Các nhà hoạch định chính sách Mỹ vẫn có thiên hướng dựa vào các
sắp xếp an ninh song phương hơn là đa phương để đảm bảo an ninh khu vực
và duy trì lợi ích của Mỹ. Mỹ cho rằng không cần phải lập thêm các thiết chế
mới và có thể sử dụng các thiết chế hiện có như Diễn đàn Kinh tế Châu Á –
Thái Bình Dương (APEC) để bàn đến các vấn đề đa phương khác ngoài vấn
đề kinh tế, như vấn đề an ninh chẳng hạn.
Còn Nhật Bản cũng không tán thành hợp tác an ninh đa phương vì hai
lý do chủ yếu. Thứ nhất, phần đông người Nhật vẫn coi Hiệp ước an ninh
Mỹ - Nhật là trụ cột trong chính sách an ninh của mình và họ vẫn muốn tiếp
tục duy trì Hiệp ước này. Thứ hai, Nhật cho rằng để thành lập diễn đàn an
ninh đa phương như nêu trên thì trước hết phải giải quyết vấn đề tranh chấp
lãnh thổ giữa Liên Xô và Nhật. Nhật Bản thực ra không muốn để các nước
ngoài can thiệp và làm phức tạp vấn đề tranh chấp lãnh thổ mà họ cho rằng
vấn đề này có thể được giải quyết trên cơ sở song phương.
17 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2532 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cơ sở hình thành khối NATO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
Cơ sở hình thành khối NATO
2
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh cũng như thời kỳ đối đầu giữa hai
cường quốc Liên Xô và Mỹ, an ninh thế giới vẫn tiếp tục bị đe doạ vì vậy,
đã xuất hiện rất nhiều hiệp ước, cơ chế hợp tác cả song phương lẫn đa
phương giữa các nước trong và ngoài khu vực ký kết với nhau nhất là hiệp
ước về liên minh quân sự như NATO, WARSAW, SEATO; hợp tác kinh tế
khoa học công nghệ; hợp tác để bảo vệ quyền tự do cơ bản của con người và
chủ quyền quốc gia…nhằm giải quyết và ngăn chặn các những thách thức an
ninh để bảo vệ lợi ích quốc gia cũng như đảm bảo cho sự hòa bình ổn định
trong khu vực và trên thế giới.
Hội nghị về an ninh và hợp tác Châu Âu (CSCE) là một hội nghị xuất
hiện vào khoảng những năm 1970s do các nước Châu Âu với Mỹ và Canada.
Hội nghi này chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như hợp tác trong chính trị
và quân sự; hợp tác sinh thái và kinh tế; hợp tác trong lĩnh vực quyền con
người, những hành động đó được thể hiện thông qua các cam kết ràng buộc
về chính trị cũng như các nguyên tắc hoạt động. Trong bài tiểu luận này
chúng em sẽ tập trung làm rõ ba nội dung chính đó là: cơ sở, quá trình hình
thành và phát triển; những nội dung và nguyên tắc cơ bản; cuối cùng vai trò
và tác động đối với an ninh khu vực.
Mặc dù rất cố gắng nhưng bài tiểu luận không thể tránh được sai sót
vì khó khăn trong ngôn ngữ cũng như việc tìm kiếm các tài liệu tham khảo,
thời gian cũng có hạn, nên chúng em rất mong cô sẽ thông cảm và đóng góp
ý kiến trong bài tiểu luận này. Xin chân thành cảm ơn
Sinh viên thực hiện: Nhóm 5-CT35K
3
Hà nội, tháng 5/2011
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN.
1. Bối cảnh ra đời.
Là kết quả của chiến tranh lạnh: dựa trên cơ sở điều ước quốc tế đa
phương được ký kết giữa các quốc gia thành viên, trên nguyên tắc bình đẳng
chủ quyền và tự nguyện cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và
phù hợp với mục đích và các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc.
