Tiểu luận Cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước và ảnh hưởng của nó đến thị trường chứng khoán Việt Nam

MỞ ĐẦU Thị trường tài chính là thị trường dẫn vốn từ những người có vốn dư thừa tới người thiếu vốn qua các kênh trực tiếp (việc trao đổi vốn không qua trung gian) hoặc gián tiếp (việc trao đổi vốn qua các tổ chức tài chính trung gian). Sự phát triển không ngừng cả về chiều sâu lẫn chiều rộng cuả nền kinh tế càng làm cho kênh chuyển vốn qua các tổ chức tài chính trung gian ngày càng đóng vai trò quan trọng đặc biệt là hệ thống ngân hàng. Ở nước ta hệ thống NHTMNN đã và đang chi phối các hoạt động tài chính tiền tệ và có vị trí ảnh hưởng rất lớn tới thị trường tài chính cũng như sức khoẻ của nền kinh tế Việt Nam. Hơn hết trước yêu cầu cấp thiết hội nhập và toàn cầu hoá đòi hỏi các NH VN phải có nhứng cải cách và thay đổi phù hợp. Quá trình cổ phần hoá (CPH) NHTMNN là một trong những bước đi quan trọng góp phần phát huy vai trò nền tảng thúc đẩy nền kinh tế. Các NHTMNN VN đang trong quá trình thực hiện các đề án CPH do đó nhất thiết phải đưa ra giải pháp để thúc đẩy quá trình CPH NHTMNN đúng hướng, đúng tiến độ và đạt hiệu quả.

doc43 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2418 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước và ảnh hưởng của nó đến thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á chuyển đổi được xác định dựa trên kết quả bán đấu giá cổ phiếu lần đầu ra công chúng và phụ thuộc hoàn toàn vào quan hệ cung câu vào thời điểm bán đấu giá. Mặt khác, phương thức lựa chọn mức giá trúng thầu khi đấu giá cũng ảnh hưởng tới mức giá chuyển đổi. Giá chuyển đổi càng cao thì hệ số chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu càng thấp. Rủi ro về số lượng cổ phiếu chuyển đổi: Ngân hàng Ngoại thương cho rằng sẽ có đủ số lượng cổ phiếu để các trái chủ thực hiện quyền chuyển đổi tại lần đầu phát hành cổ phiếu vì “ hình thức cổ phần hóa là giữ nguyên vốn nhà nước tại ngân hàng, phát hành thêm cổ phiếu để thu hút thêm vốn và việc bán cổ phiếu theo nhiều đợt, mỗi đợt không quá 10% vốn điều lệ để tăng vốn”. Thế nhưng đó mới chỉ là dự kiến của ngân hàng. Và Chính phủ mới là người có thẩm quyền quyết định ngân hàng cổ phần hóa theo hình thức nào, số lượng cổ phiếu được phép phát hành ra công chúng và dành cho trái chủ được thực hiện việc chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu. Hiện tượng phát hành trái phiếu không minh bạch như trên có nhiều lí do. Về phía ngân hàng, do sức ép tài chính và yêu cầu đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa mà phải tăng vốn càng nhanh càng tốt, lãi suất huy động càng thấp càng tốt. Về phía nhà đầu tư, do chưa tìm hiểu kĩ về cơ chế phát hành cũng như tâm lí đầu tư theo đám đông mua trái phiếu của ngân hàng. Cách thức phát hành trái phiếu huy động vốn như vậy có thể giúp cho ngân hàng thương mại nhà nước đạt được mục tiêu tăng vốn một cách nhanh chóng với lãi suất thấp. Nhưng về lâu về dài mà nói thì nó sẽ gây ảnh hưởng rất lớn tới uy tín của ngân hàng. Các nhà đầu tư có thể đánh giá mức độ tín nhiệm thấp đối với các ngân hàng thương mại nhà nước sau khi cổ phần hóa. Mặt khác, trong thời gian gần đây trái phiếu chuyển đổi của một vài ngân hàng có hiện tượng sụt giá phản ánh rõ thái độ xem xét lại của nhà đầu tư đối với trái phiếu này. Điều đó khiến cho các ngân hàng thương mại nhà nước thực hiện cổ phần hóa sau gặp kho khăn trong việc tăng vốn theo hình thức phát hành trái phiếu như vậy. 2.2 KHÓ KHĂN TRONG VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ NGÂN HÀNG Vấn đề xác định giá trị ngân hàng có thể nói là vướng mắc cơ bản nhất trong quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước. Xuất phát từ những đặc thù về chức năng và lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng mà việc xác định giá trị ngân hàng khi tiến hành cổ phần hóa là rất khó khăn và phức tạp. Phần lớn tài sản của ngân hàng là những loại tài sản mà giá trị của chúng rất khó xác định. Đó là giá trị thương hiệu, là các khoản tín dụng, là các tài sản vô hình khác… Xác định giá trị của những tài khoản đó không giống như xác định giá trị những tài sản thông thường khác, không dựa vào giá trị sổ sách, mệnh giá hay giá thị trường mà còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác như: tình hình kinh doanh của ngân hàng, mực độ rủi ro, tính thanh khoản, mức sinh lời dự tính, tỷ giá hối đoái… 2.3 KHÓ KHĂN TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH TỔ CHỨC TƯ VẤN CỔ PHẦN HÓA Cổ phần hóa ngân hàng là một vấn đề rất nhạy cảm. Đảng và Nhà nước ta đã coi ngân hàng chính là huyết mạch của nền kinh tế, đặc biệt các ngân hàng thương mại nhà nước lại được coi là chủ lực của hệ thống ngân hàng quốc gia. Cho nên, việc tìm được đối tác thẩm định giá trị ngân hàng và tư vấn cho quá trình cổ phần hóa là điều không hề đơn giản. Trong thực tế, việc lựa chọn nhà tư vấn cổ phần hóa cho ngân hàng thương mại nhà nước đều thực hiện chậm trễ so với dự kiến của các ngân hàng. Hiện nay, nguyên tắc lựa chọn các tổ chức tư vấn tiềm năng là: Tổ chức tư vấn tài chính độc lập, có uy tín quốc tế, có kinh nghiệm thực hiện tư vấn cổ phần hóa ngân hàng thương mại, có định chế tài chính, có đội ngũ phân tích ngành ngân hàng, có kinh nghiệm trong việc tư vấn phát hành cổ phiếu tại Châu á và các thị trường mới nổi hoặc có kinh nghiệm đối với hoạt động cổ phần hóa tại các nước thuộc khối Chủ nghĩa xã hội trước đây, có kinh nghiệm làm việc tại Việt Nam và hoạt động của ngân hàng cổ phần hóa, sử dụng các bảng đánh giá mới nhất để đánh giá kinh nghiệm của các nhà tư vấn. Đồng thời, quy trình lựa chọn tổ chức tư vấn quốc tế gồm 4 bước với sự tham gia xét duyệt chặt chẽ của ngân hàng được cổ phần hóa, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính để lựa chọn tổ chức tư vấn cũng như mức phí trước khi giao cho ngân hàng được cổ phần hóa trực tiếp đàm phán và kí kết hợp đồng tư vấn. Như vậy, do gặp phải những điều kiện chặt chẽ về tổ chức tư vấn, về quy trình lựa chọn, về giá cả cho nên việc lựa chọn và thuê tổ chức tư vấn là rất khó khăn. Trong điều kiện khó khăn của ngân sách Nhà nước hiện nay, các ngân hàng đành phải chấp nhận chậm tiến độ để đảm bảo cho lợi ích Nhà nước. Đó là khuyết điểm mà Ngân hàng nhà nước đã phải thừa nhận. Hơn nữa, theo yêu cầu của Ban chỉ đạo cổ phần hóa thì ngân hàng phải đàm phán chi tiết với từng tổ chức tư vấn là ứng viên. Quá trình này cũng xảy ra rất nhiều vướng mắc do có sự khác biệt giữa yêu cầu của ngân hàng được cổ phần hóa và phương thức đề xuất giải quyết của nhà tư vấn. Yêu cầu của ngân hàng không theo các thông lệ quốc tế khiến