Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy như vậy adiponectin đóng một vai trò điều
tiết và kháng viêm quan trọng trong sự phát triển của bệnh xơ vữa động mạch. Mặt
khác, hai nghiên cứu gần đây tương lai không tìm thấy mối liên quan giữa mức độ
huyết tương adiponectin và nguy cơ tương lai của bệnh tim mạch ở người da đỏ,
một nhóm nguy cơ đặc biệt đối với bệnh béo phì và bệnh tiểu đường Type II, và ở
phụ nữ người Anh . Những quan sát này không phù hợp có thể là do tức là nghiên
cứu, dân số, người đàn ông so với phụ nữ, bệnh tiểu đường so với không bị tiể u
đường. tiếp tục nghiên cứu tiềm năng của các quần thể khác nhau là cần thiết để
kiể m tra xem hypoadiponectinaemia độc lập có thể dự đoán xơ vữa động mạch.
19 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2701 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cơ cấu tổ chức và chức năng của Adiponectin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
Cơ cấu tổ chức và chức năng của
Adiponectin
2
MỤC LỤC
1. Phát hiện ............................................................................................................ 1
2. Định nghĩa ......................................................................................................... 4
3. Cơ cấu tổ chức ................................................................................................... 4
4. Chức năng .......................................................................................................... 5
5. Thụ thể của Adiponectin .................................................................................... 6
6. Cơ chế hoạt động của adiponectin ...................................................................... 7
7. Adiponectin và tín hiệu insulin .......................................................................... 8
8.Adiponectin và đái tháo đường: .........................................................................10
9. Adiponectin với Xơ vữa động mạch bệnh tim mạch ..........................................16
3
1. Phát hiện
Tế bào mỡ sản xuất và tiết ra một số protein, bao gồm leptin, adipsin,
properdin, và yếu tố hoại tử khối u (TNF). Một yếu tố ở mô mỡ được phân lập là
APM1 tạo ra sản phẩm protein là adiponectin.Trong bản đồ gen,người ta đã xác
định được AMP1 nằm trên NST 3q27.
Hình : Nguồn gốc của adiponectin
Adiponectin đã được phát hiện trong hồ sơ biểu hiện gen của mô mỡ của con
người được thực hiện bởi các dự án cDNA của con người, trong đó phân tích nội
tạng và mô mỡ dưới da để làm sáng tỏ cơ chế phân tử của bệnh béo phì có liên
quan. Thật bất ngờ, các gen thể hiện trong mô mỡ dưới da và nội tạng, 20% và
30% tương ứng, được các protein hoạt tính sinh học tiết, tức là adipocytokines như
leptin và TNF-a. Đáng ngạc nhiên hơn nữa, 40% các gen thể hiện trong mô mỡ đã
được tìm thấy, gọi là adiponectin.Hơn nữa,cùng thời điểm này, hai nhóm nhà khoa
học khác cũng xác định được ACRP30 và AdipoQ là chuỗi đồng đẳng của
4
adiponectin. Một phương pháp ELISA đã xác định rằng phạm vi nồng độ tế bào
của adiponectin của con người là 30-30 mg / ml, chiếm 0,01% của tổng số protein
huyết tương.
Các nghiên cứu lâm sàng ban đầu của adiponectin là đo nồng độ của nó trong
các đối tượng béo phì. Đáng ngạc nhiên, đối tượng béo phì có nồng độ huyết tương
adiponectin thấp hơn đã làm đối tượng không béo phì, mặc dù adiponectin có
nguồn gốc độc quyền từ mô mỡ (3,7 ± 3,2 so với 8,9 ± 5,4 mg / ml tương ứng; P
<0.0001). Ngoài ra, Arita et al. tìm thấy một mối tương quan nghịch giữa nồng độ
trong huyết tương adiponectin và BMI (chỉ số khối cơ thể) ở nam giới và phụ nữ
(r =- 0,71, P <0.0001, và r =- 0,51, P <0,0001 tương ứng). Những nghiên cứu khác
đã quan sát thấy kết quả tương tự trong các mô hình động vật gặm nhấm khác nhau
của bệnh béo phì và trong khỉ nâu. Hơn nữa, nồng độ huyết tương adiponectin ở
người tương quan trái ngược với diện tích mỡ nội tạng ở cả hai giới tính.
2. Định nghĩa
Adiponectin (còn gọi là GBP-28, apM1, AdipoQ và Acrp30) là một protein
có trong con người được mã hóa bởi các gene ADIPOQ. Adiponectin chỉ được bộc
lộ ở mô mỡ và lưu hành trong huyết thanh người ở nồng độ rất cao từ 5 đến 30
Nm.
3. Cơ cấu tổ chức
Adiponectin là một polypeptide
dài 244-amino-acid.Adiponectin, một
protein 30 kDa cấu tạo từ một vùng
collagen tận cùng N, gồm 4 nhóm
riêng biệt. Đầu tiên là một chuỗi tín
hiệu ngắn nhằm liên kết với các
hormone để tiết bên ngoài tế bào, tiếp
theo là một khu vực ngắn khác nhau
giữa các tiểu phần, thứ ba là một khu
vực 65-amino acid với tương đồng
với protein collagen; cuối cùng là một
miền hình cầu.