Sự hình thành của NATO 1949: là một liên minh quân sự bao gồm
Mỹ và một số nước ở châu Âu. Mục đích của NATO là để ngăn chặn sự phát
triển ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô lúc đó đang phát triển
rất mạnh ở châu Âu có thể gây phương hại đến an ninh của các nước thành
viên. Liên minh phòng thủ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và
Liên Xô, đã được thành lập năm 1955 với mục tiêu là bảo vệ an ninh của các
nước thành viên, chống lại âm mưu xâm lược của các thế lực đế quốc, duy
trì hoà bình ở Châu Âu và thế giới.
Vì có sự đối đầu ác liệt giữa hai khối quân sự lớn như thế nhu cầu hợp
tác ngày càng tăng. Đến giai đoạn cuối của chiến tranh lạnh do sự sụp đổ của
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, sự tan bằng trong quan hệ giữa Tây
Âu và khối Cộng sản làm cho nhận thức của các quốc gia thay đổi thể hiện ở
chỗ các quốc gia thấy được sự quan trọng của việc hợp tác coi đó là yếu tố
quan trọng và tất yếu để duy trì lợi ích quốc gia, đảm bảo hòa bình và an
ninh khu vực. Ví dụ: gợi ý của Liên Xô mà muốn sử dụng các cuộc đàm
phán để duy trì kiểm soát đối với các nước cộng sản ở Đông Âu-Tây Âu.
Nhìn các cuộc đàm phán như là một cách để giảm căng thẳng trong khu
4
vực, thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh tế và đạt được những cải thiện nhân
đạo cho nhân dân của khối Cộng sản1.
2. Quá trình hình thành và phát triển.
Hàng loạt các cuộc họp tham dự của hầu như tất cả các quốc gia châu
Âu, Canada và Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 1970, quyết định về hoàn thiện an
ninh và ổn định của cả Châu Âu.
Từ 22/11/1972-8/6/1973, cuộc tham vấn chuẩn bị cho CSCE, tổ chức
tại Dipolo (Helsinki) thủ đô của Phần Lan để quyết định địa điểm và tiêu chí
cho việc triệu tập hội nghị, thủ tục và các chủ đề chính cho chương trình
nghi sự. Hội nghị đầu tiên 1973-1975, chia thành 3 giai đoạn:
Từ 3-7/7/1973, giai đoạn khai mạc chính thức CSCE tai Helsinki giữa
các Bộ trưởng Ngoại giao để khởi động một hơp tác đa phương đối thoại
Đông-Tây.
Từ 18/9/1973-21/7/1975, diễn ra cuộc họp giữa các chuyên gia tại
Geneva. Để quy định về phạm vi và nguyên tắc hoạt động.
Từ 30/7/1975-1/8/1975, giai đoạn đóng cửa của hội nghị, đây là một
hội nghị thượng đỉnh giữa người đứng đầu nhà nước và chính phủ 35 quốc
gia tại Helsinki để thông qua các nội dung, quy định cuối cùng của hội nghị
Từ 4/10/1977-8/3/1978, hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 2 của CSCE
được tổ chức tại Belgrade, thảo luận vấn đề hơp tác nhân quyền.
Từ 11/11/1980-9/9/1983, hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 3 của CSCE
được tổ chức tại Madrid (Spain).
Từ 4/11/1986-9/01/1989: Hội nghị lần thứ 4 về an ninh và hợp tác
châu Âu tổ chức tại Vienna.
1 Bổ sung theo ý kiến của nhóm phản biện
5
Năm 1994, CSCE trở thành OSCE (Tổ chức An ninh và Hợp tác châu
Âu).
II. NGUYÊN TẮC VÀ NỘI DUNG CỦA CSCE.
1. Nguyên tắc: theo Helsinki final act 1975
- Chủ quyền bình đẳng, tôn trọng các chủ quyền vốn có
- Không được đe dọa hoặc sử dụng vũ lực
- Bất khả xâm phạm biên giới
- Toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia
- Hòa bình giải quyết tranh chấp
- Không can thiệp vào công việc nội bộ
- Tôn trọng nhân quyền và tự do cơ bản, bao gồm cả tự do tư
tưởng, tôn giáo, lương tâm, tín ngưỡng
- Quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc
- Hợp tác giữa các nước
- Cam kết thực hiện trong đức tin tốt các nghĩa vụ theo luật quốc
tế.