cho nhà tư vấn trởi nên lúng túng. Có những yêu cầu vượt quá khuôn khổ tài chính và liên quan đến pháp luật mà nhà tư vấn không thể tư vấn. Minh chứng là khi ngân hàng Ngoại thương Việt Nam lựa chọn tổ chức tư vấn. Mỗi một đối tác tư vấn xác định giá trị của ngân hàng Ngoại thương theo một mức giá khác nhau. Chính phủ yêu cầu ngân hàng Ngoại thương phải chọn lựa nhà tư vấn thế nào để sau này xác định giá trị ngân hàng không làm thất thoát tài sản của Nhà nước. Trong khi đó, ngân hàng Ngoại thương lại quan tâm tới việc xác định đúng giá trị thương hiệu và giúp họ phát triển sau cổ phần hóa. Có thể nói, vấn đề lớn nhất ở đây là chúng ta quá thiếu kinh nghiệm, chúng ta ra đề bài nhưng lại không rõ mình cần cái gì nên nhà tư vấn không thể giải quyết được. 2.4 KHÓ KHĂN TRONG VIỆC XỬ LÍ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC TRƯỚC KHI CỔ PHẦN HÓA Theo số liệu mà Ngân hàng Nhà nước công bố gần đây thì tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại nhà nước ở nước ta hầu hết đều ở mức thấp. Những số liệu đó được đưa ra dựa trên kết quả phân loại nợ theo Quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ của ngân hàng. Tuy nhiên, theo báo cáo kiểm toán của một số tổ chức kiểm toán quốc tế thì tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam là rất cao, lên tới hàng chục phần trăm. Vấn đề là ở chỗ quan điểm phân loại nợ theo các quy định pháp luật Việt Nam có sự khác biệt rất lớn so với các tiêu chuẩn quốc tế. Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Ngân hàng nhà nước thì: “ Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3( dưới chuẩn), nhóm 4( nghi ngờ) và nhóm 5( có khả năng mất vốn)”. Cụ thể là nhóm 3 trở xuống gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và gốc trên 90 ngày. Đồng thời, tại Điều 7 của Quyết định cũng quy định các ngân hàng thương mại căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạc toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp. Như vậy, nợ xấu theo pháp luật Việt Nam được xác định dựa trên 2 yếu tố: quá hạn 90 ngày và khả năng trả nợ đáng lo ngại. Định nghĩa trên có thể coi là đã sát với thông lệ quốc tế trong cách hiểu về nợ xấu. Tuy nhiên, việc áp dụng nó trong thực tế có rất nhiều vấn đề ảnh hưởng tới thực trạng nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Cho đến nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đều mới chỉ hạch toán nợ xấu theo thời gian quá hạn trên 90 ngày còn việc xác định khả năng trả nợ của khách hàng đang gặp rất nhiều khó khăn và phần lớn các ngân hàng đều chưa hoặc đang thí điểm áp dụng yếu tố này. Một lí do khác là tình trạng tài chính của một bộ phận lớn các doanh nghiệp ở nước ta, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước đều gặp rất nhiều khó khăn, vốn tự có chỉ đạt từ 5%- 10% tổng vốn hoạt động, khả năng sinh lời rất thấp… Và vì vậy, nếu các ngân hàng thương mại áp dụng phương pháp phân tích dòng tiền tương lai và xếp hạng tín dụng thì đa số các doanh nghiệp đó không thể vay vốn, toàn bộ số nợ hiện tại của họ có thể xếp hạng là nợ xấu. Tình trạng đó khiến cho các ngân hàng thương mại lúng túng và thường thì các ngân hàng vẫn cho vay cũng như không coi đó là nợ xấu. Việc xác định nợ xấu như vậy là dựa nhiều trên cơ sở định lượng mà chưa coi trọng cơ sở định tính, chưa tuân theo các tiêu chuẩn phân loại nợ quốc tế. Các ngân hàng thương mại nhà nước trên thực tế vẫn có thể cho vay đảo nợ, biến nợ quá hạn thành nợ trong hạn, gia hạn nợ… Khi cổ phần hóa và hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại nhà nước sẽ vấp phải nhiều khó khăn do tiêu chuẩn phân loại nợ còn cách xa thực tế. Quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước đòi hỏi phải giải quyết triệt để các tranh chấp kinh tế, giải quyết nợ xấu, nợ tồn đọng…Việc xử lí nợ xấu với thực trạng như vậy sẽ tốn rất nhiều thời gian, gây ảnh hưởng xấu đến tiến trình cổ phần hóa. 2.5 KHÓ KHĂN TRONG XỬ LÍ TÀI CHÍNH KHI CỔ PHẦN HÓA Theo quy định của pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, các ngân hàng thương mại nhà nước phải tiến hành kiểm kê, đối chiếu, phân loại tài sản, công nợ và xử lí các vấn đề tài chính trước khi tiến hành định giá. Tuy nhiên, khi triển khai cụ thể những công việc này thì các ngân hàng lại gặp phải những khó khăn không nhỏ. Đó là do hoạt động ngân hàng có nhiều đặc thù so với hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước khác nên khi thực hiện đã vấp phải một số vướng mắc chưa được hướng dẫn tại Thông tư của Bộ Tài chính số 146/2007/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định tại Nghị định số 109/2007/NĐ-CP hoặc đã hướng dẫn nhưng chưa phù hợp với đặc thù hoạt động của ngân hàng. Xử lí tài sản là một trở ngại lớn đối với ngân hàng khi họ chưa được tự phát mại tài sản, nhất là khi khách hàng không hợp tác và các cơ quan chức năng nhiều khi chưa hỗ trợ hiệu quả. Hay khi bán tài sản trên đất của doanh nghiệp nhà nước vay tiền ngân hàng, giá trị quyền sử dụng đất thường bị chính quyền địa phương thu vào ngân sách nhà nước mà không dùng để trả cho ngân hàng. Có trường hợp ủy ban nhân dân tỉnh thu hồi đất đang thế chấp ngân hàng cho đơn vị khác thuê, chỉ đề bù giá trị tài sản trên đất với mức thấp. Việc bán tài sản công khai chưa có hướng dẫn cụ thể vì tổ chức đấu giá liên quan đến giấy phép và quy định về đấu giá. Bên cạnh đó, nợ quá hạn theo tiêu chuẩn quốc tế tại các ngân hàng thương mại nhà nước là rất lớn. Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy số nợ tồn đọng trong các ngân hàng thương mại nhà nước rất nhiều, lên tới hàng chục nghìn tỉ đồng. Trong khi đó, thực tế hoạt động của Tổ chức xử lí nợ quốc gia( DATC) và các tổ chức xử lí nợ tồn đọng trong thời gian qua cho thấy các cơ chế hiện hành vẫn chưa thực sự phù hợp. Trước hết, về cơ chế xử lí nợ, các quy định áp dụng cho DATC hầu như không tạo quyền ưu tiên trong việc tiếp cận và khai thác thông tin đánh giá khoản nợ cho nên đã gây ra không ít khó khăn trong việc mua và xử lí nợ. Thứ hai, xét về cơ chế tạo cung cầu cho xử lí nợ. Cơ chế quản lí tài chính hiện hành không buộc các doanh nghiệp nhà nước có nợ tồn đọng phải thực hiện việc bán nợ cho DATC. Do vậy mà vì tâm lí sợ trách nhiệm, sợ đụng chạm và mất quyền lợi nên các doanh nghiệp nhà nước thường chọn phương án tiếp tục treo nợ trong sổ kế toán để đảm bảo an toàn hơn là bán với giá thấp cho DATC rồi phải giả trình và gánh chịu những phiền phức có thể phát sinh. Nguồn cung về nợ tông đọng mặc dù là có nhưng lại bị hạn chế bởi tâm lí và nhận thức của chính chủ nợ- là các doanh nghiệp nhà nước nói chung và các ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng. Thứ ba, xét về mục tiêu xử lí nợ. Kinh nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy việc xử lí nợ tồn đọng thường gắn liền và phục vụ cho một chính sách kinh tế cụ thể của đất nước chứ không thường chỉ nhằm xử lí nợ tồn đọng ở trong từng doanh nghiệp. Vì vậy, các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia không đặt vấn đề bảo toàn vốn và có lợi nhuận làm nguyên tắc hoạt động cho các tổ chức xử lí nợ mà thay vào đó, họ yêu cầu các tổ chức xử lí nợ phải tối đa hóa giá trị thu hồi để giảm thiểu gánh nặng ngân sách mà Chính phủ phải bỏ ra để hỗ trợ cho chương trình xử lí nợ tồn đọng. Còn ở Việt Nam, chúng ta lại yêu cầu các tổ chức xử lí nợ quốc gia phải hoạt động với mục đích vừa làm lành mạnh hóa tài chính, thúc đẩy cổ phần hóa lại vừa theo cơ chế hạch toán kinh doanh. Và như vậy là để bảo toàn vốn theo yêu cầu của cơ chế tài chính áp dụng cho doanh nghiệp nhà nước thì DATC buộc phải cân nhắc chọn lựa kĩ những khoản nợ ít gặp rủi ro mất vốn nhất để xử lí. Điều này làm cho quá trình xử lí nợ chậm lại và số lượng các khoản nợ được xử lí cũng ít đi. Đó chính là mâu thuẫn trong giữa một bên là mục tiêu xử lí nợ tồn đọng, thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và một bên là yêu cầu phải bảo toàn vốn và có lợi nhuận. Nó đòi hỏi phải có một cơ chế phù hợp, giải quyết được những vướng mắc phát sinh, tạo điều kiện cho DATC và các tổ chức xử lí nợ khác hoạt động có hiệu quả nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa. Ngoài ra, việc xử lí các khoản nợ của ngân hàng thương mại nhà nước còn vấp phải một số những vướng mắc từ chính những quy định của pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Các văn bản pháp lí điều chỉnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn có những quy định đề cao quyền lợi của các doanh nghiệp cổ phần hóa hơn là quyền lợi của các chủ nợ( thường là các ngân hàng) trong quá trình cổ phần hóa. Nó khiến cho các doanh nghiệp nhà nước có tâm lí ỷ lại vào việc xử lí nợ của nhà nước mà không chủ động giải quyết các khoản nợ trước khi cổ phần hóa, nhất là các khoản nợ vay của ngân hàng thương mại nhà nước. Đến lượt mình, các ngân hàng thương mại nhà nước phải tìm cách xử lí những khoản nợ đó khi tiến hành cổ phần hóa. 2.6 KHÓ KHĂN TRONG VIỆC HUY ĐỘNG VỐN KHI CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Một vấn đề được quan tâm rất nhiều là sau khi cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước phải đảm bảo được năng lực hội nhập kinh tế quốc tế, đủ năng lực cạnh tranh với các ngân hàng trong nước và trên thế giới. Điều đó là rất khó khăn bởi vì quy mô của các ngân hàng thương mại nhà nước là rất nhỏ. Hiện nay, một ngân hàng hạng trung bình trên thế giới có quy mô vốn hoạt động khoảng 1 tỷ USD trở lên. Và để đủ năng lực cạnh tranh thì các ngân hàng thương mại Việt Nam sau khi cổ phần hóa phải đạt quy mô vốn tối thiểu là tương đương với mức đó, tức là khoảng 16 000 tỷ đồng. Trong đó, Nhà nước sẽ nắm giữ 51% nghĩa là vốn Nhà nước ở các ngân hàng thương mại phải đạt tối thiểu 8 160 tỷ đồng. Điều đó là rất khó thực hiện do vốn tự có của các ngân hàng thương mại nhà nước hiện nay là rất thấp so với yêu cầu. Đây là một thách thức lớn cho ngân hàng thương mại nhà nước khi cổ phần hóa. Hiện nay, theo các phương án đưa ra thì việc tăng vốn nhà nước có thể bằng hai hình thức. Phương án thứ nhất là giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại ngân hàng , xem đó là 51% và phần còn lại sẽ huy động bằng cách phát hành thêm cổ phiếu thu hút vốn từ các cổ đông trong và ngoài nước. Tuy nhiên, phương án này gặp hạn chế ở chỗ là khi phần vốn nhà nước còn quá thấp thì số 49% huy động thêm cũng không đáng kể gì và năng lực tài chính của ngân hàng được tăng lên cũng sẽ không đáng kể. Chẳng hạn, một ngân hàng có tổng trị giá 5000 tỷ đồng thì theo phương án này, số còn lại được phép huy động tối đa cũng chỉ được 4804 tỷ đồng. Xác định tỷ lệ vốn như vậy rõ ràng không đạt được mục tiêu cổ phần hóa là tăng năng lực tài chính cho ngân hàng có đủ khả năng cạnh tranh với các ngân hàng quốc tế khác. Phương án thứ hai là bổ sung vốn Nhà nước để mức vốn điều lệ của ngân hàng tăng đến đâu thì mức vốn của Nhà nước tăng đến đó, luôn đảm bảo nhà nước chiếm giữ tỷ trọng 51%. Tuy nhiên phương thức này lại có hạn chế là khả năng bổ sung vốn của ngân sách nhà nước. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, hiện nay ngân sách nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, không đủ vốn để luôn duy trì tỷ lệ 51% khi mức vốn điều lệ của ngân hàng tăng cao. Đó là trở ngại không nhỏ đối với ngân hàng thương mại nhà nước khi cổ phần hóa. 2.7 KHÓ KHĂN TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH CƠ CẤU SỞ HỮU VỐN ĐIỀU LỆ Việc xác định cơ cấu sở hữu vốn điều lệ tại ngân hàng sau cổ phần hóa theo quy định của pháp luật hiện hành cũng làm nảy sịnh một số vấn đề cho quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước. Tỷ lệ nắm giữ cổ phần của Nhà nước trong ngân hàng sau cổ phần hóa là tối thiểu 51%. Điều đó giúp cho Nhà nước duy trì được ảnh hưởng của mình đối với ngân hàng cổ phần hóa và hướng phát triển của ngân hàng sau cổ phần hóa không lệch ra ngoài đường lối chung của Nhà nước. Tuy nhiên, xác định tỷ lệ sở hữu cổ phần của Nhà nước như vậy làm phát sinh một số vấn đề. Thứ nhất, với tỷ lệ nắm giữ cổ phần 51%, Nhà nước sẽ phải bổ sung vốn cho ngân hàng sau cổ phần hóa khi ngân hàng có nhu cầu tăng vốn điều lệ. Đó là điều tất yếu sẽ xảy ra khi ngân hàng muốn hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Để hội nhập kinh tế quốc tế và đủ khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác trong khu vực cũng như quốc tế thì ngân hàng thương mại nhà nước sau cổ phần phải tăng năng lực tài chính của mình hơn nữa. Trong khi đó, khả năng của ngân sách nhà nước là có hạn. Ngân sách nhà nước còn có rất nhiều khoản đầu tư khác phải thực hiện cho sự phát triển chung của đất nước và luôn luôn trong tình trạng không dư dật. Như vậy, tỷ lệ cổ phần chi phối mà nhà nước nắm giữ sẽ tạo nên một áp lực rất đáng kể cho ngân sách nhà nước vốn rất eo hẹp. Thứ hai, vấn đề Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối trong ngân hàng sau cổ phần hóa cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc quản lí ngân hàng sau cổ phần. Chúng ta biết rằng sở dĩ các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ chính là bắt nguồn từ sở hữu và phương thức quản lí. Do sở hữu là của Nhà nước, người điều hành do Nhà nước bổ nhiệm. Người quản lí đại diện cho nhà nước nắm quyền quản lí doanh nghiệp và quyền sở hữu nhà nước trở thành quyền sở hữu của cá nhân