Hình: Cấu trúc không gian 3 chiều
của adiponectin
5
Adiponectin tồn tại trong máu ở các dạng monomer, trimer,hexamer và dạng
phân tử rất lớn.Protein này liên quan chặt chẽ với các yếu tố bổ thể Cq1, nhưng
cấu trúc tinh thể gấp và tổ chức gen cho thấy có sự tương tự gần với TNF- α
Hình: Các dạng tồn tại của adiponectin
4. Chức năng
Adiponectin là một hormone protein điều hoà một số quá trình trao đổi chất,
bao gồm quá trình tổng hợp glucose và quá trình phân giải glycogen. Không giống
như các adipocytokin khác, adiponectin tương quan nghịch với khối lượng mỡ.Cho
đến nay người ta vẫn cho rằng giảm adiponectin lưu hành cũng như leptin có thể là
yếu tố thuận lợi cho dự trữ mỡ lạc chỗ.
Adiponectin là một hormon tăng nhạy cảm insulin,vì thế nó có liên quan chặt
chẽ với đề kháng insulin ở người.Trong thực nghiệm khi sử dụng adiponectin cho
động vật gặm nhấm, đã làm tăng thu nhận glucose, tăng quá trình oxy hoá mỡ ở cơ,
giảm thu nhận acid béo và sản xuất glucose ở gan.Giống như những phát hiện ở
người, ở chuột thực nghiệm - được nuôi bằng chế độ gaìu lipid, làm mất gen
adiponectin sẽ gây rối loạn dung nạp glucose và đề kháng insulin.Trong thực
nghiệm, adiponectin hình cầu nguyên chiều dài làm giảm mức độ nặng xơ vữa
mạch ở chuột bị mất gen alipoprotein E.Người ta cũng thấy sử dụng adiponectin
nguyên chiều dài (HMW), hình cầu có khả năng làm giảm sự tích tụ lipid ở gan ở
chuột có gan nhiễm mỡ giảm mức đề kháng insulin ở những con chuột được nuôi
bằng chế độ giàu lipid.
6
Hình:Chức năng của adiponectin
5. Thụ thể của Adiponectin
Hai thụ thể của adiponectin ở chuột được khám phá gần đây, thứ nhất
(AdipoR1) chủ yếu ở cơ xương và thụ thể thứ hai (AdipoR2) chủ yếu ở gan.Khác
với chuột thực nghiệm, đặc điểm biểu lộ gen ở người cho thấy cà hai đồng phân
đều rất cao ở cơ xương. Điều đặc biệt thú vị là những người có dung nạp glucose
bình thường, mức biểu lộ ở cơ của AdipoR1 và AdipoR2 luôn ở mức thấp hơn so
với những đối tượng có tiền sử gia đình mắc đái tháo đường typ 2. Người ta cũng
thấy mức biểu lộ của 2 thụ thể này tương quan thuận với độ nhạy cảm insulin.
Những nghiên cứu này là bằng chứng có giá trị để suy luận rằng cả hai thụ thể của
adiponectin đều có những vai trò nhất định trong tác động gây nhạy cảm insulin ở
mô cơ.
Hình: Cấu trúc thụ thể của adiponectin
7
6. Cơ chế hoạt động của adiponectin
Cơ chế hoạt động của adiponectin có thể thông qua vai trò hoạt hoá AMPK. Đã
có hy vọng về adiponectin (hoặc chất giống adiponectin) có thể cải thiện tình trạng
đề kháng insulin. Nếu đúng như vậy liệu pháp điều trị bằng adiponectin có thể
được áp dụng vào can thiệp, cải thiện tiên lượng cho người bệnh đái tháo đường
typ 2. Cũng như leptin, nhiều chức năng đã được quy cho adiponectin như chúng
có mối liên quan với bệnh tim mạch, các rối loạn chức năng nội mạc và miễn dịch.
Có thể nói, kết quả thực nghiệm ủng hộ giả thuyết adiponectin là một chất điều
hò độ nhạy cảm của insulin thông qua quá trình giảm tích tụ mỡ lạc tại
chỗ.Adiponectin hoạth oá trực tiếp các adenosine 5’- monophosphat ( AMPK) ở
cơ, làm tăng phosphoryl hoá acetyl coenzyme A ( coA ) carboxylase ( ACC).Khi
hàm lượng malonyl Co A giảm dã làm tăng hoạt tính của carnitine
palmitoyltransferase 1 (CPT – 1) kích thích quá trình oxy hoá chất béo. Ở gan ,
AMPK kích thích oxy hoá acid béo và sự sinh ceton; ức chế tổng hợp cholesterol,
ly giải mỡ và tổng hợp triglyceride
Hình: Cơ chế tác động của adiponectin
8
Adiponectin hoạt động ở ngoại vi có khả năng cải thiện mức độ nhạy cảm
insulin ở động vật gặm nhấm, tuy các cơ chế hoạt động thì có sự khác biệt.Combs
và cs đã phát hiện thấy, nồng độ adiponectin luôn tăng ở chuột thực nghiêm khi
tiến hành nghiệm pháp kẹp đẳng đường huyết; làm tăng 73% tốc độ truyền
glucose.Tốc độ thu nhận glucose, giáng hoá glucose và tổng hợp glycogen không
đổi, nhưng tốc độ tổng hợp glucose bị giảm tới 65%.Truyền kéo dài sản phẩm ly
giải protein của Adiponectin ngăn chặn được hiện tượng tăng cân ở chuột đwocj
nuôi bằng chế độ ăn giàu chất béo.Các nghiên cứu này cũng còn cho thấy
adiponectin gây oxy hoá acid béo sau bữa ăn giàu chất béo hoặc truyền lipid, in
vivo.Tương tự như thế Yamauchi ( 2001) có nhận xét, điều trị bằng adiponectin ở
chuột nuôi bằng chế độ ăn giàu chất béo, sẽ ngăn chặn đwocj sự tích luỹ mô mỡ
bằng cách tăng tiêu hoá năng lượng và giảm tích luỹ mỡ lạc chỗ, Để xác định các
cơ chế ở mức tế bào, các tác giả đã đo mức biêu lộ các gen liên quan đến vận
chuyển, oxy hoá acid béo và tiêu hoá năng lượng ở cả cơ và gan. Điều trị bằng
adiponectin làm tăng mARN của các gen có liên quan đến thu nhận và β- oxy hoá
acid béo(cụ thể là CD36,acyl CoA oxidase,protein-2 không gắn kết) ở cơ và làm
giảm sự biểu lộ của các gen liên quan đến vận chuyện acid béo ở gan, dẫn dến
giảm dự trữ triglyceride ở các mô không phải mô mỡ, gián tiếp cải thiện độ nhạy
của insulin
7. Adiponectin và tín hiệu insulin
DeFronzo ( 1997) và Hansen ( 1998) đã có nhận xét “ mối liên quan giữa mô
mỡ, các mô ngoại vi khác với hệ thống thần kinh trung ương đã gợi mở những tia
sáng mới mẻ- trong nghiên cứu bệnh sinh- giữa bệnh béo phì và kháng
insulin”.Thực tế nghiên cứu cho thấy, mô mỡ luôn tạo ra những bất ngờ.Cụ thể, mô
mỡ bài tiết ra nhiều loại protein khác nhau, để cùng tham gia vào quá trình chuyển
hoá. Điều thú vị là những protein này lại có những tác dụng trái ngược nhau: có
những chất tham gia vào quá trình ức chế các tín hiệu insulin như các acid béo tự
do – FFA; các yếu tố hoại tử u TNF- α; các interleukin-6 ( IL-6), ressistin; trong
khi lại có những chất thúc đẩy hoạ động của tín hiệu insulin như leptin, adiponectin
9
Hình: Tác động gần như tương tự của leptin và adiponectin
Adiponectin có vai trò kích thích các hoạt động insulin, nói cách khác làm tăngđộ
nhảy cảm của insulin, được bài tiết ra từ cacs mô mỡ khác nhau.Bình thường nồng
độ adiponectin trong huyết tương từ 1,9 – 17 mcg/ml.Nhiều nghiên cứu khác nhau
đã chứng minh nồng độ adiponectin trong huyết tương sẽ giảm xuống, nếu người
bệnh thừa cân,béo phì.Ngược lại cân nặng giảm đi mức adiponectin sẽ trở lại bình
thường.Người ta cũng thấy mức adiponectin cũng được cải thiện khi dùng thuốc
nhóm glitazone, glimeperid
Cơ chế hoạt động của adiponectin qua vai trò của AMPK kinase – phosphoryl hoá
của acetyl coenzyme A carboxylase, có tác dụng tăng thu nhận glucose, tăng oxy
hoá các acid béo và làm giảm glucose tân tạo ở gan.
10
8.Adiponectin và đái tháo đường:
Từ lâu người ta đã thừa nhận béo phì là một yếu tố nguy cơ chính của bệnh
đái tháo đường typ 2, nhưng các vấn đề lien quan đến bệnh sinh chỉ mới rất gần
đây mới có hy vọng được làm sáng tỏ. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh vai trò
của mô mỡ lớn hơn những gì người ta đã biết trước đây là sự dự trữ năng lượng.
Các protein bài tiết từ các tế bào mỡ, trong đó có các protein tiền viêm có thể lý
giải một phần mối liên quan của bộ tứ “chết người” bao gồm béo phì - đề kháng
insulin - đái đường typ 2 - xơ vữa động mạch. Trong thực tế đây là mối quan hệ
phức tạp không đơn giản. Ví dụ, mối quan hệ giữa tình trạng tiền viêm với đái tháo
đường mới mắc rất khác nhau giữa các dân tộc, thậm chí giữa cùng dân tộc nhưng
sống ở vùng địa lý khác nhau, giữa người hút thuốc và không hút thuốc.
Adiponectin, một trong những protein do mô mỡ bài tiết được mô tả gần đây
có tác động chuyển hoá và kháng viên quan trọng do vậy đã gợi ý về vai trò bảo vệ
của nó trong quá trình phát triển của bệnh đái đường. Một số ít kết quả nghiên cứu
dịch tễ học đến nay ủng hộ luận điểm này dựa trên thực tế là tỷ lệ mắc mới của đái
tháo đường thấp hơn ở những người có mức adiponectin cao hơn. Nhưng đến nay
chưa có sự thống nhất về nhận xét này, ví dụ người ta thấy kết quả không phù hợp
ở những người Mỹ gốc Phi và một số các nghiên cứu trước đây.