2. Nội dung.
A). Các vấn đề liên quan đến an ninh ở Châu Âu.
Nhằm thúc đẩy quan hệ tốt hơn giữa họ và đảm bảo các điều
kiện trong đó người dân của họ có thể sống trong sự bình an và miễn phí lâu
dài từ các mối đe dọa hoặc sự chống lại an ninh của họ;
Cần thiết để phát huy nỗ lực để làm giảm căng thẳng cả một quá trình
liên tục và ngày càng hữu hiệu và toàn diện, phổ quát về phạm vi.
Bao gồm những vấn đề sau: Thông báo trước khi có sự cơ động quân
sự lớn, Thông báo trước về phong trào quân sự lớn, Các biện pháp xây dựng
6
lòng tin, Trao đổi các quan sát viên, Thông báo trước khi có sự cơ động quân
sự khác; Các vấn đề liên quan đến giải trừ quân bị; Sự cân nhắc chung
B). Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và môi
trường.
Không phân biệt mức khác nhau của sự phát triển kinh tế, dựa trên cơ
sở bình đẳng và sự thỏa mãn lẫn nhau của các đối tác như một toàn bộ, một
phân phối công bằng những lợi thế so sánh và nghĩa vụ của quy mô, với sự
tôn trọng các thỏa thuận song phương và đa phương,
- Trao đổi thương mại.
- Hợp tác công nghiệp và các dự án có lợi ích chung.
- Quy định về hợp tác thương mại và hợp tác công nghiệp (Trọng
tài, hài hòa hóa các tiêu chuẩn, thỏa thuận song phương cụ thể )
- Khoa học và công nghệ (Các lĩnh vực hợp tác: Nông nghiệp, Năng
lượng, sử dụng hợp lý tài nguyên, Công nghệ thông vận tải, Vật lý, Hóa học,
Máy tính, truyền thông và công nghệ thông tin…)
- Môi trường (Các lĩnh vực hợp tác: Kiểm soát ô nhiễm không khí,
Kiểm soát ô nhiễm nước và sử dụng nước sạch, Bảo vệ môi trường biển,
Bảo tồn thiên nhiên…)
- Hợp tác trên các lĩnh vực khác như Phát triển giao thông vận tải, Xúc
tiến du lịch, Kinh tế và các khía cạnh xã hội của lao động di cư, Đào tạo cán
bộ.
C). An ninh và hợp tác Địa Trung Hải.
Để tăng sự tin tưởng lẫn nhau, nhằm thúc đẩy an ninh và ổn định
trong khu vực Địa Trung Hải.
7
Hợp tác cùng có lợi trong các lĩnh vực khác nhau của hoạt động kinh
tế, đặc biệt là bằng cách mở rộng trao đổi thương mại, trên cơ sở nhận thức
chung về sự cần thiết cho sự ổn định và tiến bộ trong quan hệ thương mại
Hợp tác trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, trong nỗ lực để đạt
được một sử dụng tốt hơn các nguồn tài nguyên, do đó thúc đẩy sự phát triển
hài hòa của các mối quan hệ kinh tế;
Tham gia hướng đến cải thiện môi trường của Địa Trung Hải, đặc biệt
là bảo vệ các nguồn tài nguyên sinh học và cân bằng sinh thái của biển, bởi
các biện pháp thích hợp bao gồm cả công tác phòng chống và kiểm soát ô
nhiễm.
Tại sao phải coi hợp tác trong khu vực Địa Trung Hai là một trong
những nội dung của CSCE?
Helsinki Final Act (1975), chương về "Các vấn đề liên quan đến an
ninh và hợp tác trong Địa Trung Hải". Các quốc gia tham gia bao gồm quốc
gia giáp Địa Trung Hải, trong đó họ xác tín rằng "an ninh ở châu Âu được
gắn liền với an ninh ở Địa Trung Hải". Ý định của họ để thúc đẩy sự phát
triển của quan hệ láng giềng hữu hảo với Địa Trung Hải đối tác và khuyến
khích sự phát triển của hoạt động hợp tác cùng có lợi trong các lĩnh vực hoạt
động kinh tế. Họ tìm cách để tăng sự tin tưởng lẫn nhau để thúc đẩy an ninh
và ổn định trong khu vực.