được giao, dẫn đến tự chủ nhưng không chịu trách nhiệm, lợi ích của cá nhân được giao quyền quản lí doanh nghiệp đó lại thể hiện rõ rệt dưới nhiều hình thức như độc đoán, chuyên quyền, gia đình trị, tham ô… Doanh nghiệp thì luôn luôn có tâm lí ỉ lại, trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước, hoạt động kém năng động, tính hiệu quả thấp. Cổ phần hóa là để xác định rõ ràng người làm chủ đích thực có quyền định đoạt trong quản lí, rõ trách nhiệm trong quản lí và điều hành, tăng cường được tính cạnh trạnh, tránh được thất thoát vốn và tài sản…ở ngân hàng thương mại nhà nước sau khi cổ phần hóa, việc Nhà nước nắm giữ 51% cổ phần chi phối cũng có nghĩa là Nhà nước vẫn là người định đoạt lớn nhất trong ngân hàng và cơ cấu quản lí ngân hàng. Ngân hàng sau cổ phần rất dễ lại bị lâm vào tình trạng “ bình mới rượu cũ”. Các bài học về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trước đây cho thấy rất rõ điều này. Có nơi, giám đốc để doanh nghiệp thua lỗ 10 năm liên tiếp và sau khi cổ phần hóa vẫn đại diện sở hữu nhà nước tiếp tục làm giám đốc. Trong trường hợp đó, hầu như toàn bộ ban lãnh đạo cũ vẫn được giữ nguyên. Nó tạo ra tình trạng cổ phần hóa rồi nhưng cơ chế trông chờ, ỷ lại có thay đổi cũng chỉ thay đổi được rất ít. Bên cạnh tỷ lệ cổ phần chi phối của Nhà nước, vấn để tỷ lệ sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược của ngân hàng cũng làm nảy sịnh nhiều vấn đề. Một trong những mục tiêu khi cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước là nhằm tranh thủ kinh nghiệm quản lí, điều hành cũng như công nghệ hiện đại của các nhà đầu tư mà đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược. Các nhà đầu tư chiến lược thường là các định chế tài chính hùng mạnh, có uy tín, có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Họ sẵn sàng góp vốn cũng như những yếu tố khác vào ngân hàng thương mại nhà nươc khi cổ phần hóa với mong muốn cùng tạo lập nên một ngân hàng giàu mạnh và cùng chia sẻ những thành quả đạt được. Tuy nhiên, với quy định của pháp luật hiện nay thì các nhà đầu tư chiến lược chỉ được nắm không quá 20% tổng số vốn điều lệ của ngân hàng sau cổ phần. Với tỉ lệ sở hữu cổ phần như vậy, các nhà đầu tư chiến lược không thể có ảnh hưởng lớn đối với việc quản lí cũng như điều hành ngân hàng và điều đó khiến cho các nhà đầu tư chiến lược giảm nhiệt tình đối với quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước. nó cũng khiến cho mục tiêu tranh thủ vốn, công nghệ quản lí , điều hành cũng như tranh thủ uy tín của các nhà đầu tư chiến lược trở nên khó đạt được hoặc có đạt được nhưng không được như mong muốn. Mong muốn khi cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước là kinh doanh đạt hiệu quả tốt hơn, kết hợp hài hòa các lợi ích để không ngừng phát triển và hội nhập. Tuy nhiên, cũng phải cần xem xét lại khía cạnh Nhà nước nắm cổ phần chi phối và tỉ lệ sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược. Nếu như không giải quyết tốt những vấn đề đó thì sẽ rơi vào cổ phần hóa hình thức, cải lương, không khác gì so với doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hóa và không đạt được các mục tiêu cổ phần hóa đặt ra. 2.8 SỰ THIẾU VẮNG CÁC VĂN BẢN PHÁP LÍ ĐIỀU CHỈNH TRỰC TIẾP QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Cho đến thời điểm hiện nay, các quy định về mặt pháp lí của Nhà nước dành riêng cho quá trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước là hầu như chưa có. Số lượng các văn bản quy định về việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là ngân hàng còn rất hạn chế mà chỉ có các quy định về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước nói chung, sản xuất, kinh doanh các hàng hóa dịch vụ thông thường. Hiện tại, vấn đề cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước được điều chỉnh bởi văn bản pháp lí có hiệu lực cao nhất là Nghị định của Chính phủ số109/2007/NĐ-CP ngày 26/06/2007 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần, kế đến là Thông tư của Bộ Tài chính số 146/2007/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định tại Nghị định số 109/2007/NĐ-CP, các văn bản khác hướng dẫn thực hiện Nghị định 109, Nghị Định số 69/2007/NĐ-CP ngày 20 tháng 04 năm 2007 về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam và một số văn bản pháp luật về chứng khoán, tổ chức tín dụng khác. Ngân hàng thương mại nhà nước không chỉ là doanh nghiệp nhà nước thông thường mà nó có nhiều đặc thù trong hoạt động nói chung cũng như trong vấn đề cổ phần hóa nói riêng. Và nếu áp dụng những quy định chung cho cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước vào quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước thì rõ ràng là sẽ có nhiều điểm không phù hợp. Điều đó gây không ít cản trở cho quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước. Với những ý kiến trên NHTMNN đã ảnh hưởng đối với Thị trường chứng khoán: 1.Thay đổi lãi suất chiết khấu Cái này ảnh hưởng nhiều và rõ nét nhất trong 3 công cụ. Ngân hàng TMNN tăng lãi suất -> Lượng tiền cơ sở giảm -> Mức cho vay của NH hạn chế và lãi suất cho vay cao -> Người chơi CK sẽ chủ yếu dùng tiền của mình, hạn chế không đi vay để chơi CK nữa -> Giảm lượng số lượng người và lượng tiền đầu tư trên TTCK  Ngân hàng TMNN tăng lãi suất -> Lượng tiền cơ sở giảm-> Lãi suất tiền gửi của NH cao, hấp dẫn (vì muốn thu hút thêm tiền gửi từ dân khi lượng tiền cơ sở giảm) Cộng thêm nếu thị trường CK không ổn định, rủi ro lớn -> Nhà đầu tư CK sẽ thích gửi tiền Ngân hàng hơn là chơi CK . - Kết luận: Thị trường CK cũng có xu hướng giảm theo. 2. Quy định mức dự trữ bắt buộc  Với hai mục này bởi vì quy định mới của NHNN về cho vay chứng khoán hạn chế ở mức 3%. Khi lượng dự trữ tiền cơ sở của các NHTM bị thay đổi vì chính sách tiền tệ thắt chặt của NN sẽ dẫn đến NHTM phải điều chỉnh tương ứng các mức hạn cho vay tương ứng trên tổng dư nợ của ngân hàng è lượng tiền cung từ NH ít đi, số tiền vay được để chơi CK ít hơn, dân tự huy động tiền nhàn rỗi của mình nhiều hơn . Kết luận: TTCK có ảnh hưởng nhưng không đáng kể  3. Nghiệp vụ thị trường mở  Cái này thực chất về vĩ mô và lâu dài thì có ảnh hưởng tới sự giao động của thị trường CK về lượng tiền đầu tư chứ không ảnh hưởng đến giá cả các cổ phiếu. Vì nghiệp vụ này khi tiến hành thì hầu hết chỉ có các NHTM nhà nước tham gia, nay có thêm ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng liên doanh, ngân hàng thương mại cổ phần và chỉ rất ít các lọai Trái Phiếu dân bỏ tiền ra mua. Mà TTCK hiện nay hầu hết khỏang 90% là các cá nhân và 10% là các tổ chức, các quỹ đầu tư nên cũng ảnh hưởng không nhiều. (Tuy nhiên tính trên tổng số vốn đầu tư thì tỷ lệ các tổ chức các quỹ năm giữ cũng khá nhiều.) Ngoài Lãi suất chiết khấu như đã giải thích, thì còn có Lãi suất tái chiết khấu - là hình thức lãi suất được áp dụng khi Ngân hàng Nhà nước chiết khấu lại các kỳ phiếu, thương phiếu... của các tổ chức tín dụng.  