựa trên nhu cầu thế giới được đo bằng tổng nhập khẩu trên thế giới. Xu hướng
này bao gồm khi nó tìm được ý thống kê. Tác giảước tính con số xuất khẩu cho các đối
tác thương mại châu Á chính của Trung Quốc trong giai đoạn 2000-2005. Dữ liệu tác
giảsử dụng được điều chỉnh bởi chương trình CensusX12. Tác giảtìm lại lần nữa các biến
chỉ mức độ trung bình và tồn tại ít nhất một vecto trong mỗi nhóm biến.
Kết quả chi tiết từ các số liệu xuất khẩu được chọn của nước châu Á được trình
bày trong bảng A1.6. Khi thay đổi hệ số tồn tại một thời gian dài ( bảng 5), chúng ta có
thể thấy rằng xuất khẩu của hầu hết các nước châu Á bị ảnh hưởng tiêu cực bởi sự tăng
giá của tỷ giá hối đoái thực của Trung Quốc. Đối với Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan,
tác động tiêu cực của sự tăng giá đồng Nhân dân tệ là có ý nghĩa thống kê. Ngoại lệ duy
nhất là Malaysia, trong đó xuất khẩu sẽ có lợi ích từ việc đánh giá cao đồng Nhân dân tệ.
Tuy nhiên, kết qủa ngoại lệ có thể ngoài thiết bị điện tử, Malaysia còn xuất khẩu với số
lượng dầu thô đáng kể và các vật liệu khác. Do đó, các kết quả dựa vào quốc gia cơ bản
từ số liệu xuất khẩu rất gần gũi với những cái mà chúng ta tìm thấy từ số liệu nhập khẩu
song phương của Trung Quốc vì xuất khẩu từ nhiều nước châu Á khác dường như không
được chuyển hướng hoàn toàn sang các nước khác khi nhu cầu nhập khẩu của Trung
Quốc co lại. Như độ co giãn thu nhập dự kiến là luôn luôn tích cực mặc dù không có ý
nghĩa thống kê trong trường hợp của Philippines và Thái Lan. Kết quả của tác giảlà như
vậy, rất phù hợp với Ahearne(2006) và Cutler (2004), người đã phát hiện ra rằng các yếu
tố chung như nhu cầu thế giới, điều khiển xuất khẩu cả từ Trung Quốc và các nền kinh tế
châu Á khác.
5. Kết luận:
Các kết quả nghiên cứu chính:
- Cán cân mậu dịch rất nhạy cảm với những biến động của tỷ giá thực hiệu dụng
REER. Sự đánh giá thực sẽ làm giảm xuất khẩu trong dài hạn một cách đáng kể,
đối với cả xuất khẩu hàng gia công và xuất khẩu hàng thông thường.
- Sự đinh giá thực cũng làm giảm nhập khẩu, đặc biệt là từ năm 2000, kh i mà Trung
Quốc gia nhập vào WTO trở nên chắc chắn. Điều này giải thích tại sao tác động
tổng hợp của chính sách tỷ giá lên tài khoản thương mại là tương đối nhỏ, một sự
ước lượng giảm 26% cho việc tăng giá Đồng NDT lên 10%. Kết quả này minh họa
một cách đúng bản chất rằng một mình chính sách tỷ giá không thể giải quyết
được vấn đề gia tăng sự bắt cân bằng trong nền kinh tế Trung Quốc, cụ thể là,
thặng dư mậu dịch bùng nổ của Trung Quốc. Vì vaỵa, việc kết hợp những chính
sách khác là rất cần thiết.
- Sự co giãn về giá của nhập khẩu Trung Quốc từ những nước Đông Nam Á là âm,
và nói chung là có ý nghĩa, đặc biệt là Hàn Quốc và Thái Lan.
- Sự co giãn về giá dương và có ý nghĩa đối với hàng xuất khẩu của Đức vào Trung
Quốc cho thấy đánh giá đúng giá trị của đồng NDT và có thể gây nên tác động
khác đối với những đối tác thương mại của Trung Quốc phụ thuộc vào cấu trức
hàng xuất khẩu của họ vào Trung Quốc.
Mặc dù nghiên cứu này chỉ tập trung vào thặng dư thương mại – do đó kết luận là
không thể toàn diện- nó chỉ cung cấp một số điểm quan trọng cho những nghiên cứu
xa hơn về tác động dây chuyền tiềm ẩn từ việc định giá trị thực của dodòng tiền của
Trung Quốc và những sự liên kết khác nhau của những chính sách tỷ giá ở Châu Á.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_2_tq_9854.pdf