An ninh ở châu Âu được xem xét trong bối cảnh rộng hơn về an ninh
thế giới và gắn liền với an ninh ở Địa Trung Hải như một toàn thể, và phù
hợp với tiến trình cải thiện an ninh nên không được giới hạn ở châu Âu
nhưng nên mở rộng đến các phần khác của thế giới, và đặc biệt đến khu vực
Địa Trung Hải.
Trong việc theo dõi các cuộc họp của CSCE sau khi Helsinki, các
quốc gia giáp Địa Trung Hải được mời như là một bộ phận không thể thiếu
8
và các khoản đóng góp bằng văn bản. Một số cuộc họp cụ thể đã được tổ
chức vào các vấn đề chủ yếu liên quan Địa Trung Hải đến các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, môi trường, khoa học, và văn hóa, mà các quốc gia Địa Trung Hải
được mời tham gia2.
D). Hợp tác nhân đạo và các lĩnh vực khác.
Gia tăng trao đổi văn hóa và giáo dục, phổ biến rộng hơn về thông tin
liên lạc giữa con người, và các giải pháp của các vấn đề nhân đạo sẽ đóng
góp vào việc đạt được những mục tiêu này,
Hợp tác với nhau, không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội,
để tạo điều kiện tốt hơn trong các lĩnh vực trên, để phát triển và tăng
cường các hình thức hiện có của hợp tác và làm việc trong những cách thức
mới, phương tiện phù hợp với những mục tiêu này.
- Sự lien lạc của con người: Thường xuyên liên lạc và các cuộc
họp trên cơ sở quan hệ gia đình, Du lịch cho lý do cá nhân hoặc chuyên
nghiệp, Kết hôn giữa công dân của nước khác nhau, Các cuộc họp giữa
các thanh niên,Thể thao…
- Thông tin: cải thiện lưu thông truy cập và trao đổi thông tin; hợp
tác trong lĩnh vực thông tin; cải thiện điều kiện lao động cho nhà báo.
- Hợp tác và trao đổi trong lĩnh vực Văn hóa
- Hợp tác và trao đổi trong lĩnh vực Giáo dục.
III. VAI TRÒ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CSCE.
CSCE phát sinh để thúc đẩy các mục tiêu chung sống hoà bình giữa
các quốc gia châu Âu, với định hướng giải thích sự thiếu sót bất kỳ thông tin
của pháp luật nhân đạo, pháp luật hình sự. Hầu hết, Tuyên bố Helsinki cung
cấp những thông tin chung để bổ sung luật pháp quốc tế.
2 Bổ sung theo ý kiến của cô giáo về hợp tác Địa Trung Hải
9
1. Đối với quan hệ giữa các nước lớn trong khu vực.
CSCE thư giãn sự căng thẳng giữa chính sách của các nước lớn trên
thế giới, xâm lược chiếm đóng miễn phí của chủ nghĩa đế quốc và vai trò
của chủ nghĩa cộng sản
CSCE như một diễn đàn đàm phán, là một hội nghị ngoại giao giữa
các nước thành viên về ngăn ngừa Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
(NATO) và để đáp ứng Tổ chức Hiệp ước Warsaw quy tắc (Warsaw Pact)
Ủy quyền và chỉ đạo để theo dõi và khuyến khích phát triển các
chương trình và hoạt động của Chính phủ Hoa Kỳ và các tổ chức tư nhân với
một cái nhìn về hướng lợi dụng quy định của văn kiện cuối cùng để mở rộng
hợp tác kinh tế và trao đổi Đông-Tây.
Góp phần tăng cường hòa bình và sự hiểu biết giữa các dân tộc và làm
giàu tinh thần của nhân cách con người mà không phân biệt chủng tộc, ngôn
ngữ, giới tính hay tôn giáo. Khắc phục sự tự tin ngày càng tăng, giải
quyết những vấn đề mà tách chúng ra và hợp tác vì lợi ích của nhân loại
Phát triển hợp tác trong các lĩnh vực thương mại, khoa học, công
nghiệp và công nghệ, môi trường và các khu vực khác của hoạt động kinh tế
để góp phần củng cố hòa bình và an ninh ở châu Âu và trên toàn thể thế giới.