Nhưng vấn đề chính mà tôi muốn trình bày ở đây, đó là cả hai công cụ: tỉ lệ dự trữ bắt buộc & nghiệp vụ thị trường mở đều ảnh hưởng đến tổng cung tiền, qua đó ảnh hưởng khá mạnh tới lượng tiền đầu tư vào TTCK.  Nếu như Ngân hàng Nhà nước áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt thì sẽ làm giảm tổng lượng tiền cung ứng, gây ra đồng thời 2 hiệu ứng:  - Làm giảm lạm phát một cách trực tiếp.  - Làm giảm lạm phát thông qua việc tăng lãi suất. Vì lãi suất tăng => đầu tư giảm => Tổng cầu AD giảm => giá giảm.  Tuy nhiên, hai công cụ này cũng đồng thời làm tăng lãi suất, do cung tiền giảm.  Lãi suất tăng có thể gây ra tác động lớn tới TTCK:  - Thứ nhất, lãi suất tăng sẽ làm giảm chênh lệch giữa lợi nhuận kỳ vọng khi tham gia TTCK và lãi suất ngân hàng giảm xuống => một số người không ưa rủi ro có thể sẽ gửi vốn vào Ngân hàng.  - Thứ hai, lãi suất tăng làm cho chi phí của các khoản vay để đầu tư tăng lên => lợi nhuận kỳ vọng giảm => lượng tiền đầu tư vào TTCK có thể giảm.  - Thứ ba, lãi suất tăng làm giá của Trái phiếu chính phủ ( ở các nước phát triển ) giảm => tác động tới quyết định mua, bán hay giữ Trái phiếu chính phủ của các nhà đầu tư, dựa trên tình hình cụ thể. Tóm lại : Tỷ lệ lãi suất có một tác động rộng và đa dạng khi nền kinh tế. Khi nó được nâng lên, tác động chung là để giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, hoạt động để giữ lạm phát thấp. Nó cũng làm cho vay tiền đắt hơn, ảnh hưởng đến người tiêu dùng và các doanh nghiệp chi tiêu tiền bạc của họ, điều này làm tăng chi phí cho các công ty, phần nào làm giảm thu nhập cho những người có nợ thanh toán. Cuối cùng, nó có xu hướng làm cho thị trường chứng khoán một nơi hơi kém hấp dẫn để đầu tư.  Tuy nhiên, những yếu tố này và kết quả tất cả các tương quan với nhau. Những gì chúng tôi mô tả ở trên là tương tác rất rộng, có thể sử dụng theo những vô số cách. Lãi suất không phải là yếu tố quyết định duy nhất của giá cổ phiếu và có cân nhắc rất nhiều vào giá chứng khoán và xu hướng chung của thị trường - một tăng lãi suất chỉ là một trong số họ. Vì vậy, người ta không bao giờ có thể nói với sự tự tin rằng một tăng lãi suất của NHTMNN sẽ có ảnh hưởng tổng thể tiêu cực đến giá cổ phiếu.  2.9 ĐÁNH GIÁ VÀ NHẬN XÉT CHUNG: Ưu điểm: Huy động một lượng vốn dồi dào. chủ động hơn về mặt nguồn vốn. Nhược điểm: Khi thị trường chứng khoán rơi vào tình trạng "ì xèo" thì khả năng huy động bị giảm sút , giá trị cổ phiếu giảm mạnh, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động kinh doanh tài chính. Nhìn chung, ngoài những ưu điểm và nhược điểm trên nó được đánh giá một phần nào của việc tiến trình cổ phần hóa các NHTMNN bị chậm trễ so với yêu cầu do nhiều nguyên nhân khác nhau tác động, trong đó nổi lên các yếu tố cản trở chủ yếu như sau: - Việc xử lý nợ khó đòi: Đây là khúc mắc lớn nhất của quá trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại Nhà nước. Ở rất nhiều ngân hàng thương mại Nhà nước, nợ xấu chủ yếu lại vẫn thuộc về doanh nghiệp nhà nước mà nguyên nhân là do các doanh nghiệp này làm ăn thua lỗ, bị khó khăn về tài chính, không trả được nợ. Việc giải quyết cho các DNNN được xóa nợ, khoanh nợ, giản nợ không phải là cách làm tích cực, gốc của vấn đề vẫn là đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh, bộ máy quản lý của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. - Việc xác định giá trị của các ngân hàng thương mại Nhà nước: Hiện nay, công việc đánh giá lại giá trị của các ngân hàng thương mại Nhà nước trước khi cổ phần hóa còn gặp nhiều khó khăn. Giá trị của ngân hàng thương mại Nhà nước được cổ phần hóa có thể tăng thêm khi định giá tài sản cố định, đặc biệt là bất động sản vì giá trị ghi trên sổ sách khi tính lại theo giá thị trường chắc chắn sẽ cao hơn nhiều. - Cơ chế cấp vốn: Vốn chủ sở hữu Nhà nước phải là vốn thực. Nhưng qua những đợt tăng vốn bổ sung, Nhà nước đã cấp loại trái phiếu đặc biệt cho các ngân hàng thương mại Nhà nước, mà đây chỉ là vốn danh nghĩa (vốn ghi trên sổ) chứ không thể tạo nên giá trị cho ngân hàng. - Tính phức tạp trong hoạt động của ngân hàng: Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt nên hoạt động của nó có tính phức tạp rất cao, trong khi đó khuôn khổ pháp lý lại chưa được hoàn thiện, các quy định cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều điểm chưa phù hợp với cổ phần hóa ngân hàng thương mại Nhà nước. - Sự lúng túng và sức ỳ trong chỉ đạo điều hành ở ngay trong nội bộ các ngân hàng thương mại Nhà nước: Phần lớn các ngân hàng thương mại Nhà nước đều lúng túng, chưa chủ động tích cực để xác định rõ phạm vi, phân loại và tổ chức hạch toán theo dõi riêng các khoản nợ tồn đọng. Vì chưa phân loại đối với từng khoản nợ tồn đọng nên chưa có giải pháp xử lý thích hợp đối với từng khoản nợ này. Bên cạnh đó, sức ỳ quan liêu của ban lãnh đạo, sự thiếu ủng hộ của người lao động, sự quan tâm quá ít ỏi của các nhà đầu tư và tư tưởng chưa thông suốt, còn muốn níu kéo sự bao bọc của Nhà nước của khá nhiều người trong việc cổ phần hóa cũng có ảnh hưởng nhất định đến tiến trình cổ phần hóa. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 3.1 GIẢI PHÁP 3.1.1. Về cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động Ngân hàng Nhà nước trình Quốc hội nghiên cứu điều chỉnh bổ sung loại hình NHTM CPH trong loại hình các TCTD làm cơ sở pháp lý thực hiện. Là ngân hàng có yếu tố vốn đầu tư nước ngoài nên sẽ chịu điều chỉnh bởi Luật các TCTD và Luật đầu tư nước ngoài. 3.1.2. Về cơ chế quản trị ngân hàng Phải xây dựng được cơ chế quản lý của Hội đồng quản trị theo hướng nâng cao quyền lực. Theo đó, Hội đồng quản trị được quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với Tổng giám đốc điều hành; bộ phận kiểm soát và kiểm toán nội bộ ngân hàng hoạt động độc lập với Ban điều hành, chỉ trực thuộc Hội đồng quản trị, từ đó mới phát huy được vai trò hoạt động của Kiểm soát và kiểm toán nội bộ. Quy định một số quyền hạn nhất định của các cổ đông nước ngoài trong việc tham gia các quyết sách hoạt động của ngân hàng. Xây dựng được các chuẩn mực quốc tế về quy trình nghiệp vụ quản trị rủi ro, quản lý tín dụng hiện đại, quản lý tài sản nợ-có, quản lý đầu tư, quy trình kiểm toán nội bộ…. 