Để đánh giá chính xác hơn về vai trò của adiponectin, chúng tôi tập trung
vào phân tích những khác biệt có thể về mức adiponectin và về những kết hợp của
adiponectin với đái tháo đường mắc mới giữa giới, dân tộc, BMI, tình trạng hút
thuốc, mức glucose và insulin huyết tương lúc ban đầu và tình trạng viêm nhẹ hệ
thống.
Một nghiên cứu lớn về nguy cơ gây xơ vữa động mạch trên cộng đồng
(Atheorosclerosis Risk in Communities, ARIC) tại Hoa Kỳ, từ năm 1987 đến năm
1989 đã thu nạp một thuần tập dựa trên quần thể gồm 15.792 nam và nữ, tuổi 45-
64, từ 4 cộng đồng. Tất cả các đối tượng tham dự đều được theo dõi chặt chẽ, tái
khám 3 năm/ một lần. Trong thời gian theo dõi, người ta xác định tỷ lệ mắc mới
bệnh đái tháo đường. Các tác giả đã chọn thiết kế bệnh chứng để nghiên cứu vai trò
của viêm trong quá trình phát triển bệnh đái tháo đường. Với thiết kế nghiên cứu
này cho phép đánh giá sự kết hợp của adiponectin/đái tháo đường mắc mới trong
phạm vi một mẫu được đặc trưng rõ về các marker viêm. Trước khi chọn mẫu,
11
người ta đã loại 2.018 đối tượng đã mắc đái tháo đường, 95 người của các nhóm
dân tộc thiểu số với số lượng thấp, 853 không trở lại khám lần nào, 26 người
không có đủ điều kiện xác định đái tháo đường, 7 người có những hạn chế về sử
dụng huyết tương lưu giữ có thể gây sai số, 12 người không có số liệu nhân trắc
học ban đầu và 2.506 đối tượng tham gia vào nghiên cứu bệnh chứng ARIC liên
quan đến bệnh tim mạch.
Kết quả số mẫu cuối cùng là 10.275 người (75% những người trong toàn
bộ thuần tập không mắc đái tháo đường lúc ban đầu), có 1.155 (11,2%) được
khẳng định mắc đái tháo đường trong thời gian theo dõi. Trong số 10.275 đối
tượng đủ tiêu chuẩn lựa chọn vào nghiên cứu của thuần tập ban đầu, người ta đã
chọn và định lượng các chất phân tích ở các mẫu ngẫu nhiên phân tầng theo dân
tộc(50% da trắng, 50% gốc Phi ) của các ca đái tháo đường mắc mới và các đối
tượng trong toàn bộ thuần tập (tổng số 1.198 người). Một số ít ca đái tháo đường
mắc mới trùng với mẫu ngẫu nhiên của thuần tập và một số ít được chọn chỉ thông
qua mẫu của thuần tập. Trong số những người được chọn vào mẫu, 45 người bị
loại hoặc vì thời gian nhịn đói không đạt mức qui định (từ 8 tiếng trở lên) hoặc vì
không có đủ giá trị của các đồng biến, còn lại 1.153 đối tượng, bao gồm 581 ca đái
tháo đường và 572 đối tưọng không mắc đái tháo đường để phân tích. Mẫu ngẫu
nhiên của thuần tập chứa 4,4% đối tượng da trắng và 13,9% gốc Phi. Trong số
những người mắc mới đái tháo đường, 40% người da trắng và 70% người gốc Phi
được đưa vào mẫu nghiên cứu.
Định lượng glucose huyết tương lúc ban đầu và vào các lần khám sau, theo
lịch hẹn, bằng phương pháp hexokinase, định lượng insulin huyết tương lúc đói
bằng xét nghiệm miễn dịch phóng xạ không đặc hiệu. Số đo vòng eo ở mức ngang
rốn và vòng hông ở mức lớn nhất để tính tỷ số eo/hông. Xác định tiền sử gia đình
cha mẹ mắc đái tháo đường hay không? Các phương pháp thu nhập các chỉ số nhân
trắc (chiều cao, cân nặng, hút thuốc lá, huyết áp tâm thu, tâm trương, tình trạng
tăng huyết áp, mức độ hoạt động thể lực, các chỉ số về lipid máu như triglycerid,
HDL-c, insulin, bạch cầu, fibrinogen, kháng thể GAD, IL-6, sialic acid C-reactive
protein và orosomucoid) cũng được tiến hành theo các qui chuẩn quốc tế.
Adiponectin và các marker viêm được định lượng ở labo trung tâm từ các mẫu
huyết tương đông lạnh tại thời điểm ban đầu. Định lượng adiponectin toàn phần
bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch phóng xạ, xét nghiệm này sử dụng
12
adiponectin chuột đánh dấu 125I như chất đánh dấu và huyết thanh nhỏ kháng
adiponectin đa loài để phát hiện adiponectin trong huyết tương người được chuẩn
theo dung dịch chuẩn adiponectin người tái tổ hợp. Hệ số tin cậy của adiponectin
(đo phương sai giữa thể/tổng phương sai và cặp phân tích lặp lại các mẫu thu được
lúc ban đầu trên một nhóm 35 đối tượng) là 0,95.