Hợp tác trong các lĩnh vực này sẽ thúc đẩy tiến bộ kinh tế, xã hội và cải
thiện các điều kiện của cuộc sống, nhận thức được sự đa dạng của các hệ
thống về kinh tế và xã hội.
Thời kỳ giữa thập kỷ 1970 chứng kiến việc đưa nhân quyền trở thành
nội dung chính trong chính sách đối ngoại song phương và đa phương. Mỹ
và các nước châu Âu bắt đầu xem xét các thực tiễn nhân quyền trong các
chính sách viện trợ của họ. Và Đạo luật Cuối cùng Helsinki năm 1975 công
10
khai đưa nhân quyền vào nội dung quan hệ Mỹ-Liên Xô.
Năm 1992, Helsinki hoàn thành việc thành lập cơ sở cho các tổ chức:
Diễn đàn Hợp tác an ninh, Diễn đàn Kinh tế, Ủy viên cấp cao của LHQ về
quốc gia dân tộc.
2. Đối với chiến tranh lạnh trong khu vực.
Trong Chiến tranh Lạnh, vai trò của CSCE đó đã giúp chấm dứt Chiến
tranh Lạnh và chia lại Châu Âu, để giúp làm giảm tác động của các chốt biên
giới giữa Tây Âu và Đông Âu Nó cũng làm cho một môi trường cởi mở hơn
và minh bạch tại châu Âu.
Tháng 9/1977: 15 QG, bao gồm cả Hoa Kỳ và Liên Xô, ký Hiệp ước
Không phổ biến hạt nhân, hạn chế sự lây lan của loại vũ khí hạt nhân.
Hội nghị An ninh và Hợp tác châu Âu (CSCE) bắt đầu vào đầu những
năm 1970 với một loạt đàm phán trong đó có sự tham gia của Mỹ, Ca-na-đa,
Liên Xô và hầu hết các nước châu Âu. Các cuộc bàn thảo tập trung vào việc
giải quyết các vấn đề giữa phương Đông Cộng sản và phương Tây dân chủ.
Đạo luật cuối cùng của CSCE, đạt được năm 1975 tại Helsinki, Phần Lan và
được 35 nước ký kết được gọi là Thỏa ước Helsinki. Thỏa ước này nêu ra
10 nguyên tắc cụ thể, trong đó có tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do
cơ bản như tự do tư tưởng, tự do lương tri, tự do tôn giáo và tín ngưỡng.
Nhiều chuyên gia cho rằng tiến trình Helsinki khiến các chế độ độc tài cộng
sản ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.
Các nước phương Tây lo lắng về đưa vấn đề nhân quyền trong phạm
vi hợp tác trong CSCE năm 1975 và trong việc thành lập một nội dung hợp
tác trong lĩnh vực nhân đạo. Ngay từ đầu phương Tây đã yêu cầu hỗ trợ
bằng việc tìm cách góp phần giải quyết các vấn đề cụ thể liên quan đến nhân
đạo. Ví dụ: kết hôn của những người có quốc tịch khác nhau hoặc các cuộc
11
họp của các gia đình sống ở các bang khác nhau. Thách thức của họ là để
vượt qua sự phản đối của Liên Xô. Vì Liên Xô muốn đặt chân ở Châu Phi,
điều đó hoàn toàn đi ngược với nội dung và nguyên tắc được quy định tại
văn bản cuối Helsinki 1975. Đến CSCE, tổ chức tại Belgrade , đã thất bại vì
Liên Xô can thiệp vào Afghanistan trong cuộc chiến tranh tại Afghanistan
năm 1979, kể từ cuộc họp theo dõi thứ hai ở Madrid 1983, trong việc mở
rộng phạm vi của con người, tự do tôn giáo và những vấn đề thị thực và
nhập cư. Điều đó gây ra nhiều cuộc thảo luận chi tiết, bắt đầu với các cuộc
họp đặc biệt của các chuyên gia, đầu tiên tại Ottawa vào năm 1985 trên sự
tôn trọng nhân quyền và tự do cơ bản3.