3.1.3. Xác định giá trị thực tế ngân hàng Trong quá trình thực hiện CPH điều quan trọng là xác định giá trị thực tế ngân hàng để đưa giá bán cổ phần cho phù hợp, người mua và người bán có thể chấp nhận được. Tiến hành thí điểm và mở rộng bán đấu giá cổ phần lần đầu thông qua thị trường chứng khoán. Trong giai đoạn đầu, có thể nghiên cứu bán cổ phần không chi phối cho các nước có thực lực kinh tế phát triển mạnh để thu hút nhanh vốn. 3.1.4. Xây dựng lộ trình phát triển theo mục tiêu chiến lược của NH được CPH Trên cơ cơ sở mục tiêu chiến lược đã được định hướng, cần thiết phải xây dựng lộ trình phát triển hoạt động cho ngân hàng được CPH như sau : - Từ năm 2006 đến 2010: Phải đạt một số chuyển biến lớn về cơ sở hạ tầng, nguồn vốn, phát triển các loại hình sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. Phát triển mạng lưới văn phòng đại diện và chi nhánh hoạt động ở nước ngoài, hình thành một NHTM mạnh có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. - Từ năm 2010: Hoạt động NHTM theo chuẩn mực quốc tế kể cả về vốn, quản lý, công nghệ thông tin, đáp ứng nhu cầu về vốn và thanh toán chủ yếu của nền kinh tế, đồng thời khẳng định vai trò nhất định trên thị trường tài chính khu vực và quốc tế. 3.1.5. Cổ phần hoá gắn với niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Sau khi cổ phần hoá, cổ phiếu của các NH sẽ được đưa lên sàn giao dịch, để giá trị cổ phiếu được giao dịch công khai và phản ảnh đúng giá trị . Đòi hỏi phát triển thị trường chứng khoán của VN phải lớn mạnh, xứng đáng là sàn giao dịch công bằng, bình đẳng, minh bạch, hiệu quả cho các nhà đầu tư. Để đạt được điều đó, thị trường chứng khoán VN cần thực hiện một số biện pháp sau: Về cơ sở pháp lý: Thị trường chứng khoán VN chưa thực sư là một kênh vốn dài hạn của nền kinh tế, do đó cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với tình hình thực tiễn của TTCK VN cũng như với thông lệ của các TTCK lớn trên thế giới. Đó là : Phải sớm xây dựng và ban hành Luật chứng khoán, hoàn chỉnh các văn bản pháp quy về thuế, phí, chế độ theo hướng thông thoáng hơn nhằm khuyến khích các chủ thể tích cực tham gia thị trường. Trong thời gian trước mắt chưa có Luật chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước cần phối hợp với Bộ kế hoạch và đầu tư xây dựng và trình Chính phủ Nghị định về quản lý, phát hành và giao dịch chứng khoán chưa niêm yết. Bên cạnh đó, cần phải ban hành thêm các hướng dẫn cụ thể về niêm yết cổ phiếu ngân hàng. Cần gắn liền việc niêm yết trên thị trường chứng khoán với việc CPH ngân hàng: Việc đưa vào quy định pháp lý ngay từ đầu các điều khoản yêu cầu các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết khi cổ phần hoá phải tổ chức bán đấu giá và niêm yết ngay trên thị trường chứng khoán. Điều này sẽ tạo ra một thói quen cho NH khi CPH với việc minh bạch và công khai hoá thông tin ngay từ đầu. Có như vậy TTCK sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá NHTMNN thông qua việc thực hiện thành công việc bán cổ phần của các NHTMNN cổ phần hoá. Và một khi cổ phiếu ngân hàng được niêm yết trên TTCK thì sẽ có một khối lượng hàng hoá lớn được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán, tạo nên sự sôi động trên TTCK và chắc chắn TTCK VN sẽ tiến lên một bước. 3.2 KIẾN NGHỊ 3.2.1. Đẩy nhanh tiến độ ban hành các văn bản pháp quy trực tiếp điều chỉnh quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước Như đã trình bày ở phần trên, sự thiếu vắng các văn bản trực tiếp điều chỉnh vấn đề cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước khiến cho các ngân hàng thương mại nhà nước cũng như các chủ thể có liên quan rất lúng túng trong việc tiến hành cổ phần hóa ngân hàng. Việc áp dụng các văn bản pháp lí điều chỉnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là cần thiết nhưng các ngân hàng thương mại nhà nước có những đặc thù riêng và đòi hỏi phải có những quy định dành riêng cho quá trình cổ phần hóa các ngân hàng đó. Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước theo đúng kế hoạch và mong muốn của Đảng và Nhà nước, cần phải tích cực ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh các vấn đề nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước. 3.2.2. Về vấn đề xử lí nợ tồn đọng Việc xử lí nợ xấu cũng như là kiểm soát không để nợ xấu phát sinh của ngân hàng thương mại nhà nước khi cổ phần hóa không được như mong muốn, đặc biệt khi thực hiện phân loại nợ theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước. Để có thể xử lí dứt điểm các khoản nợ xấu thì cần phải ban hành các quy phạm pháp luật xác định rõ các tiêu chí phân loại nợ và kết quả phân loại nợ phải được xác định kết hợp theo cả hai tiêu chí định lượng và định tính. Theo đó, nợ xấu không chỉ được xác định dựa trên tiêu chí quá hạn về thời gian của các khoản vay mà còn phải xác định dựa vào khả năng chi trả của khách hàng. Tuy nhiên, việc quy định như vậy vẫn là chưa đủ. Điều quan trọng để các ngân hàng thương mại thực hiện được theo quy định như vậy thì phải có các cơ chế quy định định rõ về việc cung cấp thông tin của các khách hàng vay tiền. Môi trường thông tin minh bạch ở đây đóng vai trò rất quan trọng, đặc biệt là các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp, khách hàng, chất lượng hoạt động của hệ thống kiểm toán độc lập, của hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng. Để xử lí nợ xấu và tăng cường năng lực tài chính cho các ngân hàng thương mại nhà nước, cần thực hiện các giải pháp làm sạch bảng cân đối tài sản của ngân hàng. Trước hết, cần bổ sung quy định hỗ trợ nguồn tài chính cho các ngân hàng trích lập đủ dự phòng để có thể bù đắp những tổn thất có thể xảy ra khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Sau đó, chuyển nhượng các khoản nợ xấu cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có đủ khả năng và thẩm quyền xử lí nợ. Đối với các khoản nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước, có thể xử lí theo hướng ngân hàng thương mại nhà nước chuyển sang cho Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của Bộ tài chính (DATC) để tiếp tục theo dõi, xử lí theo thẩm quyền. Còn các khoản nợ của các tổ chức, cá nhân khác, ngân hàng thương mại nhà nước được phép bán nợ cho DATC hoặc các doanh nghiệp, cá nhân có đủ năng lực tài chính( kể cả các tổ chức, cá nhân nước ngoài) thông qua tổ chức đấu giá công khai. Đối với các khoản nợ xấu cho vay theo chỉ định, chương trình, kế hoạch của nhà nước thì ngân hàng thương mại nhà nước có thể thỏa thuận để bán nợ cho DATC, Quỹ hỗ trọ phát triển, Ngân hàng Chính sách hoặc các tổ chức có chức năng mua bán nợ khác. Đối với những khoản nợ xấu của các doanh nghiệp mà ngân hàng không chuyển giao cho công ty mua bán nợ và các tổ chức cá nhân khác thì cần có có cơ chế để ngân hàng có