Đánh giá mức độ viêm, dao động từ 0 - 6, quy 1 điểm cho giá trị lớn hơn
trung vị của mẫu thuần lập đối với mỗi trong 6 marker viêm: IL-6, C-reactive
protein, orosomucoid, sialic acid, số lượng bạch cầu và fibrinogen.
Phân tích thông kê được dựa trên thiết kế chọn mẫu bệnh chứng, sử dụng
test ANCOVA cân đối theo tỷ lệ để tính các giá trị trung bình và tỷ lệ được điều
chỉnh của các biến số xã hội-dân số học và các yếu tố nguy cơ, sử dụng tương quan
Spearman để mô tả các kết hợp không điều chỉnh giữa các biến số. Trong những
phân tích này, các tỷ lệ cân đối được định nghĩa như số đảo của phần mẫu đặc hiệu
với nhóm dân tộc, cho phép ước lượng thống kê và suy ra toàn bộ thuần tập. Nguy
cơ tương đối được điều chỉnh về phát triển đái tháo đường ở các mức khác nhau
của adiponectin đã được ước lượng trên các mô hình rủi ro tỷ lệ bằng sử dụng phần
mềm SUDAAn để tính đến thiết kế bệnh chứng với chọn mẫu phân tầng cả từ toàn
bộ quần thể và từ các đối tượng mức đái tháo đường mới. Các phân tích đã được
thực hiện trên phần mềm SAS và SUDAAN.
Thời gian theo dõi trung vị là 3 năm (thấp nhất là 1,7 năm và dài nhất là 5,9
năm) đối với những người mối mắc đái tháo đường, là 8,9 năm (thấp nhất 8,8 năm
và dài nhất là 9 năm) đối với những người đã đượcchuẩn đoán đái tháo đường.
Trong số các đối tượng mắc đái tháo đường có 499 người(86%) được xác định
bằng glucose máu lúc đói trên 7mol/l, có 5 người (1%) bằng glucose máu lúc đói
trên 11mol/l và 77 người ( 13%) theo khai báo đã có chẩn đoán của bác sĩ hoặc
người đang dùng thuốc đái tháo đường.Trong số những trường hợp bị bệnh, 153
người (26%) là nam da trắng, 151 người ( 26%) là nữ da trắng, 76 người ( 13%) là
nam gốc Phi, 201 người (35%) là nữ gốc Phi.
Các giá trị trung vị của adiponectin là 8,84 μg/ml (6,24-11,7) trong mẫu
ngẫu nhiên chung của thuần tập. Người hút thuốc lá chiếm 21% ở người bệnh đái
tháo đường và 22% ở những đối tượng không mắc bệnh.
13
Đánh giá về mức độ viêm các trương hợp bệnh đái tháo đường có điểm số
viêm chiếm từ 4 diểm trở lên có trên 60%, trong khi các đối tượng không mắc đái
tháo đường chỉ có 37%.
Các tương quan khác của adiponectin với các thành phần của hội chứng
chuyển hoá (giá trị tuyệt đối 0,23-0,43), insulin lúc đói(0,37), các marker viêm
(0,14-0,25).Nhìn chung là có mối tương quan nghịch, ngoịa trừ HDL-c. Trong hội
chứng chuyển hoá mối tưong quan lớn nhất của adiponectin là với HDL-c,
triglycerid và vòng eo, ngoài ra trong số ngững marker viêm adiponectin có liên
quan với orosomucoid và CRP.
Các giá trị trung bình của adiponectin được điều chỉnh theo tuổi, giới, trình
độ học vấn. thói quen hút thuốc và BMI đã có sự khác nhau đáng kể giữa các
nhóm. Giá trị trung bình ở nữ cao hơn 52% so với nam (p<0,01), ở người gốc Phi
thấp hơn 22% so với người da trắng (p<0,001). Những đối tượng thừa cân hoặc
béo phì có giá trịthấp hơn tương ứng là 13% và 22% so với những đối tượng có
BMI < 25kg/m2 (p<0,001).Những người có điểm số viêm cao ( từ 4 trở lên trong số
6 marker có giá trị cao hơn trung vị ) và có giá trị adiponectin trung bình thấp hơn
20âpso với những người có điểm số viêm thấp hơn ( p< 0, 001).Các kết quả tương
tự cũng tìm thấy ở những người đang hút thuốc và những người không hút thuốc
lá, không có sự khác biệt lớn nào được nhận thấy giũa các trình độ học vấn.