Tuy nhiên, đến cuộc họp theo dõi thứ ba ở Vienna (1986-1989) là một
giai đoạn mới đã được khởi xướng tại khu vực theo sự giới thiệu 'kích thước
của con người' của CSCE. Đó là khái niệm toàn diện, bao gồm các vấn đề
nhân đạo và các cam kết liên quan đến Nguyên tắc VII, liên kết chặt chẽ
giữa nhân quyền và an ninh.
Các văn bản kết luận của Hội nghị Vienna năm 1989 đặt một sự nhấn
mạnh mới về các vấn đề nhân đạo, kinh doanh rõ ràng với các cam kết "liên
quan đến tôn trọng các quyền con người và tự do cơ bản, địa chỉ liên lạc của
con người, và các vấn đề khác có tính chất nhân đạo liên quan". Họ tiếp tục
cam kết tăng cường hiểu biết và khoan dung trong các lĩnh vực giáo dục, văn
hóa và thông tin.
Năm 1989 sau sự sụp đổ của cộng sản Đông Âu, hội nghị lớn được tổ
chức tại Paris vào năm 1990, các CSCE đã thông qua "Hiến chương của
Paris cho một Châu Âu mới" để đáp ứng những thách thức mới sau cuộc
Chiến tranh Lạnh bằng cách cho tổ chức thường trực (Văn phòng Ban Thư
ký cuộc bầu cử, Trung tâm Phòng chống xung đột) và khả năng hoạt động.
3 Bổ sung ý kiến của cô vấn đề CSCE về nhân quyền
12
KẾT LUẬN VÀ ĐÁNH GIÁ:
Trong bối cảnh rộng lớn hơn của thế giới, Hội nghị này là một phần
quan trọng của tiến trình cải thiện an ninh và phát triển hợp tác ở châu Âu.
Tổ chức này có tính linh hoạt rất cao, bao gồm rất nhiều các lĩnh vực như
kinh tế, chính trị, khoa học-công nghệ, môi trường, nhân đạo…
CSCE như là một bước tiến quan trọng hướng tới việc giảm căng
thẳng thời Chiến tranh Lạnh và là một sự thúc đẩy ngoại giao lớn của Liên
Xô vào thời điểm đó, do điều khoản bất khả xâm phạm biên giới quốc gia và
tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ, được xem là củng cố lợi ích của Liên Xô trên
lãnh thổ ở Đông Âu sau Thế chiến thứ hai.
Sự liên kết chặt chẽ giữa hòa bình và an ninh ở châu Âu và trên thế
giới như một toàn bộ và có ý thức về sự cần thiết cho mỗi người để thực
hiện đóng góp vào việc tăng cường hòa bình và an ninh thế giới và thúc
đẩy các quyền cơ bản, kinh tế và tiến bộ xã hội và hạnh phúc cho tất cả
các dân tộc. Để đạt được mục tiêu nhiều hơn, họ nên làm thêm những nỗ lực
đơn phương, song phương và đa phương.
Kê khai quyết tâm hơn nữa để tiếp tục quá trình đa phương khởi
xướng: bằng cách tiến tới một trao đổi quan điểm toàn diện cả về thực hiện
các quy định của Văn kiện cuối cùng và các nhiệm vụ quy định bởi Hội nghị
này, cũng như trong bối cảnh của các vấn đề xử lý sau này vào chiều
sâu quan hệ tương hỗ của họ, cải thiện an ninh và phát triển các hợp tác ở
châu Âu, phát triển của quá trình giảm căng thẳng trong tương lai; bằng cách
tổ chức các cuộc họp giữa các đại diện của họ, bắt đầu với một cuộc họp ở
cấp đại diện bổ nhiệm của các Bộ trưởng Ngoại giao. Cuộc họp này sẽ xác
định các phương thức thích hợp cho việc tổ chức các cuộc họp khác mà có
thể bao gồm thêm các cuộc họp tương tự và khả năng của một hội nghị mới.