thể chủ động áp dụng các biện pháp cơ cấu lại tài chính và hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy sẽ giúp cho tình hình nợ xấu của ngân hàng được giải quyết tốt hơn. 3.2.3. Về vấn đề cơ cấu sở hữu vốn điều lệ Cổ phần hóa được xem là cơ hội cũng như là sức ép tạo động lực cho các ngân hàng thương mại nhà nước tự chủ trong kinh doanh. Rất nhiều bài học kinh nghiệm cho thấy việc cổ phần hóa ồ ạt là nguyên nhân dẫn đến sự thất thoát lớn tài sản của Nhà nước, phá vỡ hệ thống cấu trúc của nền kinh tế. Điều đó sẽ càng đặc biệt nghiêm trọng khi lĩnh vực cổ phần hóa là lĩnh vực tài chính ngân hàng. Vai trò chi phối của Nhà nước trong ngân hàng sau cổ phần hóa là cần thiết để giữ vững và phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại nhà nước trong nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng khi thực hiện cổ phần hóa, tuy hình thức sở hữu có sự thay đổi nhất định nhưng vai trò chủ đạo của Nhà nước tại ngân hàng vẫn được đảm bảo. Vấn đề không chỉ dừng lại ở đó, mục tiêu lớn hơn là làm sao để các ngân hàng thương mại nhà nước sau cổ phần hóa không bị lâm vào tình trạng “ bình mới rượu cũ” mà còn phải phát huy phát huy tốt hơn vai trò chủ đạo của mình trong việc triển khai thực hiện chính sách tiền tệ của quốc gia dưới một cơ chế quản lý phù hợp hơn. Vì vậy, giải pháp đặt ra là nhất thiết Nhà nước phải nắm giữ 51% vốn điều lệ để đảm bảo vai trò chi phối của mình nhưng không phải đối với tất cả các ngân hàng thương mại nhà nước cổ phần hóa. Nhà nước chỉ nên nắm giữ cổ phần chi phối tập trung ở một hoặc hai ngân hàng để nâng cao năng lực tài chính và phát triển nó trở thành ngân hàng thương mại lớn ngang tầm các đối thủ cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. Làm như vậy Nhà nước sẽ giảm bớt được áp lực cho ngân sách khi phải dàn trải cho các ngân hàng mà vẫn đảm bảo được rằng các chính sách tiền tệ của mình vẫn được thực hiện. Mặc dù vậy, cũng cần phải lưu ý là trong việc Nhà nước không nắm cổ phần chi phối ở các ngân hàng còn lại phải được thực hiện theo từng giai đoạn. Bên cạnh đó, cần có các quy định khuyến khích các nhà đầu tư tham gia mua cổ phần của ngân hàng thương mại nhà nước, đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược. Các nhà đầu tư chiến lược thường là các định chế tài chính lớn trên thế giới, có kinh nghiệm và uy tín, có tiềm lực tài chính mạnh, khả năng quản lí tốt, trình độ công nghệ tiến tiến. Hợp tác với các nhà đầu tư chiện lược thì ngoaif sự hỗ trợ về tài chính, các ngân hàng thương mại nhà nước sẽ được hỗ trợ về cung cách quản lí và trình độ công nghệ. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và phát triển dài hạn. Việc có được các nhà đầu tư trong hội đồng quản trị ngân hàng sau cổ phần sẽ là một đảm bảo rất lớn đối với công chúng về độ tin cậy của ngân hàng. 3.2.4. Về vấn đề xác định giá trị ngân hàng Những khó khăn gặp phải trong việc định giá tài sản ngân hàng là do các ngân hàng thương mại nhà nước có hệ thống cồng kềnh, quy mô dàn trải, một phần rất lớn các tài sản đã và đang được đầu tư không chỉ ở thị trường trong nước mà còn tại thị trường quốc tế. Chất lượng tài sản phụ thuộc nhiều vào tình hình kinh doanh, chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp vay vốn( cụ thể là khả năng trả nợ của khách hàng). Mặt khác, một lí do nữa là tài sản vô hình của các ngân hàng là loại tài sản rất khó xác định và ngày càng đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Kiến nghị ở đây là: Một là, nên thu gọn bộ máy tổ chức, giải thể hoặc sáp nhập các đơn vị thành viên hoạt động kém hiệu quả, đồng thời tiến hành hạch toán tài chính dứt điểm đối với các đơn vị đó, chuyển toàn bộ nợ xấu cho các tổ chức xử lí nợ. Bên cạnh đó, để xử lí tình trạng nợ tồn đọng quá lớn ở các ngân hàng thương mại nhà nước, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp lí quy định rõ trách nhiệm buộc các doanh nghiệp nhà nước phải chủ động xử lí những tồn tại về tài chính. Tránh trường hợp các doanh nghiệp nhà nước vay vốn ngân hàng và dồn lại cho đến khi cổ phần hóa để được Nhà nước xử lí trừ vào vốn Nhà nước, tạo ra gánh nặng cho ngân sách Nhà nước cũng như các ngân hàng thương mại nhà nước. Hai là, có quy định rõ ràng về việc mời các tổ chức tài chính lớn và có kinh nghiệm xác định giá trị ngân hàng, đảm bảo tính công khai và độc lập. Khi xác định giá trị ngân hàng thương mại nhà nước thì cần phải xem xét đầy đủ các yếu tố như chất lượng tài sản, tỷ lệ nợ xấu, hiệu quả kinh doanh thông qua các chỉ tiêu ROA, ROE, nghĩa vụ về các khoản nợ, thu nhập của người lao động, công nghệ ngân hàng, sản phẩm dịch vụ cung cấp. Tránh tình trạng định giá cao theo ý chí của các nhà đầu tư hay định giá thấp gây thất thoát tài sản của Nhà nước. Cần phải tính đến các lợi thế của ngân hàng như mạng lưới hoạt động rộng khắp, đã chiếm lĩnh phần lớn thị phần tại các thanh phố lớn và các khu vực kinh tế năng động, thương hiệu của các ngân hàng đã được khẳng định…Sau đó, tập hợp các nhân tố như đã nêu lập giá khung rối đưa ra hội thảo lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà phân tích, các nhà thẩm định để xác định giá trị tài sản trước khi tiến hành cổ phần hóa. 3.2.5. Về vấn đề phát hành trái phiếu tăng vốn Việc phát hành trái phiếu tăng vốn là rất cần thiết nhằm nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng thương mại nhà nước để thực hiện chương trình cổ phần hóa. Tuy nhiên, trong quá trình phát hành trái phiếu tăng vốn như đã trình bày ở trên có nhiều hạn chế khiến cho các nhà đầu tư phải gánh chịu nhiều rủi ro, gây ảnh hưởng xấu đối với uy tín của ngân hàng cổ phần hóa. Để khắc phục tình trạng đó, cần bổ sung quy định khi các ngân hàng thương mại nhà nước phát hành trái phiếu tăng vốn thì cần phải có văn bản nói rõ về những đặc điểm của loại trái phiếu này. Các thông tin về trái phiếu phải được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên trang ưeb chính thức của ngân hàng cũng như trong bản cáo bạch. Mặt khác, cần quy định rõ về việc phát hành trái phiếu tăng vốn của ngân hàng thương mại nhà nước theo hướng xích lại gần hơn với các thông lệ quốc tế cả về chuẩn mực lẫn cách thức phát hành. Các ngân hàng thương mại nhà nước phải có các giải pháp hỗ trợ đảm bảo tính thanh khoản của tría phiếu như ủy quyền cho các công ty chứng khoán mua hoặc bán trái phiếu làm tăng giao dịch tại thị trường, thành lập một bộ phận tại công ty chứng khoán có chức năng hỗ trợ, chắp nối các nhà đầu tư có nhu cầu mua và bán trái phiếu. Các trái phiếu này sẽ được lưu kí và giao dịch trên thị trường chứng khoán và sẽ trở thành cơ hội đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Việc phát hành trái phiếu tăng vốn thành công trái phiếu tăng vốn sẽ giúp cho các ngân hàng thương mại cổ phần nâng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn, đảm bảo khả năng cân đối nguồn vốn để đầu tư trung và dài hạn. 3.2.6. Về vấn đề xử lí tài chính của ngân hàng Để các ngân hàng thương maị nhà nước tiến hành xử lí tài chính tốt trước khi cổ phần hóa, cần phải ban hành các quy định tạo ra sự phối hợp chặt chẽ giữa ngân hàng, khách hàng cũng như với các cơ quan chức năng của nhà nước trong việc xử lí các tài sản của ngân hàng thương mại. Có cơ chế bắt buộc khách hàng phải hợp tác khi ngân hàng có yêu cầu xử lí tài sản. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng nhà nước cũng phải có trách nhiệm trong việc xử lí tài sản của ngân hàng. Ngoài ra, cần phải sửa đổi cơ chế hoạt động của Tổ chức xử lí nợ quốc gia DATC theo hướng tạo điều kiện để tiếp cận và khai thác thông tin đánh giá các khoản nợ, không đặt vấn đề bảo toàn vốn và có lợi nhuận làm nguyên tắc hoạt động cho các tổ chức xử lí nợ mà thay vào đó, yêu cầu các tổ chức xử lí nợ phải tối đa hóa giá trị thu hồi để giảm thiểu gánh nặng ngân sách mà Chính phủ phải bỏ ra để hỗ trợ cho chương trình xử lí nợ tồn đọng. Mặt khác, cũng phải sửa đổi các quy định không phù hợp trong các văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mà đề cao quyền lợi của các doanh nghiệp nhà nước hơn là quyền lợi của ngân hàng cho vay vốn khiến cho các doanh nghiệp nhà nước nảy sinh tâm lí ỷ lại vào việc xử lí nợ của nhà nước mà không chủ động giải quyết các khoản nợ trước khi cổ phần hóa, nhất là các khoản nợ vay của ngân hàng thương mại nhà nước nhằm giảm nhẹ gánh nặng cho các ngân hàng thương mại nhà nước khi xử lí tài chính. 3.2.7. Về vấn đề lực chọn tổ chức tư vấn cổ phần hóa Mặc dù đã có rất nhiều quy định khá chặt chẽ về việc lựa chọn tổ chức tư vấn cổ phần hóa cho các ngân hàng thương mại nhà nước nhưng vấn đề này vẫn gặp phải nhiều khó khăn do sức ép về thời gian và chi phí thuê tổ chức tư vấn. Về vấn đề này, cần phải hiểu rõ rằng cổ phần hóa là một quá trình phức tạp, không thể vì nóng vội mà ép tiến độ để rồi chất lượng cổ phần hóa không được đảm bảo. Chính vì vậy, các văn bản điều chỉnh quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước nên loại bỏ những quy định mang tính thúc ép về mặt thời gian để việc lựa chọn các tổ chức tư vấn đảm bảo diễn ra theo đúng mong muốn. Việc chọn ra các tổ chức tư vấn vừa đáp ứng được những tiêu chuẩn khắt khe lại vừa có chi phí thấp và trong một thời gian ngắn là rất khó mà thực hiện được. Đồng thời, cũng cần có quy định đề cao vai trò của ngân hàng thương mại trong việc lựa chọn ra tổ chức tư vấn bởi chính các ngân hàng thương mại( là những đối tượng của quá trình cổ phần hóa cũng như chính là khách hàng của các tổ chức tư vấn) là người hiểu rõ hơn ai hết nhu cầu của mình và vấn đề làm việc với các tổ chức tư vấn sẽ diễn ra thuận lợi hơn. 3.2.8. Về vấn đề huy động vốn của ngân hàng Huy động vốn để tăng cường năng lực tài chính của ngân hàng là một nhu cầu tất yếu thế nhưng do quy mô nhỏ bé mà các ngân hàng thương mại nhà nước lại gặp nhiều khó khăn trong vấn đề này. Để có thể tăng cường năng lực tài chính, pháp luật cần có cơ chế cho các ngân hàng thương mại nhà nước thực hiện tốt việc tăng vốn tự có và nâng cao chất lượng tài sản cũng như tăng khả năng sinh lời. Ngân hàng thương mại nhà nước có thể tiến hành tăng vốn tự có thông qua nhiều phương pháp. Đó là phát hành trái phiếu tăng vốn và phát hành trái phiếu quốc tế. Trái phiếu tăng vốn là một loại giấy tờ có giá phát hành nhằm nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng. Trái phiếu có các kì hạn dự kiến là 10, 12 hoặc 15 năm với lãi ssuất hấp dẫn. Việc phát hành các trái phiếu đó sẽ giúp cho ngân hàng huy động một nguồn vốn đáng kể từ thị trường trong nước. Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể phát hành trái phiếu quốc tế sau khi được sự chấp thuận của Bộ Tài chính. Để trai phiếu quốc tế thực sự trỏ nên hấp dẫn và tiếp cận thị trường quốc tế thành công thì cần có các quy định pháp luật khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng các định mức tín dụng từ các tổ chức tín dụng uy tín trên thế giới cũng như xúc tiến thành lập trng tâm đấu giá tín dụng tại Việt Nam. Bên cạnh đó, cần có thêm những quy định tăng cường các biện pháp kiểm soát chặt chẽ của của ngân hàng trước, trong và sau khi cho vay. Theo đó, các ngân hàng thương mại nhà nước giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn của khách hàng dùng đúng mục đích hay không, quản lí vốn đầu tư có hiệu quả hay không. Đồng thời, thắt chặt việc thực hiện quy trình tín dụng. Mặt khác, các ngân hàng thương mại nhà nước cũng phải chú trọng tới việc định kì gia hạn nợvà gia hạn nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh cũng như thời gian thi công các công trình. Tập trung thu hồi nợ đến hạn và nợ quá hạn, nợ đã xử lí rủi ro, kiên quyết chuyển nợ quá hạn đối với khách hàng đến hạn trả nợ nếu không có lí do chính đáng để gia hạn nợ…Tất cả những điều đó sẽ giúp nâng cao chất lượng tài sản của ngân hàng. Qua đó, góp phần nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng rong bối cảnh mà việc huy động vốn được xem là một giải pháp “đắt đỏ”. Tóm lại, trong bối cạnh hội nhập, tương lai mở cửa ngân hàng không còn xa, yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phát triển công nghệ và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh là một yêu cầu sống còn đối với các ngân hàng. Cổ phần hóa sẽ tạo ra động lực buộc các ngân hàng phải tìm cách nâng cao hiệu quả hoạt động và hội nhập thành công. Vấn đề đặt ra ở đây là phải giải quyết được những tồn tại trong quá trình cổ phần hóa và vạch ra hướng đổi mới cho ngân hàng sau cổ phần hóa để có thể phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong các chính sách tiền tệ của quốc gia và góp phần thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế đất nước. KẾT LUẬN Thách thức được vượt qua nó sẽ trở thành thời cơ, song thời cơ không nắm bắt được thì tất yếu trở thành thách thức. Nếu Việt Nam vượt qua thách thức cổ phần hoá các NHTM thành công cả về tiến trình và chất lượng cổ phần hoá thì hệ thống NHNN Việt Nam mới có nền để thực sự đủ sức hội nhập cạnh tranh trên thị trường tài chính quốc tế. Song Việt Nam có thực sự biến các thách thức của quá trình cạnh tranh, hội nhập toàn cầu hoá nền kinh tế thành cơ hội hay không? MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận- Cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước và ảnh hưởng của nó đến thị trường chứng khoán việt nam.doc
Luận văn liên quan