Người ta cũng thấy có sự khác biệt về giá trị trung bình của adiponectin theo
dân tộc và giới, sự khác biệt còn xảy ra ở các hạng cân nặng bình thường , thừa cân
và béo phì ( tuỳ thuộc vào từng giới ).Ví dự ở nữ da trắng cân nặng bình thường,
thừa cân, béo phì, giá trị trung bình điều chỉnh tương ứng là 12,6 mcg/ml;11,1
mcg/ml ; và 9,7 mcg/ml, trong khi ở các hạng tương tự của nữ gốc Phi giá trị trung
bình điều chỉnh là 10,0 mcg/ml ;8,5 mcg/ml và 7,6 mcg/ml
Như vậy có thể nói adiponectin có liên quan với các yếu tố thuận tiện cho sự
phát triển của bệnh đái tháo đường như tuổi, giới, yếu tố địa lý, dân tộc, tăng huyết
áp và tiền sử gia đình có người thuộc thế hệ cận kề mắc bệnh đái tháo đường.Tuy
nhiên, điều đáng chú ý là trong nghiên cứu này adiponectin, điểm số viêm, BMI và
WHR vẫn có kết hợp một cách độc lập với quá trình phát triển bệnh đái tháo đường
( p< 0,05 )
14
Nghiên cứu cũng không tìm thấy mối liên quan với tình trạng hút thuốc lá.
Trong các phân tích đã được điều chỉnh, mức adiponectin cao có kết hợp với tỷ lệ
mắc mới đái tháo đường thấp hơn ở những người không hút thuốc lá là ( HR < tam
phân vị thứ nhất so với thứ 3> 0,42, CI 95% 0,25- 0,73 đối với những người không
hút thuốc lá và 0,78; 0,4 – 1,54 đối với những người đã hút huốc lá trước kia )
nhưng kết quả này không thấy ở những người đang hút thuốc lá ( 1,15;0,45-2,98; p
tương tác = 0,006)
Những kết quả này chứng minhmột sự kết hợp nghịch phân độ giữa mức
adiponactin và nguy cơ đái tháo đường trong một cộng đồng nam và nữ người Mỹ
gốc Phi và da trắng, tuổi trung niên, đại diện của 4 cộng đồng người Mỹ. Trong các
phân tích đã được điều chỉnh toàn bộ những người ở tứ phân vị cao nhất của
adiponectin có nguy cơ thấp hơn khoảng 40% về khả năng mắc mới bệnh đái tháo
đường so với những người ở tứ phân vị thấp nhất.Như vậy có thể xem adiponectin
như moth yếu tố bảo vệ chống lại quá trình hình thành và tiến triển của bệnh đái
tháo đường.Sự kết hợp bảo vệ này tương tự giữa nam và nữ, gốc Phi và da trắng,
nhưng lại khác nhau ở các nhóm đối tượng đặc trưng bởi các mức khác nhau của
BMI. Nhận xét này cũng không hoàn toàn phù hợp ở những người hút thuốc lá và
những người có điểm số viêm cao hơn.
Vai trò bảo vệ của adiponectin ở nồng độ cao trong quá trình hình thành và
phát triển của bệnh đái tháo đường týp 2 cũng đã được chứng minh trông 4 nghiên
cứu khác nhau trước đó. Đó là các nghiên cứu ở các nhóm dân tộc khác nhau,
nhóm ấn độ _ Pima, người da trắng Châu âu, người Nhật bản và ấn độ - Châu á
Cơ chế làm giảm mức glucose máu của adiponectin như trên đã phân tích là
do hoạt hoá chuỗi phản ứng của protein kinase AMP vòng.AMPK kích thích cả
hai quá trình dị hoá các dự trữ năng lượng nội bào như triglyceride và dòng năng
lượng ngoại bào đi vào tế bào không phụ thuộc insulin nhưu glucose.Hai thụ thể
của adiponectin đã được hoạt hoá làm tăng oxy hoá acid béo ở cơ và thu nhập
glucose ở gan
Adiponectin cũng có tác động làm tăng mức nhạy cảm với insulin và chống
viêm.Viêm hệ thống mức độ nhẹ ,lien quan mật htiết với báo phì và đề kháng
insulin.Viêm là yếu tố có trước và còn được coi là yếu tố dự báo sự phát triển của
cả đái tháo đường và bệnh xơ vữa tắc mạch.Nhiều nghiên cứu khoa học cơ bản,
15
nghiên cứu lâm sang,nghiên cứ dựa trên quần thể đã tìm ra mối lien quan nghịch
giữa adiponectin và các marker viêm.
Một cơ ché khác trong chức năng bảo vệ của adiponectin là khả năng cải
thiện chức năng bài tiết insulin của tế bào beta, do adiponectin có tác dụng kháng
lại các rối loạn do cytokine và acid béo gây ra trong tế bào.
Tuy nhiên khả năng bảo vệ của adiponectin bị mất đi ở những người nghiện
thuốc lá .Câu hỏi được đặt ra là tác động của hút thuốc lá với các tế bào mỡ như
thế nào? Tại sao và bằng cách nào việc hút thuốc lá lại làm mất khả năng này cảu
adiponectin.Nhưng cũng có nghiên cứu đang đưa ra bằng chứng là nicotin thông
qua vai trò thụ thể nicotin đã được chứng minh là có các tác động chống viêm ở
các đại thực bào và các tế bào mô mỡ.Các tế bào mỡ ít nhất là ở các động vật gặm
nhấm,có các thụ thể nicotin đã được phơi nhiễm với nicotin dẫn đến giảm rõ rệt
mức TNF – α và tăng bài tiết adiponectin .Như thế hút thuốc lá tuy gây ra tình
trạng tiền viêm nhưng cũng có thể làm thay đổi chọn lic các tác động của viêm đối
với chuyển hoá của các tế bào mỡ và sự sản xuất adipocytokin?