13
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................1
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN………………………..2
1. Bối cảnh ra đời………………………………………………………2
2. Quá trình hình thành và phát triển………………………………….3
II. NGUYÊN TẮC VÀ NỘI DUNG CỦA CSCE……………………4
1. Nguyên tắc……………………………………………………………4
2. Nội dung……………………………………………………………...4
A). Các vấn đề liên quan đến an ninh ở Châu Âu………………………...4
B). Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và môi trường…5
C). An ninh và hợp tác Địa Trung Hải……………………………………5
D). Hợp tác nhân đạo và các lĩnh vực khác……………………………….7
III. VAI TRÒ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CSCE...........................................7
1. Đối với quan hệ giữa các nước lớn trong khu vực………………….8
2. Đối với chiến tranh lạnh trong khu vực……………………………..9
KẾT LUẬN VÀ ĐÁNH GIÁ……………………………………………..11
Tài liệu tham khảo:
14
Câu hỏi phản biện:
1) Trong nguyên tắc hoạt động của CSCE, nguyên tắc thứ 9 với
nội dung: “Hợp tác giữa các nước”, nhóm bạn có nhận xét gì về nguyên tắc
này. Nguyên tắc này liệu có nội dung thực chất không? Tại sao?
2) Năm 1990, Ngoại trưởng Australia, Gareth Evans lại đưa ra đề
nghị thành lập Hội đồng hợp tác và an ninh cho Châu Á (CSCA) theo mô
hình Hội nghị an ninh và hợp tác Châu Âu (CSCE). Ngoại trưởng Evans cho
rằng CSCE, một tổ chức về hợp tác an ninh giữa các nước được coi là địch
thủ cũ ở Châu Âu và đang hoạt động rất thành công, sẽ là mô hình cho việc
tăng cường xây dựng lòng tin và giải quyết các vấn đề an ninh ở khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương.
Theo nhóm bạn, lời đề nghị này có hợp lý và mang tính khả thi hay
không? Tại sao?
3) Cũng với ý kiến của Ngoại trưởng Australia, bản thân Mỹ là
nước tham gia tích cực vào CSCE của Châu Âu nhưng đối với CSCE của
Châu Á, Mỹ và nước đồng minh là Nhật Bản lại đã phản đối rất quyết liệt.
Vậy lý do nào khiến cho hai nước này lại không muốn có một CSCE ở Châu
Á như ở Châu Âu trước đó?
4) Trong phần “ Tác động của CSCE đối với chiến tranh lạnh
trong khu vực”, các bạn có đưa ra nhận xét rằng: “Trong Chiến
tranh Lạnh, vai trò của CSCE đã giúp chấm dứt Chiến tranh Lạnh và chia
lại Châu Âu”, nhóm bạn có thể giải thích rõ hơn về nhận xét này được
không?
15
Trả lời:
Câu 1: Đối với nguyên tắc hợp tác giữa các quốc gia, các nước thành
viên sẽ áp dụng nguyên tắc này để phát triển quan hệ hợp tác với nhau, đặt
trọng tâm đặc biệt trên các lĩnh vực như được quy định trong khuôn khổ của
hội nghị nhất là hợp tác chính trị, kinh tế-, văn hóa-xã hội, đồng thời giúp
giải quyết mâu thuẫn giữa các quốc gia. Từ đó sẽ làm thúc đẩy sự tự tin và
hiểu biết lẫn nhau, có quan hệ hữu nghị và láng giềng tốt với nhau tạo cơ sở
cho việc khôi phục, duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Theo quan điểm của nhóm thì nguyên tắc này có nội dung thực chất vì
có thể thấy những thành tựu mà các quốc gia đạt được trong thời kỳ chiến
tranh lạnh và nguyên tắc này phù hợp với nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
“nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ quốc tế” đồng thời phù hợp với mục
đích và nguyên tắc của hiến chương LHQ.