Việc mất đi vai trò bảo vệ của adiponectin trong những người có viêm hệt
hông cao hơn, đã không được tìm thấy ở các nghiên cứu trước đây.Adiponectin và
các chất trung gian của viêm có vài chức năng đối kháng.Như thế sẽ là logic nếu
cho rằng các chất trung gian của viêm ức chế không chỉ khả năng hoạt động cảu
adiponectin,mà có thể còn làm hạ mức adiponectin thâấ hơn ở những người có
viêm hệ thống nặng.Bằng thực nghiêm,người ta cũng thấy giảm mức adiponectin là
sự cố xảy ra sớm trong quá trình tiến triển từ chuyển hoá carbohydrate bình thường
đến đái tháo đưởng khỉ Rhesus.Như thế có thể suy luận rằng khi tình trạng viêmhệ
thống mạn tính đã xuất hiện thì tình trạng tăng adiponectin phản ứng ít có hiệu quả
trong điều hoà những rối loạn chuyển hoá yếu tố thuận lợi dẫn đến đái tháo đường.
Qua các nghiên cứu cho thấy mức adiponectin cũng còn được điều chỉnh
theo giống nòi và giới tính.Cụ thể mức adiponectin thấp hơn ở những người gốc
Phi và ở nam giới, adiponectin cũng giảm đi khi BMI tăng lên hoặc điểm số viêm
cao hơn và ngược lại.Một nghiên cứu khác, với cỡ mẫu nhỏ hơn,cũng đã cho thấy
mức adiponectin thường là thấp hơn ở đối tượng nam trẻ tuổi gốc Phi so với da
trắng. Đặc biệt là những người gốc Phi lứa tuổi thiếu niên, nếu cso adiponectin
16
huyết tương ở mức thấp sẽ là yếu tố tiên lượng nguy cơ mắc bẹnh đái tháo đường
trong tương lai gần
Tuy nhiên còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết.Ví dụ vai trò bảo vệ cua
adiponectin đã diễn ra như thế nào?Tuy nhiên một vài nghiên cứu gần đây cho thấy
vai trò bảo vệ cảu nó thong qau hai cơ chế:
Làm tăng hoạt động của tế bào beta
Adiponectin ngăn chặn khả năng tăng cân.Như thế adiponectin có vai trò gì
trong điều chỉnh sinh lý bệnh của bệnh thừa cân,béo phì?Adiponectin có vai trò gì
trong việc bảo vệ tế bào không phải là tế bào mỡ?Những chứng cứ mới đây buộc ta
phải đặt ra câu hỏi “ liệu chúng ta có đánh giá thấp, thậm chí sai lầm về tầm quan
trọng của adiponectin trong các phân tích được điều chỉnh theo BMI?”
Tóm lại mức adiponectin thấp có giá trị tiên lượng, dự báo khả năng phát
triển của đái tháo đường týp 2, đặc biệt ở những người không hút thuốc lá và ở
những người có viêm hệ thống nhẹ.Tuy còn nhiều vấn đề trong sinh bệnh học cần
được làm rõ, nhưng sự kết hợp với adiponectin, một phân tử với các tác động
chống viêm quan trọng, là một bằng chứng tiếp theo cho giả thiết đái tháo đường
béo phì là một quá trình bệnh lí viêm chuyển hoá.Những kiến thức hiểu biết tốt
hơn về những phân tử truyền tín hiệu hướng mỡ và sự tương tác của chúng là
hướng tìm tòi quan trọng dối với chiến lược điêề trị và dự phòng bệnh đái tháo
đường týp2 .
9. Adiponectin với Xơ vữa động mạch bệnh tim mạch
Bệnh nhân CAD (bệnh động mạch vành) có mức độ huyết tương
adiponectin thấp hơn đáng kể so với độ tuổi, đối tượng điều khiển BMI-điều chỉnh
ở nam giới (3,4 ± 1,8 so với 7,4 ± 3,5 mg / ml tương ứng; P <0,01) và phụ nữ (4,3
± 1,5 so với 9,3 ± 6,8 mg / ml tương ứng; P <0,05) [29]. Một nghiên cứu khác thấy
mức adiponectin đã thấp hơn đáng kể ở bệnh nhân nam với cả CAD và bệnh tiểu
đường Type II hơn ở những người có bệnh tiểu đường một mình (4,0 ± 0,4 so với
6,6 ± 0,4 mg / ml tương ứng, P <0,001), ngay cả khi điều chỉnh BMI và các yếu tố
nguy cơ tim mạch khác. Nhiều hậu cần phân tích hồi quy cho thấy tỷ lệ CAD tăng
gấp 2 lần ở bệnh nhân nam hypoadiponectinaemia [<4,0 mg / ml, 95% CI (tin cậy),
17
1,29-4,95], độc lập của các yếu tố nguy cơ truyền thống CAD, trong đó có bệnh
tiểu đường, dyslipidaemia, cao huyết áp, hút thuốc và chỉ số BMI.
Nghiên cứu triển vọng cũng đã phân tích mối quan hệ giữa nồng độ huyết
tương adiponectin và các sự kiện tim mạch. Một nghiên cứu tương lai của bệnh
nhân suy thận chứng minh rằng những bệnh nhân tim mạch có kinh nghiệm hoạt
động mới có mức độ huyết tương adiponectin thấp hơn đã làm cho bệnh nhân sự
kiện Việt. Rủi ro giảm 3% cho mỗi 1 mg / ml tăng ở mức độ huyết tương
adiponectin, và các nguy cơ tương đối của các sự kiện bất lợi về tim mạch là 1,56
lần (95% CI, 1,12-1,99 lần) cao hơn ở những bệnh nhân trong adiponectin tertile
đầu tiên so với những người trong thứ ba. Trong một nghiên cứu khác trong tương
lai với 6 năm theo dõi, nồng độ huyết tương adiponectin cao kết hợp với giảm
nguy cơ MI (nhồi máu cơ tim) ở nam giới khỏe mạnh (nguy cơ tương đối, 0,39,
95% CI, 0,23-0,64). Hơn nữa, một nghiên cứu tương lai gần đây cũng cho thấy
mức tăng adiponectin có liên kết với một nguy cơ CAD vừa phải giảm ở nam giới
mắc bệnh tiểu đường (nguy cơ tương đối, 0,71, 95% CI, 0,53-0,95). Trong các
nghiên cứu, hiệp hội này là do, một phần, để hiệu quả của adiponectin trên hồ sơ
lipid, bao gồm HDL (mật độ cao lipoprotein)-cholesterol cấp.
Các trường hợp kiểm soát các nghiên cứu đánh giá adiponectin trong huyết
tương ở những bệnh nhân với AMI (cấp tính MI) và ACS (hội chứng mạch vành
cấp tính). Ngày nhập viện, bệnh nhân có AMI có nồng độ huyết tương adiponectin
thấp hơn đã làm đối tượng điều khiển (8,1 ± 4,8 so với 10,9 ± 5,5 mg / ml tương
ứng; P <0,05) [35]. Hơn nữa, bệnh nhân với ACS có mức huyết tương adiponectin
thấp hơn so với bệnh nhân với SAP (đau thắt ngực ổn định) hoặc nhóm điều khiển
(ACS, 6,5 ± 3,0 mg / ml; SAP, 11,3 ± 5,9 mg / ml; kiểm soát 12,8 ± 4,3 mg / ml; P
<0,01) . Nhiều hậu cần phân tích hồi quy cho thấy nồng độ adiponectin thấp, hút
thuốc và nồng độ glucose lúc đói tương quan độc lập với tỷ lệ ACS .
Viêm xơ vữa động mạch và béo phì đặc điểm đối tượng, và cá nhân có
nguy cơ cao xơ vữa động mạch có hàm lượng chất phản ứng pha cấp tính như CRP
(C-reactive protein), một dấu hiệu mạnh mẽ cho hệ thống và nguy cơ viêm nhiễm
là một yếu tố độc lập cho CAD. Plasma adiponectin và CRP cấp trong đối tượng
con người nam giới có ý nghĩa tiêu cực tương quan [38]. Một nghiên cứu khác báo
cáo mối liên quan giữa nồng độ huyết tương adiponectin thấp và độ cao CRP ở phụ
nữ. CRP mức tương quan với trọng lượng cơ thể và tỷ lệ mỡ cơ thể [40]. Thật thú
18
vị, mô mỡ của con người có thể bày tỏ CRP mRNA, và mức độ CRP tương quan tỷ
lệ nghịch với mức độ mRNA adiponectin trong mô mỡ của con người (r =- 0,29, P
<0,01). Vì vậy adiponectin có thể điều chỉnh sự biểu hiện của CRP trong mô mỡ và
ảnh hưởng mức độ CRP trong huyết tương. Một báo cáo gần đây lâm sàng lưu ý
rằng mức độ huyết tương adiponectin giảm tương quan đáng kể với plasma nồng
độ CRP trong giai đoạn đầu của AMI (r =- 0,594, P <0,01).
Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy như vậy adiponectin đóng một vai trò điều
tiết và kháng viêm quan trọng trong sự phát triển của bệnh xơ vữa động mạch. Mặt
khác, hai nghiên cứu gần đây tương lai không tìm thấy mối liên quan giữa mức độ
huyết tương adiponectin và nguy cơ tương lai của bệnh tim mạch ở người da đỏ,
một nhóm nguy cơ đặc biệt đối với bệnh béo phì và bệnh tiểu đường Type II, và ở
phụ nữ người Anh . Những quan sát này không phù hợp có thể là do tức là nghiên
cứu, dân số, người đàn ông so với phụ nữ, bệnh tiểu đường so với không bị tiểu
đường. tiếp tục nghiên cứu tiềm năng của các quần thể khác nhau là cần thiết để
kiểm tra xem hypoadiponectinaemia độc lập có thể dự đoán xơ vữa động mạch.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bioactive Molecules and Medicinal Plants, K.G. Ramawat; J.M.Merillon
2. www.wikipedia.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- adiponectin_2_4845.pdf