Câu 2: Trước hết các ý kiến chung cho rằng do khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương đa dạng và phức tạp hơn Châu Âu nên khó có thể lấy tiêu
chuẩn hợp tác an ninh trong khuôn khổ CSCE ở Châu Âu làm khuôn mẫu
cho Châu Á. Về mặt địa lý và dân số, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
rộng lớn hơn khu vực Châu Âu gấp nhiều lần. Khu vực này cũng đa dạng
hơn về mặt chủng tộc, văn hóa, tôn giáo, trình độ phát triển kinh tế và hệ
thống chính trị. Đồng thời ở đây vẫn còn nhiều tranh chấp biên giới, lãnh thổ
giữa các quốc gia khu vực chưa được giải quyết.
Bên cạnh đó là ý kiến cho rằng các tập hợp an ninh, chính trị ở Đông
Nam Á, Đông Bắc Á và toàn Thái Bình Dương sẽ khó khăn vì không có mối
đe dọa hay kẻ thù chung một cách rõ ràng. Hơn nữa, môi trường an ninh ở
Đông Á cũng hết sức phức tạp, không chỉ xuất phát từ nội bộ, mà hầu hết
16
các quốc gia khu vực đều phải chịu hiểm họa đe dọa từ bên ngoài và chịu
sức ép của các nước lớn.
Câu 3: Mỹ và Nhật phản đối quyết liệt các tập hợp này vì họ là hai
quốc gia đóng vai trò rất quan trọng đối với an ninh khu vực CÁ-TBD
Các nhà hoạch định chính sách Mỹ vẫn có thiên hướng dựa vào các
sắp xếp an ninh song phương hơn là đa phương để đảm bảo an ninh khu vực
và duy trì lợi ích của Mỹ. Mỹ cho rằng không cần phải lập thêm các thiết chế
mới và có thể sử dụng các thiết chế hiện có như Diễn đàn Kinh tế Châu Á –
Thái Bình Dương (APEC) để bàn đến các vấn đề đa phương khác ngoài vấn
đề kinh tế, như vấn đề an ninh chẳng hạn.
Còn Nhật Bản cũng không tán thành hợp tác an ninh đa phương vì hai
lý do chủ yếu. Thứ nhất, phần đông người Nhật vẫn coi Hiệp ước an ninh
Mỹ - Nhật là trụ cột trong chính sách an ninh của mình và họ vẫn muốn tiếp
tục duy trì Hiệp ước này. Thứ hai, Nhật cho rằng để thành lập diễn đàn an
ninh đa phương như nêu trên thì trước hết phải giải quyết vấn đề tranh chấp
lãnh thổ giữa Liên Xô và Nhật. Nhật Bản thực ra không muốn để các nước
ngoài can thiệp và làm phức tạp vấn đề tranh chấp lãnh thổ mà họ cho rằng
vấn đề này có thể được giải quyết trên cơ sở song phương.
Câu 4: Như đã biết là một hội nghị giữa các nước châu âu với Mỹ và
Canada. Trong đó Mỹ và LX là hai chủ thể chính trong chiến tranh lạnh. Thể
hiện qua những nguyên tắc của Đạo luật cuối cùng Helsinki năm 1975 như
nguyên tắc hợp tác giữa các quốc gia, nguyên tắc tôn trọng nhân quyền, bình
đẳng về chủ quyền, bất khả xâm phạm biên giới lãnh thổ. Nếu CSCE được
LX và Mỹ phê chuẩn hoặc phê duyệt có nghĩa là hai bên sẵn sàng chấp nhận
những nghĩa vụ đó.
17
Đối với việc chia lại Châu Âu, CSCE có sự tham gia của 35 nước
thành viên tại Châu Âu, điều này giúp làm giảm tác động của các vẫn đề
biên giới giữa Tây Âu và Đông Âu, làm cho môi trường cởi mở hơn, minh
bạch hơn tại Châu Âu
Thời gian thuyết trình ngày 26/5/2011
Danh sách nhóm 5- hội nghị an ninh và hợp tác Châu Âu (CSCE)
1. Phoutsavanh Bouchaleane CT35K
2. Phailavanh Phonthilath CT35K
3. Phonemaly Khattiya CT35K
4. Chanthida Xâychack CT35K
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- file10_8604.pdf